Thứ Hai, 26 tháng 5, 2014

Cái mùi của một cỗ bàn thờ


Có thơ rằng:
“Quá khứ nào buồn bã rêu phong
Thời gian nào dọc ngang tơ nhện…“.
Vậy quá khứ có mùi gì? Thời gian có mùi gì? Không biết! Chỉ biết kẻ thức giả khuyên rằng bất luận thế nào thì cũng nên đóng cho kín quá khứ lại, đừng có dại mà mở nó ra. Ví dụ như một câu chuyện dân gian sau đây:
Chuyện kể rằng ở vùng nọ có ông quan rất to tên Mỗ. Vốn là người học hành đỗ đạt, cũng thỉnh thoảng thi phú lăng nhăng. Song lại là người nổi tiếng đểu cáng, bất nhân bất nghĩa, bất chấp liêm sỉ, ăn của dân không từ cả manh khố rách. Mỗ tự mình đặt ra luật lệ, thả cho lâu la nhân danh pháp luật để ăn cướp đã đành, lại còn rao giảng tuyên ngôn, đạo đức hết ngày này sang ngày khác. Chữ nghĩa, học thuyết… phun ra phì phì. Mỗ muốn nói xuôi, nói ngược gì thiên hạ cũng đều phải nghe, đều phải cho là chân lý. Kẻ khác muốn nói cái gì nhất nhất đều phải uốn lưỡi theo ý Mỗ, Mỗ cho nói thì được nói, bắt câm là lập tức phải câm… Vì thế những kẻ tử tế, có chút liêm sỉ trong thiên hạ lúc nào cũng nhất tề im lìm như một đàn hến, lặng ngắt như một đám tang. Kẻ ngoài nhìn vào tuy vẫn thấy ầm ĩ đấy, nhưng tất cả chỉ vo ve độc một giọng Mỗ mà thôi.
Có lẽ vì cái đểu cao ngất ấy mà trời phạt. Mặc dù Mỗ có vô số vợ rải khắp thiên hạ, nhưng lại đẻ ra rặt những giống chó lợn, nếu không thì cũng hao hao cầy cáo… chẳng đứa nào được ra cái hồn người. Gần sáu chục tuổi, Mỗ vẫn chưa có đứa con nào khả dĩ có thể nối được cái “đức“ của mình. Nghe người ta đồn nơi có mả Chúa là một chốn rất thiêng, có thể cầu gì được nấy, thiên hạ vẫn ngày ngày xếp hàng đến vái đông như trẩy hội. Mỗ bèn huy động lâu la quét dọn đường sá, chuẩn bị lễ vật. Lại sai tìm thuê bằng được một lão thầy cúng cao tay ấn rồi tiền hô hậu ủng, đích thân tới mả Chúa để cúng tế, cầu đẻ được một đứa con cho ra cái giống người.
Bữa ấy tế xong về ngủ, đến khoảng canh ba mơ màng nghe có gió lạ thổi vào trong màn, bất chợt lẫn trong bóng trăng khi mờ, khi tỏ, Mỗ nhìn thấy Chúa dắt một đứa bé ngắn độ hai tấc, tròn xoe, mũm mĩm như thiên thần đến bên màn mà bảo:
-Cúng cáp ghê quá, làm cho ta muốn lờ đi cũng không được. Nhưng ta chỉ là nhà môi giới đầu thai thôi đấy. Có gì các ngươi tự thương lượng với nhau.
Nói xong, Chúa biến mất. Còn lại đứa bé, nó khoanh tay lễ phép nói với Mỗ:
-Ông muốn có con hay để sáng mãi cái đức của mình. Phải cái thời buổi này, từ các thiên tinh, đồng tử cho đến những vong hồn, quỷ sứ… đều không ai muốn đầu thai làm người cả. Nay nể Chúa mà tôi phải thí thân đó thôi. Vậy tôi chịu làm con cho ông ba mươi năm được không?
Mỗ ngắm đứa bé thì thích lắm, lại nghe nó nói thế thì mới đầu mừng rỡ. Song nghĩ lại thấy có chỗ không ổn, bèn trả lời:
-Ba mươi năm ngắn quá. Ta còn muốn sống đến trăm tuổi nữa kia. Chẳng lẽ ta phải chôn con trước rồi mới đến lượt ta hay sao?
Đứa bé lại nói:
-Vậy năm mươi năm được không?
Mỗ trả lời:
-Đời người năm chục tuổi vẫn còn là chết non. Ta không muốn con ta lại có cái số kiếp ấy.
Đứa bé tiếp tục nhượng bộ:
-Thôi thì bẩy mươi năm vậy.
Đến đây Mỗ mới gật đầu bằng lòng. Liền đó một trong số vợ bé của Mỗ có mang, đủ chín tháng mười ngày quả sinh ra một đứa bé bụ bẫm, giống hệt đứa bé Mỗ gặp trong giấc mộng ấy.
Đứa bé lớn lên, một tuổi biết đi, hai tuổi biết nói, ba tuổi bắt đầu học chữ, bốn tuổi đã đọc thông viết thạo. Mỗ mừng lắm, quý như cục vàng, sai người chuẩn bị kinh sách, tự mình bịa ra truyền thống, xuyên tạc gia phả… cốt sao dạy nó sau này đểu hơn cả mình. Năm mười ba tuổi, đứa bé dường như đã thấu hết tình đời, kiến thức không thua gì người lớn. Một hôm nó ôm lấy mẹ mà bảo:
-Bố té ra là hạng người không ra gì. Con nghe lời Chúa, đầu thai đã là cái sự ngu, không ngờ lại thác sinh vào chốn đểu, cố được đến ngày hôm nay cũng là bởi vì thương mẹ. Song con cũng phải tìm nơi khác mà làm người thôi. Mẹ đừng buồn, sau này nếu thấy ở đâu có đứa trẻ lên ba không biết nói, một bàn tay nắm chặt giữ một vật gì, thì xin mẹ hãy tìm đến. Đó chính là con đấy.
Nói xong, nó nằm lên giường, nhắm mắt lại rồi không bệnh mà chết. Mỗ đau đến chết đi sống lại, bấy giờ Mỗ đã già, sinh khí tiêu hết không còn đẻ được nữa, đành bấm bụng chọn trong số đám con cầy cáo kia lấy một đứa làm người kế nghiệp. Duy người mẹ không khóc lóc gì, chỉ kiểm lại thì thấy mất cái trâm gài đầu, không biết trong lúc hỗn độn đánh rơi mất ở đâu. Từ đó cứ lặng im ghi nhớ những lời trăn trối của nó rồi kiên nhẫn nghe ngóng, chờ đến ngày gặp lại đứa con.
Được khoảng một năm, lão thầy cúng ngày trước Mỗ thuê mò tới tâu:
-Thằng bé ấy không phải tầm thường. Sở dĩ nó bỏ Ngài là vì số Ngài và nó có chỗ xung khắc. Nay cái tinh linh của nó vẫn còn lẩn quất đâu đây, tôi đã có cách tra ra chỗ trú của nó. Nếu Ngài có được cái tinh ấy mà dùng làm con tin với cả quỷ thần thì cơ đồ của Ngài sẽ bền vững đến muôn đời.
Mỗ nghe nói mừng quớ lên, vội hỏi:
-Làm cách nào để tóm được nó?
Lão thầy cúng khúm núm:
-Tôi sẽ vì Ngài huy động cả “nhâm, cầm, độn, toán“ mà chiếu ra phương vị của nó, lại dùng phép để yểm thì nó có chạy đằng trời.
Mỗ mừng lắm, lập tức thưởng trước cho lão thầy cúng một số tiền lớn, đoạn sai lão lập tức đi tìm bắt cho bằng được linh hồn của thằng bé đem về…
Hôm ấy, lão thầy cúng giở tay bấm độn. Biết cái tinh kia hiện đang trú trong một viên sỏi nhỏ nằm ngay trước cổng một làng nọ, lão vội vàng chiếu đường tìm đến. Viên sỏi nhẵn thín có linh hồn thằng bé trú vào từ đêm hôm trước, nằm hờ hững ngay giữa đường làng, lẫn vào vô số những viên sỏi khác, người bình thường không thể nhận ra. Nhưng đối với lão thầy cúng cao tay này thì nó đừng hòng ẩn thân vào đâu được. Không ngờ khi lão ta tìm được tới nơi thì viên sỏi đã biến mất, cứ như thể nó có chân? Hay có kẻ nào vừa nhặt mất rồi? Quả có như vậy thật, nhưng đó là kẻ nào? Lão thầy cúng không chịu bỏ cuộc, bèn bấm lại phương vị, rồi đuổi theo cái kẻ nào đó vào tận trong làng.
Số là trước đấy vài khắc, có người làng dắt trâu đi qua chỗ ấy, tình cờ thế nào, con trâu đang đi bỗng đứng lại, ỉa một bãi trùm đúng lên viên sỏi. Lát sau, một người khác trong làng mang rổ ra hót bãi phân, định đem về đổ vào chuồng lợn. Bãi phân vô tình dính cả viên sỏi vào đấy. Lão thầy cúng cũng vừa kịp đuổi tới nơi, bèn túm ngay lấy kẻ đó, đòi đắt mấy cũng mua cho bằng được bãi phân. Người kia nghe lão thầy cúng nói thì tròn mắt kinh ngạc, xưa nay chẳng thấy ai đòi mua đắt cứt trâu bao giờ, vì thế cho là lão thầy cúng điên, thành ra cứ ôm khư khư cái rổ cứt. Lão thầy cúng sốt ruột xông tới quyết giằng cho bằng được. Hai người đang co kéo, bất ngờ cái rổ bị lật nghiêng làm cứt đổ ra văng tung tóe. Lão thầy cúng thấy thế vội vàng bỏ cái rổ, rồi bất chấp bẩn thỉu, bò cả người vào đám cứt để lần tìm.
Bỗng có một người đàn bà đi làm đồng về ngang qua, thấy lão thầy cúng đang bò lóp ngóp, mải miết bóp nặn từng mẩu cứt thì ngạc nhiên lắm, bèn đứng lại xem một lúc rồi chép miệng, cho là lão ta lên cơn điên nên nhìn cứt hóa  vàng, rồi bỏ về. Người đàn bà ấy lại vô tình dẫm đúng phải chỗ cứt có dính viên sỏi. Lão thầy cúng cuối cùng cũng tìm thấy, nhưng nó chỉ còn là một viên sỏi hoàn toàn bình thường, chẳng có chút tinh linh nào trú trong đó cả. Lão biết mình đã thua, đã gặp ngay phải cái tinh láu lỉnh. Có biết đâu rằng cái tinh ấy đã kịp theo người đàn bà kia về nhà bà ta mất rồi.
Lão thầy cúng thất bại ôm đầu về chịu tội với Mỗ. Tuy nhiên lão vẫn cố vớt vát:
-Tôi dẫu không bắt được nó, song chắc chắn nó còn trốn trong vòng ảnh hưởng của Ngài. Cứ như quẻ bói của tôi thì nay mai nhất định nó sẽ lại đầu thai vào một nhà khác. Xin Ngài để ý nghe ngóng, biết đâu đến lúc ấy mà bắt được nó về làm con thì thế nào cũng được đại phúc.
Sau đó gần bốn năm, nghe đồn rằng làng ấy có vợ chồng một nhà nông phu nghèo đẻ một đứa con trai đẹp như thiên thần. Nhưng không hiểu sao đã lên ba tuổi mà nó tuyệt không mở miệng nói ra tiếng nào, một bàn tay luôn luôn nắm chặt như giấu vật gì, không sao bắt được nó xoè ra. Người vợ bé của Mỗ nhớ tới lời dặn, biết con mình ngày trước đã đầu thai trở lại, bèn bí mật tìm đến xin gặp. Mẹ của đứa trẻ ra mở cổng đón vào, chính là người đàn bà đã dẫm phải cứt trâu ngày trước.
Điều kì lạ đã diễn ra. Đứa trẻ đang nằm im thin thít trên giường, thấy vợ Mỗ tới thì bỗng ngồi nhỏm dậy, mở miệng cất tiếng nói đầu tiên, gọi “Mẹ“ rồi xòe nắm tay ra. Mọi người kinh ngạc nhìn thấy trong lòng bàn tay ấy có một cái trâm gài đầu, giống y hệt cái trâm ngày xưa của vợ Mỗ. Biết đích xác đứa trẻ này đúng là đứa con ngày trước của mình, vợ Mỗ mừng lắm. Bèn kể lại mọi chuyện cho vợ chồng nhà nông phu kia nghe. Vợ chồng nhà ấy cho là chuyện lạ, cũng hết sức vui vẻ mà đồng ý cho vợ Mỗ đi lại thăm nom, coi như con đẻ. Đứa trẻ từ đó thành ra lại có hai bà mẹ ruột, cùng săn sóc, yêu quý nó như nhau…
Đứa trẻ lớn lên, càng lớn càng sáng sủa, thông minh đĩnh ngộ, học một biết mười. Năm nó được sáu bẩy tuổi gì đó thì Mỗ biết chuyện. Bèn sai lâu la dò xét, biết rõ nơi ở của nó rồi, Mỗ đích thân mò tới nom trộm, quả nhiên thấy nó giống hệt thằng con quí của mình ngày trước. Bấy giờ Mỗ đã già, đường con cái chẳng đứa nào được ra cái giống người, thiên hạ lắm kẻ cứ nhè vào cái nỗi đau ấy mà chửi thầm, chửi vụng. Mỗ nghĩ bụng thôi thì có đứa con khôi ngô, giỏi giang như thế cũng đỡ được phần nào sĩ diện. Không những thế, lại ứng vào cái điềm đại phúc như lão thầy cúng nói ngày trước. Thế là Mỗ lập tức giao cho lâu la tìm cớ dựng chuyện, vu oan giá họa nọ kia… rồi dùng quyền hành bắt đứa trẻ về, công bố nó là con của mình bị thất lạc.
Vợ chồng nhà nông phu kia bị mất con thì ức lắm song thân yếu thế cô, trước quỷ dữ biết làm thế nào. Ngay cả người vợ bé của Mỗ cũng phản đối, không muốn có con theo cái kiểu ăn cướp ấy. Nhưng Mỗ đã muốn là phải được. Từ khi bắt được đứa trẻ về làm con, Mỗ hết sức sung sướng và hãnh diện với thiên hạ vì mình rốt cuộc cũng có được một đứa con thực cho ra cái giống người.
Một hôm, Mỗ dẫn đứa trẻ đến lạy trước bàn thờ tổ tiên. Chẳng hiểu hướng dẫn nó lạy lục thế nào, chỉ thấy nó giơ một ngón tay ra, trỏ một cái vào giữa bàn thờ như kiểu người ta làm phép giải toả. Lập tức, từ nơi đó xông ra một mùi gì hăng hắc, khăn khẳn, y hệt mùi cứt trâu tươi. Mùi đó mới đầu còn tụ một chỗ, sau lan ra nồng nặc khắp nhà trên, nhà dưới, tràn ra cả bên ngoài, làm người ăn, kẻ ở lẫn dân chúng quanh vùng không ai chịu nổi, cứ thi nhau khạc nhổ om sòm. Thằng bé kia quả nhiên cũng có chỗ khác người. Nhưng cái mùi ấy thì rõ là từ chỗ bàn thờ nhà Mỗ mà xông ra, cứ như thể xưa nay nó đã ngự trị sẵn ở nơi đó rồi, có điều chưa ai ngửi thấy mà thôi.
Mỗ hoảng hốt không hiểu tại sao thằng bé này lại giải phóng được cái mùi đó ra khỏi cỗ bàn thờ cổ kính và trang nghiêm của nhà mình. Trong đầu chợt nhận ra một điều rằng nuôi nó trong nhà sẽ chẳng khác gì nuôi ong tay áo. Mỗ vội vàng quát lâu la tống cổ thằng bé ra ngoài đường rồi đóng chặt cửa nhà thờ lại, cố tìm cách giam kín cái mùi ấy trong phạm vi nhà thờ cho khỏi làm ô nhiễm môi trường… Thất vọng vì giấc mơ đại phúc không thành, từ đó Mỗ không xuất hiện ở đâu, không rao giảng điều gì với thiên hạ nữa. Phần vì Mỗ đã già, công việc thừa kế đã có đám con cái chó lợn, cầy cáo kia cai quản, phần vì Mỗ phải tự mình canh giữ cái mùi khủng khiếp ấy trong nhà thờ, không cho nó bốc hơi ra bên ngoài để còn giữ thể diện với thiên hạ cho đến hết đời.
Đứa trẻ rốt cuộc lại được trở về với vợ chồng nhà nông phu kia, được tiếp tục sống trong vòng tay yêu thương của hai bà mẹ. Không biết kết cục đời nó về sau thế nào, câu chuyện không thấy đề cập tới. Chắc nó cũng thành một người tử tế bình thường, rồi chìm lẫn vào giữa chốn dân gian, mặc cho các nhà viết sử cứ việc hoài công tìm kiếm, đến nỗi phải bịa tạc nọ kia… Câu chuyện còn kể rằng cái nhà thờ ấy của nhà Mỗ đến bây giờ vẫn còn. Nhưng nó luôn luôn được đóng chặt. Phải có tới mấy lần cửa trong cửa ngoài, kín mít như bưng. Bao nhiêu đời nay không ai dám mở, chỉ sợ cái mùi gì ấy từ cỗ bàn thờ nó lại thoát được ra…/.
2005
http://phamluuvu.wordpress.com/cai-mui-c%E1%BB%A7a-m%E1%BB%99t-c%E1%BB%97-ban-th%E1%BB%9D/

Chủ Nhật, 25 tháng 5, 2014

Tiếng gào Trong Đêm – Nguyễn Thị Ngọc Nhung





Bài đọc suy gẫm: Tiếng gào Trong Đêm - Nguyễn Thị Ngọc Nhung câu truyện mô tả những diễn biến rùng rợn của một chuyến vượt biên, trong đó tác giả là nạn nhân nhưng sau cùng lại được cứu bởi một người thân đã khuất trùng giờ. Truyện được viết dưới dạng tự thuật, nên lôi cuốn từ đầu đến cuối, khiến người đọc vô cùng hồi hộp, như được sống lại những kỷ niệm hãi hùng của ngày xưa vượt biên.một người thân.  Hình ảnh chỉ có tính minh họa.
Sau ngày 30-4-1975 khi cộng sản cưỡng chiếm miền nam Việt Nam, những cuộc vượt biên vượt biển với nhiều thảm cảnh kinh hoàng cũng bắt đầu.
Ghe chòng chành giữa dòng nước, tôi sợ hãi ngồi bám chặt mạn thuyền, mắt láo liên nhìn trời đêm sáng lờ mờ ánh trăng mười chín. Chúng tôi ngồi dồn đống trong khoang thuyền. Hai tên đàn ông to người chèo ghe gõ nhẹ trên mui báo hiệu đã đến nơi tạm an toàn, chúng tôi có thể cử động đôi chút. Người chèo mũi vén tấm lá che mui nhìn vào.
“Bây giờ mình phải đi bộ một khoảng, tui dẫn hai người một lần. Chia ra để khỏi lộ. Mấy người khác cứ ngồi đợi đến phiên, nhớ đừng nói chuyện lớn tiếng.”
Hắn dẫn hai người đàn bà ngồi sát cửa mui đi trước. Cả đám ngồi đợi ẩn nhẫn. Tim tôi chưa hết hồi hộp đập thình thịch thể như bất cứ người nào ngồi gần cũng đều có thể nghe được nhịp ấy. Phong nắm tay tôi. Tay Phong đẫm mồ hôi và lạnh. Tôi phải ngồi bệt và khom lưng, hai đầu gối co đụng cằm, gọn lỏn trong lòng Phong. Khoang ghe quá chật cho mười người ngồi lèn nhau, phía ngoài còn tấn mấy buồng chuối mùi nhựa nồng chát. Bên trái tôi, cha mẹ Phong dúi sát nhau. Một bé trai độ bốn, năm tuổi, bị uống thuốc ngủ, nằm im lìm trong lòng cha nó. Bà vợ ngồi kế bên, chân trái đạp chân tôi nhưng hình như bà không biết và tôi cũng không thể dời chân đi nơi khác. Đành chịu. Người con gái ngồi kế có lẽ là em gái bà, mặc bà ba đen như gái quê, mặt từa tựa nét.
Khí trời đêm hơi lạnh nhưng bên trong khoang, nóng hầm hơi người. Hình như cái nóng hậm hực ấy tăng gấp bội vì trộn lẫn với nỗi căng thẳng bập bùng ngập ngụa không gian. Tôi lén nhìn đồng hồ giấu trong ngực áo. Khoảng 2g15 sáng. Tôi thì thầm nơi tai Phong “Hơn hai giờ sáng rồi anh.” Phong gật nhẹ đầu. Người đàn ông chèo lái ngồi im như pho tượng. Đôi khi ánh mắt của hắn lấp lánh nhẹ dưới ánh trăng khi chớp. Cái mũi dài mang nét khoằm khiến mặt hắn lộ đầy vẻ gian ác nhưng nụ cười nở rộng với hàm răng thưa làm giảm bớt ấn tượng xấu nơi người đối diện. Hắn mặc áo bà ba đen, tay áo xắn quá cùi chỏ.
Người đàn ông đưa hai người đàn bà lội bộ băng qua hàng cây thấp trở lại. Hơi thở của hắn nóng hôi hổi phà ngay mặt tôi khi thò đầu vào khoang kêu người đàn ông ẵm đứa con ngủ mê mệt. Người chồng bò ra đằng lái, vác đứa bé trên vai như vác bị gạo mò mẫm bước lên bờ. Vấp phải vật gì trên bờ đất, ông chúi nhủi suýt té, tay cố giữ thằng bé, người lảo đảo bước quàng xiên lòm khòm rồi mới đứng thẳng lên được.
Tên đàn ông dẫn đường mặc áo sơ mi màu nâu đen, quần tây nhàu nát ống nhỏ túm hơi ngắn trên mắt cá, có chỗ sờn, đôi dép mỏng. Hắn ta tương đối trông được hơn người ngồi lái. Với nước da tái, môi thâm vì thuốc lá nhưng lại vẽ nên một nụ cười thật đẹp với lúm đồng tiền bên trái, kẽ răng đóng nhựa thuốc. Đôi mắt mí to với hàng mi rậm, duy có ánh mắt của hắn là không thẳng thắn, còn ngoài ra hắn dễ dàng lấy cảm tình của người xa lạ với giọng nói trầm và chậm.
Tôi và Phong chưa bao giờ gặp hai người đàn ông này. Chuyến đi này chúng tôi qua trung gian bởi người bạn thân giới thiệu. Người bạn đó đã đến Mã Lai an toàn, chính vì vậy mà tôi và Phong mới tin tưởng nơi người trung gian này. Hơn nữa, chuyến đi có cả gia đình người thân gì đó của người trung gian cùng đi, như vậy thì không có gì để chúng tôi lo ngại. Thường là chắc ăn, người trung gian mới dẫn gia đình đi sau khi đã mối lái nhiều lần có vàng có tiền làm của hoặc manh mối bắt đầu bị lộ. Ba mẹ Phong và tôi phải xuống Cần Thơ, giả đi thăm bà con. Tôi mặc hai bộ đồ trên người, giấu theo ít vàng và nữ trang. Phong mặc quần áo nhăn nhíu không ủi. Mẹ Phong thì mặc bà ba quần thâm. Ba Phong thì vận đồ rách, vá chùm vá đụp mấy chỗ, chân mang dép rách quai cột nối bằng cọng kẽm. Tất nhiên là không dễ gì qua mắt người miệt quê đó nhưng hình như họ cảm thông (hay tội nghiệp) trước sự trá hình không mấy chỉnh nên tôi thường bắt gặp ánh mắt ái ngại nhìn mà không dám hỏi vài lần suốt đường đi.
Đến nơi, cả bốn được dẫn đến một căn nhà nằm dựa mé sông chờ đến tối mới xuống ghe nhỏ theo sông ra cửa biển nơi có ghe lớn đợi sẵn. Trong nhà có độ hơn mười người khác đợi sẵn khi chúng tôi đến rồi chia nhóm theo ghe. Tôi dặn Phong tìm cách đi chung với người trung gian, bảo đảm hơn. Phong gật nhưng gia đình người đó cả thảy là tám, thêm hai người thì vừa đủ cho một chuyến. Nhưng tôi lẫn Phong đều không muốn đi tẻ riêng thành ra đành phải chờ chuyến chót, mười người, hơn mười giờ tối.
Thoạt đầu, ngồi chen chúc trong khoang, tôi muốn ngộp thở với hơi người và mùi bùn non lẫn mùi nước đọng hôi hám nơi đáy ghe. Hai người chèo bắt chúng tôi khom lưng gần như nằm mọp xuống, tấn bên ngoài dằn bên trên, mấy buồng chuối xanh ngắt sau khi đậy bao bố tời dơ bẩn lên đầu mọi người. Đường đi may mắn yên tĩnh không có chuyện gì xảy ra tuy rất chậm và kéo dài như không bao giờ đến nơi.
Người đàn ông dẫn đường trở lại, kêu bà vợ và cô em gái của bà cùng đi. Tôi chợt ngửi phải mùi nồng tanh tưởi nơi áo hắn khi hắn nghiêng người khều vai bà vợ. Bỗng dưng tôi nghe lợm giọng không hiểu tại sao. Cái mùi thật lạ lùng. Bóng tối trong khoang không cho phép tôi nhìn rõ mặt hắn. Mùi tanh đến lạ. Hơi thở của hắn cũng nặng nề hơn. Tôi thì thào với Phong sau khi hắn đã đi.
“Anh có nghe mùi gì không?”
“Không. Mùi gì?”
“Có mùi tanh tanh kỳ lắm… “
Phong bâng quơ qua chuyện.
Mùi bùn đó mà.”
Cũng khá lâu người đàn ông dẫn đường mới trở lại. Có thể hắn đi không lâu lắm nhưng khi chờ đợi thì năm ba phút dễ biến thành năm ba giờ. Chỉ còn bốn người trong khoang. Hai tên đàn ông bàn tính nho nhỏ trên bờ. Tôi bỗng nghe gai ốc nổi đầy người. Tôi nắm chặt tay Phong. Mồ hôi tươm ướt lưng. Người đàn ông đẹp trai kêu chúng tôi ra khỏi khoang. Hắn nói, giọng khoan thai.
“Bây giờ tui dẫn ông bà đi, hai người một. Để khỏi mất thì giờ, hai người đi với anh Ban, hai người đi với tui. Tụi tui đi hai đường nhưng đường nào cũng dẫn tới chỗ ghe lớn. Đi đông nhiều tiếng động dễ bị lộ. “
Rồi không đợi phản ứng của người nào hết, hắn hất hàm người mũi khoằm tên Ban, đẩy cha mẹ Phong về phía đó. Quay nhìn hai đứa tôi, hắn cười, hàm răng lởn nhởn dưới ánh trăng, bóng đen lúm đồng tiền nổi rõ trên má, rồi hắn quay lui bắt đầu đi về phía rừng cây thấp. Phong nắm tay tôi đi theo hắn. Rừng cây tối mờ dù là rừng thưa, bóng lá đen ngòm trên đường lồi lõm. Tôi vấp té loạng choạng nhiều lần, đi chậm hẳn lại.
Chợt một nhánh cây đập vào mặt đau điếng, tôi khựng lại, giằng tay khỏi tay Phong rồi đỡ nhánh cây cúi người lom khom. Bỗng dưng, tôi nghe thấy… không chắc mình nghe đúng, nhưng tứ chi chai cứng. Thứ âm thanh nhọn như tiếng mèo gào giữa khuya. Tim tôi đập nhịp cuồng. Tôi quờ quạng tìm tay Phong. Chàng đứng sát tôi, chợt tôi cảm thấy cả người mệt mỏi và thỏng dài. Người đàn ông dẫn đường quay nhìn hai đứa tôi. Bóng tối mờ nhưng tôi vẫn thấy được ánh mắt kỳ lạ của hắn. Bỗng nhiên nỗi sợ hãi ùa tới tràn ngập người tôi với sự im lặng kỳ lạ của người dẫn đường không thúc hối khi thấy chúng tôi khựng lại. Hắn không hề kêu chúng tôi nhanh bước. Thời gian đứng khựng và cả ba đứng im như chờ đợi phản ứng của nhau. Chợt Phong kéo ngược tay tôi chạy trở lại hướng vừa rời đi lúc nãy. Tôi chạy cuống cuồng theo tay kéo mù loà. Rừng cây như mê hồn trận, chúng tôi chạy bất kể mọi thứ.
Rồi cả hai cũng trở lại được bờ sông nơi ghe cặp bến. Người đàn ông tên Ban đang cúi khom lục lọi chi nơi bóng đen nằm im bên chân hắn. Tôi đứng sựng kêu không ra tiếng. Miệng lưỡi dính thành một khối nghèn nghẹn. Bóng đen dưới chân hắn là mẹ Phong, nửa trên loã thể, tư thế co quắp, mặt úp xuống bùn. Ban hình như cũng không ngờ sự có mặt của tôi và Phong. Hắn đờ người, tay còn cầm sợi dây chuyền vàng lòng thòng. Trong khoảnh khắc chúng tôi nhìn hắn, nhìn cái búa bửa củi vất bên chân. Tôi không thấy máu vì bóng đêm làm nhoè bẩn mọi thứ. Nỗi sợ hãi dâng lấp trí óc. Ý nghĩ lướt thật nhanh trong đầu. Tôi đã hiểu tại sao chúng muốn dẫn từng hai người một. Tôi sực nhớ đến người dẫn đường. Đầu óc hoảng sợ nhưng vẫn còn sáng suốt để nghe rõ tiếng chân chạy đuổi và tiếng la của hắn đâu đó “Ê Ban, coi chừng tụi nó chạy. Ban! Ban! Tụi nó chạy rồi!” Phong vụt chạy về chỗ neo ghe. Tôi chạy theo tay níu của Phong đến sát mé nước, chân vấp vật gì. Tôi ré lên như đạp phải giòi. Nhìn xuống, ba Phong nằm nửa người vùi dưới nước. Phong khựng lại vì tiếng la của tôi rồi đẩy tôi ra sông. Tôi sặc sục, nước mới ngang ngực. Phong hét vào tai tôi.
“Lội mau lên, lội ra giữa sông.”
Tôi bơi hối hả, tay chân nặng chình chịch vì hai bộ đồ ướt nước. Tôi quay cuồng tứ phía, không rõ mình bơi về hướng nào mới đúng. Tiếng người la hét sau lưng nghe chói tai đến độ hãi hùng. Một tràng đạn bắn vãi quanh tôi và Phong. Chàng đè đầu tôi ngụp xuống nước. Không mấy lâu, tôi ngộp thở hất tay Phong trồi lên hớp không khí. Súng nổ liên hồi như sát mang tai. Tôi luýnh quýnh đập tay chân loạn xạ, chưa đầy mấy phút đã mệt lả. Tôi càng ráng trồi lên chừng nào thì lại càng chìm xuống nhanh chừng nấy. Tôi lặn hụp lên xuống như người sắp chết đuối. Có lẽ nhờ vậy mà tôi tránh được đạn bắn xối xả chung quanh. Phong khi lặn kéo tôi hụp xuống, khi nổi đẩy tôi trùi tới. Tôi bơi tới tấp với cảm tưởng mình nổi ì một chỗ. Đầu óc tôi rối loạn nhưng hình như vẫn tỉnh táo, rất tỉnh táo để thấy ánh trăng mờ trên cao, cây cối đứng im nơi bờ, bóng nước lấp lánh quanh mình, hơi thở hào hễn, cơn mệt muốn đứt hơi và mấy bóng đen trên bờ với loạt đạn dữ dội. Tôi bơi như máy, hơi thở dần ngắn với nước tuôn vào mũi mồm sặc sục. Biết mình không đủ sức, tôi thả ngửa để Phong vịn vai đẩy đi. Hình như chúng tôi đã ra được giữa sông. Tôi nhìn vào bờ, chỉ thấy dạng cái ghe, hai bóng đen tàn ác nhoè lẫn trong bóng đêm nhưng ánh lửa nháng với tiếng nổ vẫn hiện hữu. Tôi đạp chân phụ sức với Phong, mắt nhìn thẳng lên lòng đêm có trăng sao đầy đủ. Trời đất có đó nhưng hình như bịt tai im lặng trước hành động dã man. Tôi nhẩm cầu những đấng tối cao mà tôi có thể nghĩ đến trong nhịp tim hỗn loạn.
Tiếng súng bỗng im. Sự im lặng hãi hùng đè chụp lấy tôi. Tiếng đập nước vùng vẫy của chúng tôi bỗng trở thành tiếng động duy nhất rõ mồn một trong đêm. Tôi lật sấp người lại tiếp tục bơi, bờ bên kia vẫn còn xa thăm thẳm. Có bơi mới thấy con sông không nhỏ như tôi tưởng khi còn ngồi trên ghe. Phong nhìn lại rồi nói qua hơi thở đứt quãng

“Tụi nó chèo theo… bơi lẹ… lên em… May ra mình… thoát.”
Câu nói của Phong lại được đệm bằng tiếng súng nhưng rời rạc hơn lúc nãy. Tôi muốn bịt tai để đừng nghe thứ âm thanh dữ dằn chở đầy gai nhọn đâm thẳng tim óc. Tôi nhìn lui, không hiểu sao trong lúc bấn loạn, trí óc vẫn tiếp tục có lúc minh mẫn để thấu suốt những thứ không dính dáng gì hết, quanh mình. Chiếc ghe trôi lừ lừ ra giữa sông thật nhanh. Lửa đỏ loé quanh. Tôi nghe được tiếng giầm quậy nước lẫn với tiếng súng mỗi lúc thưa hơn. Tiếng lủm chủm của đạn rơi không còn nghe gần đâu đây nữa mà vạt xa xa về phía bờ bên phải. Phong kề tai thì thào.
“Tụi nó không thấy mình. Em bơi nhẹ dưới nước trôi lần vào bờ, đừng gây tiếng động mạnh. Khi tụi nó bắn thì mình bơi nhanh hơn một chút.”
Đám lục bình nhẩn nha trôi đâu đó làm hai tên đàn ông lầm lẫn. Chúng la hét lẫn nhau.
“Mày bắn lục bình không hà, Ban! Ê. Đ.m. tụi nó trôi hướng này sao mày cứ bắn hướng đó hoài vậy? Đ.m. giết có hai đứa mà cũng không xong, biết làm gì ăn đây mậy?”
“Câm cái miệng của mày lại. Đứa nào để xẩy? Hả? Mẹ cha nó, tao bắn đúng chỗ, chắc tụi nó chìm rồi. Không tin thì thôi. Đ.m, bỏ cho rồi. Sống chết kệ mẹ tụi nó. Về cho xong, trời gần sáng rồi, làm cả đêm, mệt chết mẹ!”
Mọi thứ vụt im. Không có tiếng chèo lẫn tiếng chửi thề. Tay Phong nắm cứng vai tôi trong khoảnh khắc rồi buông. Tôi chúi đầu sát mặt nước, tay chân cố khuẫy thật nhẹ nhưng vẫn mang cảm tưởng nặng chịt lào xào khuyấy nước. Im lặng nặng như tấm màn sũng nước phủ đè lên tâm trí. Tim tôi đập rối rít, mạch máu nhảy theo nhịp tim hào hễn, tai tôi nghe được tiếng bình bịch của tim mình tưởng như ai cũng đều nghe ra. Chợt có người dúi chân tôi xuống. Tôi hơi giật mình khi chân đạp phải lớp sình mềm. Phong đứng, mặt ngửa chừa mũi thở, cả đầu dìm gần hết dưới nước. Tôi bắt chước Phong, đỡ mệt vì chân chạm đáy sông nhưng phải đổi chân chống vì lớp sình mềm khiến chân chuồi nghiêng không vững. Được một lát, tôi ngẩng nhìn vừa lúc bóng đen nơi ghe lên tiếng.
“Đằng kia kìa. Đó. Đ…đ… tụi nó vừa hụp xuống. Chỗ này nè. Mày bắn chỗ đó coi.”
Phong nắm tay tôi kéo hụp xuống nước. Nghe được câu nói của người trên ghe nên tôi kịp chuẩn bị để hít một hơi không đến nỗi chịu ngộp lâu. Đạn bắn tung toé sát nơi tôi đứng. Phong dò dẫm bước đi dưới nước. Tôi bước theo mò mẫm, chân đạp sình loạng choạng nhằm nơi trũng sâu làm tôi hốt hoảng bíu chặt tay Phong. Miệng há ra bất ngờ khiến nước ùa vào mồm, tôi ngột ngạt trồi đầu lên thở. Trước mặt, đám lục bình kẹt nhánh cây chết dồn đống bên bờ. Tôi truồi sâu vào đám lá, chỗ nước cạn ngang bụng nên ngồi chồm hỗm dưới nước. Bóng ghe đi ngang thật rõ. Tiếng nói chuyện vang vang.
“Kệ mẹ tụi nó, về cho rồi. Mày cất đồ chưa?”
Giọng trầm khoan thai trả lời như không bị ảnh hưởng chi hết với hỗn loạn máu me vừa rồi.
Rồi, hỏi hoài! Xét hết mấy cái thây rồi. Trừ khi nào họ nuốt vô bụng thì tao chịu chớ… Ờ, hay là mình quay lại mổ mấy cái thây đàn bà. Tụi nó có khi nuốt hột xoàn…”
Giọng kia bẳn gắt hơn. “Sao hồi nãy hổng nói? Mẹ nó. Xì. Đ.m, gì cũng mày. Đợi xong rồi mới nói. Xẩy hết hai đứa… Gần sáng rồi, mổ miết gì nữa. Đ. m..”
Tiếng nói nhỏ dần theo dạng ghe loãng dần trong đêm tối. Phong đứng dậy, lần mò trượt lên trượt xuống với lớp sình nơi bờ rồi mò lên bờ đất. Tôi đạp sình nhão nhoẹt len chảy qua mấy kẽ chân, theo Phong lên chỗ có đất cứng. Bờ đất đầy rễ chằng chịt của thân cây chết, không rõ cây gì. Tôi lại vấp chân đau điếng nhưng cơn đau không đủ nồng độ để tôi nhận biết lâu hơn. Ngồi bệt xuống, tôi lần mò ngực áo tìm đồng hồ. Ánh lân tinh mờ ảo. 4g20 sáng. Tôi nói với Phong, hơi khựng lại khi nhận ra mình lạc giọng.
“Gần bốn rưỡi rồi anh. Giờ tính sao đây?”
Phong cởi áo vắt nước không trả lời. Tôi cởi bớt một bộ đồ bên ngoài cố vắt cho ráo rồi phơi đại trên mấy nhánh cây gần đó. Hơi lạnh thấm qua lần áo ướt còn lại trên người khiến tôi nổi ốc. Cả người tôi run từng cơn theo phản xạ cơ thể. Tôi ngồi bó gối, hai tay ôm chân co ro. Phong choàng tay qua vai tôi cho ấm. Hai đứa chúi vào nhau. Trí óc tôi dần dần tỉnh và tôi cố tránh không nghĩ đến những gì vừa xảy ra.
Rừng cây thưa thớt không một bóng nhà hay bóng đèn. Sao thật sáng và thật nhiều. Tiếng ếch nhái ễnh ương đâu đó nổi lên thật bình yên như không có chuyện gì xảy ra. Nước mắt tôi rơi chầm chậm nhiểu trên tay mới hay. Cơn sợ hãi lắng xuống, giờ chỉ còn lạc lõng khốn cùng sau cơn bão tàn khốc. Tôi mang cảm tưởng vừa rỗng không vừa đầy ắp đến độ muốn nôn. Không biết tôi nên nói gì, làm gì. Sau con giông tàn bạo, sực thấy mình không là gì cả, tay chân dư thừa, đầu óc đầy rẫy những hình ảnh chết chóc và cảm tưởng mình rất mỏng manh dễ bị xúc phạm thì lấp đầy cả người.
Giọt nước mắt đầu rơi xuống, khơi dậy trùng dương trong tôi. Tôi khóc ngon lành như chưa bao giờ được khóc. Trí óc lần mò trở lại xác người vấp phải nơi mé nước, sợi dây chuyền vàng đong đưa nơi tay gã đàn ông cúi mình trên cái xác trần. Hoá ra, tim tôi hụt nhịp, những người chung ghe đã chết. Tôi nhớ đứa bé trai ngủ mê vì thuốc. Cô gái trẻ thì thầm với tôi “Bồ em ở Texas. Ảnh hứa sẽ đón khi em tới đảo. Mấy năm rồi em chỉ đợi có dịp này. Tưởng sẽ không bao giờ gặp rồi chứ. ” Giọng cười khẽ vui sướng đầy hy vọng của cô. Giờ thì thật là không bao giờ gặp. Tôi gục đầu ủ rũ với nước mắt. Phong ngồi im lặng lẽ. Chúng tôi đã gặp phải lũ cướp cạn tàn ác. Lũ cướp cùng màu da cùng tiếng nói với mình. Tôi thường nghe nói đến hải tặc Thái lan nhưng chưa nghe nói đến lũ cướp cùng màu da tiếng nói với mình. Giờ thì tôi hiểu, nạn nhân chết cả, lấy ai kể lại câu chuyện thương tâm nơi bờ sông vắng. Biết bao bờ sông vắng đã chứng kiến những cảnh tượng tương tự? Tôi lau nước mắt trên tay áo còn ẩm ướt, nằm lăn ra đất. Phong nằm theo, gối đầu tôi lên tay chàng. Tôi sờ soạng mặt Phong trong đêm tối mờ, ngón tay tôi ướt khi lướt ngang mắt. Tôi vùi mình trong lòng Phong, cảm kích và đau đớn vô vàn.
    o O o 
 
Bà ngoại Phong mất khoảng sau hai giờ sáng cùng ngày hôm ấy. Dì Sáu cho chúng tôi hay mấy ngày sau, khi hai đứa mò về đến nhà. Bà mất cùng ngày chúng tôi bị nạn. Lúc hai giờ, bà còn đòi dì Sáu rót cho tách trà. Sau đó, dì Sáu về giường của mình. Đến sáng thì bà đã chết cứng, hai chân thò ra ngoài như sửa soạn xuống giường, tay phải níu chặt thành giường, mắt mở hé.
Phong ngồi ôm đầu nghĩ ngợi. Chập sau Phong hỏi.
“Dì có chắc là sau hai giờ không?”
“Chắc. Dì cho ngoại uống nửa tách trà. Lúc để tách xuống bàn sực thấy đồng hồ gần hai giờ chớ dì có tính coi giờ đâu mà nhớ.”
Dì Sáu là em út của mẹ Phong. Dì lớn tuổi nhưng không con. Chồng dì còn ở trại học tập nên dì không đi với chúng tôi, vả lại không ai trông nom bà ngoại, đã hơn bảy mươi lăm già yếu nhiều bệnh tật. Dì giống mẹ Phong nhiều nét nhưng khô khan cằn cỗi hơn. Mặt dì sưng húp vì khóc nhiều.
Lúc mở cửa thấy hai đứa tôi, dì oà khóc như trẻ nhỏ. Thấy trở về, hiểu ngay là không thoát, phần mới chôn mẹ một mình nên dì tủi thân. Đến khi biết cha mẹ Phong tử nạn, dì khóc thảm thiết hơn. Phong chỉ ngồi yên nhìn tôi và dì Sáu, mặt chàng chai cứng với giận dữ và oán hờn.
Tối hôm đó, Phong ngồi nơi giường ngoại, vụt nói một câu lạ.
“Mình thoát được là nhờ ngoại!”
Tôi nhìn Phong không hiểu. Dì Sáu hỏi.
“Sao? Con nói sao?”
Phong chậm rãi kể, mắt nhìn mông lung.
“Lúc Ngà giật tay con đứng lại, tự nhiên con thấy bà ngoại. Thấy như thế nào thì con không biết, chỉ biết là thấy mà trong người không hề thắc mắc tại sao. Bà ngoại xua xua tay nói. Chạy đi con, lội qua bên kia sông. Lẹ lên. Chạy đi con! Con nghe rõ ràng giọng thúc hối nóng lòng của Ngoại. Con đang hoang mang chưa biết làm gì thì lại nghe bà nói. Mẹ mày chết rồi. Chạy mau lên con ơi. Rồi như có gì ám, con lôi tay Ngà chạy về phía bờ sông theo lời Ngoại. “
Tôi nghe lạnh nơi sống lưng. Tôi đã không kéo tay Phong đứng lại vô cớ, rõ ràng có nhánh cây đập nơi mặt đau như trời giáng nên tôi đứng lại không suy nghĩ. Khi mặt trời lên, Phong nhìn và không thấy vết bầm hay trầy trụa nào trên mặt tôi cả. Điều này khiến tôi ngạc nhiên vì cái đau xé da thịt kia không thể nào không để lại dấu vết trên mặt. Còn tiếng gào, thứ tiếng đau đớn của một con thú bị nạn. Thứ âm thanh chỉ có thể tạo được bởi cơn đau tận cùng xương tuỷ. Phong đã không nghe tiếng gào nào hết khi giật tay tôi quay lui chạy ngược về hướng cũ. Không dám suy tưởng nhiều hơn, tôi chỉ giản dị cho rằng mẹ Phong đã tìm cách cứu chúng tôi bằng tiếng gào mà bà đã không kịp thoát thành tiếng. Tôi đã nghe được thứ âm thanh xé rách màn đêm chọc thẳng óc mình, đã ngửi được mùi máu trên áo kẻ giết người. Nếu không có nhánh cây quật mặt, tôi đã không dừng lại và đã tiếp tục ngoan ngoãn đi theo tên dẫn đường gian ác. Nếu không có tiếng gào, có lẽ tôi vẫn tiếp tục đi không chút ngờ vực. Tiếng gào và cái đau của nhánh cây quật mặt, cả hai đều thật, thật như nỗi hãi hùng của cuộc thảm sát ghê rợn nơi bờ sông vắng. Tôi đã cảm thấy được tất cả mọi thứ bằng mọi giác quan trên người. Có thể, nhánh cây làm tôi đau nhưng không để lại dấu vết, nhưng còn tiếng gào, tôi phải giải thích làm sao khi Phong không hề nghe có tiếng gào nào hết. Hai đứa tôi đã được báo động cùng một lúc bằng hai hình thức khác nhau. Và nhờ hành động vụt chạy bất thần khiến tên dẫn đường không kịp trở tay. Nếu không, nếu không… tôi vẫn thường tự hỏi, nếu không, nếu không, chuyện gì sẽ xảy ra và tôi sẽ làm gì nếu gã đàn ông không gờm tay với mình giả như tôi và Phong cùng rơi vào tình trạng sống chết dưới tay hắn? Đây là nỗi ám ảnh không biết đến khi nào tôi mới được quên dù đã yên ổn xứ người nhiều năm sau đó. /.
http://muoisau.wordpress.com/2014/03/09/tieng-gao-trong-dem-nguyen-thi-ngoc-nhung/

Làm Sao Mỹ Bắt Được Gián Điệp Tàu – Yudhijist Bhattacharjee



Bài đọc suy gẫm: Tuần qua, cơ quan FBI Hoa Kỳ tố cáo và kết án 5 tin tặc Trung Cộng thâm nhập các hãng tư,  ăn cắp kỷ thuật và bí mật nội bộ thương mại.  Nhân câu truyện còn thời sự râm ran, Blog 16 hân hạnh trích đăng bài  điều tra của Yudhijist Bhattacharjee “Bằng cách nào Trung Cộng lấy được những bí mật kỹ thuật của Mỹ?” hay “Gián Điệp Tàu”. Người dịch Nguyễn Minh Tâm.  Hình ảnh chỉ có tính minh họa.

 Ngày 1 tháng Hai năm 2003, khi phi thuyền con thoi Columbia rơi trên không trung, ông Greg Chung  đang ngồi ở nhà. Con trai của ông gọi điện thoại báo tin cho bố biết về tai nạn này. Chiếc phi thuyền bị vỡ tung trên đường trở về Trái đất, và bảy phi hành gia trên phi thuyền bị chết hết. Ông Chung mắng đứa con trai: “Đây không phải là chuyện đùa. Con đừng có báo tin bậy.” Ông Chung là một công dân Mỹ sinh đẻ ở Trung Hoa. Ông đang sống với vợ, bà Ling, trong một khu gia cư khá xinh đẹp, ở thành phố Orange , tiểu bang California . Ông mới về hưu được chừng vài tháng. Trước khi về hưu, ông làm việc cho NASA, cơ quan phụ trách Chương Trình Không Gian của Hoa Kỳ. Ông từng đóng góp vào việc thiết kế phòng lái cho phi hành đoàn trong chiếc phi thuyền Columbia, chưa kể là ông đã làm nhiều việc khác đóng góp cho chuyến bay của phi thuyền. Khi biết rõ cậu con trai, Jeffrey, báo tin là đúng. Ông cúp điện thoại, và ngồi ôm mặt khóc một mình.







Hồi năm 1972, cơ quan NASA giao việc thiết kế, và thực hiện phi thuyền con thoi cho công ty tư Rockwell làm. Công ty này sau đó đã bị công ty Boeing mua lại. Trong hơn 30 năm, ông Chung là kỹ sư của công ty Boeing, làm việc trong nhóm“stress-analysis”, thử sức chịu đựng của vật dụng thiết kế. Việc làm của ông hết sức tỉ mỉ, và đòi hỏi nhiều kiên nhẫn, thử đi thử lại không biết là bao nhiêu lần. Nhưng đó lại là việc làm sở trường của ông Chung. Ông làm việc miệt mài, ít khi nào bỏ sở ra về, thậm chí ông cũng ít khi nghỉ giải lao. Ông cứ ngồi miết ở máy vi tính, thử đi thử lại đủ mọi loại mô hình, xem coi chất liệu nào thích hợp để làm vỏ phi thuyền, chịu đựng nổi độ nóng, và áp suất va chạm vào phi thuyền.
Sau khi phi thuyền Columbia bị nổ tung trên không trung, cơ quan NASA yêu cầu hãng Boeing thiết kế một phi thuyền con thoi khác. Ông Chung là nhà thiết kế giỏi nhất trong nhóm. Xếp cũ của ông Chung điện thoại yêu cầu công ty ký hợp đồng nên mướn ông Chung làm công việc này. Mặc dù ông đã ở tuổi 70, song ông hoãn nghỉ hưu, và tiếp tục đi làm. Thế là ông lại quanh trở về thói quen siêng năng cũ, về nhà trễ ăn cơm tối, sau đó lại ngồi vào bàn làm việc cho đến khuya. Ông làm việc say sưa không phải vì người ta hứa thăng chức, hay tăng lương cho ông, mà chỉ vì cái thú làm việc có sẵn trong người của ông Chung. Vợ ông, bà Ling, kể lại về thói quen say mê làm việc của ông. Ông khoe ông đã giúp hãng Boeing tiết kiệm được bao nhiêu tiền. Ông nói nhiều về việc làm của ông đến nỗi bà Long phải bực mình, và nói: “Suốt ngày cứ nói mãi về công ty Boeing của ông. Bộ ông không còn chuyện gì khác để nói với tôi hay sao?”.
Tháng Tư năm 2006, nhân viên FBI đến gặp ông Chung tại nhà riêng của ông ở thành phố Orange . Chính tay ông Chung là người thiết kế căn nhà ông đang ở. Căn nhà có một hàng ba để ông và bà Ling ngồi nhìn ra vườn hoa lớn phía trước. Ông Chung trồng cây chanh, và cà chua. Hàng ngày ông hay dùng nước tái dụng để tưới hoa, tưới cây. Hai ông bà có hai người con trai đã trưởng thành là Shane, cậu con lớn, và Jeffrey, cậu con nhỏ. Hai cậu con cũng sống ở gần cha mẹ.
Ông Chung dáng người cao, gầy, với khuôn mặt trầm tĩnh, mở cửa mời khách bước vào trong nhà. Họ mở đầu câu chuyện bằng cách hỏi thăm ông Chung về một người tên là Chi Mak, bạn của ông Chung. Ông này đã bị bắt trước đó vài tháng. Chi Mak là người Hoa gốc Hong Kong đến California định cư vào thập niên 1970, và làm kỹ sư cho công ty Power Paragon, một công ty xây cất hệ thống phân phối điện lực cho Hải Quân. Từ nhiều năm nay, Trung quốc cố tìm cách canh tân hạm đội hải quân của họ. Cơ quan FBI nghi ngờ rằng Mak đã được tình báo
Trung quốc huấn luyện, gửi sang Hoa Kỳ để làm gián điệp.






Sau hơn một năm điều tra, đưa đến việc bắt giữ Chi Mak, cơ quan FBI nghe lén điện thoại của Chi Mak, và bám sát y để theo dõi những giao du hàng ngày của Chi Mak. Có một lần trong lúc Chi Mak và vợ đi nghỉ mát ở Alaska , thám tử Mỹ lẻn vào nhà lục soát suốtđêm. Họ cố gắng không để lại một dấu vết nào, thậm chí màng nhện ở phòng khách họ cũng cố tình giữ nguyên. Vào trong nhà, họ chụp hình hàng trăm tài liệu liên quan đến hoạt động của Chi Mak. Trong đó, có cuốn sổ ghi điạ chỉ, số điện thoại người quen của Chi Mak, vài người là kỹ sư Mỹ gốc Hoa. Một trong những người này là Greg D. Chung.
Ông Chung tên viết theo tiếng Hoa là Dougfan Chung, sang Hoa Kỳ định cư từ hơn 40 năm trước. Ông Chung cho FBI biết ông và bà Ling vợ ông thỉnh thoảng có đi ăn cơm Tàu chung với Chi Mak. Vì Chi Mak là kỹ sư ngành điện, còn ông Chung là kỹ sư ngành cấu trúc, nên hai người ít khi bàn chuyện công việc làm với nhau. Nhân viên FBI cám ơn ông Chung rồi ra về. Họ tìm được vài tin tức hữu ích, song không có tin gì quan trọng, hay ông Chung không làm điều gì sai trái cả.
Vài tuần sau, nhân viên FBI lại lục soát nhà của Chi Mak lần nữa. Kỳ này họ bắt gặp một lá thư viết bằng tiếng Hoa trong mớ giấy báo cáo hàng tháng của ngân hàng. Lá thơ mang nhãn hiệu một khách sạn ở Bắc Kinh, do Gu Wei Hao viết. Ông Gu Wei Hao là một quan chức cao cấp trong Bộ Hàng Không của Trung Quốc. Lá thư đó không phải gửi cho Chi Mak, mà là gửi cho Lingjia và Dongfan Chung.
Trong lá thư, và sau này còn thêm một số thư khác, viên chức cao cấp họ Gu nhờ ông Chung thu thập tài liệu để giúp Trung quốc thực hiện chương trình không gian của họ. Chính phủ Trung quốc mới bắt đầu kế hoạch xây dựng trạm không gian đặt trên qũi đạo trái đất, và Gu đang tìm cách thu thập tin tức kỹ thuật để giúp thực hiện kế hoạch này. Lá thư của Gu viết cho ông Chung nói rõ: “Tất cả chi phí thu thập, hay cần phải mua tin tức, chúng tôi sẽ cử người đích thân trả bằng tiền mặt, và ông có quyền đem tiền ra khỏi nước một cách an toàn.”. Gu còn mời ông Chung sang Quảng Châu, và tổ chức buổi họp mặt “trong khung cảnh giới hạn, ít người”, “rất an toàn” để có thể cùng bàn luận về những vấn đề kỹ thuật. Vì ông Chung là công dân Mỹ, nên Gu đề nghị ông nên làm đơn xin chiếu khán du lịch, với lý do là đi thăm bà con ở Trung quốc. Gu kết luận ở phần cuối lá thư: “Đây là niềm vinh dự và may mắn cho Trung quốc khi ông nhận thức rằng ông nên đem tài năng, trí tuệ của ông phục vụ đất nước.”







TỪ NAY ÔNG CHUNG LÀ KẺ BỊ TÌNH NGHI LÀM GIÁN ĐIỆP CHO TRUNG QUỐC. Cơ quan FBI bắtđầu mở cuộc điều tra, đặt dưới sự điều động của một thám tử tên là Kevin Moberly. Người thám tử có dáng dấp thể thao, mạnh khoẻ, khoảng trên 40, tóc điểm vài sợi bạc, dưới cằm để một chòm râu được chăm sóc khá kỹ. Khoảng 2 giờ sáng mộtđêm trong tháng Tám năm 2006, ông Moberly ngồi bật dậy, thay quần áo ra khỏi nhà. Ông cùng một thám tử khác tên là Bill Baoerjin lái xe đến thành phố Orange . Họ đậu xe trên đường Grovewood Lane, cách nhà ông Chung chưa đầy 100 yards. Họ ngồi yên trong xe khoảng chừng 20 phút, quan sát khu xóm xung quanh, và để cho đôi mắt quen dần với bóng tối. Sau đó họ dùng đèm bấm có dụng cụ đặc biệt che bớt ánh sáng, đến lục tìm tòi trong hai thùng rác trước cửa nhà ông Chung. Họ thấy một chồng báo Hoa văn. Họ ôm hết cả chồng báo đem về văn phòng.
Kẹp vào giữa chồng báo là những tài liệu kỹ thuật của công ty Rockwell và Boeing. Thám tử Moberly trước đây đã từng làm sĩ quan tình báo bên Không quân, vì thế ông nhận ra ngay những chữ viết tắt như “O.V”, tức Orbital Vehicle, và “S.T.S”hay Shuttle Transportation System đều là những tài liệu kỹ thuật liên quan đến phi thuyền không gian. Không có bằng chứng nào cho thấy ông Chung muốn trao những tài liệu kỹ thuật này một cách bí mật. Việc ông làm chỉ mang hình thức vứt bỏ những tài liệu kỹ thuật cũ có sẵn trong nhà, vì ông sợ bị vạ lây sau khi vụ bắt giam Chi Mak được loan tin từ vài tháng nay.
Một tuần sau, thám tử Moberly và Baoerjin quanh trở lại lần nữa để tìm kiếm. Lần này một người hàng xóm tình cờ lái xe đi ngang, khiến cho hai điệp viên phải ngồi thụp xuống, núp sau hai thùng rác cao. Ông Moberly thấy việc lục lọi thùng rác coi bộ rủi ro nhiều quá, ông quyết định nhờ công ty xe rác hợp tác. Trên đường lái xe rác đến trung tâm chế biến rác, xe vận tải sẽ ngưng ở một điểm hẹn đểnhóm FBI hốt hết rác nhà ông Chung đem về nghiên cứu.  Trong tuần lễ kế tiếp, ông Chung đẩy thùng rác ra trước cửa nhà vào lúc trời vừa hừng sáng.
Ông đẩy thùng rác nằm kẹt giữa hai thùng “recycle” mà ông đã kéo ra từ đêm hôm trước. Sau đó, ông đứng núp sau bụi cây quan sát một lúc, trước khi ông bước vào trong nhà. Khi nhân viên FBI thu hồi được vật liệu trong thùng rác nhà ông Chung, họ tìm thấy khoảng 600 trang tài liệu kỹ thuật của công ty Boeing, với đầy đủ hình ảnh rõ ràng. Lâu lâu trên trang giấy còn đóng con dấu: “tài sản riêng của công ty” hay “tài liệu mật, cấm trao đổi.”
Tháng Chín, ông Moberly đến nhà ông Chung cùng với một đồng nghiệp tên là Gunnar Newquist. Ông này là điều tra viên hình sự của Hải Quân. Hai người đến đây để thực hiện một cuộc phỏng vấn. Hai thám tử ngồi ở ghế sofa màu trắng, còn ông Chung ngồi ở bàn uống cà phê đối diện. Ông Moberley mở đầu câu chuyện bằng việc hỏi thăm tin tức liên quan đến Chi Mak. Sau một giờ chuyện vãn, ông tìm cách hướng câu chuyện liên quan đến vị quan chức Gu Wei Hao làm việc ở bộ hàng không Trung quốc. Ông Chung cho biết quả thực ông có gặp vị quan chức này trong chuyến đi thăm Trung quốc năm 1985, và sau đó một vài lần vào đầu thập niên 1990’s.
Ông Moberly đặt câu hỏi: “Ông Gu có bao giờ nhờ ông làm việc gì hay không?”
Ông Chung trả lời: “Không.”

Ông Chung đứng dậy, đi vào nhà bếp lấy một ly nước để uống. Khi ngồi xuống ghế, ông Moberly lôi ra lá thư của ông Gu đặt lên bàn uống cà phê. Ông yêu cầu ông Chungđọc to lá thư đó lên. Ông Chung dịch lại lá thư với giọng nói lạc thần, mất bình tĩnh.
Moberly đặt câu hỏi: “Trong nhà của ông có còn một tài liệu nào khác lẽ ra ông không được cất giữ hay không?” Sau đó, ông ta đưa cho ông Chung tờ giấy để ký tên cho phép nhân viên FBI lục xét nhà.
Ông Moberly gọi ngay một toán thám tử đứng chờ phía trước, xông vào thực hiện công việc lục soát nhà của ông Chung. Bà Ling lúc đó vừa về đến nhà, dắt theo đứa cháu trai. Cả ba đứng lặng yên xem hàng chục thám tử lục lọi từng khe ngách nhỏ của căn nhà, trên khoảng đất rộng gần một mẫu tây.






Ở dưới bao lơn phía sau căn nhà, một thám tử tìm thấy một cánh cửa nhỏ.Cánh cửa được chắn ngang bằng một thanh gỗ. Ông mở cánh cửa ra, và bước xuống vài bậc thềm, ông khám phá ra một ngõ ngách nhỏ, đủ để lách mình đi vào, chạy dọc theo chiều dài của căn nhà.
Khúc đầu, ngõ ngách này chỉ đủ cho một người khom lưng đi vào. Sau đó, mặt đất thoai thoải dốc, và người bước vào có thể điđứng dễ dàng. Từ trong nhà không có lối đi vào ngã ngách này. Khoảng đất trông như một basement, hầm nhà trơ trụi, và chỉ có bóng đèn soi đường. Ở một bên phòng trống này chồng chất mấy cái nệm giường cũ, xe đạp ba bánh cũ, hay vài miếng gỗ tạp. Đi tiến thêm về phía trước của căn nhà, đằng sau tấm ván ngăn sơ sài, là một căn phòng nhỏ, sàn gỗ thô sơ, với nhiều kệ sách. Trên kệ sách có rất nhiều binder, bìa cứng, đựng hồ sơ.
Người nhân viên dẫn ông Moberly đi xuyên vào ngõ hẹp để cho ông thấy những binder này.
Trong những binders đó chứa rất nhiều tài liệu qúi liên quan đến việc chếtạo các loại máy bay quân sự của Hoa Kỳ như oanh tạc cơ B-1, máy bay chở hàng C-17, chiến đấu cơ F-15, và trực thăng vận tải Chinook 47 và 48. Ông Moberly nói với tôi về cảm nghĩ của ông khi bước vào kho tài liệu này: “Tôi có cảm tưởng như mình vừa đi lạc vào bãi mìn của vua Solomon ngày xưa.”. Không rõ ông Chung có vi phạm luật nào hay không, nhưng chắc chắn là ông Chung đã vượt quá lằn ranh của một người sưu tầm tài liệu kỹ thuật.
Ông Moberly cầm đại một binder, chạy vội lên lầu, đặt lên bàn cà phê cho ông Chung xem. Ông gằn giọng: “Tại sao ông không nói cho chúng tôi biết ông có những tài liệu này?”. Ông Chung không trả lời, quay mặt đi chỗ khác.
Ngay lúc đó điện thoại reo, và ông Chung bước sang phòng ăn để trả lời điện thoại. Ông Moberly có đem theo một cộng sự viên duy nhất hiểu được tiếng Quan Thoại, đó là Jessie Murray. Jesse Murray đứng nghe lóm câu chuyện thì hiểu là ông Chung đang nói chuyện với cậu con trai lớn, cậu Shane, bằng tiếng Quan Thoại.“Họ sẽ đến nói chuyện với con đó. Họ sẽ hỏi con về chuyến đi Bắc Kinh của trường con.”. Chuyến đi đó xảy ra vào năm 1985, và ông Chung đã gặp Gu Wei Hao, viên chức cao cấp của Bộ Hàng Không. Ông Chung dặn con: “Con cứ nói với họ là con quên hết rồi. Chỉ nói vắn tắt là con không biết.” Nghe đến đây, ông Murray giật điện thoại khỏi tay ông Chung và cúp máy ngay, cảnh cáo ông Chung rằng ông ta có thể can tội cản trở công lý, một tội rất nặng.
Cuộc lục soát nhà ông Chung tiếp tục, kéo dài suốt một ngày. Điều tra viên tìm thấy một số tài liệu đã bị đốt, và nhiều hồ sơ khác còn để trong phòng làm việc của ông Chung ở trên lầu. Đến chiều tối, họ khuân đi hơn 150 thùng tài liệu. Trước khi rời khỏi nhà ông Chung, ông Moberly gặp cậu con cả Shane ở lề đường trước cửa nhà xe. Cậu ấy than: “Bố tôi còn nặng lòng với cố quốc quá. Ông cụ cần phải suy nghĩ lại về lòng trung thành với Trung quốc.”.
ÔNG CHUNG SINH RA TRONG MỘT NGÔI LÀNG NHỎ ở tỉnh Laoning, một tỉnh nhỏ vùng đông bắc Trung quốc. Khi còn nhỏ ông là một cậu bé nhút nhát, chỉ thích sưu tầm đồ chơi nho nhỏ: tem cổ, đá lạ, hay nắp hộp kem đánh răng. Cha mẹ của cậu là Phật tử thuần thành. Ông bà dạy con phải quí trọng thiên nhiên, cây cỏ. Cậu bé tỏ ra say mê tìm hiểu về hoa cỏ, cây cối, và cậu rất bất bình khi thấy những đưá trẻ cùng lứa tuổi bóp chết hàng đàn kiến nhỏ.
Trong thời Thế Chiến Thứ Hai, khi đoàn quân Nhật đang tiến vào các tỉnh phía đông, gia đình họ Chung phải bỏ làng mạc, cùng với hàng triệu người Hoa khác, đi lánh nạn. Trên đường chạy về phương nam, họ phải tạm dừng chân vì có cuộc giao tranh bằng súng lớn. Gia đình họ Chung phải trốn trong ruộng bắp. Một nông dân tử tế giúp họ Chung cho vào nhà tá túc, và nấu cháo bắp cho ăn. Gia đình đó không nhận tiền đền đáp của họ Chung. Lúc đó cậu bé Chung mới được tám tuổi, và cậu vẫn nhớ mãi nghĩa cử cao đẹp của gia đình nông dân này.
Cha của ông Chung là một kỹ sư công chánh, làm việc trong bộ hoả xa. Ông là người theo phe Trung Hoa Dân Quốc. Năm 1946, khi phe Mao Trạch Đông dành được quyền kiểm soát toàn thể lục điạ Trung Hoa, gia đình họ Chung phải bỏ chạy sang Đài Loan. Tại đây phe nước Trung Hoa Dân Quốc, hay phe Quốc Dân Đảng thành lập chính phủ lưu vong. Kể từ đó có hai nước Trung Hoa – Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa, do Đảng Cộng Sản cai trị, và Trung Hoa Dân Quốc ở Đài Loan. cả hai đều tự nhận mình mới là người đại diện cho quyền lợi của dân Trung Hoa. Thống chế Tưởng Giới Thạch, nhà độc tài quân sự của Đài Loan tung ra rất nhiều kế hoạch tuyên truyền, nhồi sọ trẻ nhỏ ở Đài Loan. Giống như các học sinh nhỏ tuổi khác, Chung đã được dạy phải phỉ nhổ vào chế độ của Mao Trạch Đông. Nhưng ở sâu trong tâm khảm, chú bé vẫn tự hào mình là người Trung Hoa, và qúi mến văn hoá Trung quốc.
Khi còn học trung học, Chung phải theo học những khoá huấn luyện quân sự bắt buộc. Sau này, cậu có đăng lính vào Lực Lượng Hải Quân của Đài Loan, với mục đích sẽ giải phóng Hoa Lục thoát khỏi sự cai trị của Mao. Một người anh em của Chung kểlại rằng chính cha của cậu Chung khuyên con đi học ngành kỹ sư. Do đó, Chung xin học trường Đại Học Quốc Gia Đài Loan, một đại học danh tiếng. Sau khi ra trường, cậu Chung được bổ đi làm tại một đập ngăn nước ở phía bắc Đài Loan. Tại đây, cậu gặp người đẹp Lingjia Wang, một hoạ sĩ, đang làm cô giáo dạy trong trường mẫu giáo gần đó. Ít lâu sau hai người thành hôn.
Chung rất say mê ngành kỹ sư, cậu là sinh viên giỏi nhất trong lớp. Nhưng triển vọng tương lai nghề nghiệp của cậu sẽ không đi xa nếu cứ lại Đài Loan. Vì thế, giống như nhiều kỹ sư đồng lứa, cậu mơ một ngày nào đó sẽ sang được Hoa Kỳ học tiếp lên cao. Trong lúc làm việc tại dập nước, cậu chịu khó học tiếng Anh do bà vợ ông cố vấn Mỹ dạy.

Năm 1962, cậu xin được vào học tại trường đại học Minnesota . Cậu lấy bằng cao học về kỹ sưcông chánh, và được tuyển vào làm cho hãng Boeing ở Philadelphia . Cậu là một chuyên gia thử nghiệm “stress” trong Vertical Take-off and Landing Division, phụ trách về sức chịu của thân máy bay trong giai đoạn cất cánh và hạ cánh. Bà Ling học thêm về Hội hoạ.Vào thời điểm đó, nước Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa, hay Trung Cộng không cho người dân xuất ngoại. Gia đình họ Chung chỉ có vài người bạn thân là người Hoa, đa sốlà dân Đài Loan sang Hoa Kỳ định cư. Thú vui của họ là đi thăm bảo tàng viện ở New York , đi nghỉ mát ngoài bờ biển tiểu bang Delaware , và bắt cua về ăn chung với nhau.





Một trong những người bạn thân từ thuở nhỏ của ông Chung là Thomas Xie. Anh ta lúc đó đang là sinh viên ở trường New Mexico State University . Anh thường liên lạc với Chung qua thư từ. Có lần anh cho biết anh được nhận vào trường University of Chicago , nhưng thiếu tiền ghi danh. Hai vợ chồng Chung gửi cho anh Xie hai ngàn đô la, không thắc mắc gì cả. Anh Xie nói với tôi về ông Chung như sau: “Greg lúc nào cũng tử tế, sẵn lòng giúp đỡ người khác.”
Bà Ling thì thuộc loại người quảng giao, ưa xã giao hơn ông Chung. Bà muốn có nhiều bạn bè thân quen để giao tiếp. Hai vợ chồng cùng gia nhập Hiệp Hội Người Đài Loan ở điạ phương.

Trong những lần họp mặt với nhau, hai vợ chồng Chung ủng hộ ý kiến thống nhất hai nước Trung Hoa: Đài Loan và Hoa Lục nên kết hợp lại làm một. Họ phản đối ý kiến phân chia ranh giới giữa hai khu vực. Bà Ling còn nói thêm: “Chúng tôi nghĩ rằng cả thế giới nên sống hoà hợp với nhau. Mọi cuộc xung đột đều vô nghĩa đối với chúng tôi.”. Quan điểm của hai vợ chồng ông Chung làm cho một số người trong Hội Đài Loan không ưa, bởi vì họ nghĩ rằng vợ chồng nhà Chung không còn trung thành với Đài Loan như xưa.
Năm 1972, ông Chung làm việc cho công ty Rockwell. Công ty vừa nhận được hợp đồng chế tạo phi thuyền con thoi đầu tiên cho cơ quan NASA. Ông Chung dọn sang sống ởmiền Nam California. Khi đó, ông Chung và bà Ling đã trở thành công dân Mỹ. Con đường công danh, nghề nghiệp của ông Chung thăng tiến rất mau. Trong khi đó bà Ling cũng khá thành công về mặt xã hội, và hội hoạ. Hai vợ chồng dự tính sẽ mãi mãi sinh sống tại Hoa Kỳ. Giống như nhiều người di dân khác, họ cảm thấy thoải mái, hài lòng với ba dạng tịch khác nhau: Người Hoa, người Đài Loan và người Mỹ.
TRONG SUỐT THỜI GIAN CUỐI THẬP NIÊN 1970’s, nước Trung Hoa Cộng Sản trải qua nhiều cuộc cải cách to lớn về chính trị, và kinh tế. Thái độ thù nghịch chế độ cộng sản của hai ông bà Chung giảm bớt đi rất nhiều. Bà Ling nói với tôi: “Bỗng dưng, cánh cửa mở ra cho chúng ta có dịp giao tiếp với Trung quốc. Chúng tôi nao nức, tò mò, muốn tìm hiểu về cội nguồn của mình.”. Họ nhận thấy rằng chế độ Trung Hoa Dân Quốc cũng chẳng lấy gì gọi là dân chủ hơn chế độ cộng sản. Ông Ching Wang, bạn thân của ông Chung từ hồi trung học, hiện là giáo sư Hoá học của đại học UC San Francisco, nói với chúng tôi rằng có sự chuyển hướng trong nếp suy nghĩ của người Đài Loan. Điều này cũng dễ hiểu đối với những người đã định cư từ lâu ở nước ngoài, và không có nghĩa là chúng tôi không còn trung thành với Đài Loan. Ông Wang phân tích: “Chúng tôi bắt đầu có những tư tưởng nổi loạn. Chúng tôi không còn tin vào những điều đã được tuyên truyền nhồi sọ vào đầu óc chúng tôi trướcđây.”. Truyền thông Đài Loan lúc nào cũng mô tả Trung Cộng như một xã hội chậm tiến, mọi rợ. Nhưng khi xem truyền hình tổng thống Richard Nixon đi thăm Bắc Kinh, chúng tôi thấy thành phố này cũng khá sạch sẽ, và thịnh vượng.
Thấm nhuần triết lý Phật Giáo, chủ trương “buông xả” giúp ông Chung dễ dàng tha thứcho những điều xấu xa mà chế độ của Mao Trạch Đông từng gây ra. Một người em của ông Chung nói: “Trong bà con của chúng tôi có người đã bị Cộng Sản giết. Nhưng nghĩ cho cùng thì đó là thế hệ cũ. Chúng ta không thể tiếp tục giữ mãi mối hận thù trong đầu. Anh Greg của chúng tôi cũng cảm thấy như vậy.”.
Khi họ đến tuổi gần bốn mươi, họ cảm thấy cần phải truy nguyên về nguồn gốc Trung Hoa trong máu huyết của họ. Bà Ling mạnh dạn nói: “Phải trở về nguồn mới được. Nếu không chúng ta sẽ giống như trái bí rợ. Cái đít thì to mà trong lòng chẳng còn trái tim.”
Năm 1976, sau khi đi xem hai nhạc sĩ Trung Hoa đến biểu diễn ở Los Angeles , ông Chung bèn đi tìm mua một đàn bầu hai giây của Trung Hoa đem về nhà tập gẩy đàn. Ông Chung và bà Ling bắt đầu sưu tầm những truyền đơn, tài liệu của Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa. Kể cả những tài liệu về Cách Mạng Văn Hoá, và những bài viết tiếc thương Mao TrạchĐông sau khi Mao chết. Ông Chung đọc rất kỹ, ghi chép bên lề từng bài viết. Kểtừ thập niên 1950’s, đa số người Hoa ở Hoa Lục đều viết Hoa Văn theo kiểu giảnđơn của Mao Trạch Đông. Phần lớn người Hoa ở Đài Loan vẫn còn viết Hoa văn theo lối cũ. Ông Chung và bà Ling sẵn sàng tiếp thu lối viết kiểu mới.
Năm 1976, sau khi Mao chết, đó cũng là thời điểm kết thúc Cuộc Cách Mạng Văn Hoá, và khởi đầu giai đoạn canh tân của Đặng Tiểu Bình. Trung quốc gửi rất nhiều phái đoàn khoa học gia và kỹ sư sang các nước Tây phương. Trí thức Trung Hoa luôn luôn tâm niệm phải “phải dùng khoa học để cứu Trung Quốc.” Ông Chung theo dõi mọi tiến bộ về khoa học của Trung quốc với niềm tự hào, hãnh diện. Ông cắt dán, lưu trữ những bài báo, hình ảnh liên quan đến việc Trung quốc phóng vệ tinh. Và ông cũng bắt đầu đi dự những buổi nói chuyện của các nhóm học giả, nhà ngoại giao Trung quốc khi họ sang thăm Hoa Kỳ. Trong một buổi hội thảo năm 1979, ông Chung gặp Chen Len Ku, Giáo sư công nghệ của Viện Kỹ Thuật Harbin. Ông Chen này đang đi tìm những tài liệu giảng dạy về “stress analysis”, phân tích sức chịu đựng của vật liệu. Đề tài này là phạm vi chuyên môn của ông Chung. Ông Chung về nhà làm photocopy những bản ghi chép hồi còn học ở University of Minnesota , gửi sang cho ông Chen theo đường biển.
Khi gửi những tài liệu này đi, ông Chung còn viết một lá thư rất cảm động như sau:“Tôi không biết mình có thể đóng góp được gì cho tổ quốc. Tôi lấy làm hãnh diện về những thành quả nhân dân ta đã làm được cho Quê Mẹ. Tôi lấy làm ân hận mình đã không đóng góp được gì nhiều.”.
GIÁO SƯ CHEN ĐEM LÁ THƯ VỀ khoe với đồng nghiệp ở Harbin . Hẳn là các quan chức cao cấp Trung cộng cũng nghe nói đến chuyện này. Qua năm sau, ông Chung được mời đến họp tại một khách sạn ở Los Angeles . Diễn giả chính trong buổi họp này là Gu Wei Hao, quan chức của Công Ty Kỹ Nghệ Hàng Không Trung quốc. Đây là một công ty quốc doanh thành lập từ thời thập niên 1950’s với sự trợ giúp của Nga Xô Viết. Công ty này gần như biến mất khi quan hệ Trung Xô bị gẫy đổ, bây giờ người ta đang định canh tân lại công ty. Gu Wei Hao khẳng định Trung quốc cương quyết sẽ học hỏi tìm tòi những kỹ thuật tân tiến, nhất là trong lãnh vực không gian. Sau khi nghe bài diễn thuyết, ông Chung nói chuyện khá lâu với Gu.
Trung quốc cần phải cải tiến việc thiết kế khung máy bay, phi thuyền, và đó là lãnh vực chuyên môn mà ông Chung là chuyên gia, biết rất rõ. Sau buổi họp này, ông Chung cũng gặp Chi Mak. Tay này đã bắt đầu sưu tầm tài liệu kỹ thuật cho Trung quốc từ lâu, thế mà ông Chung không hay biết.
Vào thập niên 1950’s, Đảng Cộng Sản Trung quốc đưa ra chiến lược qui mô thu thập tin tức. Viện Khoa Học Thông Tin Kỹ Thuật, thành lập năm 1958, lấy được hàng ngàn tài liệu nước ngoài, đem về dịch sang tiếng Hoa. Các quan chức cao cấp, học giả Trung Hoa đi Âu Châu và Hoa Kỳ dự hội nghị khoa học chịu khó ghi chép rất kỹ, nghe ngóng, nghe lén, và thỉnh thoảng còn ăn cắp cả những tài liệu chưa được xuất bản. Vào khoảng giữa thập niên 1960’s, chính phủ có khoảng 11,000 tạp chí ngoại quốc, năm triệu bằng khoán trí tuệ, và vài trăm ngàn phúc trình nghiên cứu kỹ thuật, kể cả biên bản hội nghị, hay những đề tài trình luận án tiến sĩ.
Chính quyền của Mao Trạch Đông chú trọng vào việc sưu tầm những tin tức có thể ứng dụng cho lãnh vực quân sự. Sau khi Mao chết, Trung quốc mở rộng phạm vi sưu tầm. Đến tháng ba năm 1986, Đặng Tiểu Bình thành lập Chương Trình Nghiên Cứu & Phát Minh Kỹ Thuật Cao Cấp, lấy bí số là 863. Chương trình này đặt ra chỉ tiêu làm việc từng năm, từng tháng, và nhấn mạnh những điạ hạt phải chú trọng gồm có: không gian, sinh học, kỹ thuật laser, kỹ thuật tin học, năng lượng, và nguyên vật liệu mới. Chính phủ đỡ đầu cho các hoạt động nghiên cứu, và lập ra những công ty quốc doanh để chế tạo, hay nhập cảng những kỹ thuật cần thiết.

Khi nào có thể làm được, những công ty này phải cố tìm ra sản phẩm của công ty Tây phương bằng cách mua lại tài sản trí tuệ, hay đánh tráo, ăn cắp cho bằng được. Sau khi tất cả những thủ đoạn này làm không xong, chính phủ sẽ đứng ra yểm trợ cho hoạt động gián điệp. Bộ An Ninh Nhà nước và cơ quan tình báo quân sự sẽ huấn luyện điệp viên để gửi sang Hoa Kỳ và các nước Âu châu. Họ cũng tuyển mộ những khoa học gia, kỹ sư, và chuyên gia sinh đẻ ở Trung quốc hiện đang sống ở hải ngoại, nhất là những người có lý lịch an ninh trong sạch được làm trong những cơ sở bí mật. Có khi những khoa học gia này được yêu cầu phải lấy cắp một loại tin tức bí mật nào đó. Song cũng có khi chính quyền Trung quốc áp dụng chiến thuật “thu thập hàng ngàn hạt cát” ráp chúng lại thành sản phẩm mong muốn.
Lấy ví dụ trường hợp ông Wang. Ông là giáo sư danh dự về ngành hoá học dược phẩm. Ông phụ trách nghiên cứu cho công ty dược phẩm Merck hồi thập niên 1970. Sau khi nghiên cứu về microbes có ở trong đất nhiều năm, ông Wang và các đồng nghiệp phát minh loại thuốc chống ký sinh trùng lấy tên là ivermectin. Chỉ ít lâu sau, tin tức về sự thành công của ông Wang được đăng tải, ông nhận được điện thoại của nhân viên làm cho công ty dược phẩm quốc doanh ở Mãn Châu mời ông Wang đi sang thăm Trung Hoa, dặn ông đem theo mẫu microbe dùng để chế ra dược phẩm. Ông Wang nói rằng có lẽ người gọi điện thoại mời ông đi Trung quốc không hiểu việc họ làm là một điều hỗn láo, rất xấu. Thậm chí họ còn khinh thường ông bằng cách yếu cầu ông bỏ tiền túi ra mua vé máy bay mà đi. Ông Wang giận lắm, cúp điện thoại, không thèm trả lời.
Ông Chung thì ngược lại, có thái độ khác hẳn với ông Wang. Ông Chung hăm hở muốn giúp đỡ Trung quốc. Nói về phương tiện tài chánh, vợ chồng ông Chung tương đối rất khá giả. Họ có chung cư cho thuê ở thành phố Alhambra , và một xưởng sửa xe hơi khá phát đạt ở Long Beach . Đấy là chưa kể hai vợ chống sống rất tằn tiện. Họ cắt tóc cho nhau để đỡ tốn tiềm.
Năm 1984, khi Thế Vận Hội Muà Hè tổ chức ở Los Angles đang diễn ta, vợ chồng ông Chung là một trong những Hoa Kiều hải ngoạiđược mời dự yến tiệc cùng với các lực sĩ Trung quốc. Có đôi lần, theo yêu cầu của Lãnh Sự Quán Trung quốc ở San Francisco, vợ chồng ông Chung nhận lời bảo trợ, đỡ đầu cho người Hoa mới đến định cư ở California. Ông bà dẫn họ đi mua sắm những món đồ cần thiết cho cuộc sống, và chở họ đi chợ trong vài tháng đầu mới định cư.
Tháng Hai năm1985, ông Chung nhận được thư của quan chức tên là Chen Qi-Nan mời ông đi Trung quốc dự hội nghị “trao đổi kỹ thuật”. Ông Chen đề nghị ông Chung soạn sẵn tài liệu liên quan đến những vấn đề kỹ thuật. Trong đó có việc thử sức chịu đựng của khung máy bay sau khi sử dụng nhiều lần.
Ông Chung trả lời thư mời rằng đến tháng Bảy sắp tới là thời gian thuận tiện để ôngđi Trung quốc nhân dịp nghỉ hè vài tuần, để ông có dịp chính mắt mính đi thăm phong cảnh của Quê Mẹ. Ông xin công ty Rockwell cho ông nghỉ phép bảy tuần lễ để đi chơi.

Ông Chung vẫn còn giữ lá thư mời, cũng như bản nháp thư trả lời của ông. Đọc cả hai lá thư, không biết là Trung quốc mang ơn ông, hay là ông mang ơn Trung quốc. Trong một lá thư gửi cho bạn đồng liêu của Chen Qi Nan, ông Chung viết: “Thật là một vinh hạnh lớn cho tôi, và tôi lấy làm phấn khởi khi có dịp đóng góp vào kế hoạch canh tân Quê Mẹ.”. Động lực đầu tiên xúi ông tiếp tay cho Trung quốc là “nghĩa vụ của một con dân”. Bà Ling phải thú nhận: “Nhà tôi rất trung thành với tổ quốc. Ông ấy có một tấm lòng yêu nước rất lớn.”
Chen và Chung tiếp tục trao đổi thư từ với nhau nhiều lần. Chen hỏi ông Chung về các loại máy bay, và cách thiết kế trực thăng, và có lẽ ông Chung muốn khoe khoang kiến thức của mình, lại bàn luôn sang chương trình phi thuyền con thoi. Chen phải nhắc nhở ông Chung: “Tôi vẫn mong được ông chỉ trình bầy về các loại máy bay qui ước thôi.”. Sau đó để tránh khiến ông Chung bị giảm bớt lòng hăng say, Chen hứa việc trình bầy về phi thuyền con thoi cũng sẽ được đưa vào nghị trình.
CUỐI THÁNG SÁU NẮM 1985, ông Chung, bà Ling bay đi Trung quốc cùng với hai cậu con trai ở tuổi teenager. Trong lúc cậu Shane và Jeffrey theo học lớp dạy Hoa Văn ở Bắc Kinh, ông Chung và bà Ling đi thăm khoảng hơn một chục thành phố khác nhau cùng với các đoàn du lịch. Họ ghé thăm nhiều nơí chế tạo máy bay ở tỉnh Nanchang , Chengdu và Xi’an . Bộ hàng không sắp xếp, và trả hết phi cho những chuyến đi này. Ông Chung còn là diễn giả trình bầy những vấn đề kỹ thuật cho mọi người nghe. Chương trình diễn thuyết của ông được các đại học lớn, và cơ xưởng kỹ nghệ đài thọ. Ông Chung dùng phim ảnh, tài liệu mang từ Mỹ sang để trình bầy về cách thiết kế phi thuyền của Cơ Quan Không Gian Hoa Kỳ (NASA), làm cách nào để đưa phi thuyền con thoi trở về trái đất an toàn. Ông Chung nhận thấy những kỷ thuật ở Bắc Kinh quá lỗi thời, có từ thập niên 1950’s và chưa được canh tân, cập nhật.
Chuyến đi thăm Trung quốc lần này là chuyến đi đầu tiên trong đời ông Chung ở tuổi chững chạc. Nó để lại trong tâm khảm ông rất nhiều dư âm quan trọng cả về mặt chuyên môn, cũng như tình cảm cá nhân. Xen vào giữa những buổi diễn thuyết ở các xí nghiệp, ông Chung còn được Bộ Hàng Không sắp xếp cho đi thăm nhiều thắng cảnh đẹp của đất nước Trung Hoa. Đó là những nơi khi còn nhỏ, cậu bé Chung hằng ước mơ đượcđi thăm. Ví dụ như Tượng Phật vĩ đại xây trên núi Leshan, và Chuà Dyan ở thành phố Xi’an . Trong lúc lái xe đi qua nhiều làng mạc, ông Chung trông thấy dân quê Trung quốc hái sen từ vũng sình lầy. Bà Ling kể lại cho tôi rằng khi ông Chung ngồi toạ thiền, ông đã hồi tưởng và thấy được cuộc đời của ông ở kiếp trước, đó là cuộc đời của một nhà sư trong ngôi chùa Trung Hoa.
Vào cuối mùa hè, ông Chung đem về Mỹ những món quà lưu niệm nhỏ: chiếc kim cài lên cà vạt do hãng chế tạo máy bay tặng, một vật trang sức cho cà vạt khác do Trung quốc Học Viện Công Nghệ làm riêng cho ông, kèm theo một bảng vấn lục dài tám trang. Đó là danh sách những điểm kỹ thuật mà các kỹ sư hàng không ở Nanchang muốn tìm hiểu. Ông Chung để ra vài tháng nghiên cứu sách vở để trả lời những câu hỏi mà các kỹ sư yêu cầu. Đến tháng 12, đích thân ông Chung lái xe lên Lãnh sự quán Trung quốc ở San Francisco để gửi tài liệu đi Nanchang qua thể thức gửi hàng của giới ngoại giao. Những thứ ông Chung gửi đi, nếu giới chức Hoa Kỳ biết được chắc hẳn họ phải kinh hoàng. Toàn là những tài liệu mật có giá trị dầy khoảng bảy cuốn sách cẩm nang về kỹ thuật từ tài liệu công nghệ của công ty Rockwell cho đến cách thiết kế oanh tạc cơ B-1.




B1, phi cơ chiến lược của Hoa Kỳ do hãng Rockwell chế tạo (B1= Supersonic Strategic bomber)
Ông Moberly nói với tôi: “Tài liệu ông Chung gửi đi chính là Toa Thuốc Thánh giúp cho công ty sản xuất máy bay Trung quốc có thể làm được những gì Hoa Kỳ đang làm.”. Ông Chung đã đem cho đi những kiến thức kỹ thuật mà công ty Rockwell phải mất hàng chục triệu đô la, và nhiều năm mới sáng chế ra được kỹ thuật đó. Bà Ling thì cho rằng chẳng có gì đáng kể, bạn bè giúp nhau là chuyện thường. Bà nói với tôi: “Toàn bộ quan hệ này chỉ mang tính chất hữu nghị. Ở Trung quốc, mọi người đều sẵn lòng giúp đỡ nhau. Nếu bạn là kỹ sư, thì bạn nên làm những gì bạn có thể làm được để giúp cho tổ quốc của bạn.”
Trong khoảng thời gian một năm rưỡi sau, gia đình họ Chung mua thêm nhiều tài sản điạ ốc. Tháng 10 năm 1986, họ mua một căn nhà ở vùng Cypress , California. Năm tháng sau, họ trả bằng tiền mặt khoảng 600,000 để mua một căn nhà rộng một mẫu đất ở Orange, và còn có dư tiền để xây lại căn nhà từ đầu. Đặc biệt là gia đình này không thích xe xua, đi xe đắt tiền hay áo quần sang trọng. Vì thế hàng xóm không ai để ý đến sự giầu có của họ.
Gu Wei Hao thỉnh thoảng ghé thăm gia đình, và hai vợ chồng ông Chung đưa quan chức này đi chơi nhiều nơi, như Disneyland , hay ra biển hóng mát. Phụ cấp công tác ngoại giao của Gu bèo lắm, chỉ được có $4 đô la một ngày. Vì thế phần lớn vợ chồng ông Chung trả hết chi phí đi chơi cho Gu. Nếu không hẳn là Gu phải có một qũi đen nào đó để cho y tiêu dùng.
Gia đình ông Chung dọn về căn nhà mới vào năm 1989. Chiều tối, ông Chung có cái thú tiêu khiển lấy ống viễn vọng kính nghiên cứu vì sao trên trời. Ông thích nghiên cứu bản đồ thiên văn học của Trung Hoa ngày xưa, xác định các chùm sao tinh tú. Bà Ling là người ưa thích mỹ thuật, hội hoạ. Bà lấy thêm văn bằng cao học mỹ thuật của trường California State University, Long Beach. Bà biến cái garage nhà bà thành một studio cho bà vẽ tranh. Bà cũng nhận dạy hội hoạ cho trường đại học cộng đồng ở điạ phương. Bà thích dạy về trường phái tân ấn tượng, trừu tượng, và tĩnh vật thịnh hành ở Hoa Kỳ và Âu châu vào cuối thập niên1970’s. Một đồng nghiệp trong trường nói với chúng tôi: “Bà có một số môn đệ rất thích theo học với bà, họ mê say lối dạy của bà.”.
Vào năm 1998, tức là hai năm sau khi hãng Boeing mua lại hãng Rockwell, ban quản trị mới quyết định rời văn phòng đi nơi khác. Nhân viên được chỉ thị phải chuẩn bị thu dọn đồ đạc.
Những tài liệu tham khảo cần giữ được tập trung vào các thùng để sẵn, và công ty vận chuyển sẽ đem đi. Những thứ nào cần vứt đi, cứ bỏ vào bao rác, sẽ có người đến đem đi đốt bỏ.
Trong vòng vài tuần lễ sau đó, ông Chung đem về nhà hàng chục thùng tài liệu. Ông dấu những thùng tài liệu này trên những kệ sách trong căn hầm sau nhà. Những người quen ông ở Trung quốc nhờ ông thu thập bất cứ tài liệu kỹ thuật nào hữu ích. Bây giờ thì ông có thể có đủ tài liệu để cung cấp cho họ trong nhiều năm chưa hết.
Năm 2002, khi ông Chung sắp đến tuổi về hưu. Ông vào sở liên tục in rất nhiều tài liệu gốc của công ty Boeing ra. Trên mỗi bản in ra, ông ta phải mừng chất keo mầu trắng để xoá lời cảnh cáo, cấm không được chia sẻ tin tức trong tài liệu với người ngoài công ty. Ông cũng cẩn thận ghi lại ngày tháng sao chụp, và xoá bỏ tên nhân viên chụp bản sao. Ông làm photocopy những tài liệu này, bản chính do ông giữ, bản chụp hình ông gửi sang Trung quốc. Khối lượng tài liệu in và sao chụp rất lớn, ông Moberly nói với tôi: “Ông Chung chắc phải dùng hàng trăm bình nước tẩy xoá máu trắng.”
NĂM 2007, TRONG PHIÊN TOÀ LIÊN BANG KÉO DÀI 6 TUẦN LỄ, tại Santa Ana, California, công tố viên trình bầy lý luận truy tố Chi Mak là một tên gián điệp làm việc cho chính quyền Trung quốc. Họ tố cáo những tài liệu do Chi Mak thu thập đã giúp Trung quốc làm được hệ thống radar Aegis. Hệ thống đó giúp bảo vệ các tầu chiến Trung quốc. Bồi thẩm đoàn quyết định kết án Mak về tội làm gián điệp cho chính phủ nước ngoài, và hắn bị tuyên án 24 năm tù, trong nhà tù liên bang. Đây là một bản án nặng nhất dành cho một tên gián điệp cho Trung cộng làm việc tại Hoa Kỳ.
Một người em trai của Mak, cùng bà vợ của y, bị cảnh sát phi trường quốc tế Los Angeles bắt giữ cùng với một cuốn CD chứa đựng số tài liệu mật. Tuy nhiên, trong trường hợp của ông Chung, các điều tra viên gặp phải điểm khó khăn khi truy tố. Trong nhiều tháng, thám tử của FBI nghiên cứu hơn ba trăm ngàn trang giấy tịch thu ở nhà ông Chung, nhưng không có một tài liệu nào được gọi là tài liệu mật. Ông Chung không thể bị kết án là đã tiết lộ bí mật quốc gia cho nước ngoài. Khi biện lý cuộc chứng minh ông Chung đã chia sẻ tài liệu mật với viên chức cao cấp Trung quốc vào thập niên 1980, đến nay đã quá hạn kỳ truy tố 5 năm, nên những vi nếu có xảy ra cũng không còn đầy đủ hiệu lực dùng để kết án. Ông Moberly nói: “Rõ rệt là ông Chung đã làm điều sai quấy. Nhưng chúng tôi phải tìm ra luật lệ nào mà ông Chung đã vi phạm, để truy tố ông ta.”
Trong lúc xem xét qua những luật lệ liên bang, ông Moberly bắt gặp một đoạn văn mang tựa đề: “Economic Espionage” (Làm Gián Điệp Kinh Tế) đã được Quốc Hội thông qua và làm thành luật Economic Espionage Act năm 1996. Ông Moberly nhớ là mình đã học qua lớp học dài khoảng 30 phút trong chương trình huấn luyện phản gián. Lớp học ngắn quá, và ít có ai bị truy tố về tội làm gián điệp kinh tế, nên không ai để ý đến đạo luật này.
Nội dung của đạo luật nói rằng kẻ làm gián điệp kinh tế là người đã “lấy đi, mang theo, cất dấu” hay “sử dụng không đúng cách” những bí mật mậu dịch với chủ đích trợ giúp chính quyền nước ngoài. Đối với trường hợp của ông Chung, công tốviên không cần phải chứng minh ông Chung chuyển giao tài liệu sang Trung Hoa trong năm năm qua. Chỉ riêng việc ông cất dấu bí mật mậu dịch trong căn hầm đủ để kết tội ông.
Năm 2009, vụ án liên quan đến ông Chung được đem ra xét xử. Chánh án kỳ này cũng chính là thẩm phán Cormac J. Carney, người từng xử Chi Mak trước đây. Trong phần lấy lời khai, chuyên viên tình báo FBI, Ronald Guerin, trình bầy kỹ thuật ngành tình báo Trung quốc tuyển người làm gián điệp cho họ. Ông Guerin phân tích:“Tình báo Trung quốc cố tình khai thác khía cạnh Trung Hoa nơi người làm mật báo viên. Họ dụ dỗ những người này bảo rằng họ cứ chịu khó làm gián điệp cho Trung quốc đi, nó chẳng hại gì Hoa Kỳ cả, chỉ giúp cho Trung quốc thôi.”. “Bạn chỉ cần vỗ vai người Hoa, và bảo anh ta rằng anh cần giúp đỡ cho Quê Mẹ, cho đất nước của anh.. Và sau đó, anh cho người mật báo bằng khen, bằng tưởng lục…, hay cho người ấy một số tiền.”. Trong trường hợp của ông Chung, rõ rệt là ngành tình báo Trung quốc đã dùng nghệ thuật ngon ngọt nói nịnh ông Chung, và đem lại hiệu quả tốt. Việc truy tố ông Chung không hề có bằng cớ về số tiền trao đổi để lấy tin tức.
Phe bào chữa cho ông Chung lý luận rằng quả thực ông Chung đã làm một số việc “ngu dại trong quá khứ”, nhưng từ chối không nhận tội chia sẻ tin tức mật. Ông ta chỉ là một kẻ tàng trữ tin tức vào hàng tép riu. Ngay lập tức, ông Greg Staples, công tố viên trưởng, phản bác liền: “Hắn không phải là loại tép riu. Hắn là tên tàng trữ tin tức khổng lồ, ghê gớm, và đáng sợ.”
Ông Chung trở thành người Mỹ đầu tiên bị kết tội làm gián điệp kinh tế. Ông bị kết án 15 năm 9 tháng tù. Từ sau vụ này, còn có bốn người khác bị công tố viên liên bang truy tố về tội làm gián điệp kinh tế. Tổng cộng có năm người bị kết án với tội danh này.
Sau này, ông Moberley kể cho biết trong thời gian vụ xử tiếp diễn, có lần ông Chung xác nhận ông trao tài liệu mật, và được nhận tiền thưởng. Để bảo vệ bí mật cho cơ quan FBI, ông Chung không dám công khai nói trước toà về trường hợp ông được trả tiền. Những lời cáo buộc trùng hợp với nội dung lá thư mà Gu Wei Hao viết cho ông Chung, hứa sẽ trả bằng tiền mặt cho ông Chung. Ngoài ra, trương mục ngân hàng của ông Chung tương đối không có nhiều tiền, và đồng lương của ông ở Rockwell không quá lớn, khoảng $60,000 một năm. Vậy mà không hiểu nhờ đâu mà ông Chung có thể làm chủ một garage sửa xe, một chung cư ba căn apartment cho thuê, và làm chủ hai căn nhà cùng một lúc. Ông Moberly vẫn nói với tôi rằng:“Tôi không bao giờ tin ông Chung làm chuyện này để lấy tiền.”. Rất có thể chính quyền Trung quốc cho ông Chung vài chục ngàn như là một số tiền tưởng thưởng, khích lệ mà thôi.











ÔNG CHUNG KHÔNG BAO GIỜ CHO PHÉP TÔI VÀO THĂM ÔNG TRONG NHÀ TÙ, nhưng bà Ling thì miễn cưỡng trả lời điện thoại của tôi. Bà không bị truy tố về tội hình. Một buổi chiều, tôi đậu xe ở cuối đường Grovewood Lane, đi bộ lại căn nhà ông bà Chung có cổng sắt.
Chuông bấm ở cổng đầy máng nhện bám, ám chỉ rất hiếm khi họ có khách đến nhà. Sân cỏ trước nhà mọc đầy cỏ dại, cái xe cút kít để hốt lá cây khô, nằm chỏng gọngở một góc, không có ai dùng đến nó từ nhiều năm nay.
Khi tôi bấm chuông cửa, bà Ling Chung bước ra, dơ tay vẫy từ bực thềm trước nhà. Bà mặc bộ quần áo ở nhà mầu xanh lá cây, tóc bà bơ phờ, không trang điểm. Bà mời tôi ngồi ở ghế sa lông mầu trắng trong phòng khách. Nắng chiều lọt vào khe cửa làm loé lên vài đường nắng sáng trên nền thảm.
Bà Ling rót ra một ly nước, mời tôi, và ngồi đối diện với tôi. Với nụ cười chán nản trên môi, bà kể cho tôi kỷ niệm hồi hai vợ chồng bà xin vào quốc tịch Mỹ. Trong mục câu hỏi “Liệu ông có sẵn sàng cầm súng bảo vệ Hoa Kỳ hay không?”. Ông Chung bỏ trống, không trả lời. Người phỏng vấn hỏi ông Chung: “Ông có sẵn sàng chiến đấu chống lại Trung quốc trong trường hợp xảy ra chiến tranh hay không?”. Bà Ling nhớ rõ câu trả lời của ông Chung là: “Nếu việc này xảy ra, tôi sẽ lấy khẩu súng tự bắn vào mình trước.”.
Chúng tôi bước bên nhau, đi từ phòng khách sang xưởng vẽ của bà. Phòng vẽ tranh trông ra sân trước. Một bức tranh trừu tượng khổ lớn đang để trên nền nhà, tưạ vào tường. Bà Ling nói với tôi rằng từ nhiều năm nay, bà tiếp tục vẽ tranh. Bà chỉ tay vềphía một bức tranh trông như thập tự giá mầu violet, trên một chân trời tím. Bà nói tựa đề bức tranh này là “45436-112”. Đó là con số tù của chồng bà đang đeo khi thụ án tại một nhà tù liên bang, không bị kiểm soát chặt chẽ. Nhà tù này ởthành phố Butner, tiểu bang North Carolina . Vài tháng bà đi thăm ông một lần.
Nước mắt ứa trên khoé mắt của bà. Bà tâm sự với tôi: “Ngày đầu tiên chúng tôi gặp nhau, là chúng tôi quyết định sẽ lấy nhau. Vợ chồng chúng tôi sống rất hoà thuận, hạnh phúc. Ngay cả khi chúng tôi trên 60, bạn bè thường nói chúng tôi trông như cặp tình nhân ở thuở sinh viên.”.
Khi ông Chung còn làm cho hãng Boeing, thỉnh thoảng ông ngủ trưa trong hãng, ông choàng tỉnh dậy vì nằm mơ thấy bà Ling đứng cạnh hát cho ông nghe. Ông hay cằn nhằn: “Tôi đã nói với bà nhiều lần, đừng đứng cạnh tôi mà hát, tôi ngủ không được.”. Trong đầu ông lúc nào cũng nghĩ rằng tôi đang hát.
Tôi hỏi bà Ling liệu ông Chung có thuỷ chung với nước Trung Hoa nhiều như ông chung thủy với bà? Phải chăng các quan chức Trung quốc đã lợi dụng tấm lòng chung thủy của ông Chung? Bà lặng thinh, không trả lời. Tôi hỏi thêm theo bà nghĩ ông Chung có vô tội không? Bà nói: “Tôi không thể trả lời câu hỏi này được.”
Bà cho rằng các công tố viên đã suy nghĩ nông cạn, khi tìm hiểu động lực nào đã khiến ông Chung làm chuyện này. Theo bà: “Những công tố viên này chỉ nghĩ một cách phiến diện, lướt qua trên bề mặt của vấn đề.” Sau đó, bà phân tích kỹ hơn cho tôi nghe: Chủ đích của ông Chung là giúp Trung quốc, và không có ý định làm hại Hoa Kỳ. Bà nói thêm: “Khi ông kết bạn với một người, người ấy nhờ ông giúp đỡ, nếu ông là kỹ sư, hay hoạ sĩ. Ông biết gì thì giúp bạn ông trong khả năng của mình. Chỉ có thế thôi.”
Trước khi ra về, bà Ling cho tôi xem một tấm giấy dài, dán trên tường, ngay cửa bước vào phòng vẽ tranh. Trên tấm giấy viết những hàng chữa Tầu rất đẹp: Đó là một số điều người Phật Tử nên làm. Chính ông Chung đã chép tay những điều này cho bà Ling. Tôi thắc mắc không hiểu những điều Đức Phật dạy có giúp gì cho ông Chung trong việc giải quyết xung đột giữa hai chọn lựa ông nên trung thành với Hoa Kỳ hay với Trung quốc. Tôi hỏi bà Ling xem bà có thể cùng một lúc duy trì thái độ của hai con người, với hai quốc tịch. Mắt bà sáng hẳn lên, bà nói: “Tôi là một người Hoa, Tôi cũng là một người Mỹ. Điều này thật là đẹp. Việc gì cứ phải biến nó thành hai thực thể kình chống nhau?”./.
Bài phóng sự điều tra của Yudhijist Bhattacharjee trên The New Yorker 5/5/14
Nguyễn Minh Tâm dịch