Thứ Hai, 27 tháng 6, 2016

ƯỚC MƠ TRẺ MÃI KHÔNG GIÀ ĐÃ THÀNH HIỆN THỰC?


TRẺ LẠI NHỜ LIỆU PHÁP GEN



Elizabeth Parrish ,CEO công ty Bioviva USA, đã trở thành người đầu tiên đươc làm trẻ lại nhờ liệu pháp gen (gene therapy) -do chính công ty bà thí nghiêm thành công- nhằm chuyển đổi tế bào già trong cơ thể người thành tế bào trẻ, quay ngược đồng hồ nội bộ trong các tế bào, tương đương với nhiều năm cuộc đời con người".
 

 
 Bà Elizabeth Parrish, CEO của công ty Bioviva USA, đã trở thành người đầu tiên đươc làm trẻ lại nhờ liệu pháp gen (gene therapy) sau khi công ty của bà đã thành công trong việc đảo nghịch (reverse) sự rút ngắn bình thường trong 20 năm của telomere.

Điểm số telomere (Telomere score) được tính theo chiều dài telomere của các tế bào máu trắng (T-lymphocytes). Kết quả này dựa vào chiều dài trung bình của telomere T-lymphocyte so sánh với chiều dài telomere của dân chúng Mỹ thuộc cùng lứa tuổi. Điểm số telomere càng cao thì các tế bào càng "trẻ"


Tháng chín năm 2015, bà Elizabeth Parrish lúc đó 44 tuổi đã trải qua  hai cuộc thử nghiệm liệu pháp gen của công ty bà: một thử nghiêm bảo vệ chống lại sự mất khối lượng cơ vì tuổi tác, một thử nghiệm chống lại sư suy giảm tế bào gốc ( stem cell depletion) chịu trách nhiệm về những bệnh tật và suy nhược (infirmities) liên quan tới tuổi tác

Nguyên thủy các thử nghiệm  trên chỉ có muc đích chứng tỏ sự an toàn cũa thế hệ sau cùng của các liệu pháp gen. Nhưng , nếu các dự liệu ban đầu chính xác , thì đây lại là thành công đầu tiên của thế giới trong việc  kéo dài telomere qua liệu pháp gen trên con người. Liệu pháp gen này thực ra đã được sử dụng để kéo dài telomere  trong các tế bào nuôi cấy và trên chuột, nhưng chưa bao giở đươc thực hiện trên một trên người bệnh nào.

Telomere là những phân khúc ngắn DNA bọc các đầu của mỗi một nhiễm sắc thể ( chromosome)  giống như những cái đệm (buffers) chống hao mòn và rách. Telemore ngắn lại mỗi  khi tế bào phân chia và cuối cùng sẽ trở thành quá ngắn để bảo vệ chromsome làm cho sự hoạt động cũa tế bào bị trục trặc và cơ thể già đi 

Vào tháng chín năm 2015, phòng thí nghiệm lâm sàng chuyên ngành SpectraCell  đã lấy dữ liệu về telomere cũa các tế bào máu trắng của bà Parrish ngay trước khi làm các thử nghiệm nói trên đây, và họ đã phát hiện là các telomere của bà Parrish ngắn một cách bất thường đối với tuổi của bà ấy, điều này sẽ làm cho bà Parrish  dễ bị mắc các bệnh liên quan tới tuổi tác sớm hơn

Vào tháng ba năm 2016, SpectraCell đã lập lại thí nghiệm như trên và đã tìm thấy là các telomere của bà Parrish đã dài thêm được một khoảng tương đương với 20 năm, từ 6.71kb lên tới 7.33kb. Như vậy có nghĩa là các tế bào máu trắng ( leukocytes) của bà Parrish đã trẻ lại về mặt sinh học.                Các phát hiện này đã được kiểm chứng độc lập bởi công ty bất vụ lợi HEALS (HEalthy Life Extension Company) có trụ sở đặt tại Brussels (Bỉ) và bởi Biogerontology Research Foundation một tổ chức từ thiện nhắm chống lại các bệnh về tuổi già có trụ sở đặt tại Anh

Bà Parrish đã chia sẻ ý nghĩ cùa mình như sau" Các liệu pháp hiện nay chỉ đem lại những lợi ích cận biên (marginal benefits) cho những người bị các bệnh do lão hóa. Thêm vào đó thay đổi nếp sống chĩ có ảnh hưởng giới hạn lên việc chữa trị các bệnh này. Các tiến bộ về kỹ thuật sinh học (biotechnology) là giải phát tốt nhất, và nếu các kết quã của chúng tôi đủ chính xác thì chúng tôi đã tạo nên lịch sử"

Công ty Bioviva sẽ tiếp tục theo dõi máu của bà Parrish trong những tháng và năm tới. Trong khi đó, BioVova củng sẽ thử nghiệm những liệu pháp gene mới và những phối hợp giữa các liệu pháp gen để khôi phục thiệt hại gây ra bởi tuổi già. Chủng ta chỉ còn chờ xem liêu sự thảnh công trên các leucocyte có thể nới rộng sang các mô và các bộ phận khác không và có thể đến với  các bệnh nhân tương lai không. Tất cả các giải đáp được trông đợi  ở các tế bào cũa bà Parish.



---------------------------------------------------------

 Ghi chú

 

Gen là gì?



Các gen tạo nên DNA. Mỗi NST chứa nhiều gen.

Gen (gene) là đơn vị cấu trúc và chức năng cơ bản của di truyền. Gen, một đoạn của DNA, hoạt động điều khiển hình thành những phân tử gọi là protein. Ở người, chiều dài gen có thể thay đổi từ vài trăm base đến hơn 2 triệu base. Dự án giải mã hệ gen người (The Human Genome Project) ước đoán con người có khoảng 20,000 đến 25,000 gen.

Mỗi cá thể có hai bản sao của một gen, một bản từ bố và bản còn lại từ mẹ. Hầu hết các gen là như nhau ở mọi người, nhưng có một số ít gen (ít hơn 1% tổng số) hơi khác nhau giữa mỗi người. Alen là các dạng của cùng một gen với những khác biệt nhỏ trong trình tự base DNA. Những khác biệt nhỏ này tạo nên nét đặc trưng của mỗi người.


DNA là gì?







DNA là một mạch xoắn kép tạo nên bởi các cặp base liên kết với bộ khung đường-phosphate

DNA hay deoxyribonucleic acid là nguyên liệu di truyền ở người và hầu hết tất cả cơ thể sống. Mỗi tế bào người chứa cùng một lượng DNA. Hầu hết DNA nằm trong nhân ( gọi là DNA nhân), một lượng nhỏ DNA có thể được tìm thấy ở ti thể ( gọi là DNA ti thể hay mtDNA )

Thông tin trong DNA được lưu trữ dưới dạng mã hình thành từ bốn chất hóa học base: adenine (A), guanine (G), cytosine (C), and thymine (T). DNA người gồm 3 nghìn tỉ cặp base, và hơn 99% số cặp base là giống nhau ở tất cả mọi người.

Mỗi base DNA bắt cặp với base khác, A với T, G với C, tạo ra dạng đơn vị là cặp base. Mỗi base liên kết với một phân tử đường và một phân tử phosphate. Chúng đi chung với nhau gọi là một nucleotide. Các nucleotide được sắp xếp trong hai mạch dài dưới dạng xoắn ốc gọi là mạch xoắn kép. Cấu trúc mạch xoắn kép hơi giống cái thang, với mỗi cặp base là thanh ngang của cái thang, các phân tử đường và phosphate là khung đứng của thang.

Một đặc tính quan trọng của DNA là nó có thể tự nhân đôi, tạo ra nhiều bản sao của chính nó. Mỗi mạch DNA trong mạch xoắn kép có thể làm khuôn mẫu cho nhân đôi trình tự base. Điều này cực kì quan trọng khi tế bào phân chia do mỗi tế bào mới cần một bản sao chính xác của DNA hiện diện trong tế bào cũ.


Nhiễm sắc thể là gì?



DNA và protein histone được quấn lại trong một cấu trúc gọi là NST.

Trong nhân tế bào, phân tử DNA được cuộn lại dưới dạng cấu trúc nhỏ như sợi chỉ gọi là NST. Mõi NST hình thành do DNA quấn chặt lấy cột chống đỡ là phân tử protein histone. NST không dễ dàng thấy được trong nhân tế bào- ngay cả dưới kính hiển vi - khi tê bào không phân chia. Tuy nhiên, DNA hình thành nên NST bắt đầu xiết chặt lại lúc phân bào và có thể nhìn thấy dưới kính hiển vi. Hầu hết những gì các nhà nghiên cứu biết về NST đều thông qua quan sát NST lúc phân bào.

Mỗi NST có một điểm co thắt gọi là tâm động, phân chia NST thành hai cánh, cánh ngắn của NST gọi là " cánh p". Cánh dài của NST gọi là "cánh q". Vị trí tâm động trên NST cho biết đặc tính hình dạng của NST, và có thể được sử dụng để mô tả vị trí những gen chuyên biệt.

Telomere là gì?



Telomere là những trình tự lặp lại của DNA ở các đầu mút của nhiễm sắc thể. Mặc dù cũng được cấu thành từ các đơn phân nucleotide, nhưng telomere không mã hóa cho protein. Ngoài chức năng trên, các telomere còn là các bộ đệm dùng một lần tại các đầu của nhiễm sắc thể mà được cắt ngắn quá trình phân chia tế bào; sự hiện diện của chúng để bảo vệ các gen trước khi chúng trên nhiễm sắc thể bị cắt ngắn để thay thế. Các telomere trở nên ngắn hơn sau mỗi lần tái tạo DNA và cuối cùng mất khả năng bảo vệ DNA khỏi quá trình đột phá hủy và đột biến, khiến con người già đi. Ở những người trẻ tuổi, các telomere có chiều dài khoảng từ 8.000 đến 10.000 phân tử hữu cơ



Tóm lại chức năng của telomere là:



  • Giúp tế bào phân chia mà không làm mất gene. Nếu không có telomere, những gene cấu trúc quy định những tính trạng của cơ thể sẽ bị rút ngắn dần sau mỗi lần phân bào.
  • Giữ cho các nhiễm sắc thể không bị dung hợp với nhau hoặc tự dung hợp ở những vị trí tận cùng. Chức năng này có được do sự hình thành cấu trúc kẹp tóc trong telomere: phần DNA tận cùng cuộn xắn lại, giúp cho những phần DNA mạch đơn không thể kết cặp bổ sung một cách ngẫu nhiên với nhau.
  • Khi đầu tận cùng của nhiễm sắc thể mất telomere, tế bào sẽ nhận diện đầu tận cùng có vẻ như bị sai hỏng (không có sự lặp lại của trình tự TTAGGG) và tiến hành các hoạt động sửa sai phần mà thực ra không có sự sai sót nào. Kết quả có thể làm dừng quá trình tự nhân đôi, thậm chí gây chết.

Thứ Sáu, 24 tháng 6, 2016

TRUNG QUỐC SẼ TẤN CÔNG VIỆT NAM NHƯ THẾ NÀO?

(*) Xin ghi rõ hơn trước khi đọc bài này là NẾU TQ có đánh VN thì điều này sẽ xảy ra chứ KHÔNG khẳng định là TQ sẽ đánh VN. Đây là tài liệu đưa ra để nhằm đề phòng cho hai chữ "NẾU CÓ", dù sao biết trước để đề phòng thì vẫn tốt hơn.
Đây là nghiên cứu mà Thùy Trang theo dõi TQ đã 6 năm nay. Trung Quốc đánh các đảo ngoài Trường Sa thì quá dễ, mình không bàn chuyện này.
Trung Quốc không đánh Việt Nam theo kiểu 1979 là tràn quân từ biên giới phía Bắc Xuống nữa.
Vào năm 2012, Quốc Phòng Trung Quốc bàn họp đổi chiến lược, chiến thuật để đánh VN và Đài Loan bằng cách đánh nào cho hiệu quả. Nhiều tài liệu Thùy Trang đọc được từ anh Lớn là Trung Quốc đã và đang hiện đại hóa binh chủng nhảy dù.
Trước kia Trung Quốc rất yếu về nhảy dù, nhưng từ năm 2012 tới nay, Trung Quốc huấn luyện và tuyển lính dù rất nhiều. TQ hiện đang có là một Binh Đoàn Nhảy Dù (Binh Đoàn 15) Binh Đoàn này bao gồm 3 Sư Đoàn dù 43, 44, 45.
Tổng số lính dù của TQ thuộc Binh Đoàn thứ 15, bao gồm 3 Sư Đoàn có 30.000 quân, tuy nhiên con số lực lượng Dân Quân Dù đã tới con số 20.000 quân, do đó con số chính thức phải là 50.000 quân.
Trung Quốc sẽ sử dụng các loại máy bay nhằm chuyển quân nhảy dù nhanh chóng để đánh úp như Yu-,Yu-8, Mi-17, Mi-8, S-70C, Z-8 và trực thăng vận Z9 v.v...
Theo tài liệu thì "TRƯỚC KHI QUÂN CHÍNH QUI TIẾN VÀO" thì lính Dù Trung Quốc sẽ thả xuống 2 khu vực chính là Thanh Hóa và Hà Tĩnh để cắt đứt đường tiếp viện cho Miền Bắc. Các lính dù này sẽ được Hải Quân TQ yểm trợ từ phía ngoài biển, đồng thời Trung Quốc sẽ chiếm các bờ biển từ Thanh Hóa tới Hà Tĩnh để mở đường rút lui cho quân dù. Nếu đường biển kẹt thì vượt sang Lào hoặc Cam Bốt.
Lệnh của lính dù TQ là khi nhảy xuống sẽ bắn giết tất cả người dân VN nào mà chúng nó nhìn thấy. Nếu không biết trước chuyện này thì máu người VN sẽ chảy thành sông.
Khi có chiến tranh thì Hải Quân Trung Quốc sẽ bắn pháo dọc theo bờ biển Thanh Hóa & Hà Tĩnh để phá bãi mìn nếu có. Sau khi bắn xong thì linh dù TQ sẽ đổ bộ gần bãi biển để tiến vào cắt đứt Quốc Lộ thành 2 đoạn.
Phía Bắc thì Quân Trung Quốc sẽ tiến qua Ải Nam Quan, Cao Bằng, Lạng Sơn, Móng Cái ... sử dụng nghi binh nhằm cầm chân lực lượng quân đội VN chứ không đánh bằng ngả này.
(*) Điều cần chú ý là đợt nhảy dù đầu tiên xuống đất Việt Nam, lính Trung Quốc sẽ mặc đồ (hóa trang) Bộ Đội, với đầy đủ Nón Cối và súng AK, dẫn theo người nói tiếng Bắc để tiến vào ... Đừng nhầm là Bộ Đội nhé vì trên vai chúng đeo vải vàng. Đó là những gì tài liệu ghi lại.
Thùy Trang biết trước là khi đưa ra ánh sáng chuyện này, TQ sẽ đổi chiến thuật, tuy nhiên điều này sẽ gây khó khăn cho bọn Khựa vì mình biết rõ kế hoạch của chúng.
Face Nguyễn Thùy Trang

TỬ HÌNH KHỦNG BỐ VIỆT CỘNG TRẦN VĂN ĐANG TẠI PHÁP TRƯỜNG CÁT SAIGON NGÀY 22.6/1965.





Mời quý vị đọc bài viết này của Luật Sư Nguyễn Văn Chức người được luật sư đoàn Sài Gòn chỉ định biện hộ (thày cãi) cho Trần Văn Đang đã kể lại sự vụ của y như dưới đây để biết thêm về "Anh hùng Nguyễn Văn Trổi" của việt cộng "anh hùng"như thế nào.
Chi tiết vụ án:
" Tôi về đến nhà, đã thấy chiếc xe mô tô đen của trung sĩ Ân đỗ trong sân. Ân giơ tay chào, đưa cho tôi một phong thư mầu vàng của tòa án Mặt Trận, và yêu cầu tôi đọc ngay. Phong thư đóng dấu " tối mật ". Tôi xé ra. Bức thư bên trong chỉ vỏn vẹn mấy dòng chữ đánh máy, nhưng tôi đọc rất lâu. Tôi ký sổ biên nhận, rồi bước vào trong nhà.

Ân có chào tôi hay không, và chiếc mô tô rồ máy bỏ đi lúc nào, tôi cũng không để ý. Tôi đang bận nghĩ đến hắn...
Cách đây khoảng 3 tháng, luật sư đoàn Sài Gòn chỉ định tôi biện hộ cho hắn trước tòa án Mặt Trận Vùng Ba Chiến Thuật. Hắn là tên đặc công bị bắt trong khi đặt chất nổ trên đường Tự Do. Hắn bị truy tố về hai tội phản nghịch và mưu sát; hắn có thể bị tử hình. Sau khi xem xong hồ sơ, tôi vào nhà lao để gặp hắn. Đây là một thói quen nghề nghiệp, và cũng là một cái thú. Nói chuyện với tử tù, thường phạm hay chính trị, đôi khi hấp dẫn hơn đọc một cuốn tiểu thuyết bán chạy nhất.
Tôi ngồi trong phòng đợi, nhìn ra vạt sân nắng bên kia chấn song sắt, rồi chợt nhớ đến Nguyễn Văn Trỗi. Trước đây, Trỗi cũng đã ngồi nói chuyện với tôi trong căn phòng này. Trỗi khóc như một đứa con nít, thỉnh thoảng đưa hai tay lên vắt nước mũi rồi quẹt xuống gầm bàn. Trỗi còn trẻ, mới 26 tuổi, nhưng trông già như người 40.
Hắn trẻ hơn Trỗi. Khi nhân viên nhà lao dẫn hắn đến gặp luật sư, miệng hắn đang còn nhai nhóp nhép, hình như là khô mực. Người hắn sặc mùi dầu khuynh diệp. Hắn khép nép ngồi xuống một cái ghế trước mặt, rồi chăm chú nhìn tôi. Lúc đó tôi mới để ý đến cái đầu húi cua và khuôn mặt non nớt của hắn. Khác hẳn với tấm hình đăng trên các báo: tóc dài bù xù, và mặt nhăn nheo như mang đầy thẹo. Tôi mỉm cười hỏi: " Em vừa húi tóc? ". Hắn gật. Tôi lại hỏi: " Em là Trần Văn Đang? ". Hắn gật.
- Em có bí danh Sáu Nhỏ, Hai Gà, Năm Lựu Đạn, có phải vậy không? Hắn gật.
- Em bị bắt khi đặt chất nổ trên đường Tự Do, có phải vậy không? Hắn gật.
Tôi nói cho hắn biết: tôi là luật sư sẽ cãi cho hắn trước tòa, hôm nay tôi vào nhà lao gặp hắn để tìm hiểu thêm về tội trạng của hắn. Và tôi yêu cầu hắn kể lại tất cả sự việc từ đầu đến cuối, để giúp tôi phối kiểm lại hồ sơ.
Hắn nhìn tập hồ sơ trên bàn, rồi nhìn ra ngoài sân rất lâu, như đang suy nghĩ lung về một vấn đề. Tôi cũng nhìn hắn và chợt thấy hắn dễ thương. Hắn vẫn ngồi im. Tôi hỏi: " Khi lấy cung, người ta có tra tấn và hăm dọa em không? ". Hắn mở to mắt nhìn tôi. Tôi lại dục: " Em nên kể lại tất cả sự việc, từ lúc được móc nối cho đến khi bị bắt, bị hỏi cung. Em kể lại hay không, đó là quyền của em. Em cũng có thể từ chối không nhận tôi là luật sư của em và chọn một luật sư khác. Đó là quyền của em ".
Hình như tôi còn nói nhiều nữa. Tôi muốn đến gần hắn, tôi muốn được " hân hạnh " nói chuyện với hắn.
Hắn nhìn tôi, tỏ vẻ dè dặt. Tôi đợi một lúc khá lâu, rồi lại hỏi: " Tất cả những điều em khai trong hồ sơ đều là sự thật, có phải vậy không? ". Hắn gật đầu một cách thản nhiên.
Bên ngoài vạt nắng đã thu hẹp lại ở góc tường bao quanh cái sân nhỏ. Tiếng người gọi đi thăm nuôi, tiếng quát tháo, tiếng chửi thề... đã bắt đầu thưa thớt. Tôi không đeo đồng hồ, và trong phòng cũng không có đồng hồ, nhưng tôi đoán lúc đó khoảng 4 giờ chiều, nghĩa là gần hết giờ thăm nuôi phạm nhân. Riêng tôi, vì là luật sư, tôi có thể nói chuyện với thân chủ cho đến 5 giờ chiều. Khổ một nỗi, thân chủ lại không muốn nói chuyện với luật sư. Tôi đành phải làm cái công việc bất đắc dĩ của nghề nghiệp, là tóm tắt hồ sơ và đọc những điểm quan trọng cho thân chủ nghe, để thân chủ hoặc xác nhận, hoặc phủ nhận.
Hồ sơ hắn dầy gần trăm trang đánh máy, gồm phúc trình của Công An và An Ninh Quân Đội. Cô thư ký của tôi đã chép độ 20 trang quan trọng nhất. Riêng tôi đã lận đận trọn một ngày ở tòa án Mặt Trận để đọc lại toàn bộ hồ sơ và ghi chú thêm. Lận đận như vậy, vì lương tâm nghề nghiệp, và cũng vì tò mò nghề nghiệp. Trong những vụ án chính trị lớn tại miền Nam, tôi từng tiêu hoang thì giờ tại tòa án, để đọc và suy nghĩ về những lời khai của các bị can. Nhờ đó, tôi đã biết được cái lý do sâu xa đã khiến văn hào Nhất Linh-Nguyễn Tường Tam uống thuốc độc tự vận, một ngày trước khi tòa xử.
Tôi giở hồ sơ hắn ra và bắt đầu đọc:
Hắn sinh tại Gò Dầu Hạ, bố vô danh. Mười lăm tuổi, hắn mồ côi mẹ và được người chú mang lên làm công cho một tiệm sửa xe Vespa tại đường Trương Minh Giảng-Sài Gòn. Trong thời gian sống ở Sài Gòn hắn làm quen với một tên Tư. Tên này " xây dựng " hắn, và gửi hắn vào bưng học tập. Bốn tháng sau, hắn trở về Sài Gòn hoạt động trong tổ đặc công của tên Tư. Một ngày trước khi bị bắt, hắn được tên Tư cho đi ăn uống tại một con hẻm đường Nguyễn Huệ. Sau bữa ăn, cả hai thả bộ ra đường Tự Do để quan sát địa điểm hành động. Đó là một cái " bar " Mỹ mà hắn đã từng đi ngang qua nhiều lần. Chiều hôm sau, một buổi chiều thứ Bẩy, tên Tư đem về hai cái bọc, mỗi cái đựng 10 kg thuốc nổ và bộ phận nổ chậm. Tên Tư gài bộ phận nổ chậm, rồi đặt cái bọc thứ nhất trong thùng một chiếc Vespa mầu xanh. Cái bọc thứ hai được đặt trong thùng một chiếc Vespa mầu trắng. Rồi cả hai cùng đi tới địa điểm hành động. Lúc đó, đồng hồ nhà tên Tư chỉ đúng 5 giờ 15 phút. Hắn cưỡi chiếc xe Vespa mầu xanh, tên Tư cưỡi chiếc xe mầu trắng, hai xe cách nhau khoảng 200 thước. Hắn có nhiệm vụ phá cái bar Mỹ đã quan sát chiều hôm trước. Còn tên Tư có nhiệm vụ phá cái bar khác gần khách sạn Eden Rock ở cuối đường Tự Do. Khoảng 15 phút sau, hắn tới cái bar Mỹ. Hắn ngừng xe lại, còn tên Tư tiếp tục đi về phía cuối đường Tự Do. Hắn xuống xe, nhấc chiếc Vespa lên lề đường, rồi dắt chiếc xe về phía cái bar Mỹ. Theo chỉ thị của tên Tư, hắn có nhiệm vụ đỗ chiếc xe Vespa trước cửa cái bar Mỹ rồi bỏ đi. Tên Tư cũng cho hắn biết: quả mìn sẽ nổ đúng 6 giờ. Hắn không đeo đồng hồ. Hắn biết chắc hắn còn nhiều thì giờ, ít nhất là 15 phút để thi hành phận sự. Hắn lấy chân đạp vào chiếc cần sắt của chiếc Vespa, kéo ngược chiếc Vespa lên và dựng chiếc Vespa ngay trước cửa bar. Hắn chưa kịp bỏ đi, thì người cảnh sát đứng bên kia đường thổi còi và ngoắc tay làm hiệu cho hắn phải dắt chiếc xe đi chỗ khác. Hắn đâm ra lúng túng, và trong lúc hạ cần xe xuống, hắn làm đổ chiếc Vespa. Hắn hì hục dựng chiếc Vespa lên. Người cảnh sát bên kia đường lại thổi còi. Hắn đâm ra hốt hoảng. Chiếc Vespa trở nên quá nặng đối với hắn. Hắn sẽ phải dựng chiếc xe lên. Hắn sẽ phải dắt chiếc xe đi chỗ khác. Và hắn chợt nhớ tới quả mìn. Quả mìn sẽ nổ banh xác hắn. Hắn không kịp nghĩ thêm gì nữa. Hắn rầm chạy. Hắn chạy ngược về phía tiệm sơn mài Thành Lễ. Mấy người cảnh sát bên kia đường rút súng, huýt còi đuổi theo. Và hắn đã bị bắt. Khoảng 20 phút sau, nhân viên cảnh sát lục soát chiếc xe Vespa và đã tìm thấy quả mìn. Theo phúc trình của cảnh sát, thì bộ phận nổ chậm bị hư, nếu không, quả mìn đã nổ vào lúc 5 giờ 50 phút, nghĩa là lúc hắn đang lúng túng với chiếc xe Vespa. Theo hồ sơ, hắn nhận hết tội, tại Công An cũng như tại An Ninh Quân Đội, và không một lần nào phản cung. Hắn có vợ và một đứa con trai 10 tháng.
Tôi đọc hồ sơ rất chậm, chờ đợi ở hắn một phản ứng, một cử chỉ, một lời nói. Nhưng tôi đã đọc hết dòng chót, mà hắn vẫn ngồi im, mặt cúi gầm xuống đất. Có lẽ hắn không nghe tôi đọc.
Tôi muốn hỏi hắn về những điểm trong hồ sơ, nhất là về tên Tư nào đó. Nhưng nhân viên nhà lao đã bước vào cho tôi biết chỉ còn đúng 5 phút với hắn. Tôi nhìn ra ngoài, thở dài. Vạt sân đã hết nắng. Khi xốc hồ sơ bỏ vô cặp, tôi vô ý làm rớt tấm ảnh của thằng con trai tôi mới được 8 tháng. Tôi chợt nhớ ra: hắn cũng có một đứa con trai trạc tuổi đó. Tôi liền hỏi: " Từ ngày em bị bắt, em đã gặp con chưa? ". Hắn nhìn tôi rất nhanh, đôi mắt vụt trở nên khẩn thiết. Tôi lại hỏi: " Em có muốn gặp vợ con em không? ". Hắn túm tím miệng, nuốt nước bọt cái ực, rồi nói một cách vội vàng: " Ông có giúp tôi được không? ". Tôi gật. Lúc đó hắn mới cho tôi biết: theo lời khuyên của tên Tư, một tuần trước khi đặt chất nổ, hắn đã cho vợ con về sống với quê ngoại ở Mỏ Cày. Hắn hy vọng vợ hắn đọc báo đã biết tin hắn bị bắt và đã đem con lên Sài Gòn ở với người chú. Hắn cho tôi hai địa chỉ ở miệt Cầu Ông Lãnh, và xin tôi làm mọi cách để vợ con hắn vào thăm hắn trong tù. Hình như hắn muốn nói nhiều nữa, nhưng nhân viên nhà lao đã bước vào đem hắn đi. Hắn bỗng nắm chặt bàn tay tôi, cánh tay run run. Hắn nhìn tôi, và tôi thấy mắt hắn ướt.
Chiều hôm ấy, khi ra khỏi nhà lao, tôi lái xe thẳng đến khuôn viên nhà thờ Đức Bà, gửi xe cho một đứa bé, rồi thuê xích lô đạp về chợ Cầu Ông Lãnh. Tối mịt, tôi mới ra về. Tôi không tìm thấy vợ con hắn.
Trưa hôm sau, tôi viết hai lá thư, một cho người chú, một cho vợ hắn, báo tin ngày tòa xử và nhắn vợ hắn đến văn phòng tôi để làm thủ tục xin giấy đi thăm nuôi chồng. Ký xong bức thư, tôi vào nhà lao báo cho hắn biết về cuộc tìm kiếm của tôi. Nhưng tôi không được gặp hắn: hắn đã bị trả về An Ninh Quân Đội để bổ túc hồ sơ. Từ hôm đó đến ngày xử, tôi không có dịp gặp hắn nữa.
Hôm tòa xử, tôi đi rất sớm. Mới 8 giờ sáng tôi đã có mặt ở bến Bạch Đằng. Khi lái xe vào cổng tòa án Mặt Trận, tôi thấy một thiếu phụ ôm con ngồi nép ở lối đi, bên cạnh một cái lẵng mây. Không hiểu sao tôi nghĩ đó là vợ hắn. Tôi đỗ xe trong sân tòa án, rồi đi bộ ra cổng gặp người thiếu phụ. Tôi hỏi ngay: " Chị là vợ anh Đang? ". Thiếu phụ gật. Tôi hỏi: " Chị được tin hôm nào? ". Thiếu phụ cho biết: khi đọc báo biết tin chồng bị bắt, chị muốn lên Sài Gòn ngay, nhưng vì đứa con đau nặng, nên ông bà già không cho đi. Cách đây bốn hôm, chị nhận được thư của người chú báo tin ngày tòa xử, vả lại đứa con cũng đã gần hết bịnh, nên ông bà già cho đi.
Tôi nhìn đứa bé nằm ngủ trong lòng mẹ. Da nó xanh mét. Thỉnh thoảng nó cựa mình rên khe khẽ, người mẹ lại vỗ nhẹ lên người nó để ru. Chị ta hỏi tôi: " Thưa ông, liệu ảnh có việc gì không? ". Tôi không tìm được câu trả lời. Tôi nhìn đứa bé rồi hỏi: " Cháu được mấy tháng? ". Chị ta trả lời: " Con sanh cháu được 10 tháng thì ảnh bị bắt ".
Bỗng có tiếng còi hụ và tiếng người nhốn nháo. Tôi nhìn về phía đường Bạch Đằng. Một chiếc xe nhà binh đang trờ tới. Đó là xe chở tội nhân. Những người đứng dưới đường vội vàng dạt ra hai bên để cho xe quẹo vào cổng tòa án. Khi chiếc xe đi ngang qua, tôi nhìn thấy hắn, và người vợ cũng nhìn thấy chồng. Chị ta vội vã đứng lên, một tay xách chiếc lẵng mây, một tay ôm con, lễ mễ chạy vào trong sân tòa.
Đoàn tội nhân đã xuống khỏi xe, đứng xếp hàng giữa sân tòa. Hắn đứng ở hàng chót, ngơ ngác nhìn quanh như tìm kiếm. Vợ hắn gọi lớn: " Anh hai, em và con đây nè ". Hắn quay mặt về phía tiếng gọi, và khi trông thấy vợ hắn, hắn giơ hai tay bị còng lên như muốn ôm ghì một hình bóng. Vợ hắn đứng cách xa hắn chỉ một khoảng sân nhỏ. Chị ta bỏ chiếc lẵng mây xuống đất, ôm con xăm xăm chạy về phía hắn. Nhưng người lính đã ngăn chị ta lại, rồi ra lệnh cho đoàn tội nhân đi vào hành lang. Đây là một lối đi lộ thiên, nằm giữa hai bức tường của hai dãy nhà quay lưng vào nhau. Người ta dùng chỗ đó để tạm giữ tội nhân, trong khi chờ tòa gọi tội nhân ra trước vành móng ngựa.
Hắn ngồi hàng chót, nép vào chân tường. Tay hắn đã được mở còng. Vợ hắn lễ mễ ôm con lại gần. Người lính định cản lại, nhưng thấy tội nghiệp, nên đã để cho đi qua.
Tôi chỉ kịp trông thấy người đàn bà ngồi thụp xuống đất bên cạnh người chồng rồi khóc nức nở. Hắn không khóc, mở to mắt nhìn về trước mặt, một tay để lên vai vợ, một tay vuốt tóc con. Lúc sau người vợ lấy vạt áo lau nước mắt, rồi lấy ở trong lẵng ra một xị nước ngọt đựng trong túi nylon đưa cho chồng: " Anh uống đi cho đã khát, em có mua cho anh ổ bánh mì thịt ở trong lẵng ". Hắn rời tay khỏi vai vợ, đỡ lấy túi nước ngọt đưa lên môi, nhưng tay kia vẫn sờ trên mình đứa con, đôi mắt dịu hẳn xuống. Trong một lúc tình cờ, hắn ngẩng đầu lên. Hắn nhìn thấy tôi đứng bên kia tường. Tôi giơ tay làm hiệu chào hắn.
Chỉ còn độ một hai giờ nữa, tòa sẽ kêu đến vụ hắn. Tôi muốn nói chuyện với hắn. Nhưng tôi không nỡ làm bận rộn cuộc xum họp mà tôi linh cảm là cuộc xum họp lần chót. Tôi thở dài ái ngại, rồi bỏ đi ra phía sân tòa. Thời gian như chậm lại. Hắn, con hắn, vợ hắn, lởn vởn trong đầu tôi. Làm thế nào để cứu hắn khỏi chết? Làm thế nào để tòa án hiểu rằng: hắn, cũng như Nguyễn Văn Trỗi, cũng như bao thanh thiếu niên khác, chỉ là nạn nhân đáng thương của một hệ thống đểu cáng và vô nhân đạo nhất lịch sử loài người.
Mãi mười một giờ trưa, tòa mới kêu đến tên hắn. Hắn từ hành lang đi ra, bên cạnh hai người lính. Vợ hắn lễ mễ ôm con theo từ đằng xa, rồi ngồi xuống một chiếc ghế cuối phòng xử. Phòng xử hôm đó đông nghẹt dân chúng. Bên ngoài, trời oi ả như sắp có cơn dông.
Trước vành móng ngựa, hắn nhỏ bé và non nớt hơn cái hôm tôi gặp hắn trong nhà lao. Da hắn xanh mướt, và nét mặt thản nhiên. Tôi đến bên hắn, hắn quay lại nhìn tôi một thoáng rồi lại nhìn thẳng đàng trước mặt. Không khí nặng nề. Cả phòng xử im lặng. Ông chánh thẩm hỏi lý lịch, rồi truyền cho hắn trở về ghế bị can để nghe bản cáo trạng. Tôi cũng từ vành móng ngựa đi theo xuống ngồi bên cạnh hắn. Hắn xích lại gần, như để tỏ lòng biết ơn. Viên lục sự bắt đầu đọc bản cáo trạng, tiếng ông ta vang lên đều đều. Cả tòa, từ ông chánh thẩm, ủy viên chính phủ, đến công chúng ngồi dưới, đều lắng tai nghe. Chỉ có hắn là không. Hắn nhìn đăm đăm đàng trước mặt, như đang suy nghĩ. Có lẽ hắn nghĩ tới vợ con hắn. Một lần, tôi chợt thấy hắn quay đầu lại nhìn xuống cuối phòng xử, như muốn tìm xem vợ con hắn ngồi ở đâu. Bỗng nhiên, mặt hắn biến sắc, tay hắn run run, đầu cúi gầm xuống (chắc anh chàng nhìn thấy tên Tư đứng đó và nhớ tới lời đe dọa sẽ giết cả nhà nếu khai ra !)
Viên lục sự đã đọc xong bản cáo trạng. Hắn rời ghế bị can, rồi cùng tôi bước lên vành móng ngựa.
Ông chánh thẩm hỏi: " Anh đã nghe bản cáo trạng. Anh bị cáo về tội phản nghịch và mưu sát. Anh có nhận tội không? ". Hắn gật đầu.
- Anh có thể kể lại cho tòa nghe tất cả sự việc từ đầu đến cuối không?

Hắn nhìn ông chánh thẩm, nhìn bồi thẩm đoàn, nhìn ủy viên chính phủ, nhìn tôi, rồi lắc đầu.
Ông chánh thẩm lại hỏi: " Có phải anh đã đỗ chiếc Vespa trước cái bar Mỹ? ". Hắn gật.
- Anh có biết chiếc Vespa có chất nổ không?
Hắn gật.
- Anh đỗ chiếc Vespa trước cửa bar, để phá cái bar đó, có phải không?
Hắn gật.
- Tên Tư bao nhiêu tuổi, vóc dáng như thế nào?
Hắn đứng im không trả lời.
Ông chánh thẩm nhìn tôi, tôi nhìn ông ta. Một bên ở vào cái thế khó xử, một bên ở cái thế khó cãi. Đại tá Ủy viên Chính Phủ bỗng quát lớn: " Tại sao bị can không trả lời? ". Hắn ngước mắt nhìn ủy viên chính phủ, rồi đứng im như pho tượng.
Khi tòa trao lời cho ủy viên chính Phủ chính thức đặt câu hỏi, thì ủy viên chính phủ nhún vai, như muốn nói với tòa rằng ông không có gì để hỏi một bị can chỉ biết gật với lắc đầu. Nhưng chỉ một vài giây sau, ông nói như hét: " Thằng Tư, tên thật nó là gì. Địa chỉ nó ở đâu? ". Hắn lại nhìn ủy viên chính phủ rồi im lặng. Một lần nữa, ủy viên chính phủ lại nhún vai và làm cái cử chi quen thuộc để tòa hiểu rằng ông ta không còn gì để hỏi nữa.
Đến lượt tôi đặt câu hỏi. Tôi hỏi hắn: " Khi bị lấy cung tại Công An và An Ninh Quân Đội, em có bị tra tấn hoặc bị hăm dọa không? ". Hắn lắc đầu. Tôi lại hỏi: " Em có hối hận vì đã trót nghe lời dụ dỗ của tên Tư không? ". Hắn cúi gầm mặt xuống lắc đầu.
Tôi đã đưa ra hai cây sào để cứu hắn. Không ngờ hắn đã từ chối không nắm lấy và hình như còn thích thú để cho nước cuốn trôi đi. Nước mắt người vợ và tình thương con đã không làm hắn thay đổi. Một đời luật sư, tôi từng ngang dọc trong những vụ kiện lớn của chế độ, nhưng chưa bao giờ tôi cảm thấy mình bất lực như hôm nay.
Ủy viên Chính Phủ đứng lên buộc tội. Trong 15 phút hùng biện, ông gay gắt lên án bị can. Ông nhấn mạnh đến trường hợp quả tang phạm pháp, đến bản chất của tội trạng (phản nghịch và mưu sát) và sự ngoan cố của bị can. Ông kết luận: " Trong cuộc đấu tranh chống lại bọn cộng sản " kẻ thù của dân tộc " chúng ta cần phải nghiêm trị những bọn phá hoại, những tên cán bộ nằm vùng, những tên đặc công khủng bố giết người không gớm tay. Nếu hôm đó quả mìn nổ, bao nhiêu dân chúng qua đường đã bị chết thảm, bao nhiêu người dân vô tội đã bị què cụt đui mù... ". Ông yêu cầu tòa lên án tử hình. Tòa trao lời cho tôi. Trách nhiệm của tôi quá lớn, và nhiệm vụ của tôi quá khó khăn. Tôi biện hộ cho một bị can phạm tội phản nghịch và mưu sát với trường hợp gia trọng. Bị can ấy nhận tội tại Công An, tại An Ninh Quân Đội, và trước tòa án. Bị can ấy từ đầu đến cuối không lúc nào phản cung. Bị can ấy từ chối không trả lời tòa án, không trả lời ủy viên chính phủ, không trả lời luật sư. Bị can ấy im lặng tuyệt đối, như để bảo mật cái tổ đặc công giết người của hắn, theo một mệnh lệnh... Giọng tôi trầm trầm. Tôi nói, hình như không phải cho tòa nghe, mà cho chính tôi nghe. Tôi nói, để cố trả lời cho những câu hỏi mà chính tôi đang thắc mắc. Tại sao hắn không có một lời để tự bào chữa? Tại sao hắn đã nhận tội một cách thản nhiên, và không một lần nào phản cung, trong hồ sơ cũng như trước tòa án? Hắn là một tên đặc công bị bắt quả tang trong khi đặt chất nổ, chắc chắn hắn đã bị tra tấn của công an trong khi lấy cung. Tại sao hắn không nói điều ấy ra trước tòa? Và tên Tư? Tên Tư là ai? Tại sao hắn lại im lặng không chịu cung khai về tên Tư? Tại sao hắn lại từ chối không trả lời những câu hỏi có lợi cho hắn?
Không ai muốn chết. Không ai muốn bị hành hình. Không ai muốn bị đập chết như một con chó ở góc tường, như những nhân vật trong tiểu thuyết Kafka. Huống chi, hắn mới 21 tuổi, có vợ, có con, và thương vợ thương con. Thế thì tại sao hắn lại im lặng? Chỉ có một câu trả lời. Hắn bị quyến rũ phạm tội ác, và sau khi bị bắt, hắn vẫn bị theo rõi. Hắn sợ vợ con hắn bị trả thù, hắn đã phải im lặng, tuyệt đối im lặng. Biết đâu trong phòng xử hôm nay, lại không có tên Tư nào đó đang ngồi theo rõi hắn. Hướng về phía ông Ủy viên Chính Phủ, tôi nói như tâm sự: " Tôi đồng ý với ông là chúng ta, những người quốc gia, phải thẳng tay trừng trị, nếu cần, phải giết những tên đặc công gian manh, những tên cán bộ khát máu, những tên đặc công giết người không gớm tay. Nhưng trong hiện vụ, tôi không nghĩ bị can là một tên cộng sản gian manh, một tên cán bộ khát máu, một tên giết người không gớm tay. Và đây là điểm cực kỳ quan trọng: quả mìn hôm ấy đã không nổ ".
Kết luận, tôi yêu cầu tòa khoan hồng. Bị can mới hai mươi mốt tuổi, chưa hề can án, có vợ còn trẻ và con còn nhỏ, vì vậy đáng được hưởng sự khoan hồng của luật pháp.
Sau lời biện hộ của tôi, tòa hỏi hắn: " Luật sư đã biện hộ cho anh rồi. Anh có quyền nói lời chót. Anh muốn nói gì không? ". Hắn lắc đầu. Tòa ngưng xử, bước vào phòng để nghị án. Khoảng một giờ sau, tòa trở lại tuyên án: tử hình. Lập tức, hắn bị còng tay mang đi. Lúc đó, đã quá trưa, những đám mây đen từ đâu kéo về bao kín cả một góc trời đã mất ánh sáng. Dân chúng kéo nhau ra về. Tôi xách cặp đi ra xe như người mất hồn. Khi lái xe qua cổng tòa án, tôi thấy vợ hắn ôm con ngồi khóc. Tôi về văn phòng, viết đơn xin ân xá cho hắn. Đây chỉ là thủ tục tòa án, nhưng tôi đã làm với tất cả sự cẩn trọng của một lễ nghi tôn giáo. Tôi muốn cứu hắn khỏi chết. Vì nhân đạo. Vì nghề nghiệp. Và cũng vì trường hợp cá biệt của hắn.
Hắn khác Nguyễn Văn Trỗi. Nguyễn Văn Trỗi khóc lóc van xin trước tòa, và sau khi bị tòa lên án tử hình, Trỗi đã hô lớn " Hồ Chí Minh muôn năm ". Hô xong lại khóc, lại van xin. Còn hắn, hắn nín thinh. Không khóc lóc, không van xin, không hô khẩu hiệu.
Hắn khác Nguyễn Hữu Thọ, Nguyễn Hữu Thọ huênh hoang và cao ngạo trước tòa. Hắn chịu đựng, nhẫn nhục, đến độ gần như khắc kỷ. Tôi nghĩ đến con chó sói trong bài thơ " La Mort du Loup " của thi hào Vigny.
Ba tháng đã trôi qua. Bức thư của tòa án Mặt Trận mà trung sĩ Ân đưa cho tôi chiều hôm nay chỉ vỏn vẹn mấy dòng chữ đánh máy: " Trân trọng báo để luật sư tường: đơn xin ân xá của Trần Văn Đang đã bị bác. Ngày mai, hồi 5 giờ sáng, bản án tử hình sẽ được thi hành. Nếu luật sư muốn hiện diện nơi hành quyết, thì xin có mặt tại khám Chí Hòa vào lúc 4 giờ sáng. Trân trọng ".
Suốt đêm, tôi trằn trọc không ngủ, đầu óc lởn vởn khuôn mặt của hắn, và hình ảnh của hắn ngồi trong hành lang tòa án, một tay để lên vai vợ, một tay sờ lên mình đứa con. Chưa đầy 3 giờ sáng, tôi đã thức dậy, đi vào khám Chí Hòa. Tôi bước vào phòng đợi, đã thấy một nhà sư gầy gò mặc nâu sòng đang ngồi lần chuỗi hạt. Viên quản đốc nhà lao cho tôi biết: nhà sư đã đến trước tôi cả nửa giờ. Lát sau, một linh mục béo tốt bước vào, trong bộ quân phục thiếu tá tuyên úy. Bốn giờ ba mươi phút, ủy viên chính phủ đến. Rồi đoàn người, gồm viên quản đốc nhà lao, ủy viên chính phủ, luật sư, và hai vị tuyên úy, lặng lẽ đi vào một căn phòng rộng. Thường nhật, đây là chỗ điểm danh tội nhân. Hắn đã ngồi đó từ bao giờ, bên cạnh cái bọc quần áo. Ánh sáng vàng bệch của ngọn đèn cáu bụi trên trần nhà phả xuống bốn bức tường trắng xóa. Tôi chợt có ý nghĩ kỳ lạ là đang bước vào căn nhà xác của bệnh viện. Đoàn người tiến lại gần hắn. Hắn đứng dậy, đôi mắt như dò hỏi. Một phút im lặng, dài như một ngày. Đại tá ủy viên chính phủ trịnh trọng nói với hắn: " Anh hãy cam đảm lên, và nghe tôi đọc ". Rồi ông lớn tiếng đọc bản án tử hình và bản quyết định bác đơn xin ân xá của hắn. Hắn cúi đầu nhìn xuống sàn nhà, đôi mắt mở to. Người hắn run lên. Nhưng chỉ giây lát, hắn lấy lại bình tĩnh. Hắn hỏi: " Bao giờ người ta xử tôi? ". Viên quản đốc nhà lao để tay lên vai hắn: " Ngay sáng hôm nay, trước khi mặt trời mọc ". Rồi ông thân mật nói với hắn: " Bây giờ em muốn ăn uống gì không, khám đường sẽ chu tất cho em ? ". Hắn lắc đầu.
Lúc đó, không ai bảo ai, mỗi người nói với hắn một vài câu an ủi. Không khí trở nên thân mật và âu yếm như trong một cuộc tiễn đưa. Riêng tôi chỉ nhìn hắn, tôi muốn nói chuyện riêng với hắn; đó là quyền của tôi, quyền của luật sư biện hộ. Ủy viên chính phủ đồng ý, và cho tôi biết: tôi có 5 phút. Rồi đoàn người bước ra khỏi phòng, để một mình tôi với hắn. Người cuối cùng đã bước ra khỏi phòng. Hắn nắm lấy tay tôi, và nhìn tôi rất lâu, đôi mắt ướt sũng. Tôi hỏi: " Em có muốn nói nhắn với vợ em điều gì không? ". Hắn suy nghĩ giây lát, rồi nói: " Em bị chúng nó lừa. Luật sư có gặp vợ em, thì bảo đừng ở dưới vườn nữa, và nuôi lấy con ". Tôi hỏi: " Em chết, có điều gì oán hận không? ". Hắn không trả lời. Tôi an ủi hắn: " Người ta, ai cũng phải chết một lần, đời sau mới là quan hệ. Em theo đạo nào? ". Tôi là người Công giáo. Tôi ước ao hắn dành một vài phút để nghĩ đến Thượng Đế và tình thương bao la của Người. Nhưng ủy viên chính phủ đã bước vào nói nhỏ: " Luật sư hết giờ rồi ". Rồi ông thân mật hỏi hắn: " Ở đây có hai vị tuyên úy em muốn nói chuyện với ai? ". Hắn nhìn nhà sư mặc áo tu hành, hắn nhìn vị linh mục mặc quân phục thiếu tá, rồi xin được nói chuyện với nhà sư. Tôi cúi đầu theo ủy viên chính phủ và vị linh mục đi ra một góc phòng. Nhìn về phía hắn, tôi thấy nhà sư cúi đầu tụng kinh, và hắn cũng cúi đầu như lắng tai nghe kinh. Khoảng khắc, nhà sư ngẩng đầu lên, đặt tay lên vai hắn, trong một cử chỉ vỗ về bao dung. Lúc đó, đồng hồ trên tường chỉ đúng 5 giờ sáng, giờ khởi hành. Người ta xúm lại chung quanh hắn, mỗi người nói với hắn một câu chân tình. Hắn như chợt nhớ ra, xin phép được thay quần áo. Một cảnh sát viên chạy lại cầm cái bọc quần áo đưa cho hắn. Hắn mở bọc, lấy ra một chiếc sơ mi cụt mầu xám, và một chiếc quần vải dragon đen đã bạc mầu. Khi hắn quay mặt vào tường để thay quần áo, tôi nhìn thấy những lằn roi trên da thịt xanh xao của hắn. Thay xong quần áo, hắn xin một điếu thuốc. Viên quản đốc nhà lao mỉm cười, rút trong túi ra một bao thuốc lá Ách Chuồn. Ông ta trịnh trọng lấy ra một điếu, dộng dộng trên ngón tay cái, rồi đưa cho hắn. Hắn ngậm điếu thuốc, và được viên quản đốc châm lửa. Lúc đó, nhân viên an ninh đến. Hắn ngoan ngoãn đưa hai tay chụm ra đằng trước để người ta còng. Rồi đoàn người lặng lẽ đi ra. Hắn đi đầu, thản nhiên bước qua từng đợt cửa, thỉnh thoảng dùng hai tay còng đưa điếu thuốc lên môi. Khi đoàn người ra tới sân nhà lao, điếu thuốc gần lụi, và hắn buông rơi xuống đất. Hắn bước lên chiếc xe bít bùng, đầu hơi cúi xuống. Cửa xe đóng sập lại. Tôi lên xe riêng, lái thật nhanh ra khỏi nhà lao.
Chiếc xe của tôi lầm lũi đi trong đêm, ánh đèn pha chiếu dài cả con đường Hòa Hưng, rồi đường Lê Văn Duyệt. Thành phố Sài Gòn đang trở mình thức giấc, một vài gánh hàng đi nép bên lề đường. Và đó đây, có tiếng động cơ quen thuộc của những chiếc xe Lam dậy sớm. Tới bùng binh chợ Bến Thành, tôi đã thấy một đám đông bu quanh vùng ánh sáng của pháp trường cát. Những phóng viên ngoại quốc chạy nhốn nháo, với máy ảnh và máy quay phim. Cảnh sát chận xe tôi lại. Khi nhìn thấy chiếc áo đen của tôi, họ dẹp đám đông cho xe tôi tiến vào. Tôi đỗ xe sát chân tường Nha Hỏa Xa, cách pháp trường cát độ 30 thước. Những ngọn đèn pha cực mạnh đã được đặt tại đó chiều hôm trước. Tất cả đều chiếu vào pháp trường cát, tạo nên một vùng ánh sáng rợn người. Một chiếc cọc đen đứng cô đơn, đằng sau là những bao cát chất thành vòng cung. Cách đó 3 thước, là chiếc quan tài đậy nắp, trên nắp có một tấm vải trắng. Xa nữa là chiếc xe chữa lửa.
Tôi đứng trong vòng ánh sáng chưa được 10 phút thì nghe tiếng còi hụ. Người ta chạy nhốn nháo. Tôi háy mắt nhìn về phía tiếng còi hụ, thì thấy đoàn xe chở tội nhân đang tiến tới. Chiếc xe bít bùng đỗ lại bên lề đường. Lát sau hắn bước xuống khỏi xe. Tôi vội choàng lên người chiếc áo đen, chạy ra với hắn. Hắn và tôi đi đầu, theo sau là đoàn áp giải. Hắn bước đều đều, mặt cúi xuống đất. Dân chúng bu nghẹt chung quanh, chỉ chừa một lối đi được ngăn giữ bằng hàng rào an ninh. Bây giờ chúng tôi đã bước vào vùng ánh sáng. Hắn bỗng ngửng đầu lên, và đứng khựng lại. Người lính đằng sau lấy tay đẩy nhẹ vào lưng hắn, hắn lại tiếp tục bước đi. Tôi đoán chiếc quan tài và chiếc khăn liệm đã làm hắn khựng lại. Hình ảnh trung thực của chiến tranh không được tìm thấy ở chiến trường " da ngựa bọc thây ", mà được tìm thấy trong các bệnh viện, nơi đó có những hình hài cụt chân cụt tay, những đống thịt bầy nhầy, những hố mắt sâu thẳm, những cuốn băng bê bết máu, và những tiếng rên rỉ đau đớn. Và hình ảnh trung thực của cái chết vẫn là chiếc quan tài, tấm khăn liệm và những người thân yêu tiễn đưa. Bây guờ, hắn và tôi đã bước vào trong vòng những bao cát. Người ta mở còng, rồi giữ ghì lấy hai cánh tay hắn, đẩy hắn dựa lưng vào chiếc cọc sắt. Hai cổ chân hắn bị cột chặt vào thân cọc, hai cánh tay hắn bị kéo ngược ra đằng sau, cột ngược vào một cái cọc ngang. Chiếc cọc ngang này hơi cao, hắn phải kiễng chân lên. Hắn nhăn mặt kêu đau. Tôi nói với viên sĩ quan: " Đằng nào tội nhân cũng sắp chết, ông nên cho hạ thấp chiếc cọc ngang xuống, kẻo máu bị ngừng ở nơi nách, tội nghiệp ". Viên sĩ quan gật đầu, hạ thấp chiếc cọc ngang xuống. Hắn nhìn tôi, và lần đầu tiên hắn nói: " Cám ơn luật sư ". Lúc đó, đội hành quyết đã sắp hàng chỉnh tề, chỉ còn đợi sĩ quan Quân Trấn Trưởng của Quân khu Sài Gòn đến là khởi sự. Một phút, hai phút, rồi ba phút... Cả pháp trường im lặng, trong sự đợi chờ và trong ánh sáng chói chang.
Chỉ còn mình tôi đứng bên cạnh hắn. Hắn bỗng trăn trối: " Em đã bị chúng nó lừa. Luật sư nhớ bảo vợ em đừng ở dưới vườn, đừng nghe theo chúng nó và gắng nuôi con ". Tôi gật đầu. Hắn nấc lên: " Con ơi, Cảnh ơi, Cảnh ơi ". Tiếng nấc của hắn làm tôi mủi lòng. Tôi để tay lên vai hắn, định an ủi, nhưng cổ họng bị tắc nghẽ. Tôi chợt nghĩ đến linh hồn hắn. Tôi thì thầm bên tai hắn: " Em hãy ăn năn hối cải, và cầu xin Chúa giúp em chết lành. Em chết, nhớ phù hộ cho vợ con em ". Hắn lại nấc lên: " Con ơi, con ơi, Cảnh ơi, Cảnh ơi ". Lúc đó, có tiếng còi hụ. Quân Trấn Trưởng đến. Đội hành quyết đứng nghiêm. Người ta bịt mắt hắn. Hắn vẫn nấc, vẫn gọi tên con. Có tiếng lên đạn đàng sau lưng tôi. Ủy viên chính phủ nói lớn: " Xin ông luật sư đứng tránh xa ra một bên ". Tôi đi giật lùi ngang về phía bên trái, mắt không rời hắn. Miệng hắn vẫn lắp bắp gọi tên con. Một tiếng hô. Một loịat đạn nổ. Đầu hắn ngoẹo xuống, gục về bên trái. Máu từ trong người hắn chảy róc xuống đùi, xuống chân, rồi bò ngoằn ngoèo trên lề đường. Viên đội trưởng hành quyết tiến lại, nắm tóc kéo ngược đầu hắn về phía sau, dí khẩu súng lục vào màng tang bên trái của hắn, bắn phát súng ân huệ. Một tiếng " đẹt " khô khan. Người ta vội vàng liệm xác hắn, và chiếc vòi nước của chiếc xe chữa lửa vội vã phụt sạch những vết máu trên lề đường. Phương Đông, chân trời đã bắt đầu hừng đỏ.
Tối hôm đó, đài phát thanh Hà Nội mặc niệm hắn, hết lời ca tụng cái chết anh hùng của hắn. Đài phát thanh Hà Nội nói rõ ràng: từ lúc bị trói vào cọc cho đến lúc bị hành quyết, hắn đã noi gương anh hùng Nguyễn Văn Trỗi, không ngớt đả đảo Mỹ Ngụy và hô to khẩu hiệu " Hồ Chí Minh muôn năm ".
Nguyễn Văn Chức
Chú thích (của luật sư Nguyễn Văn Chức):
Dưới đây là những chi tiết liên quan đến vụ Trần Văn Đang. Bị can sinh năm 1942 tại Vĩnh Long, bị bắt ngày 30 tháng 3 năm 1965 trong khi đặt chất nổ, bị đem ra tòa án Mặt Trận hai tuần sau, và bị bắn tại pháp trường cát bùng binh chợ Bến Thành sáng ngày 21 tháng 6 năm 1965.
Chánh thẩm xử án là đại tá Phan Đình Thứ (tức Lam Sơn), linh mục tuyên úy Công giáo tên Thông, nhà sư tuyên úy Phật giáo là đại đức Sĩ. Quân Trấn Trưởng là đại tá Giám.
Nguyễn Văn Trỗi bị bắt ngày 9 tháng 5 năm 1964, trong lúc đặt bom ở gầm cầu Công Lý, chờ ám sát phái đoàn của Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ Mc Namara. Y bị toà án Vùng 3 Chiến Thuật xử tử hình. Trước toà, y khóc lóc, chửi bọn xúi y đi ôm bom là bọn " chó đẻ ", và xin toà tha tội. Khi toà tuyên án tử hình, y hô to Hồ Chí Minh muôn năm. Hô xong y lại khóc và xin toà tha.
Năm 1993, tôi (luật sư Nguyễn Văn Chức) có đọc cuốn " Chung Một Bóng Cờ " do nhà xuất bản Chính Trị Quốc Gia (Hà Nội) ấn hành, gồm những bài viết của Nguyễn Văn Linh, Nguyễn Hữu Thọ, Phạm Văn Đồng... Cuốn sách đã dành một trang để nói về cái chết của Anh Hùng Trần Văn Đang. Xin trích một vài dòng cuối: " Sáng ngày 21 tháng 6 năm 1965 lúc 5 giờ 52 phút, Mỹ và chính quyền Sài Gòn đem anh ra xử bắn tại pháp trường cát, với hy vọng có thể khủng bố được tinh thần nhân dân Sài Gòn. Nhưng chúng đã lầm. Trước đông đảo đồng bào và phóng viên trong và ngoài nước đang tụ tập dọc đường Hàm Nghi và chợ Bến Thành, vừa bước xuống xe, Trần Văn Đang dõng dạc nói lớn: Hỡi đồng bào chợ Bến Thành, hỡi đồng bào Sài Gòn thân yêu, tôi là Trần Văn Đang đây, chiến sĩ giải phóng, tôi đánh Mỹ để giải phóng dân tộc... Đả đảo đế quốc Mỹ... đả đảo tập đoàn tay sai bán nước. Ngay sau khi súng đã nổ, anh vẫn không ngừng hô to Hồ chủ tịch muôn năm, đả đảo đế quốc Mỹ " (trích trong Chung Một Bóng Cờ, trang 886-887).

https://www.youtube.com/watch?v=KsE2pyIq-XM
LikeShow more reactions

SÓC TRĂNG CHUYỂN QUÂN VỀ BỜ BIỂN VĨNH CHÂU




Nhân dân VN cần phải làm gì nếu có chiến tranh ?
Thấy hơn 50 xe quân sự nối đuôi nhau chở lính đi, tập kết quân ra các khu vực trọng yếu.
Lần nầy căng rồi nha ; Đảng cộng sản huy động rất nhiều quân đôi .
Tôi đề nghị nên huy động thêm côn an , an ninh , và dân phòng lực lượng nầy đánh rất hăng ,rất dã man ,ra biên giới để bảo vệ lãnh thổ ....

Tay ko đương nhiên ko thể chống giặc, nhưng liên kết ủng hộ tinh thần sỉ khí quân đội là điều cần thiết, cần phải cảnh giác với lũ Hán nô và tình báo hoa nam sẽ gây náo loạn để làm nhụt khí tranh đấu, và đương nhiên là cần phải tích lũy lương thực dài hạn, cũng như trang bị vũ khí cần thiết để tự vệ khi bị cướp bóc . . .
Sau vụ 2 chiếc máy bay rơi, quân đội Việt Nam đang tập kết quân ra các khu vực trọng yếu


- Lần đầu tiên trong đời mới dc thấy hơn 50 xe quân sự nối đuôi nhau chở lính đi.mong sự bình yên không phải sự đau khổ.

Theo Facebook Mai mai , Nguyen Thi Son , Thuy Trang

QUÂN ĐỘI VIỆT NAM TRONG TÌNH TRẠNG BÁO ĐỘNG


(*) Quân Đội vừa ban hành lệnh báo động cho các Quân Khu. Khu vực bờ Biển từ Bắc vào Nam được cho là trọng điểm cần bảo vệ. Hằng nghìn binh lính sẽ dồn quân dọc theo bờ biển trước tháng 7/2016.

Facebook Thùy Trang

Thứ Tư, 11 tháng 5, 2016

Tôi từ chối làm việc! - Phần I



Thứ Ba, 10-05-2016 | 01:00:28
Sáng 8/5/2016, đường Hà Nội không đông đúc lắm.
Tôi từ phố sách Nguyễn Xí bước ra đường Tràng Tiền. Vừa đi qua một ngã tư. Một cậu cảnh sát giao thông chặn anh bạn đi bên cạnh tôi lại: “Anh đi đâu?” Anh bạn đi bên cạnh tôi, tay cầm một cuộn giấy, trả lời: Đi biểu tình vì môi trường, hỏi làm gì?
IMG_0530
IMG_0533
Tôi hỏi cậu ấy: Hỏi đi đâu để làm gì? Đó là trách nhiệm của chú phải không? Cậu ta giơ tay định vớ lấy cuộn giấy trên tay anh bạn tôi. Tôi bảo: Này, định cướp tài sản công dân à? Lo giữ trật tự đường phố cho người ta đi lại đi, đó mới là nhiệm vụ của chú đấy.
Cậu CSGT bỏ đi ra ngã tư. Đi một đoạn nữa, hai cậu CSGT khác chạy xe đến, một cậu xông đến dừng anh bạn tôi lại: “Kiểm tra hành chính”. Tôi hỏi: “Đi bộ cũng bị CSGT kiểm tra hành chính à? Có lệnh chưa?”. Cậu ta ngớ người và ú ớ nhìn tôi như từ trên trời rơi xuống.
IMG_0543
Xung quanh đó, đã có sẵn máy quay phim, ghi hình và một đám đông đúc xông lại.
Ngay lập tức một đám cô hồn xông đến: Hốt, hốt lên xe. Thế là anh bạn kia bị đẩy lên trước, tôi bị đẩy lên sau một cách thô bạo.
Về số 7 Thiền Quang
Khi lên xe, một đám người xông lên giữ hai chúng tôi, thậm chí chẳng dám ngồi xuống, tôi ngồi và bảo: “Các cậu là ai?” Không một câu trả lời, chỉ  nghe hò hét: Đưa về 90, sau đó là đưa về số 7.
Tôi và anh bạn bị đưa về số 7 Thiền Quang. Đám thanh niên như bụi đời đẩy chúng tôi vào một căn phòng, trong đó có một người đàn ông đã đứng tuổi ngồi.
Một bầy lao nhao mặt tỏ ra hung hãn bao vây chúng tôi. Một tên nhỏ tuổi nhưng thái độ rất hống hách và bặm trợn xông lại:
– Hai anh tên gì?
Tôi không thể im lặng được nữa:
– Cậu là ai? Có trách nhiệm gì? Tại sao tôi đang đi trên đường lại bắt cóc chúng tôi về đây? Hỏi tên tôi làm gì? 
tuananh1
Tên tự xưng là Tuấn Anh, đội phó đặc nhiệm CSHT Hà Nội.
– Tôi là người dại diện cho cơ quan pháp luật.
– Đại diện cái gì? Cậu hành động lỗ mãng như côn đồ, bắt chúng tôi vào đây mà đến giờ tôi chưa biết cậu là ai! Đại diện cơ quan pháp luật là cơ quan nào?
– Tôi là Tuấn Anh, đội phó đội đặc nhiệm CSHS Công an Hà Nội.
Nghe cậu ta xưng tên là Tuấn Anh, là đội phó cảnh sát hình sự, CAHN tôi thoáng trong đầu ý nghĩ: hay mình lại gặp lại tên lừa đảo cũng xưng là Tuấn Anh, CSHS đã hai lần lừa đảo tiền và tình của các cô gái ở Thái Nguyên và một cô gái ở Xuân La, Tây Hồ mà chính báo Công an đã đưa tin? Tôi hỏi:
– Vậy à, vậy cậu có giấy tờ gì chứng minh cậu là công an không? Ăn mặc thế này là công an à? Hành động của cậu lúc nãy đến giờ càng không phải là công an. Nếu đúng là công an, cậu đưa chúng tôi xem giấy tờ rồi hỏi gì thì hỏi nhé.
– Công an hình sự có quyền ăn mặc hóa trang, anh đừng cãi, bỏ tất cả đồ dùng trong người ra. Anh em đâu, khám người.
Một đám du thủ du thực khác xông lại, cậu ta bẻ tay anh bạn đi cùng để lấy điện thoại.
Tôi bảo:
– Không cần, vậy các cậu định dùng luật rừng và sức mạnh trâu bò ở đây chứ gì? Thích thì tớ bỏ ra cho các cậu xem. Nhưng nên nhớ là các cậu đang vi phạm pháp luật.
– Luật lệ gì, đây là cơ quan công an.
Khi cậu ta ngang nhiên tuyên bố những điều đó, thì tôi thấy không còn gì để có thể lý lẽ với đám này. Tôi bỏ cái điện thoại lên bàn, đặt cái ví lên đó. Cậu ta thò ta vào người tôi lấy cái bật lửa zippo đặt lên bàn và định thò tay cầm ví của tôi. Tôi quát lên:
– Bỏ tay ra, không được đụng vào ví của tôi, định ăn cắp à?
Cậu ta rụt tay lại, cầm lấy điện thoại của tôi, đặt chế độ máy bay. Cậu ta nói:
– Tôi nói cho các anh biết, vào đây là phải…
– Này cậu, cậu đừng hỗn láo. Cậu chưa cho chúng tôi biết cậu là ai, lấy gì chứng minh cậu là công an, ăn nói hỗn hào với người lớn tuổi, cậu nghĩ đã là công an thì muốn làm gì thì làm à?
– Anh có biết đây là cơ quan nào không?Cậu ta hỏi với vẻ đe dọa.
– Tớ lạ gì, đây là số 7 Thiền Quang, ở đây, tớ đã gặp Chung con, Giám đốc Công an HN và giờ là Chủ tịch Tp này hồi cậu ấy đang là Đại tá Trưởng Phòng và là đội trưởng đặc nhiệm ở đây. Nhưng dù là cơ quan nào, thì cậu cũng phải theo luật pháp nhé, kể cả cậu có là Thủ tướng, thì vẫn phải giới thiệu. Cậu có biết cái câu đằng sau cậu là câu gì không: “Đối với nhân dân, phải kính trọng, lễ phép”. 
– Nhưng các anh không phải là nhân dân.
– Vậy tôi không là nhân dân thì là gì? Là đồng bọn của cậu chắc?
Bó tay, có lẽ với đám kiêu binh ở số 7 Thiền Quang, nơi xuất thân của Giám đốc, Phó Giám đốc CA Hà Nội, là nơi hành xử với người dân theo quan niệm đã bị chúng đưa vào đó thì không còn là nhân dân. Cậu này ra vẻ hống hách và hách dịch trắng trợn bất chấp mọi điều cơ bản nhất là thái độ của một con người. Tôi ngao ngán bởi những chiến sĩ, đội phó, đội trưởng ở đây mà thái độ vô lễ đến thế. Tôi bảo:
– Cậu hãy hỏi người đàn ông đứng tuổi kia đi, xem những hành động của các cậu như từ nãy đến giờ có đúng tư cách con người không, chưa nói là chiến sĩ, cán bộ công an nhân dân nhé.
Người đàn ông từ đầu đến khi đó im lặng, khi đó ông ta bảo mấy cậu kia:
– Thôi, đưa đi chỗ khác đi. 
Chắc hẳn ông ta cũng thấy ngứa mắt trước đám thanh niên hỗn láo với người lớn tuổi mà ông ta không tiện nói chăng. Đám du thủ đó đưa chúng tôi sang phòng bên cạnh, một vài tên ngồi canh chừng, còn đám kia thì tiếp tục bắt người.
Anh bạn đi cùng ngồi cãi vã với mấy đứa ngồi canh, đám này cũng chẳng khác mấy với tên cầm đầu lúc nãy. Cũng bặm trợn, cũng chẳng có thái độ cho ra con người là mấy. Hình như, ngành công an chọn vào đây một loại người khác hẳn với những loại người khác trong xã hội, hành xử như xã hội đen và luật rừng, lấy sức mạnh trâu bò làm cơ sở hành động. Chỉ có một điều khác, là họ được mang danh “Công an nhân dân”.
Một lúc sau, đám kiêu binh kia gọi anh bạn tôi ra ngoài. Trong phòng còn tôi với mấy cậu kia, tôi im lặng quan sát.

Về Quận
Ngồi một lúc, một đám người khác đến và bảo:
– Mời anh Vinh và anh về Quận.
Tôi nói:
– Về quận nào? Tôi không biết các cậu là ai. Tôi không đi đâu hết, thả tôi ra ngay.
– Thôi anh, bọn em ở Quận Hoàng Mai, bọn em sẽ đưa anh về Phường. Anh đi về với bọn em đi. Tôi bước ra cùng anh bạn, một chiếc xe 7 chỗ chở chúng tôi về Công an Quận Hoàng Mai.
CAquanHoangMai
Công an Quận Hoàng Mai.
Một vài gương mặt trong đám côn đồ bắt tôi, một số cũng đi xe máy đến Công an Hoàng Mai.
Tại Công an Quận Hoàng Mai. Hai người được đưa ra hai phòng khác nhau.
Họ đưa tôi vào một căn phòng ở tầng 1, ghi là Phòng Tiếp dân. Cùng ngồi với tôi, luôn có hai hoặc ba người trong phòng, một người mặc quần áo công an, một hoặc hai người khác là nhân viên an ninh mà tôi đã nhẵn mặt trước ngõ hoặc xung quanh nhà tôi mỗi khi có sự kiện gì đó.
Chợt đại tá Nguyễn Hồng Thái – Trưởng Công an quận Hoàng Mai, người mà khi mới nhậm chức đã ghé thăm nhà tôi nhận đồng hương – xuất hiện. Ông lớn tiếng:
– Ông Vinh à.
– Vâng, chào anh, tôi đây.
– Ông lại đi lên đó biểu tình.
– Tôi đang đi bộ trên vỉa hè, một đám mất dạy lại bắt tôi lên xe. Mà nếu đi biểu tình thì càng tốt chứ sao? Không biểu tình vì môi trường thì ngay cả gia  đình bố mẹ và em út, cháu chắt ông trong quê lại được ăn cá chết nhiễm độc rồi ung thư cả loạt đấy.
Ông ta bỏ đi ngay.
Cậu công an đưa chúng tôi về lúc nãy, trở lại với bộ cảnh phục, quân hàm quân hiệu đầy đủ với một tập giấy Biên bản ghi lời khai.
Ngội trong phòng, cậu cảnh sát mới mặc quân phục cho người pha ấm chè mới, rót ra chén nước xong cậu ta bảo:
– Mời anh Vinh uống nước rồi ta làm việc. Cũng nói với anh là việc này không phải là việc của em, em bên đội Phòng chống Ma túy, nhưng hôm nay đội em trực nên phải làm việc với anh.
Tôi hỏi:
– Làm việc gì?
– Thì làm việc về việc anh có mặt trên đó và Công an Thành phố mời anh về giao cho bọn em làm việc.
– Tôi yêu cầu chú cho tôi xem cơ sở pháp luật nào để bắt tôi như bọn cướp trên đường, rồi đưa tôi về đây để làm việc? Tôi không có bất cứ việc gì để làm việc với các chú hôm nay.
– Đó là mời chứ ai bắt anh đâu.
– Theo ngôn ngữ Việt Nam, không có từ “mời” nào được sử dụng trong trường hợp một nhóm người như côn đồ chặn bắt người khác như bắt cướp rồi đưa về nhà bảo là mời cả. Chú thử xem, nhà chú có đám cưới, chú cho người chặn bắt như bắt giặc với người khác về nhà,  gọi  là mời về ăn cưới thì đúng không? Người Việt Nam chúng tôi không sử dụng từ mời trong trường hợp như vậy bao giờ.
Video đoạn Công an giả dạng côn đồ bắt người đi bộ trên đường.
(Còn nữa)
Hà Nội, ngày 9/5/2016
  • J.B Nguyễn Hữu Vinh