Thứ Bảy, 21 tháng 11, 2009

Nghiêm khắc o cho nao với cảnh sát giao thông vi phạm qua bai nay ??


Thứ Bảy, 21/11/2009, 07:00

TP - "Cấp trên đi kiểm tra, có nơi, cảnh sát giao thông (CSGT) bỏ chạy ra đồng, vào bụi chuối đến nỗi văng cả điện thoại. Ở Đồng Nai, Tiền Giang, Quảng Trị, khi đoàn đến kiểm tra, thấy tiền văng ra đường tung toé hàng chục triệu đồng"

Bên cạnh những thành tích trong công tác góp phần đảm bảo an toàn giao thông, Trung tướng Cao Xuân Hồng - Phó Tổng cục Cảnh sát cũng thẳng thắn phê phán một số hành vi chưa đúng của CSGT khi làm nhiệm vụ.

CSGT TP Hà Nội làm nhiệm vụ trên đường Trường Chinh - Ảnh: Phạm Yên

Nhắc nhở một số CSGT

Năm nay, ngành công an sớm tổng kết công tác đảm bảo an toàn giao thông và chuẩn bị các biện pháp cho dịp Tết Canh Dần. Đây là hội nghị tổ chức trực tuyến giữa hai miền Bắc Nam với thành phần tham dự là lực lượng CSGT cả nước.

Theo thống kê, 11 tháng đầu năm nay, so với năm ngoái, tai nạn giao thông (TNGT) đường bộ được kiềm chế và giảm cả số vụ, số người chết và bị thương. Tuy nhiên, số vụ vẫn còn cao (10.805), làm chết 10.168 người.

Tại hội nghị, tướng Hồng đã thẳng thắn trước hiện tượng CSGT ở một số địa phương vi phạm: “Ở Hà Tĩnh, Thanh Hoá, chỉ có một đoạn đường ngắn nhưng có tới bốn tổ tuần tra kiểm soát. Điều này không ổn tí nào, cần xem xét lại việc bố trí lực lượng. Có nơi dừng xe liên tục nhưng mỗi xe chưa đầy một phút”.

Tướng Hồng dẫn luôn con số là 34 xe/29 phút. Theo đó, với chừng ấy thời gian thì CSGT kiểm tra được gì với những xe bị vẫy dừng lại.

“Cấp trên đi kiểm tra, có nơi, CSGT bỏ chạy ra đồng, vào bụi chuối đến nỗi văng cả điện thoại. Ở Đồng Nai, Tiền Giang, Quảng Trị khi đoàn đến kiểm tra thấy tiền văng ra đường tung toé hàng chục triệu đồng. Cũng cần nhắc nhở rằng, CSGT đi tuần tra có xe biển xanh và đèn tín hiệu nhưng có lúc cũng không bật đèn. Thậm chí đi tuần tra nhưng lại có xe tư nhân để bên cạnh. Trong xe để tiền khắp nơi. Khi được hỏi thì bảo bố mẹ đưa cho nên không biết là bao nhiêu”, tướng Hồng nói.

Cũng theo tướng Hồng, những trường hợp CSGT vi phạm bị phát hiện đều đã được xử lý nghiêm.

Dịp tết, xử lý nghiêm hành vi gây TNGT

* 11 tháng năm 2009, đường bộ xử lý gần năm triệu (4.987.775) trường hợp vi phạm Luật Giao thông Đường bộ, nộp Kho bạc Nhà nước 1.178 tỷ đồng, tước 159.039 giấy phép lái xe.

* 10.168 người chết vì TNGT đường bộ chia cho 11 tháng, sẽ có con số mỗi ngày có 30 đám tang.

Về một số sai phạm của chiến sỹ CSGT như đề cập ở trên, Thiếu tướng Đỗ Đình Nghị - Cục trưởng CSGT Đường bộ - Đường sắt (C26) cho biết, Bộ Công an và Tổng Cục cảnh sát rất quan tâm và đây không phải việc ngày một, ngày hai có thể giải quyết.

Một số giải pháp đảm bảo an toàn giao thông dịp Tết, Thiếu tướng Nghị nói: “Tăng cường tuần tra xử lý nghiêm những hành vi có thể gây ra TNGT. Đặc biệt lưu ý tới những đối tượng gây TNGT nghiêm trọng như xe chở khách.

Dịp đi lại cao điểm tết có hai vấn đề: Phòng ngừa TNGT và chở quá số người quy định. Năm nay sẽ duy trì và đẩy mạnh hơn sự phối hợp giữa lực lượng CSGT và ngành GTVT. Mục tiêu Tết Canh Dần là đảm bảo giao thông thông suốt phục vụ bà con đi lại”.

Trước hiện tượng ùn tắc giao thông, Thiếu tướng Nghị chia sẻ: “Vừa rồi họp với các địa phương để có đánh giá sơ kết sau một năm thực hiện Nghị quyết 16 của Chính phủ.

Theo đó, vấn đề giải quyết cơ sở hạ tầng cho giao thông như chuyển nhà trường, bệnh viện, công ty...ra khỏi nội thành hay phát triển giao thông công cộng vẫn chưa thể thực hiện được”.

Khi được hỏi về sự phát triển của các phương tiện cá nhân, Cục trưởng C26 cho biết, giải quyết vấn đề phương tiện cá nhân trong điều kiện hạ tầng hiện nay hết sức cần thiết nhưng giải pháp thì cần phải tính thêm.

Theo kinh nghiệm quốc tế, người ta dùng nhiều giải pháp về mặt kinh tế, như nâng cao mức phí như khi đăng ký xe, phí cầu đường, phí dừng đỗ trong phố. Từ đó, người có nhu cầu mua xe sẽ tính toán có nên mua xe trong điều kiện các mức phí liên quan cao nữa hay không.

“Một số giải pháp tức thì như chạy xe ngày lẻ, ngày chẵn mang tính chất cưỡng chế sẽ không đi vào cuộc sống được”, ông Nghị nói.

Đình Thắng

Thứ Tư, 11 tháng 11, 2009

Gạo chín không cần nấu

Tuong lai cua am thuc rat xan lan ...

Các chuyên gia nông nghiệp của Ấn Độ tuyên bố họ vừa tạo ra một giống lúa mà con người có thể ăn sau khi ngâm trong nước, không cần nấu chín.

Ảnh gạo
Ảnh minh họa gạo Aghanibora của trang mynews.in.

Theo hãng tin IANS, giống lúa nói trên - có tên Aghanibora - là kết quả nghiên cứu của Viện nghiên cứu gạo trung ương Ấn Độ (CRRI). Ông Tapan Kumar Adhya, giám đốc CRRI, cho biết, Aghanibora có thời gian sinh trưởng 145 ngày và đạt năng suất 4 đến 4,5 tấn trên mỗi hecta.

Khác với những giống lúa truyền thống, Aghanibora có hàm lượng men phân giải tinh bột thấp và trở nên mềm khi vo trong nước.

"Bạn có thể ăn gạo sau khi ngâm nó khoảng 45 phút trong nước thường và 15 phút trong nước ấm", Adhya nói.

Aghanibora được phát triển từ giống lúa "Komal chawl" nổi tiếng của bang Assam (phía bắc Ấn Độ) chứ không phải gạo biến đổi gene. Lúa "Komal chawl" có khả năng sinh trưởng trong điều kiện thời tiết nóng và ẩm song vẫn giữ được các dưỡng chất và đặc tính mềm của gạo. Aghanibora chẳng có gì khác biệt so với các loại lúa khác đang được trồng ở Ấn Độ.

Adhya nói rằng trong suốt ba năm qua các nhà khoa học của CRRI đã trồng thử Aghanibora trong môi trường nóng và ẩm của bang Orissa để xem nó giữ được đặc tính mềm và các dưỡng chất khi tiếp xúc với nước giống như lúa "Komal chawl" hay không.

"Chúng tôi vui vì các thử nghiệm đã thành công. Với loại gạo này, việc nấu cơm sẽ trở nên đơn giản và tiêu tốn ít thời gian hơn.", ông nói.

Minh Long

Sao thiên thu không là...

Bai nay hay hay , luu vo day de khoi bi mat sau nay coi lai...

Tưởng Dung

Sao thiên thu không là...
(tưởng nhớ Nguyễn Tất Nhiên)


Khi gọi Minh Thủy để nhắc về buổi hẹn đi ăn trưa vào ngày Chúa nhật hôm sau, tôi nghe giọng Thủy thật nhẹ nhàng ở bên kia: “Dung à, mày đi với tao thăm mộ anh Nhiên trước khi đi ăn một chút được không? Hôm qua là giỗ của anh ấy đó, chắc lâu lắm rồi mày đâu có đi đến đó hả nhỏ?”. Tôi giật mình như vừa được nhắc nhớ đến một người bạn thân, một kỷ niệm quen thuộc, rất gần gũi, rất tự nhiên mà mình đã có và vô tình quên khuấy đi mất. Ừ nhỉ, đời sống bên này với những bận rộn, hối hả từng ngày, đôi khi có ai tình cờ nhắc đến những người bạn nào đó đã có một thời thân thiết, giao thiệp qua lại với nhau thật lâu bỗng dưng “mất tích” không gặp nữa vì hoàn cảnh, công việc hoặc dọn đi xa, tôi vẫn mừng rỡ, háo hức, chờ được nghe thêm tin tức hoặc gặp lại. Huống chi là anh Nhiên, vừa là người anh, vừa là người bạn đời quá cố của đứa bạn thân thiết nhất của tôi từ dạo còn đi học cho đến giờ. Trong phút chốc, hình ảnh cao gầy, lỏng khỏng với hai cánh tay dài quá khổ hay quơ quơ để diễn tả và gương mặt cứ… nhăn nhó, bậm môi, mỗi khi nói chuyện với tôi của anh hiện ra, rõ ràng trong trí nhớ. Anh Nhiên và tôi đã có một thời gian thân thiết và cũng có một thời gian… thù nhau quá sức. Nhớ tới mối quan hệ rất ngộ nghĩnh, đầy “hỉ, nộ, ái, ố” của chúng tôi trong chuỗi ngày xa xưa ấy, tôi thật không biết phải vui hay buồn. Thời gian quả thật đáng sợ, mới đó mà anh mất đã 15 năm rồi. Lần này đến thăm anh, chắc chắn tôi có rất nhiều điều để nhắc nhớ.

Khi Thủy bắt đầu quẹo xe vào cổng của nghĩa trang Peek Family, cái âm thanh náo động ngoài đường phố bỗng dưng chìm dần, rồi tắt hẳn. Trước mặt tôi là con đường nhỏ vòng theo những vòm cây rợp bóng mát, thinh lặng, nhẹ nhàng… Mặt đất là những thảm cỏ xanh mượt mà được chăm sóc cẩn thận. Ngồi cạnh Thủy đang chầm chậm lái xe đến chỗ an nghỉ của anh Nhiên, tôi thong dong ngắm nhìn một khoảng không gian an bình, thoát tục đang trải rộng quanh mình, chỉ có tiếng gió rì rào trên các tầng cây, tiếng xào xạc của những chiếc lá khô đang uốn mình trên mặt đất khi bánh xe nghiến lên. Không khí yên lành, thanh tịnh dễ khiến lòng người lắng đọng. Những lo buồn, ray rứt của đời sống, của những ngày trước kia đã có bỗng dưng chìm xuống, ngủ yên. Tôi như lịm người đi với cái cảm xúc lạ lùng chợt ùa tới, cái cảm giác mà từ lâu tôi không có được… bình yên và thanh thản. Không thấy bóng người lai vãng, buổi trưa cuối tuần thế mà vắng vẻ quá! Dường như những người nằm đây đã bị đời lãng quên? Lâu lắm rồi từ ngày tiễn anh ra đến phần mộ trong nghĩa trang này, tôi chưa bao giờ có dịp để trở lại viếng thăm, kể ra là cũng quá tệ! Nhưng biết làm sao hơn? Thôi thì nhờ Thủy hôm nay cho tôi cơ hội để được thăm lại người mà tôi đã từng xem như một người anh và có lúc đã xem nhau như “kẻ thù” (như tôi và anh đã từng nghĩ về nhau sau một trận cãi vã kịch liệt).

Tiếng Thủy kéo tôi trở về với thực tại:

“Chịu khó đi bộ một chút nha nhỏ, mộ anh Nhiên ở trong kia, không cho xe vô được.”

Tôi cười:

“Ừ thì có dịp đi excercise một chút, có sao đâu!”

Tôi xuống xe với một tâm trạng nao nức, kích động như sắp sửa đi gặp lại người quen đã lâu rồi… thất lạc. Hai đứa chia nhau cầm bó hoa, nhang và hộp quẹt bắt đầu lần bước tìm bia mộ anh Nhiên. Nghĩa trang ở đây không choáng đầy mắt với những ngôi mộ xây cất đủ hình đủ kiểu, chằng chịt như ở Việt Nam. Các ngôi mộ ở Mỹ đều giống như nhau. Một khoảng đất cùng kích thước, nằm san sát, có hàng lối rõ ràng, tấm bia được đặt nằm phẳng phiu ngay trên mặt đất, vì thế cũng khó mà định hướng mộ của thân nhân mình nếu không biết trước.

Thủy nhắc tôi:

“Coi chừng đạp lên mộ người ta đó nha, có khi mộ cũ quá rồi mày không thấy rõ cái mặt bia đâu.”

“Ừ, tao biết mà.”

Tôi vừa đi vừa nhẩm đọc thử tên tuổi của những bia mộ gần bước chân mình nhất, có nhiều người chết thật trẻ, nằm bên cạnh những ông bà cụ tuổi thật cao. Nắng chói chang trên từng dòng chữ, trên những tấm ảnh đã phai màu với thời gian.

Chúng tôi dừng lại ở dưới một bóng cây với những tàn cao, to rộng, đầy bóng mát. Thủy nói:

“Đây rồi, mộ của anh Nhiên may là được nằm ở chỗ này, có bóng mát lại cũng gần chỗ có nước, thoáng và lý tưởng, chứ mộ của ông Mai Thảo ở đàng kia, trơ trụi, không có cây cối gì cả nắng nóng cả ngày, mày ơi!”

Tôi rảo mắt nhìn quanh, cố nhớ lại hình ảnh của mười mấy năm về trước. Cũng nơi này, gia đình, bạn bè, người thân của anh Nhiên có mặt đông đủ lúc hạ huyệt, những nhà văn, nhà thơ, nghệ sĩ, mà lần đầu tiên tôi mới gặp mặt đã đứng ở đây đọc điếu văn, chia buồn, nhỏ lệ xót thương. Chưa bao giờ tôi được thấy nhiều nhân vật nổi tiếng cùng một lúc như thế. Tôi nhớ là mình đã rất xúc động khi nghe ông Phạm Duy với mái tóc bạc trắng ngậm ngùi, từ tốn nhắc đến những kỷ niệm với anh Nhiên và những bài thơ mà ông đã phổ nhạc. Tôi nhớ ca sĩ Việt Dũng đứng ở góc kia và một số người nữa nhìn tôi với đôi mắt hiếu kỳ khi thấy Thủy cứ gục đầu vào vai tôi khóc nức nở. Chắc họ thắc mắc không biết tôi là ai và có quan hệ gì với gia đình người quá cố. Và nơi đây, mẹ anh là người cuối cùng sau khi xác thân anh đã thực sự được đặt yên dưới lòng đất lạnh, đã khóc than, hối tiếc về sự ra đi của đứa con mà đến bây giờ trước sự thương tiếc, quý mến của thân hữu, của mọi người đối với anh, bà mới nhận ra con mình quả là một “thiên tài” đích thực. Nơi đây, chỗ này đã chứng kiến giờ phút cuối cùng “nghĩa tử nghĩa tận” của anh đấy mà. Những cành hoa đã thay nhau rơi xuống, phủ đầy trên nắp áo quan, những giọt lệ đã cạn khô trên mắt người đưa tiễn. Anh đã thực sự đi vào cõi thiên thu. Nơi mà anh đã cảm nghiệm được và nói đến rất nhiều từ những bài thơ đầu tiên. Tôi nhớ sau tang lễ của anh, khi mọi người lần lượt ra về, tôi đã đứng trước mộ anh một hồi lâu, nhớ đến bài thơ “Thiên thu” nằm ở trang cuối cùng trong tập “Thiên tai”, một trong những bài thơ mà tôi rất thích ngay lần đầu đọc thơ anh, bấy giờ sao mà thấm thía:

“Sao thiên thu không là xa nhau?
nên mưa xưa còn giăng ngang hồn sầu
tôi đứng như cây cột đèn gẫy gập
và một con đường cúp điện rất lâu.

Sao thiên thu không là chôn sâu?
nên nắng xưa còn hôn mái tóc nhầu
tôi đứng như xe tang ngừng ngập
và một họ hàng khăn trắng buồn đau…

……………….

Sao thiên thu không là thiên thu
Nên những người yêu là những ngôi mồ
tôi đứng một mình trong nghĩa địa
và chắc không đành quên khổ đau!”

Quả thật, sau mọi linh đình đưa tiễn, anh đã ở lại một mình trong nghĩa trang này với những khổ đau, nghiệt ngã của cuộc đời đã được chôn vùi dưới lòng huyệt lạnh, đã cùng anh đi vào tận chốn thiên thu!

Tôi lặng lẽ cắm hoa vào cái bình đã có sẵn ở trước mộ, Thủy đi lấy nước ở một cái vòi cách đấy vài mươi bước và trở về đổ đầy vào bình hoa, tôi ngạc nhiên nhìn Thủy tưới phần nước còn lại lên trên mặt tấm bia, nhưng ngay sau đó lòng lại xúc động, bùi ngùi khi thấy Thủy dùng cuộn giấy mang theo, từ tốn lau sạch đi những bụi cát đang phủ lờ mờ trên đó. Bia mộ anh là một phiến đá làm bằng lacquer đen bóng, sau những vệt lau của Thủy đã lại sáng như gương. Tấm ảnh của anh hiện ra thật rõ ràng ở trên góc trái cùng với phần đầu của bài thơ “Giữa trần gian tuyệt vọng” anh viết từ năm 1972 nằm ngay bên cạnh. Tôi ngồi xuống, đọc từng giòng thơ đã được viết với nét chữ khắc thật đẹp với lòng trân trọng pha lẫn xót xa:

“Ta phải khổ cho đời ta phải khổ
Phải ê chề cho tóc bạc với thời gian
Phải đau theo từng hớp rượu tàn
Phải khép mắt sớm hơn giờ thiên định
(Vì thượng đế từ lâu kiêu hãnh
Cầm trong tay sinh tử muôn loài.
Tình ta vừa gánh nặng thấu xương vai
Thì em hỡi ngai trời ta đạp xuống)”

Cũng khá thân và lại rất thích thơ anh Nhiên, nên hầu hết các bài thơ của anh tôi đều biết và thuộc lòng (hoặc ít nhất cũng vài đoạn trong mỗi bài). Riêng bài này, khi tình cờ nghe lại, trích trong bài viết “Tìm ở sao trời” của Hoàng Mai Đạt đăng trong tạp chí Văn Học và được đọc một lần trên đài radio Little Saigon hồi tháng 6, tôi đã ngậm ngùi, chợt nhớ ra: anh Nhiên đã mất lâu lắm rồi! Nghe nhắc đến bài thơ đã buồn, giờ trông thấy, đọc lại càng buồn và thấm thía hơn! Anh làm thế nào mà có thể khẳng định rằng cuộc đời mình là “phải khổ”, “phải ê chề” và nhất là “phải khép mắt sớm hơn giờ thiên định” từ năm mới vừa 20 tuổi?

Thủy vỗ nhẹ vai tôi, đưa mấy nén nhang và dặn dò:

“Mày khấn xong rồi cắm cho anh Nhiên vài cây, còn lại chừa để lát nữa đem cắm ở những ngôi mộ khác nha.”

Từ ngày qua Mỹ, thực sự tôi cũng rất ít, hay nói hẳn ra là không có dịp nào đi vào nghĩa trang thăm mộ người chết như thế này, trừ những lần đưa tiễn, cầu nguyện ở nhà quàn trước khi hạ huyệt, nên có Thủy nhắc nhở cũng đỡ phải lúng túng.

“Khấn gì đây? Liệu anh có còn quanh quẩn đâu đây để nghe tôi nói không?” Tôi với anh từ lúc mới quen biết đến khi anh mất đi, có lúc đã chuyện trò vui vẻ, đã “cãi vã” thật nhiều, có lúc lại không thèm nhìn mặt hoặc nói với nhau lời nào. Hơn nữa, tôi đã không gặp anh ít ra cũng gần ba năm trước khi anh mất, anh giận tôi đã không cho tin tức gì của Thủy, tôi giận anh đã đối xử với đứa bạn thân của tôi và là vợ con anh quá… hờ hững, vô tình! Và như thế chúng tôi cứ như là “ân đoạn nghĩa tuyệt” từ đó. Không ngờ, chỉ một thời gian sau, anh đã tự rời bỏ cuộc đời quá sớm và dễ dàng như những bài thơ anh đã viết vậy!

Tôi cầm mấy nén nhang, mắt đăm đăm nhìn vào di ảnh của anh, thì thầm những lời không chuẩn bị mà vẫn nói thật suông sẻ như là đang có anh trước mặt:

“Anh Nhiên à, chắc rằng ở chốn “miên trường, vĩnh cửu” nào đó, anh đã quên hết mọi thống khổ, lụy phiền của nhân gian, đã được hưởng sự an vui, cực lạc đời đời rồi. Mong anh cũng quên và tha thứ cho những gì anh em mình đã hiểu lầm, giận ghét nhau trong quá khứ. Hãy ngủ yên và thanh thản trong “cõi thơ” trên chốn thiên đàng của anh. Hãy phò trợ cho Thủy và các con anh, giữ gìn, nâng đỡ chúng để chúng khôn lớn, vững chãi, có sức mạnh, niềm tin mà vượt qua mọi thử thách của cuộc sống, đừng để chúng vấp ngã, trầy sướt và đau đớn nha anh.”

Mắt tôi bỗng nhòa đi với ý tưởng là tôi đã nói được điều mình muốn nói với anh mà trước kia đã không có dịp. Lời xin lỗi rất chân thành. Dù gì tôi, Thủy và anh cũng có cái “duyên” với nhau trong một khoảng đời dù không dài lắm nhưng cũng không thể gọi là ngắn ngủi. Và cứ thế, những hình ảnh xa xưa bỗng quay về trong ký ức thật nhanh như những đoạn phim rời vừa được ráp nối.

Tôi nhớ lần đầu tiên, lúc anh vào lớp tôi để giới thiệu tập thơ “Thiên tai”. Tôi đã ngạc nhiên vì không biết tại sao một nhân vật… tầm thường của trường mình, người vẫn có tiếng là “gàn”, thậm chí còn bị cho là “khùng” như anh mà lại biết… làm thơ và lại còn… dám in thơ đem bán nữa. Vì tò mò, tôi đã lật xem thử vài bài trong tập thơ và không ngờ bị lôi cuốn ngay với “Bài thấm mệt đầu tiên”, “Nên sầu khổ dịu dàng”, “Linh mục”, “Nên thời gian ấy ngùi trông”… tôi đọc say sưa, đọc mãi cho đến bài cuối cùng “Thiên thu”, và như người vừa nhận ra mình đang cầm một “báu vật” trên tay, không thể nào để mất, tôi mua ngay một quyển dù lúc đó giá tiền của tập thơ không phải là nhỏ đối với tuổi học trò lớp mười của tôi. Tôi đem về nhà đọc đi đọc lại mãi những bài thơ của anh, bắt đầu thán phục về “tài làm thơ”, về sự liên tưởng, lý luận để bày tỏ, diễn đạt tâm tình một cách thật đơn sơ, nhẹ nhàng mà vô cùng sâu sắc qua việc sử dụng từ ngữ mới lạ, độc đáo của anh. Những hình ảnh rất dung dị, bình thường của đời sống qua thơ anh bỗng trở thành đẹp đẽ, ý nghĩa hơn. Tôi thật sự ngạc nhiên và thích thú với sự so sánh của anh trong “Bài thấm mệt đầu tiên”:

“Tình mới lớn phải không em rất thích?
Cách tập tành nào cũng thật dễ thương
Thuở đầu đời chú bé soi gương
Và mê mải dĩ nhiên làm lạ.

Tình mới lớn phải không em rất lạ?
Cách tập tành nào cũng ngượng như nhau
Thuở đầu đời chú bé ôm phao
Và nhút nhát dĩ nhiên ngộp nước.

Tình mới lớn phải không em rất mỏng?
Cách tập tành nào cũng dễ hư hao
Thuở đầu đời cầm đũa thấp cao
Và nâng chén, dĩ nhiên, đổ vỡ…”

Cũng nhớ, trong tập “Thiên tai” anh viết chỉ có một câu thôi mà đã làm tôi sững sờ và có ấn tượng mạnh mẽ hơn về con người của anh là:

“Tôi không đủ kiên nhẫn để đọc hết một quyển truyện dài, vì truyện dài không thể đọc vội vã. Người chắc cũng không đủ kiên nhẫn để yêu tôi vì tôi còn dễ chán hơn truyện dài. Tôi là một kịch bản trường thiên!”

Anh đã tự thu mình lại, khiêm nhường đi, chọn cho mình con đường cam phận, chịu thua thiệt, hay dùng đó để xác định rõ về bản tính, về chủ năng của chính mình, một “thiên tài” không dễ ai hiểu biết và cảm thông?

Từ đó, anh được tôi xem như là một nhà thơ trong danh sách “thần tượng” của thơ với ngôn ngữ mới lạ. Sau, nhờ chị Duyên, nhân vật trong bài thơ “Khúc tình buồn”, được Phạm Duy phổ nhạc thành bài hát “Thà như giọt mưa”, tôi lại có “duyên văn nghệ” được anh cho mượn phụ bản “Duyên” trong tập thơ “Thiên tai” để làm bìa tập thơ “Tuyên ngôn 15” cho chính tôi và Ngọc Yến, một cô bạn cùng lớp. Thủy bị tôi rủ đi theo gặp anh mấy lần để lấy và trả tập bản kẽm, thì lại mắc vào một cái duyên khác “duyên nợ ba sinh” với anh sau này. Thật tình, lúc đó anh làm tôi rất cảm động vì thấy “nhà thơ lớn” mà sao lại dễ dãi với “đàn em nhỏ” như tôi mượn gì là được nấy. (Chắc tại nghe tôi khoe là “em nuôi” của chị Duyên?). Về sau, tôi còn… khám phá ra do gia đình có quan hệ dây mơ rễ má thế nào đó, mẹ của anh gọi ba tôi bằng cậu, tức là tôi tới vai “dì” của anh Nhiên lận. Chao ôi, thật là oai ghê!

Nhưng thú thật, anh có một cái tật mà tôi rất… kỵ là mỗi khi lỡ nói gì trái ý là anh chau mày, bậm môi, đôi mắt cúi gầm xuống, hai bàn tay chập vào nhau chống trước trán, lầm lì không nói gì hết cho đến lúc… bỏ đi. Có lúc tức quá, tôi bảo Thủy: “Ông này cứ làm như đang đóng kịch vậy đó mầy ơi!... thấy ghét!”. Thủy rất hiền, nhút nhát, ít nói, nên cô nàng chỉ cười lặng lẽ, không ý kiến. Cũng vì tính tình như vậy nên thư tình, quà cáp gì của anh Nhiên gửi cho Thủy sau này cũng một tay tôi chuyển giúp. Cứ tan trường, hai đứa đi bộ về nhà chỉ cần nhác thấy bóng chiếc Honda của anh Nhiên sắp lạng tới là Thủy đẩy tôi ra phía ngoài để nó đi bên trong, tránh nói chuyện hay nhận thư, quà từ anh. Vừa sợ vừa muốn cho xong, nên tôi cứ nhận đại rồi đưa qua cho Thủy ngay sau khi anh đã phóng xe đi mất. Thủy vừa nhận vừa phản đối nên tôi cũng không biết rõ cô nàng có… chịu chàng hay là không. Nhưng tôi thì thấy vui lắm vì nghĩ rằng mình đang làm chứng nhân cho một mối tình cũng lãng mạn quá đấy chứ. Cũng nhờ vậy mà có lần tôi được “ăn theo” với Thủy, lần đó, anh Nhiên rà xe cạnh tôi dúi nhanh một cái bọc và nói trước khi phóng xe đi: “Thuốc… bổ óc đó, một cho Dung, một cho Thủy, ráng uống để mà thức học bài thi”. Tôi đưa cho Thủy bọc thuốc, cảm động một chút, vui vui một chút, coi vậy mà anh chàng cũng… biết điệu quá đó chứ! Lúc ấy, anh Nhiên đã bắt đầu thân thiết với tôi, thỉnh thoảng cứ chạy xe đến nhà tôi đưa thư, kể lể mọi chuyện… Có một hôm, đang ngồi trong nhà tự dưng thấy anh chạy xe đạp xồng xộc tới, vừa dựng xe, vừa thở hào hồn kể cho tôi nghe chuyện “gây gổ” giữa anh với anh T., em của chị Duyên, mới vừa xảy ra ở quán cà phê gần nhà tôi. Câu chuyện bắt đầu từ bài viết “Hột mè” của anh đăng trên báo Văn thì phải? Anh nói: “Thằng T. nói anh viết bài này “chửi” chị nó độc quá, nên nó tức đòi đánh anh…”. Tôi có đọc qua bài đó nên cười an ủi: “Anh viết cũng nặng tay lắm chứ bộ. Anh T. tức là đúng rồi. Thôi ai biểu viết mà chọc giận người ta làm chi. Chửi người khác mà anh vui sao?” Trước khi ra về anh còn nói như thật: “Lần sau, anh không có nhịn đâu.” Tôi cười vì biết tính anh nói thì… dữ nhưng chẳng làm gì hại ai cả. Chắc cũng vì chuyện này mà thời gian sau anh đã viết “Bài tạ lỗi cùng người” có những câu thật cảm động:

“Năm năm trời… ta làm tên quái đản
Cầu danh trên nước mắt người tình
Năm năm trời có nhục có vinh
Có chua, chát, ngọt, bùi, cay, đắng…
Có hai mái đầu chia nhau thù oán
Có thằng ta trút nạn xuống vai em!
Năm năm trời… có một tên Duyên
Ta ca tụng rồi chính ta bôi lọ
Tình ta đẹp nhưng tính ta còn nít nhỏ
Nên lỗi lầm đã đục màu sông
Nếu em còn thương mến tuổi mười lăm
Xin nuốt hận mỉm môi cười xí xóa
Hồn ta đẹp nhưng đời ta thảm quá
Nên tị hiềm nhen nhúm giữa ngây thơ
Nếu em còn chút đỉnh mộng mơ
Xin rộng lượng thứ dung người lỡ dại.”

Tôi dạo ấy cũng… hơi lo dùm cho Thủy, Thủy học rất giỏi, giỏi nhất trường, xinh xắn, tài năng toàn diện, ai cũng quí mến, còn cái ông nhà thơ này sao ngày nào cũng đón đường, tỏ tình, tỏ ý với Thủy mà làm thơ thì cứ thấy ca tụng hết cô này đến cô khác. Vậy thì thương thiệt hay giả đây?

Cho nên, đến khi Thủy năn nỉ nhờ tôi mang trả lại hết quà cáp, thư từ cho anh Nhiên, tôi đã… ngây thơ thương bạn, nhận lời mà có biết đâu tự mình đi đón nhận phong ba bão tố. Sau khi biết tôi mang mọi thứ đi trả giùm cho Thủy, anh Nhiên đã mắng tôi và đổ thừa tại tôi… xúi Thủy tuyệt tình với anh. Tôi tức điên lên và cãi với anh một trận tơi bời hoa lá. Anh giận tôi đến độ còn dọa sẽ viết một bài… chửi tôi trên báo để cho tôi biết tay anh. (May là chắc anh nghĩ lại, thấy “tội” của tôi còn nhẹ hoặc biết là không có tội gì hết, nên không có bài nào nêu đích danh tôi để… trả thù, trừ một câu trong bài thơ “Kẻ tự đóng đinh tim” đã ví tôi là “quỷ sứ” mà sau này qua Thủy tôi mới biết. Đó là câu: “Lỡ yêu tín đồ phải chấp nhận gian truân. Phải muối mặt giao du cùng quỷ sứ.” Chứ nếu không chắc tôi cũng đã được anh đưa vào… văn học sử bằng một ngõ… tối tăm rồi!). Từ đó, tôi với anh Nhiên bắt đầu một mối thù… không tên, và cứ mỗi khi Thủy nhắc tới anh Nhiên là tôi tha hồ mà… đay nghiến. Lúc này, tôi đã thực sự giận ghét anh Nhiên và muốn cho Thủy đừng thèm “mềm lòng” với cái anh chàng nghệ sĩ tài hoa mà gàn dở này nữa.

Nhưng khi đọc bài thơ“Thục nữ”, là bài đầu tiên anh Nhiên viết cho Thủy, với hình ảnh Thủy trong thơ và Thủy ngoài đời là một, rất thật, rất dễ nhận ra với tóc bính, nón lá, hài nhung, mảnh mai, nhẹ nhàng, vô cùng thục nữ đã làm tôi xúc động:

“Chiều em đi hai hàng bính tóc
Gieo xuống đôi vai nhỏ thiệt thà
Còn bao nhiêu dấu hài khuê các
Sao đành gieo xuống phố đời ta?

Chiều em đi nón lá che nghiêng
Sao đành che mất nụ cười duyên?
Mây vẫn chưa về gom bớt nắng
Trần ai đông lắm kẻ si tình.

Chiều em đi trong nắng trời tây
Bóng đổ lênh đênh – bóng đổ gầy
Bóng đổ gầy như ta ốm yếu
Đeo đẳng hoài theo tình không may

Chiều em đi bước ngại bước ngùng
Như sợ làm đau ngọn cỏ nhung
Như sợ bay lên từng đóa bụi
Sao khách tài hoa nát cả lòng?

Chiều em vui quá thuở vàng son
Ta bỗng lang thang khắp ngả đường
Ta đi cho chết thời oanh liệt
Cho thấu một trời đau đớn riêng!”

Bài “Giữa trần gian tuyệt vọng” là bài thứ hai anh đã viết gửi cho Thủy với những lời bày tỏ chân tình, nhưng đã khiến cho Thủy giận hờn, ấm ức nhờ tôi mang trả lại thư từ, quà tặng của anh và đã là nguyên nhân khiến tôi phải… rước họa vào thân. Đó là những câu:

“Ta vẫn nhớ trưa nào em ngồi hát
Ta vẫn thèm hôn lên mắt tiểu thơ buồn
Ta vẫn thèm ăn năn những lúc đón đường
(Em khó chịu… mà thư nào em cũng nhận)”

Sau khi biết vì mình mà tôi và anh Nhiên đã không thèm nhìn mặt nhau nữa, thì Thủy ít nhắc nhở tới anh hơn và lặng thinh mỗi lần nghe tôi kể tội anh đã mắng nhiếc, sỉ vả tôi như thế nào. Anh Nhiên thì phải tự động tìm cách để… nối nhịp cầu tri âm với Thủy một mình vì không còn cái nhịp cầu mang tên… Dung nữa.

Mãi cho đến một buổi chiều kia, tan học về, Thủy báo cho tôi biết: “Ông Hải (tôi và Thủy vẫn quen gọi anh bằng tên thật là Hải, dù anh đã nổi tiếng và mọi người luôn gọi anh bằng tên Nguyễn Tất Nhiên) nói chiều thứ Sáu hàng tuần có chương trình giới thiệu nhạc mới ở radio, thứ Sáu này nhớ đón nghe vì sẽ có bài thơ “Hai năm tình lận đận” ổng làm cho tao được Phạm Duy phổ nhạc, hát lần đầu.” Tôi nhìn Thủy ngạc nhiên, thầm nghĩ: “Ông này coi vậy mà cũng… khôn, biết cách giải mã “độc đáo” thiệt, như thế này thì Thủy có… chạy đàng trời.” Tôi tuy còn ấm ức vì… mối hận lòng, “oan Thị Kính” vẫn còn đầy ứ mỗi khi nhớ tới, nhưng cũng thấy vui và hãnh diện lây với bạn. “À há, như vậy mi đã bắt đầu được đi vào văn học sử rồi đó nha”. Cũng nhờ vậy, chiều thứ Sáu đó, tôi đã được thưởng thức trọn vẹn bài hát “Hai năm tình lận đận” với âm điệu nhẹ nhàng, buồn rầu đến tội nghiệp qua tiếng hát dễ thương, nồng nàn của Duy Quang:

“Hai năm tình lận đận
Hai đứa cùng xanh xao
Mùa đông hai đứa lạnh
Cùng thở dài như nhau.

Em không còn thắt bím
Nuôi dưỡng thời ngây thơ
Anh không còn luýnh quýnh
Giữa sân trường trao thư

Hai năm tình lận đận
Hai đứa đành xa nhau

Em vẫn còn mắt liếc
Anh vẫn còn nôn nao
Ngoài đường em bước chậm
Trong quán chiều anh ngóng cổ cao.

Em bây giờ có lẽ
Toan tính chuyện lọc lừa
Anh bây giờ có lẽ
Xin làm người tình thua.
…………………………
Hai năm tình lận đận
Em đã già hơn xưa!”

Tôi đã bật cười khi nghe Thủy kể lại, hai câu cuối của bài thơ này đã làm… động lòng Lâm Diễm, một đứa bạn cùng lớp với chúng tôi, khi nó đọc thấy bài thơ đăng trên báo trước khi được phổ nhạc. Diễm vào lớp báo ngay với Thủy: “Thủy ơi, ông Hải làm thơ chê mày… già”.

Sau khi nghe bài hát này tôi thầm nghĩ, Thủy đã không thể thoát khỏi lưới tình nữa rồi. Thủy vốn yêu thích thơ văn, cũng như tôi và số đông bạn bè cùng lứa lúc ấy, rất hâm mộ thơ Nguyễn Tất Nhiên, Thủy đã được làm “nàng thơ” của thi sĩ, nay lại được dòng nhạc của Phạm Duy đưa hình ảnh “thắt bím” của mình chắp cánh bay xa. Còn gì hơn! Nhưng chúng tôi không có thời giờ để hỏi han những chuyện vớ vẩn nào khác nữa. Tất cả thời gian còn lại là học thi, thi Tú tài II. Tôi quên bẵng đi chuyện tình của anh Nhiên và Thủy để lo học.

Rồi đến lúc lên Sài Gòn vào đại học, tôi và Thủy lại cùng ở trọ với nhau, chắc Thủy nghĩ là tôi còn giận anh Nhiên lắm, vì mỗi lần Thủy nhắc tới anh là cứ nghe tôi châm chọc: “Ông ấy là ai? Tưởng mình là nhà thơ lớn… ngon lắm hở?”. Không nhớ tôi có nói gì nặng hơn nữa không mà Thủy càng ngần ngại, dè dặt tránh nói về anh trước mặt tôi. Tôi học bên Văn khoa, Thủy học ở Đại học Vạn Hạnh, bên kia cầu Trương Minh Giảng. Bởi thế, bài “Chở em đi học trường đêm” có đoạn:

“Chở em đi học mưa, chiều
Tóc hai đứa ủ đôi điều xót xa
Mưa thánh thót, mưa ngân nga
(Hình như có bão băng qua thị thành)
……………………………………
Đèo nhau qua đoạn đời này
Cầu Trương Minh Giảng nghe đầy hoàng hôn...”

Tôi cứ tưởng là viết cho Thủy, nhưng sau này khi hỏi lại, Thủy nói: “Ổng viết cho… con nhỏ khác mày ơi!”. Tôi giật mình và cảm thấy bất mãn vì nghĩ rằng các ông văn thi sĩ chắc không chỉ có bốn ngăn tim, nên mới có thể chứa đựng được một lúc nhiều hình bóng đến như vậy! Bài thơ “Khởi tự mê cuồng” anh viết năm 74, mới là bài anh viết cho Thủy, nên vẫn thấy bóng dáng Thủy đâu đó, mặc dù lúc này Thủy và anh đã không còn liên lạc với nhau.

“Trời mưa, không lớn lắm
nhưng đủ ướt đôi đầu!
Tình yêu, không đáng lắm
nhưng đủ làm… tiêu nhau!

Đường người, vui có chăng
ta trùng điệp u buồn
nhớ ai mà tóc rụng
ngóng ai muốn đục tròng.
…………………………
Đường người, đau có chăng
em tính còn ham chơi
lưng ngoan dòng tóc bím
môi trinh non thích cười
Chiều chiều hay giỡn nắng
tình trôi kệ tình trôi…”

Sau 30 tháng 4 năm 75, chúng tôi chia tay nhau, Thủy tiếp tục học và về làm việc ở Biên Hòa. Tôi thì lưu lạc đến Long Thành làm nghề “gõ đầu trẻ”. Công việc bận rộn nên chúng tôi cũng liên lạc ít hơn. Thủy và tôi chỉ thỉnh thoảng gặp nhau trong những ngày cuối tuần khi tôi trở về nhà.

Tôi không biết rõ mối quan hệ của anh và Thủy bắt đầu lại từ lúc nào, mãi cho đến khoảng giữa năm 78, một hôm, Thủy đột ngột đến tìm tôi vào buổi trưa, chúng tôi kéo nhau lên lầu nói chuyện. Thủy ngần ngại, rào đón một lúc lâu mới báo tin là sắp đám hỏi với anh Nhiên. Thấy tôi lặng thinh, Thủy hỏi: “Mày bất ngờ không?... thất vọng không?”. Tôi biết Thủy vẫn còn nhớ “mối thù” của tôi với anh Nhiên lúc trước, nên cười và lắc đầu: “Chuyện cũ, chuyện nít nhỏ, tao quên rồi. Đừng nhắc tới nữa. Vậy là “Ngày mai trong đám xuân xanh ấy, có kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi” rồi. Mày có cần gì tới tao không?” Thủy thở phào nhẹ nhõm: “Có chứ, mời mày tới dự đám hỏi, nhớ tới sớm sớm để phụ tao nha nhỏ.” Không hiểu sao lúc đó, tôi vừa mừng lại vừa lo cho Thủy, Thủy dịu dàng, yếu đuối và sống “kín cổng cao tường” trong mái ấm của đại gia đình từ bé, còn anh Nhiên, đời sống luôn quay quắt với dư luận khắc nghiệt và lang bạt kỳ hồ, như trong thơ anh vẫn thường khẳng định: “Em có một đời rong xanh mơ đá. Tôi có ngàn năm say khước hận thù” (Bài thấm mệt đầu tiên) hay “Chim trong tổ biết chi đời giông bão. Em con cưng nào biết tuổi lưu đày” và “Em gia giáo phải lòng anh lang bạt” (Uyên ương). Liệu Thủy sẽ được bình yên, hạnh phúc hay sẽ lao đao với sóng gió cuộc đời?

Thời gian này, bài “Nụ hôn đầu” với những câu:

“Gian truân lắm mới hôn người
Chiếc hôn tình lớn đem đời theo nhau.
………………………………
Hôn em chấn động đầu đời.
Chiếc hôn tình lớn kiếp người đôi giây.”

Và “Cuối tháng Tám”, không hiểu đã cảm nhận được điều gì mà cả hai bài thơ của anh viết cho Thủy đầy những lời ăn năn, thống hối:

“Khổ đau oằn nặng sinh thời
yêu ai tôi chỉ có lời thở than,
có môi hôn trộm vội vàng
khiến em hoảng hốt trong cơn tình đầu
nụ cười giữ được bao lâu
nhân sinh là một dòng sầu miên man
sông dài rồi cũng chia phân
tình bao nhiêu lớn cũng tàn phai thôi
Tôi đam mê siết thân người
hay đâu tảng đá đeo đời trăm năm.
Em gầy guộc, em mong manh
Em chưa đủ sức long đong cùng chàng
Em ngây thơ đến rỡ ràng
Em chưa đủ lượng khoan hồng thứ dung
Em tội nghiệp, em tủi thân
Em chưa tự chủ kíp nhăn lệ tràn
Lôi người té sấp gian nan
Lỗi tôi, ừ đó, muôn phần lỗi tôi.”

Đến ngày đám hỏi của Thủy và anh Nhiên, tôi mới biết chỉ có tôi là đứa bạn duy nhất được Thủy mời trong đám đông của gia đình hai họ.

Lần gặp lại đầu tiên sau mấy năm không nhìn mặt nhau ở đám hỏi, được coi như là một nhịp cầu nối lại mối quan hệ giữa tôi và anh Nhiên. Anh tỏ vẻ quí mến tôi hơn và thỉnh thoảng hay ghé nhà tôi để hỏi thăm hoặc nhắn tin cho Thủy

Có một chuyện khiến tôi cảm động và nhớ mãi là một buổi trưa vừa từ trường về nhà trọ sau mấy giờ dạy, thay chiếc áo dài xong thì nghe tiếng gõ cửa và sau đó là giọng của Thảo, chị bạn cùng nhà gọi: “Dung ơi, có ai kiếm kìa.” Nhà chúng tôi ở là một căn biệt thự khá lớn của một chị bạn dạy cùng trường, mấy ngày trước 30 tháng 4, chợ Long Thành bị pháo kích, sập gần hết, nhà chị cạnh đó nên cũng bị một quả ngay vào giữa, căn nhà như bị cắt ra làm đôi. Phần phía trước chỉ còn cái mặt tiền và khung cửa sắt là nguyên vẹn, hai phòng phía sau, sâu vào trong, nơi không bị hề hấn gì, là nơi mà nhóm giáo viên chúng tôi chia nhau ở, được nối bằng một khoảnh đất nhỏ mà trước đó dùng để trồng hoa kiểng và một cánh cửa lớn bằng gỗ. Tôi vội chạy lên và ngạc nhiên khi thấy anh Nhiên đứng sừng sững ngay khung cửa với chiếc xe đạp bên cạnh. Anh nhìn tôi đang ngó anh trân trối, nhe răng cười hỏi: “Sao? không mời vô à?” Tôi vẫn chưa hết ngạc nhiên vì sự xuất hiện bất ngờ của anh. “Ủa, anh đi đâu đây? Sao biết Dung ở chỗ này?” Anh dựng xe sang bên, một tay giở nón, một tay lau mồ hôi trán và nói: “Nghe Thủy nói Dung dạy học ở trường Long Thành, nhà anh có rẫy cũng gần đây, sẵn đi ngang ghé vô trường hỏi, họ nói Dung mới đi về, rồi chỉ nhà cho anh đó chứ.” Tôi mời anh vô trong uống nước và giới thiệu với chị Thảo: “Anh này là thi sĩ Nguyễn Tất Nhiên đó!”. Chị Thảo tròn xoe mắt nhìn anh: “Vậy hả? Trời ơi, nghe tiếng quá chừng mà bây giờ mới gặp đó nha.” Anh Nhiên chỉ cười và không nói năng gì. Hỏi thăm nhau được một chút, anh từ giã ra về còn hỏi tôi: “Dung có cần nhắn gì về nhà không? Anh ghé qua nhắn cho”. Bỗng dưng tôi nhớ tới chục ký gạo vừa đươc lãnh sáng nay ở trường theo tiêu chuẩn công nhân viên nhà nước, và tôi đã làm một việc vô cùng tệ hại mà sau này lúc kể cho Thủy nghe hoặc nhớ tới, tôi vẫn còn áy náy và rất xấu hổ là : “Anh Hải chở dùm bao gạo này ghé qua nhà đưa cho má Dung được hông?”. Tôi thấy đôi mày anh cau lại, trán nhăn nhăn, môi mím chặt, nhưng cũng gật đầu: “Ừ, thì để anh chở cho”. Tôi giúp anh khuân bọc gạo lên để phía sau “boọc ba ga”, cột dây cẩn thận, cám ơn anh, chào tạm biệt và… tỉnh bơ, mãi cho đến khi đưa anh ra tới cửa ngoài thấy anh bắt đầu gò lưng trên chiếc xe đạp tôi mới giật mình. Tiếng chị Thảo phía sau tôi vang lên: “Trời ơi, mày ác quá trời đi người ta tới thăm mà còn bắt chở bao gạo về dùm nữa, nặng lắm đó, một chút lên tới dốc 47 làm sao ổng lên nổi!” (Dốc 47 là cái dốc rất cao ở gần ngã ba Thái Lan giữa đường đi Biên Hòa và Long Thành). Tôi mới bắt đầu hối hận và thấy mình…vô duyên quá đỗi!

Cứ tưởng mọi việc sẽ được tiến hành êm đẹp như đã định, Thủy và anh Nhiên sẽ làm đám cưới cuối năm đó. Nhưng không ngờ, bao ngang trái cuộc đời không hẹn mà cứ đến đe dọa cho mối tình của hai người, lý do từ việc có nhiều dư luận về anh Nhiên đã đến tai gia đình Thủy. Lúc này, tôi đã đổi về Biên Hòa để đi học lại, nên Thủy thường gặp tôi sau những giờ làm việc, tâm sự, thở than về những ngăn cấm của gia đình và đôi khi nhờ tôi làm “bình phong” để Thủy và anh Nhiên hẹn hò nhau.

Bài “1978 ở Việt Nam” chắc anh đã viết trong lúc tâm trạng u uất, chán chường về sự đổi thay của xã hội lẫn hoàn cảnh riêng tư của chính mình:

“Phu thê nếu phải nợ rồi
Thì tôi đâu ngại ngỏ lời yêu em

Như con chim mới tập chuyền
Bâng khuâng gấm lụa thánh hiền em ra
Mặt trời rực rỡ phương xa
Ở đây hạnh phúc chỉ là đau thương.
…………………………………

Phu thê nếu đã buộc ràng
Thì xin nhẫn nhục cưu mang vợ chồng
Tôi, quanh năm sống hoang đàng
Cũng xin nhỏ lệ hoàn lương khóc tình!

Rồi đến bài thơ “Uyên ương” với những câu thật não lòng:

“Có những chiều ta muốn hôn em, rồi khóc
Mùa bình an nào chờ đợi uyên ương?
Nhớ hôm xưa em mảnh khảnh tan trường
Hương trinh khiết ngây ngây chiều nắng lụa.
………………………………..
Nhớ hôm xưa em bình minh thiếu nữ
Môi vô tư chưa bợn nhuốm hơi người
Tay măng tơ chưa vọc nước dòng đời
Tóc bính thảnh thơi chưa phiền khói thuốc

Ta lẽo đẽo theo tình ê ẩm bước
Để chiều về nhẹ thấm thía gian nan!
Nhớ hôm xưa em mơ mộng nhẹ nhàng
Hay hát khẽ đôi bài tình man mác.

Chim trong tổ biết chi đời giông bão
Em con cưng nào biết buổi lưu đày…”

Nhưng rốt cuộc, Thủy đã quyết định cùng với gia đình anh Nhiên rời khỏi Việt Nam cuối năm 78, sau những tháng ngày dài nổi trôi cùng vận nước và cả vận mệnh của chính mình. Một năm sau, tôi mới nhận được lá thư đầu tiên có kèm theo hai tấm hình của Thủy và anh Nhiên chụp ở vườn Luxembourg trong mùa thu, đầy lá vàng, lãng mạn, tuyệt đẹp, mới biết là hai người đã định cư ở Pháp. Nhờ địa chỉ đó nên tháng tư năm 81, sang đến đảo Ga Lăng, Indo, tôi đã liên lạc được với Thủy. Không ngờ, Thủy vẫn nhớ và gửi quyển “Thơ Nguyễn Tất Nhiên” gồm những bài từ tập “Thiên tai” và những bài thơ sáng tác từ 1970 đến 1980, đã được ấn hành lại ở Pháp, làm quà sinh nhật cho tôi trên đảo. Tập thơ này quả là một món quà vô cùng quí báu lúc bấy giờ đối với bọn chúng tôi gồm một đám thanh niên cùng mê thơ Nguyễn Tất Nhiên, cả mấy tháng trời, đêm nào cũng mang ra vừa đọc vừa bàn luận, thật sôi nổi, hào hứng.

Đến tháng mười, tôi được các em bảo lãnh sang Mỹ, về ở Missouri. Anh Nhiên và Thủy cũng đã dọn về Cali từ tháng tư.

Chúng tôi thư từ, điện thoại thăm hỏi nhau nhưng vẫn chưa gặp mặt, Thủy và tôi cùng bận rộn với đời sống mới mà lại ở xa nhau, nên ngay cả đám cưới tôi tổ chức ở Utah, Thủy cũng không có dịp sang dự. Cho mãi đến hôm tôi sinh cô con gái đầu lòng khoảng một tuần, thì Thủy gọi phone báo tin là sẽ đi xe bus Greyhound sang thăm tôi. Đó là lần đầu tiên tôi gặp lại bạn sau 6 năm xa cách. Thủy không thay đổi tí nào, vẫn dáng dấp học trò, vẫn gầy gầy, nhỏ nhắn, gương mặt, nụ cười vẫn hệt như thời còn đi học, mặc dù bây giờ đã có thêm hai chú nhóc, Tí Anh đã ba tuổi và Tí Em sắp lên hai, lúc nào cũng quấn bên chân mẹ. Trong dịp này, Thủy đã kể cho tôi nghe hết về cuộc sống từ ngày rời Việt Nam, với những ngày đầu vất vả nhưng hạnh phúc ở Pháp, đến những khi sóng gió vì đời sống nghệ sĩ lang bạt, bất đắc chí của anh Nhiên ở Mỹ, cả đến những cay đắng mà Thủy phải chịu đựng để chu toàn cái hình ảnh của “một người vợ, một người đàn bà thuần túy Á Đông, chỉ biết phục tùng chồng và tuyệt đối không nên để ý hoặc thắc mắc gì về những quan hệ công việc bên ngoài của chồng.” mà anh Nhiên vẫn luôn nhắc nhở Thủy mỗi khi có chuyện bất đồng. Tôi ngạc nhiên và không ngờ đứa bạn với bề ngoài yếu đuối như Thủy mà có thể chịu đựng được ngần ấy thứ đau khổ, trắc trở trong cuộc đời làm vợ của nhà thơ. Thủy nói lần này, sau khi trở về, hai người sẽ quyết định chia tay. Thoạt tiên, tôi hơi ngỡ ngàng, nhưng sau đó, khi nhìn thấy hai đứa bé đang hồn nhiên, quấn quýt bên Thủy, tôi giận anh Nhiên quá sức, tại sao có mái gia đình đẹp đẽ, hạnh phúc thế này mà anh không chịu gìn giữ? Tôi muốn an ủi Thủy, nhưng an ủi thế nào khi tôi cũng không biết phải xử trí làm sao trong hoàn cảnh ấy. Thủy định là sẽ ở chơi với tôi đến hai tuần nhưng chỉ một tuần Thủy đã đổi vé về lại Cali, sau những cú phone dồn dập của anh Nhiên. Mấy hôm sau, Thủy gọi để báo tin là sóng gió đã tạm dừng, dù không biết là chàng sẽ giữ lời hứa đến bao lâu. Tôi mừng cho Thủy và thầm cầu nguyện cho cái tổ ấm của Thủy sẽ bình yên, sáng sủa hơn sau cơn bão tố vừa qua.

Năm 86, gia đình tôi dọn về Cali, căn nhà nhỏ của chúng tôi ở Gardena, thỉnh thoảng đón tiếp Thủy và hai cậu con trai đến chơi, nhưng tuyệt nhiên không bao giờ thấy anh Nhiên đi cùng. Thủy tâm sự: “Tao chỉ là một người đàn bà bình thường, mơ có một mái ấm gia đình rất bình thường như những người đàn bà khác, nhưng với tao sao nó khó khăn, xa vời quá mày ơi!”. Nghe Thủy nói, tôi càng thấm thía hơn ý nghĩa của cái thuyết “hồng nhan bạc phận”, của “Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen”, càng thấy xót xa và thương bạn hơn. Có lúc, tôi đã phải nói với Thủy: “Tao thì chỉ biết “yêu thơ” thôi chứ không có “can đảm” để “yêu nhà thơ” như mày, sao mà khổ quá đi!”

Từ lúc sang Mỹ dù đã xuất bản được tập thơ “Chuông mơ” (1987), “Tâm Dung” (1989) và cả việc sáng tác nhạc để ra đời băng nhạc “Tình khúc Nguyễn Tất Nhiên” nữa, nhưng anh vẫn là một người “bất đắc chí”, cay đắng với cuộc đời, hờ hững với trách nhiệm gia đình và đó có phải là nguyên nhân khiến anh trở thành một con người khác, một hình ảnh bất toàn hơn trong đời sống gia đình chăng?

Có lẽ vì biết quá nhiều về những bất hạnh từ đầu của hai chữ “nợ duyên” giữa anh Nhiên và Thủy, nên tôi đã đứng về phía bạn khi Thủy dứt khoát đoạn tuyệt với những khổ đau, oan nghiệt của quá khứ, hiện tại và có thể sẽ mãi còn tiếp diễn ở tương lai để chọn một cuộc sống bình an hơn cho Thủy và nhất là hai đứa con, nên tôi đã lặng thinh khi anh Nhiên gọi tôi để hỏi về tung tích của Thủy. Và đó là lần thứ hai, tôi lại bị anh mắng nhiếc thậm tệ, bằng những lời nhắn nặng nề trên máy answering. Lúc đó, tôi nghĩ, cứ để cho anh nghiền ngẫm, rồi tỉnh thức, nhận ra và biết quí báu những gì mình đã có, ân cần với đời sống và trách nhiệm hơn để có thể định hướng lại tương lai của mình. Nhưng không ngờ, anh đã quá yếu đuối và dễ tuyệt vọng đến độ phải chọn sự kết thúc bi thảm đến vậy! Lúc nghe tin anh mất, là lúc tôi đang trong giờ lunch ở một hãng điện tử. Sửng sốt, kinh ngạc… tôi nuốt không trôi miếng cơm còn đang nhai dở trong miệng. Tôi muốn về nhà ngay để gọi cho Thủy…

Thời gian qua nhanh như cơn gió thoảng, mới đó mà đã mười mấy năm. Cuộc sống vẫn nối tiếp với những định mệnh đã được an bày. Các con anh nay đã khôn lớn, trưởng thành. Thủy đã tìm được bờ bến bình yên và đang có một đời sống hôn nhân hạnh phúc, điều mà trước kia tưởng chừng sẽ không bao giờ có được.

Giờ đây, dưới những tàn cây, bóng mát trong nghĩa trang này, tôi đến thăm mộ anh, thắp nén hương lòng hoài niệm về một thời quá khứ buồn nhiều hơn vui giữa chúng tôi, dù không biết rằng những việc làm trước kia đối với anh là đúng hay sai, nhưng tôi cũng muốn nói với anh lời tạ lỗi. Có những điều khi còn sống chúng ta chưa có dịp phân trần, tỏ bày cho hết thì đến lúc lìa đời, cũng xin được có cơ hội để hòa giải, thứ tha. Chỉ tiếc một điều là những câu thơ anh viết lúc còn trẻ, khi đọc lên cứ tưởng sẽ là “lá bùa hộ mạng” cho anh, đã không nâng đỡ, vực dậy anh trước khi anh quyết định đi về một đời sống khác:

“Nếu vì em mà thiên tài chán sống
thì cũng vì em ta ngại bước xa đời”.

(Để tưởng nhớ thi sĩ Nguyễn Tất Nhiên, nhân ngày giỗ thứ 15 của anh, tháng Tám, 2008)

Nguồn: Hợp Lưu, California, Hoa Kỳ, số 101, tháng 7&8 /2008. Đăng lại trên talawas với sự đồng ý của tác giả.


Tưởng Dung sinh năm 1955 tại Biên Hòa. Sang Mỹ năm 1981. Hiện sống và làm việc tại Los Angeles, California. Cộng tác với các tạp chí Hợp Lưu, Thế Kỷ 21, Phụ Nữ Diễn Đàn, nhohue.org và ngo-quyen.org.

Khi về đã lạnh vườn xưa

Văn xuôi :: 09.08.2009

Trần Vũ ( copy tu website talawas Chu Nhat: http://www.talachu.org/ )


Mỗi thời đại thờ cúng một vị thần. Thần sông Tô Lịch khi dâng nước mênh mông, khi hiền hòa tưới mát các đồng lúa, ở mãi với dân Giao Châu. Cho đến khi Tiết độ sứ Cao Biền sang trấn thủ, bày trò trấn yểm, dìm chúng tôi xuống móng thành Đại La.
Tôi với Tiểu Khanh chết đi ở giấc canh khuya, khi mặt sông đã hóa bùn và nước sông đã đặc tóc. Song tóc Tiểu Khanh làm sông Tô Lịch chảy mềm mại và từ bấy mang màu tóc Tiểu Khanh. Sông xanh tóc con gái ước mơ và kiên nhẫn.
Chết trong sóng nước quê mình là một hạnh phúc. Sống vì quê, chết về quê. Đã bao ngày chúng tôi tin vậy, từ khi lọt lòng, khi biết chạy nhảy qua các đồng rạ rồi trèo lên các gốc mận chia trái ngọt của quê mình. Chết, khi tuổi trẻ ngập kín hồn là tuyệt phúc. Vì chết mà nụ cười vẫn tươi. Còn mang hồn nhiên thanh thoát. Tôi nói Tiểu Khanh đừng ngại chết. Tiểu Khanh biết tôi nói dối. Vì chết khi chưa kịp sống, là chết oan. Tiểu Khanh hiểu mà vẫn thương lời nói dối. Chết đi không than trách. Sử Giao Châu không chép, nhưng tôi mang ánh mắt của Tiểu Khanh xuống tuyền đài. Ánh mắt còn chứa chan tình yêu đất này và lấp lánh niềm hoài cảm.

Cao vương trù tính chúng tôi phải làm âm binh. Tôi hầu quạt còn Tiểu Khanh làm ca kỹ cho Thành hoàng. Chúng tôi cứ thế, ngày ôm móng thành, đêm trồi lên mặt nước, đôi khi ráng chiều muộn còn vỡ trên ruộng mạ phì nhiêu chan chứa tình người mà chúng tôi quyến luyến. Đôi khi mây xám vừng lên những giấc mưa, làm ướt tóc Tiểu Khanh, làm ướt ánh mắt u hoài. Chúng tôi thân với nhau từ ngày vỡ lòng Tam tự kinh, chết đi thành hồn âm nhưng vẫn thương xứ này. Đất Giao Châu muôn thuở, nơi chúng tôi sinh ra, lớn lên và khám phá tình tự đầu đời. Chưa phải là tình yêu vì chúng tôi chưa biết đến, chưa kịp mặn nồng vì chúng tôi chưa biết thề nguyền, nhưng đã là sự trân quý của tuổi trẻ cảm thấu và độ lượng.

Lìa trần làm âm binh, kiếp người hòa vào kiếp nước, nước của sông Tô Lịch của đất Giao Châu vạn đời. Song chúng tôi phải sống trong chật hẹp, không thể tự do mơ ước, không thể tự do bay nhảy, hay đạt chí cả của đời mình. Vì phải đội sức nặng của thành Đại La cho đến khi vỡ thành như bùa yểm của Cao Biền. Thần sông Tô Lịch cũng lắm phong trần. Khi giữ chức Đô phủ Thành hoàng Thần quân, khi nhận tước Đô quốc Thành hoàng Đại vương, đến triều Trần, năm Trùng Hưng lãnh Bảo quốc, năm Hưng Long lãnh thêm Định bang, toàn hàng mã. Chúng tôi chết đã năm trăm năm, tuổi ma già theo tuổi sông, mà vong linh vẫn tươi trẻ, như dòng nghịch thủy còn xanh tóc Tiểu Khanh.

Một ngày thầy An đi qua sông.

Từ xa chúng tôi đã biết gặp một nho sĩ. Thầy An mang linh hồn của một nho sĩ. Chỉ một nho sĩ mới biết viết lên trời xanh. Chỉ một nho sĩ mới biết ấn sâu vào lòng đất chữ thánh hiền. Chúng tôi ngắm bóng thầy xa xa. Tâm hồn thầy thanh sạch. Sức trinh bạch làm trong sắc trời. Giống thầy An làm tan biến mây mù và hiện cầu vồng lướt trên sông. Tiểu Khanh níu tôi, Tiểu Khanh ngửi ra mùi bột gạo của huyện Thanh Đàm, quê của Tiểu Khanh mà cũng là quê của thầy An, tên chữ của thầy là Linh Triệt. Chúng tôi có khả năng ngửi thấy tông tích người sống, cũng như đoán biết đến khi nào các búp lan rừng sẽ chậm rãi nở, sẽ phả hương tinh khiết.

Chúng tôi trầm dưới sông. Tôi với Tiểu Khanh đùa giỡn. Chúng tôi tự nhiên như hai thiếu niên đang vẫy vùng giữa sông, tin sông Tô Lịch nghìn năm mây phủ và tin chúng tôi đã mất dáng người. Tiểu Khanh cười khúc khích, trong lúc tôi làm trò. Nhưng thầy An trông thấy chúng tôi, mặc dầu chúng tôi vô hình, thầy gọi:

"Sao không học hành mà tắm dưới sông?"

Chúng tôi rùng mình. Lần đầu tiên một người sống trông thấy chúng tôi. Tiếng thầy cất trên sông như tiếng hò, của người Giao Châu, gọi nước, gọi hồn. Chúng tôi biết thầy An không phải pháp sư, mà sao thầy trông thấy các hồn âm? Tiểu Khanh nói khẽ: Thầy trông thấy nỗi oan khiên ở đời. Chúng tôi trồi lên, quỳ trên sóng sông Tô Lịch.

Chúng tôi chắp tay, thưa, chúng tôi rất hiếu học mà khổ nỗi bị xiềng vào chân thành Đại La chìm sâu dưới nước. Chúng tôi thác oan nhưng lễ giáo vẫn giữ. Vẫn tin học lễ rồi mới học văn. Tin vào chữ thánh hiền. Tin vào tình yêu xứ này. Thầy nhìn chúng tôi chăm chú. Thầy biết chúng tôi là quỷ. Nhưng hôm ấy, chừng như thầy thương cảm và xúc động. Thầy nói Tiểu Khanh có thần thái sáng láng, còn tôi tuy bặm trợn vẫn giữ cốt cách có giáo dục. Hôm sau nữa, thầy An trở lại khúc sông vắng, bày hương án, làm lễ xá thủy thần. Thầy lập đàn giải oan, cúng Thành hoàng, rồi lấy bút nghiên viết lên mặt sông những chữ đại tự. Chữ thầy viết đến đâu, mặt sóng lặng như trang giấy. Chữ thầy lan đến đâu, mặt nước thành mặt gương, phản chiếu. Chữ thầy thẳng, như sự ngay thẳng trong lòng thầy. Liễn mực cạn dần theo nét chữ thảo vừa viết trên sông, mà đã thoắt lên trời cao. Nét chữ như nét roi. Nét chữ của một nho sĩ, mang sức mạnh của lương tri mà ghè đá, sóng nước, không cản nổi ý chí viết trên sông, viết lên cái chết oan của tuổi thanh xuân không phạm tội. Đến khuya, chúng tôi được thả.

Từ bấy, kiếp ma va kiếp đời. Chúng tôi vẫn là hồn âm, nhưng đã thành môn sinh của thầy Chu Văn An. Học thầy phải theo thầy, thầy An dạy, khi chúng tôi bước qua cổng Quốc Tử Giám.

*

Vũ trụ là những thời quán, mà mỗi thời quán dài ngắn tùy theo ký ức. Kiếp ma vô tận nên tôi đầy ký ức. Tôi vẫn chưa quên buổi sáng trở về ngôi nhà cũ của thầy An dưới chân núi Chí Linh. Buổi sáng có sắc trắng chập chờn của cội mai già hiu hắt. Có sắc trắng hiu quạnh của bụi lài cô độc. Có sắc trắng nhờ của vài nhành huệ lay lắt trước gió hú kéo lê lá khô qua nền nhà cũ.

Khi về đã lạnh vườn xưa, tôi biết thầy An muốn hét to vào hướng núi, muốn hét to vào xa vắng, muốn thả nước mắt rơi phương trời. Thiên nhiên không đáp trả tấm lòng thầy. Núi Chí Linh tịch liêu, bất lực với nỗi đau của thầy. Nỗi đau câm. Nỗi đau trong im lặng. Vì suốt đoạn đường thầy không một lần trò chuyện, không một lần cất tiếng. Thầy bước những bước dài, thẳng, không một lần quay lại. Tôi với Tiểu Khanh gánh sách và vật dụng cá nhân, tất tả từ kinh sư theo thầy về Chí Linh, từ buổi trưa thầy ra khỏi Cấm Đình. Chúng tôi quẩy gánh như ma, lướt đi giữa phố phường kín cửa. Bóng chúng tôi lướt qua phố xá im phắc. Thiên hạ bạc như lớp vôi quét trên vách. Chúng tôi làm ma đã đành, thầy An vẫn còn sống mà các môn sinh của thầy, nhiều kẻ đậu đến đại khoa như Phạm Mạnh Sư và Lê Bá Quát, không một ai đưa tiễn. Tất cả sợ. Sợ dây vào mình "Thất trảm sớ." Sợ sai nha của nịnh thần. Sợ mất phú quý. Chỉ một mình thầy An qua cửa Ô. Gần như một phát vãng, tự nguyện, vẫn là phát vãng. Tiểu Khanh khóc, vì thương thầy, chúng tôi ngậm ngùi rời Văn Miếu Môn.

Ký ức tôi vang động, như đã khảm vào não. Tôi hãy còn nhớ, khi thầy bắt Tiểu Khanh và tôi quỳ lạy tượng Khổng tử và Tứ phối ở nhà Khải Thánh. Khi thầy đứng trên bục giảng, luận về Nhan tử, Tăng tử, Tử tư và Mạnh tử, cho chúng tôi chép vào vở. Tôi với Tiểu Khanh mang nhân dáng nhuyễn thể, vì dìm dưới sông quá lâu, nên chúng tôi có thể treo trên xà nhà, hay trườn dưới mái, hoặc thoắt ở ngọn cây, hoặc trầm dưới Thái hồ. Những ngày ở Quốc Tử Giám là những ngày nhiễm phúc. Tiểu Khanh được thầy An cho ở nhà Thái học sinh, dẫy nhà xây tường ngang, lợp ngói đồng. Tôi được ở khu Tam xá, ba dẫy, mỗi dẫy 25 gian, phía gần bức tường vôi đắp gạch Bát Tràng, kết bạn cùng với các đồng môn. Với thầy An, không có học trò ma, chỉ có học trò của thầy. Mà đã là môn sinh thì phải học làm người. Xác ma nhưng biết chính trực, cốt cách tinh thần thì vẫn là người, như thầy dạy. Cấm ma mãnh. Thầy cấm tất. Học đạo của người quân tử và học cách ký thác lương tri của mình vào chữ. Chữ của người quân tử. Thầy bắt chúng tôi và các môn sinh mỗi ngày tập đồ chữ. Miệt mài cho đến khi nét chữ thật thẳng, như vết phóng. Chữ có thẳng, thì lòng mới ngay. Như thầy bảo. Các môn sinh phải tập viết ra sự ngay thẳng của lý trí mình. Cấm cong, cấm uốn, cấm run rẩy.

Giữ chức Tư nghiệp Quốc Tử Giám, thầy An còn dạy thêm khoa lý số, phép tính xác xuất của thời phong kiến. Phép tính giản lược mà khó khăn: Tìm giới hạn của một cá nhân bằng cách tính hiệu năng của cá nhân đối với bách tính. Chúng tôi cần mẫn tu tập. Đôi lúc, tôi mê giọng đọc Luận ngữ của Tiểu Khanh. Đôi lúc, tôi say nét chữ của Tiểu Khanh chép Nam Hoa kinh lên lá bàng. Tình yêu của một nho sĩ phải đẹp như tâm hồn của một nho sĩ. Tôi muốn trở thành nho sĩ để tình yêu thánh khiết của mình trong sáng vĩnh cửu. Nhưng tôi chỉ là ma da. Ma da của sông Tô Lịch. Một ma da tập làm người. Thầy An hiểu, thầy thường khuyên nhủ: Ma vẫn phải trọng danh dự, để không ai khinh, để không nhục, để có thể nhìn thẳng vào mắt người sống mà không cúi đầu, không lạy lục, không van xin. Đôi khi thầy cho phép các môn sinh ra ngoài. Chúng tôi bay lượn khắp kinh kỳ, ngắm hoàng thành rực rỡ, nhìn mặt hồ Thiền Quang sóng khói phả từng giấc mơ. Nhìn những váng mưa phất qua thôn Liên Thủy, chao xuống hồ, như nước giao với nước, thành làn hơi thở mỏng của Tiểu Khanh thu vào từng lời hứa. Tôi say Tiểu Khanh. Say Thăng Long, say nét hoài cổ thắm sắc vàng. Tôi vẽ chân dung Tiểu Khanh lên giấy bảng. Vẽ từng lọn tóc, vẽ từng sợi, như chải tóc cho Tiểu Khanh. Vẽ ánh mắt nhu mì mà u hoài. Vẽ sóng mũi thanh của con gái Giao Châu. Vẽ chân mày hiếu học và khóe môi biết vâng lời thầy.

Thăng Long rộn rã xe ngựa. Rộn rã phường tuồng. Rộn rã các vườn hoa Bình Than, Diên Hồng. Ngày ngày kép Dương Khương uốn éo với đào thương Dương Mẫu. Các hoàng thân mê đắm Dương Mẫu, đến nỗi Dương Mẫu có mang với Dương Khương vẫn được Cung túc vương Trần Nguyên Dục rước về. Rồi thánh thượng Trần Dụ Tông cũng đắm say với Dương Mẫu, phục chức cho Đỗ Tử Bình, đã bị truất vì tham ô, đồ làm đinh nhân, được thăng lên làm Hành khiển Nghệ An. Đó là ngày cát hung mà thầy An tức uất. Giận dữ vì điềm suy vi nhà Trần đã thấy rõ. Chưa bao giờ chúng tôi thấy thầy giận đến như vậy. Thầy không ngớt quát tháo, xỉ vả triều chính vô đạo.

Đó là đêm thầy An thảo sớ. Chúng tôi rúc trên mái, bên trên thư phòng vắng vẻ của thầy An. Đêm thâu, vẫn nét chữ roi quất của một nho sĩ, có thể viết lên trời xanh, có thể viết xuống sông sâu, có thể ấn xuống huyệt đất thứ chữ của người quân tử. Vẫn nét chữ rắn của thầy An, rắn trên lá sớ mong manh, rắn tựa thầy lấy thép viết lên tàu lá chuối, để lá chuối ghi tấm lòng sắt son của thầy.

Thầy quất bảy lần roi. Bảy lần thụy hiệu và tên cúng cơm của bảy nịnh thần hiện ra dưới vết đánh. Thầy hạ bút ký Văn Trinh Công. Không một do dự. Không một giọt mực thừa. Chúng tôi nín thở. Thư phòng lẫm liệt nét chữ. Tiểu Khanh siết lấy tay tôi sợ hãi. Chúng tôi hiểu, thầy đương đầu với xiểm nịnh. Mà xiểm nịnh trên đất nước này lúc nhúc, chúng cùng khắp. Chúng uy quyền và ngạo mạn. Chúng có thể đánh tàn tật bất kỳ kẻ nào. Chúng chỉ chờ dịp để giết thầy. Bắt thầy thú tội. Nhận tội phản triều đình. Chính chúng mới là kẻ có tội, song chúng tiếm danh vua, tiếm danh sơn hà. Chúng tôi thức đêm cuối cùng với thầy An ở Quốc Tử Giám.

Bảy trăm năm sau, tôi hãy còn nhớ. Bảy trăm năm như một thời quán. Bảy trăm năm trôi vụt, mà những lời tâm huyết cuối cùng của Chu Văn An hãy còn vang trên mặt Thái hồ. Làm như thầy muốn mặt hồ phong phải giữ lấy dư âm, để lớp rêu ẩm, xanh rì, còn giữ được lời thầy. Truyền cho hậu thế. Để mai này hậu thế biết ngày xưa, ở Quốc Tử Giám, các tôn sư đã dạy học như thế nào. Văn Miếu, nơi thầy được tòng tự. Văn Miếu nơi tiếng thầy sang sảng: Chữ thầy là chữ thật. Lời thầy là lời thật. Thầy dạy sao, thầy sống vậy. Mai này ra làm quan phải nhớ lời thầy dạy. Tiếng Chu Văn An sang sảng, nghiêm khắc: Thầy dạy những gì, môn sinh đã biết. Cấm tham ô. Cấm cửa quyền. Thấy sai phải cất tiếng. Không trái với lương tri mình. Đó là những lời cuối, trước khi Văn Trinh Công rời Văn Miếu Môn.

Thầy sẽ vĩnh viễn không bao giờ quay trở lại nữa, nơi thầy đã đào tạo biết bao môn sinh, biết bao khoa bảng, tiến sĩ, bảng nhãn, thám hoa… Thầy ra khỏi Văn Miếu khi trời đổ mưa. Buổi trưa ấy, nắng nhạt không đủ làm sáng mưa, nắng nhạt không sáng mặt người. Mưa cũng không đủ dội tắt nắng, giống lòng người buổi giao thời, không trông thấy rõ đâu là thiện, đâu là ác, không biết mưa hay nắng, chỉ trông thấy mái điện vàng ban áo gấm. Văn Trinh Công đứng đợi băng qua đường. Trông thầy già nua, nhỏ bé. Thầy cố giữ vạt áo thâm thật thẳng, cố giữ khăn nhiễu quấn chữ Nhất đừng lệch, cố giữ cốt cách của một vị thầy, và cố ôm trong lòng túi vải chứa lá sớ. Thầy ôm chặt túi vải vào mình, vì sợ ướt mưa, khiến chữ nhòe khiến sau này hậu thế không đọc được thụy hiệu của bảy nịnh thần. Thầy ôm chặt vào lòng, vì sợ chúng giật, trước khi lá sớ đến tay Trần Dụ Tông. Không phải vì thầy sợ Trần Dụ Tông không kịp đọc để phê duyệt, mà vì thầy muốn Trần Dụ Tông phải gánh lấy trách nhiệm. Vì thầy biết Trần Dụ Tông sẽ bất động. Sẽ liếc mắt rồi phê "Bất đệ." Không ngự lãm vì phạm lễ. Không ai được quyền dạy vua trảm thần. Thầy biết tất. Biết, nên thầy ôm chặt túi vải. Chúng có thể giật mất lá sớ rồi cho xe ngựa cán thầy. Chúng có thể xóa mọi vết tích mà thầy muốn hậu thế phải biết đến. Không phải quan triều nào cũng im lặng. Không phải nho gia nào cũng bán chữ thánh hiền. Còn Chu Văn An giữ tiết tháo.

Chúng tôi lẩn quất sau lưng thầy. Núp sau bóng thầy với tất cả kinh sợ. Tiểu Khanh khóc vì biết thầy đương đầu với nguy hiểm. Không ai viết sớ xin chém kẻ cầm quyền, khi chính kẻ ấy giữ đao trong tay, chăn đồ tể. Vậy mà thầy viết. Vậy mà thầy đọc sớ trước mặt chúng. Chúng nham hiểm bao nhiêu trò, làm sao thầy thoát. Chúng tôi níu áo thầy. Khi cổng Cấm Đình hiện ra, thầy An lẳng lặng, quay lại dặn chúng tôi về thu xếp hành trang về núi Chí Linh. Nếu thầy không trở ra, cứ về mà ở. Nếu thầy trở ra, thầy sẽ cùng về. Thầy điềm đạm. Sự trầm tĩnh của một nho sĩ. Giống thầy đã sắp đặt hết. Vì thầy hiểu chỉ có những hồn âm thác oan mới theo thầy, vì chúng tôi không còn gì để mất. Thầy sắp đặt hết. Trảm đầu thầy thì Trần Dụ Tông càng thêm tội. Không trảm thì thầy phải tự phát vãng vì lũ nịnh thần sẽ hãm hại một khi thầy còn ở kinh sư. Chúng tôi khóc, van lạy thầy đừng dâng sớ. Thầy quắc mắt: "Nho sĩ chết không khóc. Chết phải giữ đạo." Rồi thầy dứt áo the thâm, bước vào Cấm Đình. Bước chân của một nho sĩ mang sự quyết liệt khẳng khái của một nho sĩ. Chúng tôi chỉ kịp nhìn thấy vạt áo thâm thẳng tắp giữa hàng sai nha. Giữa đám quan hoạn. Giữa cung phi diêm dúa. Đám đông hiếu kỳ vây quanh cổng. Các tiếng xì xầm bàn tán. Vọng lên dần thành tiếng xôn xao. Rồi cả kinh thành rúng động. Tin lan nhanh như làn nước: Văn Trinh Công dâng "Thất trảm sớ."

*

Khi về đã lạnh vườn xưa. Bảy trăm năm sau tôi còn nhớ, khi về, vườn lạnh băng. Thầy muốn hét to vào núi, muốn hét to vào xa vắng, muốn thả nước mắt rơi phương trời. Tôi nhớ, vì đã khảm vào não. Chúng tôi đã đợi cho đến khi vãng mặt trời. Mỗi tiếng trống phiên làm đám đông có rúm vì nghĩ trống tử hình. Mỗi tiếng chuông ngân làm đám đông nghẹn, úp mặt, vì nghĩ chuông trảm thủ cấp. Khát khô môi. Khát mặn lưỡi. Vì cắn dập môi. Cắn dập lưỡi. Trong lạnh toát sợ hãi. Trong xanh mướt hy vọng. Hy vọng thầy An thay đổi đất nước. Thay đổi đất nước đã tím bầm mặt. Nhưng Văn Trinh Công trở ra. Gương mặt thầy tuyệt vọng vì bất lực. Thầy đã hiểu thầy chỉ có thể lập đàn giải oan cho người chết, không thể giải oan cho người sống. Thầy đã hiểu một cá nhân thầy không thể vực dậy triều chính ngu muội. Thầy đã hiểu phải đi đến cùng phép tính của mình. Trần Dụ Tông phải gánh lấy phán xét của lịch sử. Chúng tôi về núi Chí Linh.

Triều Trần rồi vụt qua như một làn gió. Đi ngược làn gió, chúng tôi gánh sách qua các dẫy phố kín cửa, cửa cái, cửa con đóng sập, để hiểu lòng người quay thoắt. Hương thu còn dậy ở Đồng Xuân mà cả một phiên chợ dừng bán. Chúng tôi lướt qua các tấm phản bất động và các chảo đậu rán ngừng sôi. Lướt qua thau bún lạnh tanh lũ ruồi. Đôi mắt chúng xanh to như hạt đỗ, nhìn chúng tôi trừng trừng. Chúng cợt nhả rồi bay tản từng đàn rình rập. Chúng là lũ phi liêm mọc cánh. "Đừng dây với Chu An" là tiếng chó sủa khi qua bến đò. Bóng tôi với Tiểu Khanh va vào nỗi đau tê tái vì thương thầy. Mới trưa kia “Thất trảm sớ” làm chấn động, vì thầy lập thụy hiệu gian thần cho các quan đầu triều, nay đã bạc bẽo. Sách Dương Chu, Mặc Tử nặng vì chứa trong mình vũ trụ, sách Kinh Lễ của Khổng Phu nặng vì chứa phép làm người. Ngũ viên và Nhị thập triết khiến chúng tôi mất sức, phải cố gánh thật nhịp nhàng để theo kịp bước chân thầy. Bước chân của một nho sĩ nhẹ tênh, vì lòng không hổ thẹn.

Tôi muốn nghĩ đến những điều đẹp đẽ. Sắc vân tím trên áo của Tiểu Khanh hay sắc trưa huyền quang khi chúng tôi trốn tiết Hiến Văn lẻn ra cửa Thành Đức, bên hông Văn Miếu, đi viếng cảnh chùa. Có nghe tiếng chuông Chiêu Thiền Tự ngân nga bến Yên Lãng rồi vang sang tận Hoài Đức trên tháp Quảng Nghiêm trước khi về lại Trấn Quốc mới hiểu vì sao chúng tôi thích giẫm lên tiếng đại hồng chung để gang bàn chân đỏ hồng những âm trầm. Tôi muốn nghĩ điều đẹp đẽ mà ký ức chứa bẽ bàng. Trương Hán Siêu gả con cho tù trưởng Nùng Ích Vấn xin đất, kết giao với quan hoạn Phạm Nghiêu Tư để xin chức Tham tri chính sự. Ký thệ tự với thầy, mà trưa thầy đọc sớ, Trương Hán Siêu cáo ốm không vào triều. Văn của một nho sĩ phải hiển lộng. Văn của Trương Hán Siêu chỉ lộng lẫy mà chưa phải bút Tả thanh thiên.

Bảy trăm năm, bay ngược gió, tôi nghiền ngẫm. Phép tính của một nho sĩ giản dị: Quốc gia ở tính nhân, ở lòng chính trực. Lấy một thân thầy chống với thói gian tà, lấy một thân thầy cảnh cáo lương tri quốc dân. Thầy hiểu lượng vàng mua chuộc, bồ thóc nhấn chìm, chính vì vậy phải lấy một con người với hai tay trắng để chống với đám đông gậy gộc, để sự can đảm càng thêm can đảm, để sự tự tin càng thêm tự tin, và chân lý càng thêm sáng. Số đông bao giờ cũng thắng, nên phép tính lũy thừa của thầy thêm vào thời gian, vì sự chính trực khi lũy thừa thời gian của lòng người sẽ tiến đến vô cực. Từ một cực tiểu trở thành cực đại mà không một triều chính nào có thể hãm.

Chu Văn An đã muốn hét to vào mai hậu, còn Cao Biền? Hắn muốn trở về đất này để trấn yểm thành Đại La thêm một lần nữa.

Chu Văn An gửi cho hậu thế:


Trần Vũ
6 tháng 8-2009

(*) Khi về đã lạnh vườn xưa, Tâm sự cùng Nguyễn Du, thơ Võ Việt Dũng

© 2009 talawas chủ nhật

Siêu dự án và cái bẫy nợ nần

Nguyễn Quang A -
Chính trị - xã hội Kinh tế
Theo Bộ trưởng Bộ Công thương, tổng mức đầu tư sơ bộ được dự kiến theo 3 phương án tính toán dựa trên các suất đầu tư 2600, 2800 và 3000 USD/KW công suất. Tương ứng (với công suất dự kiến 4.000MW), thì các mức đầu tư khoảng 10,4 tỷ USD, 11,2 tỷ USD và 12 tỷ USD. Dự kiến, 75% nguồn vốn xây dựng là vốn vay nước ngoài.

Hãy lưu ý các từ "sơ bộ" và "dự kiến" đối với các con số trên. Thông tin của những người trình đề án luôn có thiên hướng nêu nhiều cái hay, cái thuận lợi, có cái dở nhưng đều trong "tầm kiểm soát" và trong "giới hạn cho phép". Đấy là một hiện tượng không chỉ phổ biến ở Việt Nam mà ít nhiều cũng có ở các nơi khác. Cũng vậy những người phản biện thường nêu ra các khuyết tật, thiếu sót và đôi khi cũng cường điệu không kém các nhà ủng hộ. Vấn đề chỉ là ở mức độ khách quan, không có khách quan tuyệt đối, luôn luôn có thiên kiến. Đấy là chuyện thiên kiến con người mà những người ra quyết định cần lưu ý khi xem xét các ý kiến ủng hộ và ý kiến phản biện.



Chỉ riêng giai đoạn 1, dự án đường Hồ Chí Minh thực tế đã chi gần 3 lần so với dự toán ban đầu. Ảnh cienco5.vnChúng ta không ai ngạc nhiên khi con số "sơ bộ", "dự kiến" khác xa con số thực hiện (có khi gấp rưỡi gấp đôi).

Thí dụ, nhà máy lọc dầu Dung Quất (Theo Quyết định đầu tư số 514/TTg ngày 10/7/1997 của Thủ tướng Chính phủ) ban đầu dự trù tổng mức đầu tư là 1,5 tỷ USD, thực hiện 1997-2001. Đến cuối năm 2009 mới có thể bàn giao và tổng mức đầu tư thực hiện là 3,054 tỷ USD (gấp 2 so với ban đầu).

Dự án đường Hồ Chí Minh ban đầu dự toán 5.300 tỉ đồng (giai đoạn 1: 2000-2005), đến cuối 2004 Quốc hội điều chỉnh lên 15.468 tỉ (gần 3 lần dự toán ban đầu); đó là chưa nói đến giai đoạn 2 với dự trù kinh phí 18.168 tỉ đồng.

Đấy là các số liệu lấy từ báo chí, tôi chưa có các số liệu của các dự án khác, nhưng tình hình chắc cũng tương tự. Đã có nghiên cứu nào tổng kết đầy đủ các dự án lớn (điện, giao thông, cảng, các nhà máy lớn) do nhà nước đầu tư chưa? Nếu có họ rút ra những bài học gì? Nếu chưa, rất nên có 1 đề tài nghiên cứu như vậy.

Tất nhiên kinh phí tăng do dự án mở rộng, do giá cả biến động, do công nghệ thay đổi và vì 1001 lý do "rất thuyết phục" khác nữa. Đây là căn bệnh khát đầu tư cũng như các thủ thuật rất quen thuộc của các nhà đầu tư trong hệ thống xã hội chủ nghĩa mà các học giả đã đúc kết trong các công trình kinh điển. Có ai làm những nghiên cứu như vậy ở Việt Nam, tính cả những thiệt hại do chậm tiến độ, và các thiệt hại cơ hội khác? Tôi tin là chưa.

Bẫy nợ nần

Ở đây chỉ muốn nói đến kinh phí dự trù ban đầu và kinh phí thực hiện, nên hãy quay lại vấn đề điện hạt nhân. Kinh phí dự kiến không phải quá lớn do người ta tính mua nhà máy thế hệ II cho rẻ.

Nếu vì an toàn của nhà máy thì suất đầu tư có thể lên đến 4.800-5.000 USD/KW và khi đó mức dự toán đầu tư sơ bộ có thể lên đến 19-20 tỷ USD.

Đó là chưa nói đến việc mở rộng lên 8.000 MW cho đến 2025, khi đó dự toán tổng đầu tư có thể lên đến 38-40 tỷ USD; tôi không dám tính đến con số phát sinh. Nếu lấy kinh nghiệm của Lọc đầu Dung Quất và Đường Hồ Chí Minh mà suy đoán với giá rẻ do Bộ Công Thương đưa ra ban đầu thì tổng đầu tư có thể lên tới 30 đến 50 tỷ USD. Hãy tạm giả thiết con số 40 tỷ USD.

Hãy quay lại cái bẫy nợ nần. Nợ nước ngoài của Việt Nam tronmg thời gian qua ở cỡ 30-33% GDP (theo WB năm 2009 nợ nước ngoài của Việt Nam là 26,8 tỷ USD chiếm 30,2% GDP).

Nếu từ nay đến 2025 Việt Nam đạt mức tăng trưởng trung bình 7,2%/năm (ở mức này GDP tăng gấp đôi sau 10 năm), thì vào năm 2020 GDP bằng 2 lần GDP năm 2010 và năm 2025 gấp 2,805 lần của năm 2010 (tức là GDP vào cỡ 300 tỷ USD năm 2025).

Đi vay để đầu tư là tốt, song nếu không khéo có thể rơi vào cái bẫy nợ nần. Chúng ta còn có quá nhiều các dự án (metro Hồ Chí Minh, sân bay Long Thành, Cảng Container Văn Phong, đường cao tốc, đường sắt cao tốc, đề án tăng tốc phát triển Công nghệ thông tin Viễn thông,...) đều dự kiến thực hiện trong 10-15 năm tới. Đã có ai thử cộng tổng dự toán của tất cả các đề án đó chưa? Và lấy đâu ra tiền để làm?

Link :http://danluan.org/node/3240

Cuộc tranh giành quyền lực trong hậu trường của Đảng CSVN

Nguyễn Văn Huy -
Chính trị - xã hội Lịch sử
Nguyễn Văn Huy
Theo báo Tổ Quốc
Cách đề cử nhân sự vào các chức vụ trong ban chấp hành trung ương của đảng cộng sản Việt Nam cho đến nay vẫn còn là một bí ẩn. Tuy nhiên từ hơn mười năm qua, nếu chịu khó quan sát, người ta vẫn có thể dự đoán một cách khá chính xác thành phần nhân sự được phân bổ vào các chức vụ quan trọng trong trung ương đảng và chính phủ.

Lý do là từ đầu thập niên 1990 đến nay, sau khi khối Đông Âu và Liên Xô sụp đổ, số người thực sự nắm vận mạng của đảng và nhà nước, được gọi một cách ân tình là những nhà “cách mạng lão thành”, thưa thớt dần vì tuổi già hay không còn nữa. Đây là những người đã góp phần xương máu trực tiếp vào việc tiến chiếm chính quyền và áp đặt chế độ cộng sản, hay đã lập nhiều thành tích đáng kể để duy trì vai trò lãnh đạo của đảng cộng sản trên toàn quốc. Những cấp lãnh đạo “trẻ” trong guồng máy đảng và nhà nước cộng sản hiện nay không có hào quang đó, nhưng không ai biết bằng cách nào họ đã đạt được những địa vị cao nhất đó.

Có dư luận cho rằng sự phân chia quyền lực trong đảng và nhà nước là tuỳ theo địa phương, Nam Trung Bắc phải đề huề. Đặc biệt là trong ba chức vụ cao nhất nước: tổng bí thư đảng cộng sản, chủ tịch nước, thủ tướng chính phủ phải là người của ba miền, chẳng hạn như Đỗ Mười, tổng bí thư, là người miền Bắc, Lê Đức Anh, chủ tịch nước là người miền Trung, Võ Văn Kiệt, thủ tướng chính phủ là người miền Nam, v.v. Trước đó là các ông Lê Đức Thọ (miền Bắc), Lê Duẩn (miền Trung), Phạm Hùng (miền Nam). Đi xa hơn, người ta còn nói trong mỗi cơ quan, quốc hội cũng như các bộ và ngành, lúc nào các chức vụ cũng phải phân chia đồng đều theo nguồn gốc địa phương xuất thân như vừa kể.

Dư luận khác thì nói sự phân chia quyền lực tuỳ theo khuynh hướng đang lên trong giai đoạn đó, chẳng hạn như khuynh hướng thân Liên Xô, thân Trung Quốc hay thân phương Tây, như phe Trường Chinh thân Trung Quốc, phe Phạm Văn Đồng thân Liên Xô, phe Võ Nguyên Giáp thân phương Tây, v.v. Gần đây chỉ còn hai khuynh hướng: thân Trung Quốc và thân phương Tây (đồng nghĩa với thân Hoa Kỳ).

Trước đại hội 10 (2006), dư luận còn tiên đoán sự phân chia quyền lực trong nội bộ đảng dựa trên thế lực kinh tế: sức mạnh kinh tế của miền Nam đã quá vượt trội nên các chức vụ cao nhất nước thuộc về những cấp lãnh đạo miền Nam, chẳng hạn như chủ tịch nước là Nguyễn Minh Triết (Sông Bé), thủ tướng chính phủ là Nguyễn Tấn Dũng (người gốc Kiên Giang, từng nắm giữ những chức vụ kinh tế tài chánh quan trọng: thống đốc ngân hàng nhà nước và trưởng ban kinh tế trung ương đảng), thường trực ban bí thư trung ương Trương Tấn Sang (Sài Gòn). Sở dĩ chức tổng bí thư giao cho ông Nông Đức Mạnh vì có tranh chấp giữa Nguyễn Minh Triết và Trương Tấn Sang; ông Mạnh được đánh giá là một người hiền lành, không có tham vọng cao nên không đe dọa ai, v.v.

Trong thực tế, sự phân chia quyền lực và quyền lợi trong nội bộ đảng và nhà nước Việt Nam khá giản dị: tất cả đều phải có người đỡ đầu (mentor) chứ không do một khuynh hướng địa phương hay chính trị chủ yếu nào. Người đỡ đầu ở đây không có nghĩa là một người cụ thể nào, mà là một nhóm quyền lực. Trong nhóm quyền lực này, những thành viên có thể là những người không ưa nhau nhưng biết chia chác quyền lợi đồng đều cho nhau để cùng tồn tại, mà đảng cộng sản và Hồ Chí Minh là sợi dây liên kết. Khi có tranh chấp, tất cả đều sử dụng lá bài thành tích của đảng và hình ảnh Hồ Chí Minh làm biểu tượng đoàn kết.

Trước kia, trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, từ 1951-1960, nhóm quyền lực mạnh nhất trong đảng là Lê Duẩn, Trường Chinh, Phạm Hùng và Lê Đức Thọ. Sang thời kỳ tiến chiếm miền Nam, từ 1960 đến 1976, nhóm quyền lực trong đảng là Lê Duẩn, Lê Đức Thọ và Phạm Hùng. Sau khi thống nhất đất nước, từ 1976 đến 1982, nhóm quyền lực là bộ ba Lê Duẩn, Lê Đức Thọ và Nguyễn Văn Linh, trong giai đoạn này hai người được chọn để đưa vào nhóm quyền lực là Đỗ Mười và Võ Văn Kiệt với tư cách là uỷ viên dự khuyết bộ chính trị. Sang giai đoạn từ 1982 đến 1986, bộ ba nắm giữ quyền lực vân là Lê Duẩn, Lê Đức Thọ và Nguyễn Văn Linh, với Đỗ Mười, Võ Văn Kiệt và Lê Đức Anh được cử làm phụ tá để chuẩn bị nối nghiệp. Lê Duẩn mất năm 1986 và Lê Đức Thọ mất năm 1990. Trong giai đoạn từ 1986 đến 1991, Nguyễn Văn Linh bị lu mờ trước Đỗ Mười, Võ Văn Kiệt và Lê Đức Anh, ba người do Lê Đức Thọ đưa lên để lãnh đạo đảng và nhà nước. Từ 1991 đến nay, trừ Võ Văn Kiệt vừa qua đời (2008), trung tâm quyền lực này ngày càng được củng cố với những thành phần trẻ: Nguyễn Tấn Dũng và Trương Tấn Sang (vào bộ chính trị năm 1996), Nguyễn Minh Triết (vào bộ chính trị năm 1997), cả ba người này đều do Lê Đức Anh (về hưu năm 1997) đỡ đầu. Cánh Đỗ Mười và Võ Văn Kiệt suy yếu dần và không còn được nhắc tới nữa.

Phác hoạ trên chỉ là mô tả giản lược của một tiến trình phân phát quyền lực phức tạp, vì càng đi sâu vào tổ chức đảng cộng sản càng thấy sự rườm rà, đan chéo quyền lực chằng chịt giữa các phe phái và khuynh hướng đang lên hay đang xuống.

Đảng Cộng Sản Việt Nam đã có gần 80 tuổi đời và 65 năm kinh nghiệm cầm quyền. Sự lâu dài này là một ngoại lệ vì chưa bao giờ Việt Nam có một tổ chức chính trị có kinh nghiệm cầm quyền lâu dài đến thế. Sự lâu bền này không phải tình cờ, nó là cả một quá trình thích nghi và thích ứng liên tục với thời thế và nhân sự trong nội bộ của những người lãnh đạo đảng. Có những khuôn mặt sáng chói một thời bỗng nghiên bị tắt lịm trong im lặng không ai biết, đó là trường hợp của các ông Trường Chinh, Trần Xuân Bách, Nguyễn Văn Linh, Đoàn Khuê, Đào Duy Tùng, Lê Khả Phiêu, Nguyễn Khoa Điềm, v.v.

Nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam trên danh nghĩa là một chế độ cộng hòa, nhưng trong thực tế nó là một thể chế độc tài, độc đảng. Chính vì thế sẽ không bao giờ có đa nguyên đa đảng như dư luận trông đợi, vì theo cách tổ chức chính trị hiện nay không có chỗ đứng nào cho một đảng phái chính trị khác ngoài đảng cộng sản, Điều 4 hiến pháp khẳng định thực tế này. Cũng nên biết hệ thống tổ chức của đảng cộng sản được thành lập song hành với hệ thống tổ chức hành chánh của nhà nước, và người quyết định sau cùng là đảng. Nói tóm lại, đảng cộng sản lãnh đạo tất cả, từ nhà nước đến các đoàn thể ngoại vi (mặt trận tổ quốc, tổng công đoàn, hội nông dân, hội phụ nữ, hội cựu chiến binh, v.v.) thông qua các ban cán sự đảng và đảng đoàn có nhiệm vụ lãnh đạo các thành viên trong tổ chức thực hiện đường lối, chính sách của đảng. Đối với các tổ chức quần chúng (hội đoàn tôn giáo, võ thuật, văn hoá và các tổng công ty), tuỳ theo tầm vóc của mỗi đoàn thể mà đảng cử nhiều hay ít cán bộ để quản lý.

Trong quân đội và công an cũng thế, người của đảng nắm quyền quyết định cuối cùng. Đảng uỷ quân sự trung ương (quân uỷ trung ương) và đảng uỷ công an trung ương gồm một số uỷ viên trong ban chấp hành trung ương công tác trong và ngoài quân đội và công an, do bộ chính trị và ban bí thư chỉ định. Mỗi đơn vị quân sự và công an đều có đảng uỷ riêng, từ quân khu, các binh chủng, các đơn vị chủ lực và biên phòng đến các đơn vị quân sự cấp tỉnh, thành, huyện, quận, thị xã đối với quân đội và các đơn vị công an cấp tỉnh, thành, huyện, quận, thị xã.

Vì là đảng độc quyền lãnh đạo, sự phân chia quyền lực và quyền lợi trong nội bộ đảng phải rất phân minh, nếu không sẽ lâm vào bế tắc, thí dụ như những lần họp chọn nhân sự vào ban chấp hành trung ương trong các đại hội đại biểu toàn quốc khoá 9 (2001) và 10 (2006). Lý do của sự trì trệ trong việc chỉ định nhân sự vào các chức vụ lãnh đạo là nhóm quyền lực, lúc đó là các ông Lê Đức Anh, Võ Văn Kiệt và Đỗ Mười, quá yếu. Sự trì trệ này vẫn còn kéo dài cho tới hôm nay. Hội nghị trung ương 11 khoá 1 giữa tháng 10-2009 vừa qua là một thí dụ khác: thành phần nhân sự lãnh đạo đảng trong đại hội đảng lần thứ 11 sẽ nhóm họp vào năm 2010 vẫn chưa ngã ngũ.

Cũng nên biết cơ quan lãnh đạo cao nhất của đảng là đại hội đại biểu toàn quốc, cơ quan lãnh đạo ở mỗi cấp (đảng bộ và chi bộ) là đại hội đại biểu hoặc đại hội đảng viên. Giữa hai kỳ đại hội, cơ quan lãnh đạo của đảng là ban chấp hành trung ương, ở mỗi cấp (uỷ) là ban chấp hành đảng bộ, chi bộ. Mỗi cấp uỷ có ban thường vụ riêng. Chỉ ban chấp hành trung ương mới có quyền bầu ra bộ chính trị, thành lập ban bí thư. Đại hội đại biểu toàn quốc 2006 đã bầu ban chấp hành trung ương khoá 10 gồm 160 thành viên, những người này đã bầu ra bộ chính trị gồm 14 thành viên. Phụ tá bộ chính trị và ban bí thư là những ban trung ương đặc trách tổ chức, tuyên giáo, bảo vệ chính trị, tư tưởng văn hoá, nội chính, kinh tế, khoa giáo, dân vận, tài chánh quản trị, kiểm tra, cán sự đảng ngoài nước và văn phòng trung ương đảng.

Những thành viên bộ chính trị bầu ra ban bí thư và đề cử một người đảm nhiệm chức vụ thường trực ban thường trực, hiện nay là ông Trương Tấn Sang. Nếu quan sát kỹ thành phần nhân sự trong ban bí thư này, người ta có thể biết quyền lực nằm trong phe nhóm nào hay trong tay ai. Tiếp theo sau là cả một quá trình thương lượng giữa các khuynh hướng khác nhau trong nội bộ đảng để phân bổ vào các ban tham mưu đầu não cấp trung ương, đứng đầu và quan trọng nhất là ban tổ chức trung ương. Nói thẳng ra, người lãnh đạo ban này cũng là người được tín cẩn, có nhiều ảnh hưởng trong đảng và nhà nước, hiện nay là ông Hồ Đức Việt. Kế đến là ban tuyên giáo trung ương hiện nay do ông Tô Huy Rứa đứng đầu. Nếu không có một biến cố quan trọng nào xảy ra, ba nhân vật này có thể sẽ là nhóm quyền lực mới trong đảng cộng sản Việt Nam.

Khác với những nhân vật trong ban lãnh đạo trước, Trương Tấn Sang là một người cơ sở, nắm vững địa bàn Sài Gòn, trung tâm kinh tế của đất nước, do đó có nhiều quan hệ với những nhóm thế lực địa phương ở miền Nam, đặc biệt là vùng đồng bằng sông Cửu Long và các tỉnh duyên hải miền Trung và Tây Nguyên. Hai ông Hồ Đức Việt và Tô Huy Rứa là những trí thức trẻ trong bộ chính trị, niềm hy vọng mới của đảng cộng sản, có khả năng thích ứng với trào lưu toàn cầu hoá trên thế giới. Dưới ảnh hưởng của ba nhân vật này là các bí thư thành uỷ Sài Gòn và Hà Nội, và các tỉnh uỷ địa phương, đa số là người miền Nam.

Ai là người đỡ đầu những nhân vật này vào trung ương đảng và bộ chính trị?

Trong thời kỳ chiến tranh chống Pháp (1945-1954) và tiến chiếm miền Nam (1960-1975), người nắm quyền lực trong đảng là Lê Đức Thọ. Tuy Lê Duẩn, Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp, Phạm Hùng có giữ nhiều chức vụ nổi quan trọng nhưng không nắm ban tổ chức trung ương nên không có khả năng tổ chức mạng lưới nhân sự khắp nơi. Sở dĩ Lê Đức Thọ có toàn quyền quyết định trong đảng vì ông là một người thông minh, có óc tổ chức và có tầm nhìn chiến lược nên rất được nể trọng, thêm vào đó anh em của ông, như Đinh Đức Thiện, Đồng Sỹ Nguyên, Mai Chí Thọ, là những cấp tướng tham gia trực tiếp vào cuộc chiến ở miền Nam. Quyền uy của ông trong đảng rất lớn nên gần như tất cả các chức vụ quan trọng trong đảng phải có sự đồng ý của ông. Mặc dù được sự cố vấn và giúp đỡ của những nhân vật khác trong bộ chính trị, chính Lê Đức Thọ tuyển chọn những người kế vị mình để nắm vai trò lãnh đạo trong đảng. Năm 1986, Lê Đức Thọ đã đưa các ông Đỗ Mười, Võ Văn Kiệt, Lê Đức Anh vào bộ chính trị và sau đó loại trừ các ông Trần Xuân Bách và Nguyễn Văn Linh ra khỏi những chức vụ lãnh đạo. Sau khi Lê Đức Thọ qua đời (1990), ba người này thay ông đảm nhiệm vai trò lãnh đạo đảng và tuyển chọn người duy trì quyền lãnh đạo của đảng: Lê Khả Phiêu (1993), Nguyễn Tấn Dũng (1996), Nguyễn Minh Triết (1997), Trương Tấn Sang (1996).

Trong thực tế, từ sau 1990, chính Lê Đức Anh là người có tiếng nói cuối trong những quyết định quan trọng liên quan đến sự chọn lựa người lãnh đạo đảng cộng sản. Lê Đức Anh là một người đã từng vào sinh ra tử và có một đời sống trong sạch hơn những người có địa vị khác nên rất được sự mến mộ của những đảng viên trẻ, đặc biệt là quân đội. Đỗ Mười và Võ Văn Kiệt tuy cũng có công bảo vệ đảng nhưng không có hào quang của một vị tướng chỉ huy chiến trường nên chỉ đóng vai trò cố vấn Lê Đức Anh mà thôi. Mặc dù vậy dư luận ít biết đến Lê Đức Anh vì ông thích hoạt động trong bóng tối, rất ít xuất hiện trước đám đông. Một yếu tố khác quyết định vai trò lãnh đạo của Lê Đức Anh là ông nắm giữ Tổng Cục II, đây là cơ quan tình báo quân đội thuộc bộ quốc phòng nhưng lại theo dõi tất cả mọi hoạt động của các đảng viên cao cấp trong các tổ chức đảng, từ chính quyền đến quân đội và công an.

Nhìn lại bốn nhân vật được Lê Đức Anh cất nhắc, tất cả đều là chỗ quen biết thân tình hoặc là phụ tá của ông trước kia. Nhân vật được Lê Đức Anh nâng đỡ nhất là Lê Khả Phiêu, đệ tử ruột của ông trên chiến trường Kampuchia (1979-1988), lên làm tổng bí thư năm 1997 nhưng không được tín nhiệm trong nhiệm kỳ sau. Ba nhân vật còn lại, Nguyễn Tấn Dũng trước kia được Võ Văn Kiệt đỡ đầu sau đó được Lê Đức Anh đối xử như một người cha, nghĩa là được nâng đỡ tối đa để thành đạt; Nguyễn Minh Triết gần như là người con trong nhà, được Lê Đức Anh tận tình giúp đỡ lúc còn ở Sông Bé; Trương Tấn Sang là một người có bản lãnh, có tài giao tiếp nên rất được lòng các cấp lãnh đạo miền Nam nên được Lê Đức Anh đặc biệt ưu ái, coi như người nhà.

Vấn đề là Lê Đức Anh năm nay đã gần 90 tuổi, không thể tiếp tục can thiệp vào sự tuyển chọn nhân sự vào những chức vụ cao cấp nhất trong đảng mặc dù uy tín của ông vẫn còn. Một vấn đề khác là ba ông Nguyễn Tấn Dũng, Nguyễn Minh Triết và Trương Tấn Sang đều có cùng tham vọng nắm quyền lãnh đạo đảng nhưng không có hào quang của Lê Đức Anh, nên sẽ rất chật vật trong việc kéo bè kết đảng sau lưng mình để nắm quyền lãnh đạo trong đảng. Chính vì thế các ông Hồ Đức Việt và Tô Huy Rứa đang rất có giá vì phe nào cũng muốn lôi kéo về phía mình. Bên cạnh đó, ông Nguyễn Văn Chi, trưởng ban bảo vệ chính trị nội bộ trung ương khoá 9 và chủ nhiệm uỷ ban kiểm tra trung ương khoá 10, là một ngôi sao đang lên. Nhưng cho dù có thế nào, Trương Tấn Sang vẫn là lá bài sáng giá nhất vì, mặc dù mang nhiều tai tiếng, là người từ đất ngoai lên, dám làm và dám nói những gì mà ông thấy đúng, hơn nữa ông nắm vững địa bàn kinh tế miền Nam. Trong khi các ông Nguyễn Tấn Dũng và Nguyễn Minh Triết được dư luận đánh giá là “con cháu các cụ”, nghĩa là được nâng đỡ chứ không có thực tài, nên ít được đa số đảng viên và quân đội nể phục.

Một sự thật đáng buồn là quyền lợi của đất nước không có chỗ đứng trong cuộc tranh giành quyền lực ở cấp cao nhất trong đảng cộng sản. Tất cả những liên minh hay kết hợp trong hậu trường này đều chỉ nhằm củng cố và kéo dài vô thời hạn vai trò lãnh đạo của đảng cộng sản chứ không phải vì tương lai đất nước.

Nguyễn Văn Huy

tqvn2004 gửi hôm Thứ Ba, 10/11/2009 Bạn đánh giá bài này thế nào?
Bài mới nhất
Tuần kí 25b - Vì sao dân ta không biết chuyện này? (11/11/2009)
Trần Mạnh Hảo - Nhân lời kêu gọi của ông Tổng Mạnh, bàn về thông tin “lề phải” (11/11/2009)
Nguyễn Trang Nhung - Dân trí bao nhiêu cho Dân chủ? (11/11/2009)
Lan Hương - Người Việt, chợ Vòm và đi tìm chợ mới (Phần II) (11/11/2009)
Dạ Hương - Lắng xuống mà hiểu sâu (tiếp tục bàn về báo cáo Valley và phản biện của GS Neal) (11/11/2009)
Nguyễn Văn Tuấn - Tại sao Nguyễn Sinh Cung lấy họ Hồ ? (10/11/2009)
Trương Duy Nhất - Vàng và Lũ (10/11/2009)
Lan Hương - Người Việt, chợ Vòm và ốc đảo bị đánh bại (Phần I) (10/11/2009)
Nữ Thủ tướng Đức Angela Merkel - Diễn văn trước lưỡng viện Hoa Kỳ ngày 3.11.09 (10/11/2009)
Chuyện về người phụ nữ số 1 thế giới: sao họ phải che dấu?! (10/11/2009)
Bài cũ
Bùi Chát "thách thức" bằng tập thơ mới (10/11/2009)
Trần Đình Hoành - Báo chí, Chính quyền trung ương, và những Ông Hùm Địa Phương (10/11/2009)
Năm huyền thoại về vẻ đẹp của thùng phiếu (09/11/2009)
Vương Trí Nhàn - Những cung bậc của cái hèn (09/11/2009)
Hiệu Minh - Những bức tường (09/11/2009)
Bùi Trọng Hiền - Lan man về văn hóa dân tộc thời hội nhập (09/11/2009)
Francis Fukuyama – Chế độ chuyên quyền kiểu Trung Quốc sẽ không thể tồn tại lâu (09/11/2009)
Hai dữ kiện trong tuần (09/11/2009)
Bùi Tín - "Một bức tường ở Berlin": bộ phim người Việt cần xem (08/11/2009)
Tuần kí số 25 - Có nên giỗ bố thằng hàng xóm không? (08/11/2009)

2099 lần đọc bản in chia sẻ 0 điểm

--------------------------------------------------------------------------------

"Đầy tớ ngoại" - "Đầy tớ nội"
Khách gửi lúc 3:01 am, 11/11/09
Nhìn Bill Clinton thổi saxophone, Arnold Schwarzenegger đóng phim, Vladimir Putin bơi lội hoặc Barack Obama lướt sóng, hay Kevin Rudd chạy bộ thể dục mỗi sáng v.v... mới nhận ra việc nhỏ nhưng lớn, việc tưởng vụn vặt nhưng to tát, điều này thể hiện một chân lý vĩnh cửu theo thời gian: ta biết yêu thân ta thì ta sẽ biết yêu thương dân.

Có thể họ chưa phải là tay kèn xuất sắc, chưa phải là tay lướt sóng chuyên nghiệp v.v... (trừ Arnold xuất sắc trong vai trò diễn viên điện ảnh) nhưng cái cách mà họ làm nó thật tự nhiên, không khoe khoang, không hợm hĩnh, không học đòi, không cố tình để đánh bóng tên tuổi thông qua sở thích cá nhân dù thể thao hay văn nghệ.

Các tay paparazzi mới tài tình, chỉ qua một vài tấm ảnh họ đã làm cho một người thuộc về công chúng thể hiện "cái tự nhiên" mà không một diễn viên nào có thể diễn được, nói lên điều này để minh chứng những hoạt động giải trí của họ là niềm đam mê cho sở thích cá nhân thuần túy, cho sức khỏe riêng mình. Đơn giản, các vị nguyên thủ này "dám" sống cho chính họ trước khi sống cho dân tộc, đất nước họ. Những tâm hồn lãng mạn chứa đựng trong thân xác mạnh mẽ thông qua những hoạt động thường tình mà sôi nổi ấy lại giúp họ gần gũi với người dân. Có lẽ thông điệp mà người dân nước họ nhận được là: "tôi cũng là con người bình thường như mọi người". Đơn giản mà ý nghĩa!

Họ - những "đầy tớ ngoại" tự hiểu rằng cần có sức khỏe tốt, tâm hồn dạt dào, đầu óc thư thái để sáng suốt phục vụ tốt cho chủ nhân của họ.

Bất giác nghĩ đến "đám đầy tớ nhà mình"! Dù chúng ta có cố gắng đốt đuốc tìm giữa ban ngày cũng chẳng ra nổi một tấm ảnh nào thể hiện cái sở thích cá nhân, cái giải trí đơn thuần của một vài đứa đầy tớ.

Mỗi sáng, mỗi tối, mỗi ngày, mỗi tuần, bật tivi lên, mở tờ báo ra, bạn và tôi - chúng ta chỉ thấy những bộ mặt "an nhiên", "tự tại", "lạc quan", những tư thế "đạo mạo", "hiên ngang", "thư thái", những cái bắt tay "thân thiện", những nụ cười "tình cảm", những cái bụng "lấp ló", những câu nói "sang trọng", những tuyên bố "hùng hồn", những tư tưởng"đỉnh cao thời đại" v.v....

Nào! Bạn và tôi - chúng ta hãy nhìn đi! những cái đầu bóng loáng với gel, những "mái tóc đen óng" của lứa tuổi thanh xuân đang ngạo nghễ mỉa mai những khuôn mặt bự thịt thuộc lứa tuổi xế chiều, những bàn tay múp míp, trắng trẻo đang múa may cùng những cái cần cổ gần như lút mất sau những lớp mỡ dày, những đôi mắt húp híp, những cánh tay phì nộn, những tấm thân mềm oặt, nhão nhoét, những cái bụng đầy mỡ tích tụ sau bao nhiêu năm làm... đầy tớ nhân dân!!! Thỉnh thoảng những cái trán hói lại nổi lên trong đám đầy tớ lố nhố như một sự khoe khoang về... trí tuệ nhưng lại ngược chiều với những lời "phịt" ra trước chủ(!)

Đám đầy tớ của chúng ta là vậy sao(?)

Không! những ông chủ, bà chủ đất nước này cần những đứa đầy tớ khỏe mạnh về thể xác, lãng mạn về tâm hồn, nhanh nhẹn trong thao tác, cần mẫn trong công việc, thông minh trong xử lý, trung thành với chủ nhân.

Những ông chủ, bà chủ Việt Nam cần những đứa đầy tớ như Obama, Angela Merkel v.v... chúng ta không cần những đứa đầy tớ lười biếng chảy thây,không chịu vận động cả thân xác lẫn bộ não, chúng ta không cần những đứa đầy tớ róng riết mỗi khi bị chủ la rầy mắng mỏ, trong khi những la rầy đó lại là những điều cần thiết cho đám đầy tớ - u mê nên tưởng rằng:

Con vua thì lại làm vua
Con sãi nhà chùa lại quét lá đa

hãy nhớ :

Bao giờ dân nổi can qua
Con vua thất thế lại ra quét chùa

Những la rầy của chủ nhân chắc chắn giúp lũ đầy tớ bọn bây nhiều bài học để khi "dân nổi can qua" có thể chẳng có chùa nào dám chứa lũ đầy tớ (vừa dốt nát, tham lam, bội bạc, lười biếng vừa tiểu nhân, hèn hạ, nham hiểm, bất lương) để bọn bây có thể mỗi ngày ra "quét lá đa" thì may mắn bọn bây có tha phương cầu thực nơi xứ người mà nghiệm lại những bài học hôm nay để biết sống đàng hoàng, tử tế là như thế nào!

Than ôi! DÂN tôi! những "ông chủ, bà chủ" đến tội nghiệp!

Các "ông, bà" sau một ngày lam lũ trên các công trường, khu chế xuất, bên những xe rác nhọc nhằn buộc phải đón bữa cơm đạm bạc để nhường gân rồng, óc kỳ lân, thịt đại bàng cho đám đầy tớ có sức khỏe mà phụng sự cho ta!

Ấy vậy mà đám đầy tớ Việt vô lương tâm đến mức bọn chúng cố tình quên mất thân phận để còn tỏ ra xấc xược, vô lễ với chủ, trách gì "Nhà Việt Nam" không loạn!

Ôi "đầy tớ ngoại"! "đầy tớ nội"!

Nguyễn Ngọc

trả lời trích dẫn 0 điểm
Re: Nguyễn Văn Huy - Cuộc tranh giành quyền lực ...
Khách gửi lúc 8:27 pm, 11/10/09
Nói một cách công bằng: làm cán bộ chủ chốt trong đảng CSVN và nhà nước ( địa phương) ở VN cũng không dễ, bởi quyền hành độc tài của chóp bu trung ương còn hơn cả vua, dưới phản biện, trên bịt tai và nếu cần thì trên rót cho dưới một "phát đại bác" bằng QĐ gì đó, thế là xong! Nếu cán bộ chủ chốt cấp dưới muốn yêu nước, thương dân, trung thực, minh bạch, đổi mới, dân chủ... nhưng cấp trên cứ lỳ mặt ra thì cũng đành chịu. Tương lai chắc chắn sẽ khác, sẽ có sự tranh đấu sòng phẳng vì cái chung của dân tộc, còn hiện nay thì tình trạng "trên ợ chua, dưới khen thơm" vẫn chưa thay đổi, bởi mỗi vị quan chức nho nhỏ ở VN đang bị nắm chặt cần câu cơm, nên đành tạm nhịn, chờ thời cơ. Để dễ hiểu hơn và sinh động hơn, xin kể câu chuyện như thế này:
Thế kỷ 23, Hội lãnh đạo vũ trụ họp tại sao Hỏa để bàn về việc qui hoạch lại Trái đất vì quá ô nhiễm, chật chội. Chủ tọa là người ngoài hành tinh, cất tiếng dõng dạc:
- Nếu các vị đạt được đồng thuận căn bản, tôi sẽ chỉ rõ trên bản đồ Trái đất những vùng đất có thể trao đổi, mua bán, chuyển nhượng cho các vị. Các vị sẽ được chuyển đến ở tận sao Mộc, trên ấy rất màu mỡ, trong lành. Chuyển nhượng xong, chúng tôi sẽ cải tạo môi trường Trái đất trong 100 năm, có thể sau đó bàn giao lại cho các vị!
Cả khán vòng rung rinh, chao đảo vì ngập tràn tiếng vỗ tay. Chủ tọa liền lấy bản đồ thế giới, rành rọt chỉ vào hướng tây bán cầu, hình như là nước Mỹ, và nói " Tôi muốn đổi vùng này, trả cho các ngài số tiền đền bù là ...". Lập tức, ông người Mỹ phản đối " Tôi chỉ hợp tác thời gian tối đa khoảng 5 năm, 10 năm, chứ không đợi quá lâu, và càng không muốn đổi vĩnh viễn, xin đừng nói giá tiền, bởi đó là sự sỉ nhục. Chúng tôi, những người Mỹ rất thực dụng, nhưng cũng không muốn ai áp đặt sự đổi chác trên đất chúng tôi".
Chủ tọa mặt xanh mõm ếch rất bình tĩnh.
- Vâng! Người ngoài hành tinh chúng tôi không bao giờ nổi nóng, nếu ngài nói nước Mỹ không đồng thuận, tôi xin tìm vùng khác vậy!
Nói xong, ông ta vung cây thước, chỉ vào bán đảo nhỏ hẹp phía mặt trời mọc. Ông người Nhật đứng dậy, phủ tay " Đất của tôi tuy tài nguyên khan hiếm và động đất liên miên, nhưng dân tôi có lòng tự trọng đứng đầu Trái đất, sẵn sàng lấy kiếm mổ bụng chính mình, chứ không thèm chuyển nhượng. Chúng tôi sẽ tự cải tạo môi trường, xin ngài cảm phiền, miễn đề cập đến vùng đất và biển của chúng tôi"!
Ông mặt xanh thất vọng, nhìn quanh. Thấy một vùng đất rộng lớn mênh mông, có hai chữ thấp thoáng " China", ông ta hấp háy mắt, ngoái đầu nhìn vị đại biểu có dáng người thấp đậm, mắt híp một mí, chờ phản ứng. Thật bất ngờ, ông đại biểu người Tàu xếp hai cánh tay chéo, dấu hiệu "Stop". Và ông Tàu văng ra một câu khá tục, tạm dịch " ... Chúng tao chỉ thích lấy thêm đất và lấn thêm biển Đông, chứ không bao giờ chuyển nhượng, trao đổi cái ... con mẹ gì hết, há! Các ông ngoài hành tinh nếu thích thì đến thằng ... da vàng mũi tẹt có cái mũi Cà Mau, khả dĩ thành công! Còn chúng tôi, các ông không thích thì biến, nếu không, tả lớ, đừng trách người Tàu!
Nghe nói vậy, ông chủ tọa mặt xanh cười phe phé như tiếng ngựa hí, hứng khởi nhìn về đám người gồm chính khách và đối ngoại Việt Nam. Mấy ông quan nhỏ trong đoàn VN mặt đỏ bừng vì bị xúc phạm, thì thầm với nhau:
- Mẹ kiếp, chúng nó xem thường mình đến thế là cùng. Truyền thống bất khuất của VN ta đâu rồi, kiên quyết không mua bán trao đổi gì hết ráo!
Một ông trong đoàn VN liền ghé tai sếp lớn nguyên thủ. Tình hình bất ổn, hình như có mâu thuẫn nên đoàn VN xin phép hội ý khoảng 10 phút. Tại hành lang, người ta thấy ông nguyên thủ VN dõng dạc chỉ thị cho bọn đàn em:
- Tôi chỉ đạo các anh thế này, nhá. Khi thằng cha mặt xanh chỉ cây thước vào đất VN, ta cứ ừ tuốt luột! Nó chuyển nhượng và cải tạo cho mình, ta vừa được lộc trời, vừa đỡ phải lo trách nhiệm. Đời ta sống được bao nhiêu, danh dự là con khỉ mốc gì mà phải lo, phải tự ái cho mệt xác, phải không nào? Vấn đề là ... bọn ngoài hành tinh thích chỗ nào, giá bao nhiêu? Nếu nó chỉ vào Hà Nội hoặc Sài Gòn, thì các anh phải hét giá lên thật cao, hiểu chưa? Nhớ rõ, vấn đề là ... giá bao nhiêu, còn thời gian thì chỉ là chuyện vặt, nhớ chưa?
Đoàn VN có nhiều ông định phản ứng vì cảm giác bị xúc phạm, nhưng ông nguyên thủ VN trừng mắt lên, khiến họ phải miễn cưỡng im thin thít, ký vào bản khế ước do người mặt xanh đem tới.
Sau mấy phút, người mặt xanh sốt sắng tuyên bố:
- Thưa các vị khách quý! Như vậy, nước tiên phong đi đầu trong phong trào hợp tác với hội vũ trụ chính là khách quý Việt Nam! Chỉ có điều, giá do VN đưa ra quá cao, chúng tôi sẽ về sao Kim để bàn bạc lại và sẽ hồi âm cho phía VN sau 2 ngày! Xin chúc mừng VN!
Nhiều tiếng cười khả ố nhìn về phía nhóm VN trong tiếng vỗ tay lẹt đẹt khiên cưỡng của các quan chức Việt...
Có nhiều ngôn ngữ xen lẫn vào nhau, nhưng vẫn nghe khá rõ " Biết ngay mà! Bọn Việt Nam thì bán hết, đổi hết cũng được, vấn đề là ... giá bao nhiêu! Đó là phương châm sống của lãnh đạo đảng CS VN đấy mà! Hèn gì, ai cũng thích vào ban chấp hành trung ương, và bằng mọi giá chen vào bộ chính trị ..."
( Kiến Lửa - Hà Nội)

trả lời trích dẫn 0 điểm
Re: Nguyễn Văn Huy - Cuộc tranh giành quyền lực ...
Khách gửi lúc 7:47 am, 11/10/09
Nói gì mà ghê quá vậy các bác. Tôi thấy bài này vẫn còn mang nặng định tính, nên không thể thuyết phục lắm, nhưng nói sau lưng thì chẳng hay chút nào, có khi còn là sự ghen tức vì mình tài hèn CHĂNG???

trả lời trích dẫn 0 điểm
Re: Nguyễn Văn Huy - Cuộc tranh giành quyền lực ...
Khách gửi lúc 6:17 am, 11/10/09
Điều nhức nhối nhất ở Việt Nam là người dân và các cơ quan quyền lực nhà nước không thể ước đoán hoặc kiểm soát được tài sản của quan chức, nhất là tầm cỡ ủy viên bộ chính trị. Việc kê khai tài sản theo chủ trương của đảng, thực chất là một trò hề, đáng xấu hổ và chỉ lừa được bọn học sinh cấp 1.
Ví dụ như Trương Tấn Sang chẳng hạn, trên danh nghĩa, Sang chỉ có một căn nhà "bình dân" ở số 60 Thạch Thị Thanh ( phường Tân Định, quận 1, TPHCM), nhà này là tiêu chuẩn cán bộ khi Sang còn là thanh niên xung phong. Còn hiện nay, bố bảo ông nào nói được tài sản của Sang là bao nhiêu triệu Mỹ kim?
Hiện tại, tôi và bạn có thể nắm được chính xác đến hàng chục ngàn Mỹ kim, nếu nói đến tài sản của tổng thống Mỹ Obama. Bởi vì, sự minh bạch trong thu nhập của chính giới ở nước dân chủ là nguyên tắc sống còn. Trong khi đó, tôi dám đánh cược với tất cả mọi người VN: tỉ lệ 1/1 tỉ VND ( 1 ngàn ăn 1 tỉ), nếu ai đó nói được gần đúng tài sản ( qui ra tiền) của mấy tay chóp bu của đảng, cả cũ và mới từ thời Lê Đức Anh đến nay!
Tôi được một tay chân của Dũng lò vôi cho biết, nguyên văn câu thề trong cuộc nhậu là " khu Đại Nam quốc tự ở Bình Dương, nếu ông Triết không có vài ngàn tỉ, em thề với anh, em chết liền"!
Còn cỡ như ông Tấn Dũng, Tấn Sang... thì khỏi nói. Quyền lực đã đem đến những tài khoản khổng lồ cho họ, bằng nhiều hình thức ảo và thật, nhìn thấy và không thể nhìn thấy.
Ví dụ: con ông Dũng du học ở Mỹ, và hiện đang có resort lộng lẫy ở Nha Trang, tiền ấy ông Dũng và con cái khỏi cần lo. Đã có những kẻ dâng hiến cho "chính khách sọc dưa", và được đổi lại bằng những cú chỉ định thầu "đại quy mô" dành cho các trùm của tập đoàn, tổng công ty nhà nước! Chuyện lỗ hàng trăm tỉ của bọn doanh nghiệp nhà nước thì đã có ... dân ta gánh chịu!
Chỉ vài dẫn chứng, đủ để thấy rằng: quyền lợi to lớn của lãnh đạo đảng cộng sản VN đã làm mờ mắt họ. Họ đấu đá nhau vì điều đó mà thôi!

trả lời trích dẫn 0 điểm
Re: Nguyễn Văn Huy - Cuộc tranh giành quyền lực ...
Khách gửi lúc 3:38 am, 11/10/09
Bài viết suy đoán và phân tích một phần trên yếu tố lịch sử, cảm tính, dữ liệu đã có. Không cho thấy quan điểm riêng của tác giả cũng như những cứ liệu mà tác giả tin rằng có tính thực tế. Kết của bài cũng chỉ là suy đoán chưa đủ cơ sở. Cũng chỉ là sự tranh giành chủ yếu nghiêng về tay họ Trương mà ... xin lỗi "cái bản mặt không nhìn thấy sống mũi" "đôi môi mỏng đến mức gần như không có", "đôi mặt híp giảo hoạt, nham hiểm, đĩ thỏa" và còn rất nhiều về cốt cách của tay này, với hình dạng méo mó bên ngoài của tay Trương, tôi cho rằng còn tệ hơn Dũng hay Triết. Chúng ta cũng nên biết, "bề ngoài không phải cái quyết định nhưng là cái bắt đầu", hãy nhìn Phiêu (bề ngoài như là một ông nông dân) Mỹ Hoa (như bà bán thịt heo), Tòng thị Phóng (như một mụ cho vay nặng lãi) v.v... thì còn làm trò trống gì!

Tại sao tôi lại miệt thị và đánh giá thấp họ Trương? Xin thưa, tay này tôi đã từng có dịp tiếp xúc khi nó còn ở Sài gòn. Đây là sự thật và không bao giờ tôi quên lần tiếp xúc đó. Chính lần tiếp xúc này dạy cho tôi đừng bao giờ ảo tưởng về CS. TƯ CÁCH CON NGƯỜI KHÔNG PHẢI Ở TUỔI TÁC! Hãy tin tôi về ý nghĩa này đối với Trương.

Nguyễn Ngọc

trả lời trích dẫn 0 điểm
Re: Nguyễn Văn Huy - Cuộc tranh giành quyền lực ...
Khách gửi lúc 3:16 am, 11/10/09

Nguyễn Văn Huy wrote:
Một sự thật đáng buồn là quyền lợi của đất nước không có chỗ đứng trong cuộc tranh giành quyền lực ở cấp cao nhất trong đảng cộng sản. Tất cả những liên minh hay kết hợp trong hậu trường này đều chỉ nhằm củng cố và kéo dài vô thời hạn vai trò lãnh đạo của đảng cộng sản chứ không phải vì tương lai đất nước.

Câu này được giá nhất. Tranh chấp thì ở đâu cũng có. Mỹ cũng có tranh chấp và cũng có tiêu cực. Có điều ở Mỹ cơ chế giám sát tốt hơn lên dân được nhờ đôi chút

Link cua bai nay :http://danluan.org/node/3224