Thứ Năm, 15 tháng 6, 2023

BẬT DẬY VÀ GIẾT LIỀN : - Bài 3

Ronen Bergman

Trần Quang Nghĩa dịch

Chương 3 : VĂN PHÒNG SẮP XẾP CÁC BUỔI HỌP VỚI CHÚA TRỜI

CHIẾN TRANH GIÀNH ĐỘC LẬP CỦA ISRAEL chính thức kết thúc với các hiệp định đình chiến vào năm 1949. Các cuộc giao tranh không chính thức không bao giờ dừng lại.  Trong suốt đầu những năm 1950, đất nước này liên tục bị người Ả Rập xâm nhập từ các phần đất của Palestine vẫn nằm trong tay người Ả Rập sau chiến tranh — cụ thể là Dải Gaza, ở phía nam, do Ai Cập quản lý, và Bờ Tây, ở phía đông,  mà Jordan đã thôn tính.  IDF ước tính rằng trong năm 1952, khoảng 16 nghìn vụ xâm nhập đã xảy ra (11 nghìn từ Jordan và phần còn lại từ Ai Cập).  Một số kẻ xâm nhập đó là những người tị nạn đã chạy trốn trong Chiến tranh giành độc lập, tự nguyện hoặc không tự nguyện, và đang cố gắng trở về làng của họ và vớt vát những gì còn lại của tài sản mình.  Nhưng nhiều kẻ khác là chiến binh xâm nhập với mục tiêu là giết người Do Thái và gieo rắc nỗi kinh hoàng.  Họ tự gọi mình là fedayeen – “những người hy sinh bản thân.”

 Người Ai Cập, mặc dù đã ký hiệp định đình chiến, nhưng nhanh chóng nhận ra rằng fedayeen có thể thay mặt họ chống lại một cuộc chiến tranh ủy nhiệm.  Với sự huấn luyện và giám sát thích hợp, những chiến binh Palestine đó có thể tàn phá đáng kể Israel trong khi mang lại cho Ai Cập vỏ bọc của sự phủ nhận chính đáng.

 Một đại úy trẻ của tình báo quân đội Ai Cập, Mustafa Hafez, được giao phụ trách tổ chức fedayeen. Bắt đầu từ giữa năm 1953, Hafez (cùng với Salah Mustafa, tùy viên quân sự Ai Cập tại thủ đô Amman của Jordan) bắt đầu tuyển mộ và đào tạo các đội du kích được phái vào miền nam của Israel.  Trong nhiều năm, những biệt đội đó, tổng cộng sáu trăm fedayeen, đã lẻn qua biên giới từ Gaza và phá hoại bất cứ thứ gì chúng có thể.  Chúng cho nổ ống dẫn nước, phóng hỏa đốt ruộng, ném bom đường ray xe lửa, đào tung đường bộ;  chúng sát hại nông dân trên cánh đồng của mình và các sinh viên tại trường tôn giáo — tổng cộng khoảng một nghìn thường dân trong khoảng thời gian từ năm 1951 đến năm 1955. Họ đã gieo rắc kinh hoảng và sợ hãi đến mức người Israel không dám lái xe vào ban đêm trên các con đường chính ở phía nam.

Các đội ủy nhiệm được coi là một thành công lớn.  Người Israel không thể bắt Ai Cập hoặc Jordan chịu trách nhiệm trực tiếp.  Thay vào đó, họ sẽ phản ứng bằng cách tuyển dụng các lực lượng uỷ nhiệm của riêng mình, biến người Ả Rập thành những kẻ đưa tin, thu thập thông tin tình báo về các mục tiêu trong nhóm fedayeen, và sau đó ám sát chúng.  Những nhiệm vụ đó hầu hết được giao cho một đội tình báo IDF được gọi là Đơn vị 504.

 Một số người của Đơn vị 504 đã lớn lên tại các khu dân cư Ả Rập của Palestine và do đó họ rất quen thuộc với ngôn ngữ và phong tục của người dân địa phương.  Đơn vị 504 dưới sự chỉ huy của Rehavia Vardi.  Sinh ra ở Ba Lan, Vardi từng là sĩ quan tình báo cấp cao của Haganah trước khi  nhà nước thành lập, và ông được biết đến với sự dí dỏm sắc bén và những phát biểu thẳng thắn.  “Mọi người Ả Rập,” ông nói, “có thể được tuyển dụng trên cơ sở một trong ba chữ P — khen ngợi, trả tiền hoặc gái gú (praise, payment or pussy). Cho dù thông qua ba chữ P đó hay các phương tiện khác, Vardi và người của ông đã tuyển mộ từ bốn trăm đến năm trăm đặc vụ, những người đã truyền lại thông tin vô giá trong giai đoạn từ năm 1948 đến năm 1956. Những người tuyển dụng đó, lần lượt, cung cấp cho Đơn vị 504 thông tin về một số điều phối viên fedayeen cấp cao.  Một số đã được xác định, xác định vị trí và mục tiêu, và trong mười đến mười lăm trường hợp đó, người Israel đã thuyết phục các đặc vụ Ả Rập của họ đặt một quả bom gần mục tiêu đó.

 Đó là lúc họ gọi Đơn vị 188. Đó là lúc họ yêu cầu dịch vụ của Natan Rotberg.

__

“ĐÓ LÀ HOÀN TOÀN RẤT RẤT, rất bí mật,” Rotberg nói.  “Chúng tôi không được phép nhắc đến tên các đơn vị;  chúng tôi không được phép nói cho bất kỳ ai biết chúng tôi sẽ đi đâu, phục vụ ở đâu hoặc — không cần nói — chúng tôi đang làm gì ”.

 Rotberg, một thành viên của kibbutz (nông trang tập thể của Israel) cổ bạnh và tốt bụng với bộ ria mép rậm rạp, là một trong nhóm nhỏ, chỉ vài trăm người, tham gia thành lập bộ ba AMAN, Shin Bet và Mossad buổi đầu.  Năm 1951, khi Rotberg được bổ nhiệm vào một đơn vị biệt kích biển có tên là Shayetet 13 (Đội 13), tình báo Israel đã thiết lập một cơ sở bí mật ở phía bắc Tel Aviv để dạy “cách phá hủy đặc biệt” và chế tạo bom tinh vi.  Rotberg, sĩ quan chất nổ của Flotilla 13, được chỉ định để điều hành nó.

Rotberg đã lắp đặt một cái thùng lớn, trong đó anh ta trộn TNT và pentaerythritol tetranitrate và các hóa chất khác thành những thứ pha chế chết người.  Nhưng mặc dù hỗn hợp của anh ta được thiết kế để giết người, anh ta tuyên bố rằng anh ta không hành động với sự thù hận trong lòng.  “Bạn cần biết cách tha thứ,” anh nói.  “Bạn cần biết cách tha thứ cho đối phương.  Tuy nhiên, chúng ta không có thẩm quyền để tha thứ cho những người như bin Laden.  Điều đó, chỉ có Chúa mới làm được.  Công việc của chúng tôi là sắp xếp một cuộc gặp gỡ giữa họ.  Trong phòng thí nghiệm của mình, tôi đã mở một văn phòng mai mối, một văn phòng sắp xếp các cuộc họp như vậy.  Tôi đã dàn dựng hơn ba mươi cuộc họp như vậy ”.

 Khi Rehavia Vardi và người của anh ta đã xác định được mục tiêu, họ sẽ đến Rotberg để tìm quả bom.  Rotberg nói: “Lúc đầu, chúng tôi làm việc với giỏ đan lát hai đáy.  “Tôi sẽ đệm phần dưới cùng của giỏ bằng giấy không thấm nước và đổ hỗn hợp pha chế từ thùng vào.  Sau đó, chúng tôi sẽ đặt một tấm bìa và bên trên là các loại trái cây và rau quả.  Đối với cơ chế [kích hoạt], chúng tôi đã sử dụng những cây bút chì mà chúng tôi đưa vào đó những ống thuốc chứa đầy axit ăn mòn nắp cho đến khi nó chạm tới ngòi nổ, kích hoạt nó và bắt đầu nổ.  Vấn đề với axit là điều kiện thời tiết ảnh hưởng đến thời gian nó ăn mòn [lớp vỏ], tạo ra thời gian không đồng đều.  Một quả bom ở Dải Gaza sẽ nổ vào thời điểm khác với quả bom ở Bờ Tây, nơi nó thường lạnh hơn.  Sau đó chúng tôi chuyển sang dùng đồng hồ, có độ chính xác cao hơn nhiều ”.

 Nhưng những quả bom của Rotberg hầu như không đủ để giải quyết vấn đề fedayeen.  Theo một số nguồn tin, chất nổ chỉ giết chết bảy mục tiêu từ giữa năm 1951 đến giữa năm 1953, trong khi trong quá trình này, sáu thường dân đã bị giết chết.

 Các cuộc tấn công tiếp tục không suy giảm, khủng bố thường dân Israel, làm bẽ mặt Lực lượng Phòng vệ Israel.  Vardi và những người của anh, vốn có tài năng khi họ tuyển dụng đặc vụ, lại chỉ thu thập được thông tin thưa thớt về danh tính của những người điều hành fedayeen và ngay cả khi đơn vị đã đánh hơi được các mục tiêu cụ thể, IDF vẫn không thể tìm thấy hoặc giết họ.  “Chúng tôi có những hạn chế của mình,” Yigal Simon, một cựu binh Đơn vị 504 và sau này là chỉ huy của nó, nói.  “Không phải lúc nào chúng tôi cũng có thông tin tình báo, chúng tôi không thể cử đặc vụ của mình đi khắp nơi và họ không đánh giá cao chúng tôi ở IDF.  Điều quan trọng đối với chỉ huy cấp cao là chỉ ra rằng IDF – bàn tay của người Do Thái—có thể thực hiện các hành động này. ”

 Các đơn vị IDF thông thường đã nhiều lần cố gắng xâm nhập Dải Gaza, Sinai và Jordan để thực hiện các cuộc tấn công trả đũa, nhưng họ liên tục thất bại.  Theo đó, Thủ tướng Ben-Gurion đã quyết định phát triển bất kỳ khả năng nào mà IDF còn thiếu xót.  Tại một cuộc họp bí mật vào ngày 11 tháng 6 năm 1953, nội các Israel đã thông qua khuyến nghị của ông rằng nó “ủy quyền cho bộ trưởng quốc phòng” — cũng chính là Ben-Gurion – chấp thuận các hành động trả đũa chống lại các cuộc tấn công và giết người [do] những kẻ đến từ ngoài ranh giới đình chiến Israel-Jordan thực hiện.”

Ben-Gurion đã sử dụng quyền hạn được trao cho mình để hành động một thời gian ngắn sau đó.  Hai lính canh tại Even Sapir, một khu định cư gần Jerusalem, đã bị sát hại vào ngày 25 tháng 5 và ông đã ra lệnh thành lập một đội đặc nhiệm bí mật để loại bỏ tên khủng bố chủ chốt người Palestine tên là Mustafa Samweli, kẻ  đứng đằng sau vụ tàn sát các lính canh.

Bây giờ Ben-Gurion chỉ cần một người phù hợp để chỉ huy nó.

ARIEL SCHEINERMAN — BIẾT NHIỀU HƠN DƯỚI TÊN Ariel Sharon — là một sinh viên 25 tuổi vào mùa hè năm 1953, nhưng anh ta đã có nhiều kinh nghiệm chiến đấu.  Anh đã tự khẳng định mình như một nhà lãnh đạo từ những ngày còn là một cố vấn phong trào thanh thiếu niên và đã chứng tỏ lòng dũng cảm của mình trong Chiến tranh giành độc lập, trong đó anh đã bị thương nặng.  Arik, như tên anh cũng được biết đến, là người lôi cuốn và uy quyền, một chiến binh với tình trạng thể chất hàng đầu, và anh  đã không ngần ngại khi Bộ Tổng tham mưu IDF tuyển dụng anh để loại bỏ Samweli.  “Cha tôi ngay lập tức nói đồng ý,” Gilad, con trai của Sharon, viết trong tiểu sử về Ariel.  “Ông tự tin rằng với bảy hoặc tám người giỏi, những người bạn đã phục vụ cùng ông ấy trong cuộc chiến và sau này, và với bộ công cụ phù hợp, ông ấy có thể làm được.”

 Vào đêm ngày 12 đến ngày 13 tháng 7, Sharon và đội đã tìm cách vào bên trong ngôi làng của Samweli ở Bờ Tây và cho nổ tung ngôi nhà của y.  Nhưng thông tin tình báo mà họ được cung cấp là sai sót, và lúc đó Samweli không có ở nhà.  Lực lượng này vướng vào một cuộc đọ súng và thoát được trong đường tơ kẻ tóc.

 Bộ chỉ huy cấp cao coi cuộc hành quân là một thành công – thâm nhập sâu vào lãnh thổ của kẻ thù, thể hiện khả năng bắn trúng mục tiêu và trở về căn cứ mà không có thương vong.  Ngược lại, Sharon trở lại kiệt sức và hoàn toàn không hài lòng.  Kết luận của anh ấy là những hoạt động như vậy phải được thực hiện bởi các chuyên gia, một thứ hoàn toàn khác với nhóm bạn ngẫu nhiên mà anh ấy đã đi cùng đêm hôm đó.  Anh ta nói với cấp trên rằng cần phải có một đơn vị biệt kích tinh nhuệ.  Vào ngày 10 tháng 8, Đơn vị 101 ra đời.

 “Đơn vị này được thành lập với mục đích hoạt động xuyên biên giới, những nhiệm vụ phi tiêu chuẩn đòi hỏi huấn luyện đặc biệt và hiệu suất cấp cao,” theo “Quy trình hoạt động 101” do chính Sharon viết.

 Sharon được quyền tự do lựa chọn người của mình, từ những người lính dự bị được chuyển sang quân đội cũng như những người lính bình thường.  Anh muốn đưa họ trải qua một chương trình đào tạo kéo dài nhiều năm mệt mỏi.  Các chiến binh của anh đã học cách xử lý chất nổ, cách điều hướng trong khoảng cách xa, và cách bắn chính xác và chính xác khi chạy trên địa hình đồi núi, các bài tập vừa phát triển kỹ năng của họ vừa tạo cảm giác tự hào và tự tin.

 Nhà lãnh đạo trẻ đảm bảo rằng người của mình đứng tách biệt với lực lượng chính quy IDF, trang bị cho họ một vũ khí cá nhân khác với khẩu súng trường Tiệp Khắc đã lỗi thời đang được sử dụng vào thời điểm đó.  Thay vào đó, họ được cấp súng tiểu liên Carl Gustav, và họ cũng là những người đầu tiên thử khẩu Uzi mới và vẫn còn bí mật do Israel sản xuất.

 Sharon cũng nới lỏng các quy tắc về trang phục và ứng xử;  Tại căn cứ bí mật của họ ở vùng núi Jerusalem, những người lính của Đơn vị 101 thường làm việc hoàn toàn trong trang phục dân sự.  Đối với Sharon, những cái bẫy bề ngoài của trật tự quân sự chỉ được sử dụng ngoài lề;  quan trọng hơn là người của anh ấy tin rằng họ đặc biệt, tốt hơn, tốt nhất.  Và họ tin tưởng chỉ huy của mình: các cuộc họp giao ban hành động của Sharon rất chính xác và rõ ràng, và anh ta chiến đấu ở mặt trận cùng tiểu đoàn của mình, thường ở vị trí dễ bị tấn công nhất, thể hiện phương châm nổi tiếng của các chỉ huy IDF: “Hãy theo tôi!”

Sharon thấm nhuần động lực vô hạn và không bị kiềm chế để tiếp tục hành động, và anh ta hiểu rằng nếu phải đợi thông tin tình báo chính xác từ AMAN để thực hiện một vụ giết người có mục tiêu, anh ta có thể sẽ không bao giờ làm được gì.

Theo đó, Sharon và Moshe Dayan, tổng tham mưu trưởng, đã thay đổi chiến thuật, từ bỏ độ chính xác cho một thứ nguyên thủy hơn.  Thay vì tiêu diệt những kẻ khủng bố hàng đầu của người Palestine, họ sẽ trả thù cho những người Israel bị giết bằng cách tấn công và khủng bố các ngôi làng Ả Rập mà những kẻ khủng bố đã thiết lập để gây hại cho người Do Thái, cũng như các trại quân đội và đồn cảnh sát.

Dayan nói trong một bài giảng vào năm 1955: “Chúng ta không thể ngăn chặn việc sát hại công nhân trong vườn cây ăn quả và gia đình trên giường của họ,“ nhưng chúng ta có khả năng định giá cao cho máu của mình ”.

 Sharon, khao khát hành động, đã lên kế hoạch cho một loạt các cuộc đột kích trừng phạt nhằm vào các mục tiêu quân sự và dân sự Ả Rập, sau đó vận động để cấp trên chấp thuận chúng.  Tuy nhiên, đó là một câu hỏi mở rằng có bao nhiêu trong số những cuộc đột kích đó là trừng phạt chứ không phải là khiêu khích.  Sharon thích trích dẫn câu châm ngôn nổi tiếng của Dayan “Chúng ta không khởi xướng các trận chiến trong thời bình.”  Uzi Eilam, người từng là sĩ quan tình báo của Sharon, gợi ý rằng đây không phải là một quy tắc cứng nhắc.  “Có nhiều trường hợp trong đó chúng tôi, theo lệnh của Arik, đã khiêu khích kẻ thù bên kia biên giới giới và kích động chiến tranh.

 Trong một phân tích thực tế về “ai đã gây chiến trước” trong toàn bộ lịch sử trả đũa của IDF, chúng tôi sẽ không đưa ra kết luận rõ ràng nào. “

 Ngay cả trong thời gian thực, khi chúng đang diễn ra, có một nhược điểm rõ ràng đối với chiến thuật của Sharon.  Vào mùa thu năm 1953, fedayeen đã sát hại một phụ nữ trẻ và hai đứa con của cô ấy ở Yehud, ngay phía đông nam Tel Aviv, cái chết dã man gây chấn động dư luận Israel.  Chính phủ thề sẽ trả đũa.  Giả thiết là các chiến binh Ả Rập đang sử dụng các ngôi làng ở Bờ Tây gần biên giới làm căn cứ để tấn công Israel.  Sharon đã chọn một trong những ngôi làng đó – Qibya, có thể có hoặc không liên quan đến các vụ giết người ở Yehud – làm mục tiêu.

Vào ngày 15 tháng 10, trước bình minh, Sharon dẫn một lực lượng gồm 130 người từ Đơn vị 101 và các bộ phận khác, mang theo hơn 1.500 cân chất nổ, tiến vào Qibya.  Trong vòng vài giờ, ngôi làng đã bị phá hủy.  “Trong chiến dịch Qibya,” một trung úy của Sharon sau đó đã làm chứng, “chúng tôi đã cho nổ tung bốn mươi ba ngôi nhà.  IDF được trang bị những chiếc đèn pin nhỏ còn sót lại của Quân đội Anh, thứ mà bạn khó có thể nhìn thấy.  Chúng tôi đi vào với một cái loa, chiếu đèn pin và hét lên: “Nếu có ai ở đây, hãy ra ngoài, vì chúng tôi sắp cho nổ tung.” Một số đứng dậy và đi ra.  Sau đó, chúng tôi sẽ sử dụng chất nổ và làm nổ tung ngôi nhà.  Khi chúng tôi quay trở lại, chúng tôi báo cáo có 11 [người Ả Rập] bị giết.  Không phải là chúng tôi đã nói dối;  chúng tôi chỉ không biết. “

Số người chết cao gấp sáu lần.  Ít nhất 69 người thiệt mạng, hầu hết là phụ nữ và trẻ em.  Thế giới, bao gồm phần lớn Israel và các cộng đồng Do Thái trên toàn cầu, đã rất kinh hoàng.  Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc cũng lên án cuộc đột kích, cũng như Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ, thông báo rằng họ đã đình chỉ viện trợ cho Israel vì vi phạm các thỏa thuận đình chiến năm 1949.

Lời giải thích chính thức của Israel cho vụ thảm sát thuộc trách nhiệm của các thường dân Do Thái lưu manh.  “Tất cả các đơn vị IDF đã ở căn cứ của họ” vào đêm đột kích, Ben-Gurion nói công khai.  Abba Eban, đại sứ của Israel tại LHQ, đã lặp lại lời nói dối của Ben-Gurion tại một phiên họp của Hội đồng Bảo an.

Riêng, Ben-Gurion đã hỗ trợ hết mình cho Sharon, bởi vì Đơn vị 101 — bất chấp sự phẫn nộ của toàn thế giới — đã thúc đẩy tinh thần trong Quân đội Israel đang kiệt quệ bởi các hoạt động phòng thủ không ngừng.  Đơn vị đại diện cho sự cống hiến, táo bạo, sức mạnh thể chất và sức chịu đựng tinh thần, những lý tưởng mà mỗi đơn vị IDF mong muốn.  Như Sharon sau đó đã nói, Đơn vị 101 “đã chứng minh, trong một thời gian ngắn, không có sứ mệnh nào mà họ không thể thực hiện” và những sứ mệnh đó đã giúp bảo vệ biên giới của Israel.  Tuyên bố đó mở ra để tranh luận — có những câu hỏi nghiêm trọng về mức độ thành công của các cuộc tấn công biệt kích đó trong việc làm suy giảm các cuộc tấn công của bọn xâm nhập, và một số thậm chí không đạt được mục tiêu trước mắt — nhưng các binh sĩ Israel tin rằng đó là sự thật.

Và như vậy là đủ.  Đầu năm 1954, chỉ năm tháng sau khi Đơn vị 101 được thành lập, Dayan đã sát nhập đơn vị này với Lữ đoàn Nhảy dù, với Sharon là một trong các tiểu đoàn trưởng.  Dayan tin rằng Đơn vị 101 đã trở thành một hình mẫu – về huấn luyện và kỷ luật, về sự cống hiến và kỹ năng – mà Sharon có thể nhân rộng với lính dù và sau đó trong toàn quân đội.

Hoạt động của Sharon trong lực lượng lính dù bị hạn chế hơn, bởi vì anh ta không còn là chỉ huy của một đơn vị độc lập, mà còn vì những thay đổi đã diễn ra trong bộ chỉ huy cấp cao.  Ben-Gurion đã từ chức và được thay thế làm thủ tướng bởi Moshe Sharett ôn hòa, người thường không chấp thuận các cuộc tấn công trả đũa.

Nhưng những gì Sharett không chấp thuận, người của Sharon đã tự xử.  Em gái của chiến binh lừng danh nhất trong Đơn vị 101, Meir Har-Zion, bị bọn Bedouins sát hại dã man khi đang đi bộ đường dài bất hợp pháp qua biên giới Jordan.  Har-Zion và hai đồng đội, với sự động viên tinh thần của Sharon và hỗ trợ hậu cần, đã đến hiện trường và giết bốn người chăn cừu Bedouin để trả thù.  Sharett yêu cầu phải đưa họ ra tòa, nhưng Dayan và Sharon, với sự hỗ trợ của Ben-Gurion, đã ngăn cản điều đó.

 Sharett đã viết trong nhật ký của mình vào ngày 11 tháng 1 năm 1955: “Tôi tự hỏi về bản chất và số phận của quốc gia này, có khả năng nhạy cảm tinh thần tuyệt vời như vậy, có tình yêu nhân loại sâu sắc như vậy, có khao khát trung thực đối với cái đẹp và cái cao cả, trong khi  đồng thời nó sản sinh ra từ hàng ngũ những chàng trai trẻ có khả năng giết người với đầu óc tỉnh táo và máu lạnh bằng cách đâm dao vào da thịt của một người dân Bedouin trẻ tuổi, không có khả năng tự vệ.  Linh hồn nào trong hai linh hồn chạy quanh các trang Kinh thánh sẽ chiến thắng đối thủ của nó trong quốc gia này? “

__

MUSTAFA HAFEZ,.TRONG KHI ĐÓ, vẫn còn sống.  Đội trưởng tình báo Ai Cập và đồng nghiệp của y ở Jordan, Salah Mustafa, tiếp tục điều hành các đội xâm nhập người Palestine, và những kẻ xâm nhập đó vẫn đang tàn phá Israel.

Vào ngày 17 tháng 3 năm 1954, một nhóm gồm 12 tên khủng bố Ả Rập đã phục kích một chiếc xe buýt dân sự trên đường từ Eilat đến Tel Aviv tại Scorpion Pass, một đoạn đường quanh co ở trung tâm sa mạc Negev.  Nhắm bắn thẳng, chúng đã giết chết 11 hành khách.  Một cậu bé chín tuổi, Haim Furstenberg, trốn dưới ghế ngồi, đứng dậy sau khi họ rời khỏi xe buýt và hỏi, “Họ đã đi chưa?”  Những kẻ khủng bố đã nghe thấy em, quay trở lại xe buýt, và bắn vào đầu em.  Em sống sót nhưng bị liệt cho đến khi qua đời, ba mươi hai năm sau.  Người Ả Rập cắt xẻo và nhổ nước bọt vào xác người chết.  Hóa ra sau đó mới biết họ là người Palestine và người Bedouin đến từ Jordan và được hỗ trợ bởi Salah Mustafa.

 Sharett bị áp lực nặng nề để trả đũa, nhưng ông ta sẽ không chấp thuận một chiến dịch trả thù.  “Một hành động đáp ứng lại cuộc tắm máu sẽ chỉ làm mờ đi hiệu ứng kinh hoàng, và sẽ đặt chúng ta ngang hàng với bọn sát nhân hàng loạt ở phía bên kia,” ông viết trong nhật ký của mình.

 Thay vào đó, Đơn vị 504 của AMAN đã phái đi một toán ba sát thủ người Bedouin mà họ thuê làm đặc vụ.  Chúng băng qua Jordan được trang bị vũ khí đầy mình  và mang theo hai thiết bị nổ do Natan Rotberg chuẩn bị.  Họ phát hiện ra nơi một trong những tên khủng bố sống, tại một ngôi làng ở miền nam Jordan, và sau khi quyết định không cho nổ tung ngôi nhà của y, chúng đợi cho đến khi y ở một mình và bắn chết y.  “Các nhân viên của chúng tôi đã tìm thấy thẻ căn cước của tài xế xe buýt trong số những thứ y cướp được và mang về cho chúng tôi,” Yigal Simon, một cựu chiến binh 504, kể lại.

Hoạt động xác định này được coi là thành công của Đơn vị 504, nhưng nó không tạo ra nhiều khác biệt trong bức tranh toàn cảnh.  Các vụ giết người có mục tiêu, với thành công hạn chế của chúng, đã không thể ngăn chặn, hoặc thậm chí đình trệ đáng kể, các cuộc tấn công xuyên biên giới.  Các cuộc đột kích trừng phạt đã gây ra sự phẫn nộ trên toàn cầu nhưng không làm chậm lại cuộc tàn sát.

Vào giữa những năm 1950, Hafez đang chiến thắng.  Những kẻ khủng bố mà ông huấn luyện đã thực hiện các cuộc tấn công chết người hơn bao giờ hết trên lãnh thổ Israel — thu thập thông tin tình báo, phá hoại cơ sở hạ tầng, đánh cắp tài sản và giết người Israel.  Israel – thiếu cơ sở hạ tầng thích hợp, bao gồm thông tin tình báo có độ phân giải cao, kinh nghiệm, bí quyết và các lực lượng đủ lớn được đào tạo và trang bị – chỉ có thể đáp trả bằng các hoạt động trả đũa ngày càng chung chung và ném bom nặng nề vào Dải Gaza.

Tên của Hafez xuất hiện thường xuyên trong các báo cáo mà Đơn vị 504 nhận được từ các nguồn tin của nó ở phía nam.  Tuy nhiên, y vẫn là một hình bóng mơ hồ, được che đậy trong bóng tối.  Yaakov Nimrodi, người chỉ huy căn cứ phía nam của đơn vị, cho biết: “Chúng tôi chưa bao giờ có một bức ảnh nào về y.  “Nhưng chúng tôi biết rằng y là một thanh niên khoảng ba mươi tuổi, khá ưa nhìn và rất lôi cuốn.  Các tù nhân và đặc vụ của chúng tôi đã nói về y với sự ngưỡng mộ và kính trọng ”.

Hafez và Nimrodi, bản thân cũng là một sĩ quan trẻ, có sức lôi cuốn, đứng về hai phía của cuộc xung đột Ả Rập-Israel.  Nimrodi nói: “Hafez được coi là một trong những bộ óc xuất sắc nhất của tình báo Ai Cập.  “Rất ít đặc vụ của chúng tôi có thể lọt qua tay y.  Nhiều người đã bị bắt và thủ tiêu hoặc trở thành điệp viên hai mang sau khi nhận được cách đối xử từ y, và quay lại chống chúng tôi.  Trong cuộc chiến tranh tâm trí này, chỉ có những người giỏi nhất mới chiến thắng và sống sót ”.

 Trong bối cảnh bất lực về an ninh và trước áp lực công khai nặng nề, Sharett trước tiên buộc phải chấp nhận Ben-Gurion làm bộ trưởng quốc phòng, sau đó trao lại cho ông ta chức thủ tướng vào tháng 11 năm 1955. Sharett trở lại chỉ là bộ trưởng ngoại giao và  sau đó buộc phải từ chức dưới áp lực của Ben-Gurion.

 Sự trở lại của Ben-Gurion đã khuyến khích AMAN một lần nữa lên kế hoạch cho các cuộc tấn công mạnh mẽ hơn chống lại fedayeen.  Một ý tưởng là loại bỏ Hafez.  “Anh ta là đầu  rắn,” Nimrodi nói, “và chúng tôi phải cắt bỏ.”

 “Nhưng điều này thật khó, vì ba lý do,” Avraham Dar, người hiện đang là thiếu tá của AMAN, được giao nhiệm vụ thu thập thông tin tình báo về Hafez, cho biết.  “Đầu tiên, thu thập đủ thông tin tình báo về y và về những nơi y thường xuyên lui tới;  thứ hai, đến được với y và giết y;  và thứ ba, vấn đề ngoại giao.  Y là một sĩ quan cấp cao trong quân đội của một quốc gia có chủ quyền.  Đánh y có thể được coi là vượt qua ranh giới đỏ trong quan hệ với Ai Cập, và dẫn đến tình trạng xấu đi ”.

 Những nỗ lực của Liên hợp quốc để làm trung gian giữa Israel và Ai Cập đã thất bại, và các cuộc đột kích của Hafez tiếp tục, xuyên suốt năm 1955 và đến mùa xuân năm 1956.

 Vào ngày 29 tháng 4 năm 1956, một đội du kích Palestine do Hafez huấn luyện đã nổ súng vào những người nông dân đang làm việc trên các cánh đồng của Nahal Oz, một kibbutz ở biên giới phía nam của Israel.  Roi Rotberg, một trung úy trẻ trong lực lượng dự bị IDF, phụ trách an ninh cho kibbutz, đã cưỡi ngựa ra ngoài để đẩy lùi chúng.  Bọn Palestine đã giết anh, khoét mắt và kéo xác anh  qua cánh đồng và băng qua rãnh đánh dấu biên giới, một nỗ lực để vu cáo Rotberg đã xâm lược nước ngoài.

 Moshe Dayan sẽ khiến Rotberg phải chết một cách đặc biệt.  Ông mới gặp viên trung úy chỉ một ngày trước đó, khi ông đi tham quan các khu định cư phía nam.  Ngày hôm sau, ngày 30 tháng 4, Dayan đứng trên nấm huyệt mới đào của Rotberg và đọc một bài điếu văn mà trong những năm sau đó, đã được coi là hạt giống của chủ nghĩa quân phiệt Israel:

 Roi bị sát hại vào sáng sớm hôm qua.  Sự im lặng của buổi sáng mùa xuân làm anh mờ mắt và không nhìn thấy những người đang nằm chờ ở bờ luống.

Ngày nay chúng ta đừng đổ lỗi cho những kẻ giết người.  Chúng ta là ai mà phải chống lại sự căm thù của họ đối với mình?  Trong tám năm họ đã ngồi trong các trại tị nạn ở Gaza, và trước mắt họ, chúng ta đã biến vùng đất và làng mạc nơi họ và tổ tiên của họ sinh sống thành tài sản thừa kế của riêng chúng ta…

Chúng ta là thế hệ của công cuộc định cư, và nếu không có mũ sắt và đại bác, chúng ta sẽ không thể trồng cây hay xây nhà.  Con cái của chúng ta sẽ không sống nếu chúng ta không đào nơi trú ẩn, và nếu không có hàng rào thép gai và súng máy, chúng ta sẽ không thể mở đường hoặc khoan lấy nước.  Hàng triệu người Do Thái, đã bị tiêu diệt vì họ không có đất nước, đang chăm chăm nhìn chúng ta từ lớp bụi của lịch sử Do Thái và ra lệnh cho chúng ta phải định cư và gây dựng một vùng đất cho dân tộc chúng ta.

… Chúng ta không được nao núng khi chứng kiến ​​sự thù hận luôn đồng hành và lấp đầy cuộc sống của hàng trăm ngàn người Ả Rập sống xung quanh chúng ta và chờ đợi giây phút họ đủ mạnh để lấy máu của chúng ta.  Chúng ta sẽ không quay mắt tránh nhìn e rằng đôi tay chúng ta sẽ trở nên yếu ớt.  Đây là định mệnh của thế hệ chúng ta.

 Nói một cách dễ hiểu, Dayan có ý nói người Do Thái ở Nhà nước Israel có thể đã đến như những người định cư trở về quê hương cổ xưa của họ, nhưng, theo quan điểm của người Ả Rập, họ đến với tư cách là những kẻ xâm lược.  Do đó, người Ả Rập – chính đáng, theo quan điểm của họ – căm ghét người Do Thái.  Và sự tồn tại tiếp tục của người Do Thái, hơn bất cứ điều gì, phụ thuộc vào khả năng tự vệ chống lại những người Ả Rập muốn giết họ.  Tất cả phần còn lại — phát triển, kinh tế, xã hội và văn hóa — là phụ thuộc và phải tuân theo nhu cầu an ninh và tồn tại.  Theo quan điểm của Dayan, đây là số phận của Israel, được sinh ra từ hàng nghìn năm lịch sử của người Do Thái.

Đứng trên ngôi mộ khi Dayan đọc điếu văn là anh họ của Roi, Natan Rotberg, người chế tạo bom.  Sau đám tang, Natan hứa với chú của mình, Shmaryahu, rằng anh sẽ trả thù cho Roi, con trai của ông.

 Và đúng là Dayan cũng quyết tâm trả thù cho Roi và tất cả những người Israel khác bị giết và khủng bố bởi đội của Hafez.  Lần này, Dayan thuyết phục Ben-Gurion không chỉ mở một cuộc tấn công trả đũa vào một ngôi làng của người Palestine, mà còn cho phép ông hướng dẫn cộng đồng tình báo giết những người Ai Cập đang điều động các sát thủ vào Israel – các đại tá Hafez và Salah.  Đây là một sự leo thang đáng kể.

Avraham Dar đã viết lệnh hành quân, có mật danh là Eunuch (Hoạn quan, Saris).  Theo như những gì có thể xác định được, đây là mệnh lệnh hoạt động đầu tiên cho một vụ giết người có mục tiêu được viết và thực hiện trong lịch sử của Nhà nước Israel.

 Dar viết: “Dựa trên việc Ai Cập tổ chức các hoạt động fedayeen ở Dải Gaza và Jordan,“quyết định hành động chống lại những người tổ chức, Mustafa Hafez ở Dải Gaza và tùy viên quân sự Ai Cập ở Jordan.  Mục tiêu: loại bỏ hai người này  bằng bom bẫy.”  Trong trường hợp của Hafez, Dar nhớ lại, “đối với chúng tôi rõ ràng quả bom phải được giao cho ông ta bởi một người mà ông ta tin tưởng.”

 Họ tìm thấy người đàn ông của mình ở Muhammad al-Talalqa, một thanh niên Bedouin sống ở Dải Gaza và đang làm việc cho cả Hafez và Đơn vị 504. Al-Talalqa và Hafez không biết rằng Đơn vị 504 biết gã là điệp viên hai mang, và đơn vị AMAN  quyết định khai thác điều này và đưa cho gã một thứ gì đó đựng trong một gói có vẻ rất quan trọng đối với gã đến mức gã sẽ ngay lập tức đưa nó đến Hafez.

Vật đó có thể là gì?  Một cuốn sách bao gồm tất cả các mật mã trong mã Morse được sử dụng bởi người Israel, mà Talalqa sẽ được Đơn vị 504 hướng dẫn để đưa cho một đặc vụ khác của Israel ở Gaza.

Một lần nữa, dịch vụ của Natan Rotberg được kêu gọi.  Anh ta thực sự có dịp trả thù cho em họ của mình. “Zadok [Ofir, một sĩ quan tại căn cứ phía nam của Đơn vị 504] đã gọi cho tôi và nói với tôi về kế hoạch,” Rotberg nói hơn 5 thập kỷ sau.  “Tôi hiểu ai đã tham gia và rất hài lòng.  Tôi nói với họ rằng nếu họ có thể giao một cuốn sách dày cho Hafez, tôi sẽ lo phần còn lại.

 “Tôi cắt bỏ phần bên trong cuốn sách và đổ vào đó ba trăm gam đồ đạc của mình.  Đã đủ chưa?  Tất nhiên.  Một kíp nổ nặng 20 gram — nếu nó phát nổ trong tay bạn, kết quả là bạn không còn ngón tay nào.  Vì vậy, ba trăm gam phát nổ vào mặt một người chắc chắn sẽ giết chết anh ta.

“Bộ máy dựa trên một cánh tay kim loại, một viên bi và một lò xo mạnh.  Khi cuốn sách được đóng lại, bên trong một lớp bọc được gia cố bởi các dải ruy băng, cánh tay sẽ chịu áp lực và không di chuyển.  Ngay khi bạn tháo các dải băng và nới lỏng lớp bọc, cánh tay sẽ tự do và đẩy viên bi về phía trước, làm thủng ngòi nổ, khiến quả bom nổ  và — b … ù …m! ”

Kế hoạch và cái bom bẫy  đã hoạt động hoàn hảo.  Ngày 11/7/1956, al-Talalqa vượt biên, đến thẳng Sở chỉ huy tình báo quân đội Ai Cập ở Gaza, và hào hứng trao gói hàng cho Hafez.  “Khi gã lôi cuốn sách ra khỏi gói,” một nhân chứng sau đó nói trong cuộc điều tra bí mật của người Ai Cập, “một mảnh giấy rơi ra.  Đại tá Mustafa Hafez cúi xuống nhặt nó từ dưới sàn lên thì đúng lúc đó vụ nổ xảy ra ”.  Hafez bị trọng thương.  Một số người có mặt làm chứng rằng, khi ông ta  nằm sóng soài trên sàn, ông ta hét lên, “Tụi bây thắng tao rồi, đồ chó.”

 Đêm hôm sau, Natan Rotberg đến thăm chú của mình, cha của Roi.  Anh ấy đã tạo ra một điểm nhấn  đặc biệt khi khoác lên mình bộ quân phục.  “Tôi đã nói với chú ấy,‘ Shmaryahu, cháu đã tính sổ cho chú với Mustafa Hafez rồi, ’” Rotberg nói.  “Việc đó có làm cho Roi cảm thấy tốt hơn không?  Tôi không chắc, nhưng tôi thì có.  Tôi đã hạnh phúc.  Shmaryahu im lặng.  Một giọt nước mắt đọng lại trong mắt chú  và chú cảm ơn tôi đã báo tin cho chú”.

Người Ai Cập đã quá xấu hổ khi công khai thừa nhận tình trạng mất hiệu lực an ninh của họ.  Một ngày sau khi Hafez qua đời, một thông báo xuất hiện trên tờ báo Ai Cập Al-Ahram: “Đại tá Mustafa Hafez, đóng quân ở Dải Gaza, đã thiệt mạng khi xe của ông ấy trúng mìn…. Ông là một trong các vị anh hùng trong cuộc chiến giải phóng Palestine.  Lịch sử đã ghi lại những kỳ tích dũng cảm của ông.  Tên tuổi của ông đã gieo nỗi khiếp đảm và hoảng sợ cho dân chúng Israel. “

Cùng ngày Hafez bị giết, Salah Mustafa, tùy viên quân sự Ai Cập tại Amman, nhận được qua thư quyến sách  Achtung Panzer!  của Heinz Guderian, anh hùng của nghệ thuật chiến tranh xe tăng của quân đội Đức và là một trong những cha đẻ của khái niệm blitzkrieg (nghệ thuật tấn công ào ạt, thần tốc bằng xe tăng vào phòng tuyến địch sau một trận dội bom bằng phi cơ).  Avraham Dar, một người say mê lịch sử và chiến lược quân sự, đã chọn cuốn sách vì anh chắc rằng Salah sẽ cho đó là một món quà phù hợp.  Hai Mistaravim đã vào Đông Jerusalem, nơi nằm dưới sự cai trị của Jordan, và gửi cuốn sách từ đó qua đường bưu điện để dấu đóng của bưu điện không làm dấy lên nghi ngờ.  Salah, người vẫn chưa nghe tin về vụ tấn công người đồng cấp của mình ở Gaza, đã mở cuốn sách và nó nổ tung, khiến ông bị thương nặng.  Ông sau đó đã chết trong bệnh viện.

 Tham mưu trưởng Dayan hiểu được tầm quan trọng của hai cú đánh này, và ông đã tổ chức một bữa tiệc xa hoa ở sân sau nhà mình để ăn mừng việc giết được Hafez và Salah.  Avraham Dar chốt lại danh sách khách mời.

BẬT DẬY VÀ GIẾT LIỀN : Bài 5


Ronen Bergman

Trần Quang Nghĩa dịch

CHƯƠNG 5 : “NHƯ THỂ CẢ BẦU TRỜI SỤP ĐỔ LÊN ĐẦU CHÚNG TÔI”

VÀO NGÀY 21/7/1962, người Israel thức dậy với cơn ác mộng tồi tệ nhất của họ: báo chí Ai Cập đưa tin vụ phóng thử thành công 4 tên lửa đất đối đất – 2 mẫu Al-Zafer (Người Chiến Thắng) mới và 2 mẫu Al  -Qaher (Người Chinh Phục).  Hai ngày sau, các tên lửa — mỗi loại mười chiếc, phủ cờ Ai Cập — được diễu hành qua Cairo dọc theo sông Nile.  Khoảng ba trăm nhà ngoại giao nước ngoài có mặt trong số các khán giả, cũng như nhiều cư dân của Cairo.  Đích thân Tổng thống Nasser xem lại cuộc duyệt binh từ khán đài đặc biệt trước một tòa nhà chính phủ gần sông Nile.  Ông tự hào tuyên bố rằng quân đội Ai Cập hiện có thể tấn công bất kỳ điểm nào ở “phía nam Beirut.” Biết rằng toàn bộ lãnh thổ  Israel nằm giữa Ai Cập, ở phía nam và Liban, với Beirut là thủ đô của nó, ở phía bắc, tuyên bố này hàm ý rất rõ ràng.

 Ngày hôm sau, một chương trình phát thanh bằng tiếng Do Thái từ đài phát thanh có trụ sở tại Ai Cập “Tiếng nói của sấm sét từ Cairo” thậm chí còn rõ ràng hơn.  “Những tên lửa này nhằm mở ra cánh cổng tự do cho người Ả Rập, để chiếm lại quê hương đã bị đánh cắp như một phần của âm mưu của chủ nghĩa đế quốc và chủ nghĩa Zionism,” phát thanh viên khoác lác.

 Sự bất bình sâu sắc của công chúng Israel chỉ càng tăng lên khi, chỉ vài tuần sau, rõ ràng là một nhóm các nhà khoa học Đức đã đóng một vai trò không thể thiếu trong việc phát triển những tên lửa này.  Chiến tranh thế giới thứ hai chỉ mới kết thúc mười bảy năm trước đó, và đột nhiên những đau thương của Holocaust, tràn ngập hình ảnh của các nhà khoa học Đức trong quân phục Quốc xã đã nhường chỗ cho một mối đe dọa hiện sinh mới và khác: vũ khí hủy diệt hàng loạt nằm trong tay kẻ thù lớn mới của Israel, Nasser, kẻ mà người Israel coi là Hitler của Trung Đông.  Báo chí Do Thái mô tả: “Các cựu Quốc xã Đức hiện đang giúp Nasser trong các dự án diệt chủng chống Israel của ông ta”.

Và Mossad, mặc dù có chương trình sâu rộng để giám sát và bảo vệ Israel khỏi các mối đe dọa từ bên ngoài, đã bị bất ngờ  Các cơ quan tình báo của quốc gia Do Thái — không nói gì về các nhà lãnh đạo chính trị và quân sự — đã rất ngạc nhiên khi biết về dự án tên lửa của Ai Cập chỉ vài ngày trước vụ phóng thử.  Đó là một lời nhắc nhở tàn khốc về tình trạng dễ bị tổn thương của đất nước nhỏ bé và một thất bại nhục nhã đối với  Mossad của Harel.

Tệ hơn nữa, các nhà khoa học Đức đang phát triển tên lửa Ai Cập có thể tiêu diệt Israel không phải là những kỹ thuật viên mù mờ.  Họ là một số kỹ sư cao cấp nhất của chế độ Đức Quốc xã, những người đã làm việc trong chiến tranh tại cơ sở nghiên cứu ở Peenemünde, một bán đảo trên bờ biển Baltic, nơi phát triển vũ khí tiên tiến nhất của Đệ tam Đế chế.  Họ đã giúp chế tạo V-1 – quả bom bay khủng bố nước Anh – và tên lửa đạn đạo V-2, mà người Đức đã sử dụng để phá hủy các khu vực khổng lồ của Antwerp và London và là nguyên mẫu cho tên lửa đất-đối-đất  tầm xa ngày nay.

“Tôi cảm thấy bất lực,” Asher Ben-Natan, Tổng giám đốc Bộ Quốc phòng nói, “như thể bầu trời đang sụp đổ xuống đầu chúng tôi.  Ben-Gurion nói đi nói lại về cơn ác mộng khiến ông thức trắng đêm — rằng ông, thủ tướng đầu tiên, đã đưa những người Do Thái còn sống ở châu Âu đến Nhà nước Israel, chỉ để họ ở đây, trên đất nước của mình, phải trải qua  một Holocaust thứ hai. ”

Bản thân Mossad, trong một cuộc điều tra nội bộ tuyệt mật về vụ việc được tiến hành vào năm 1982, đã tóm tắt như thế này: “Đó là một trong những sự kiện đau thương và quan trọng nhất trong lịch sử của cộng đồng tình báo Israel, thuộc loại dẫn đến  một phản ứng dây chuyền tạo ra các hành động cực đoan. “

Và thực sự, các phản ứng là cực đoan.

__

HAREL ĐÃ ĐẶT TOÀN BỘ Mossad trong tình trạng khẩn cấp.  Một bầu không khí khủng hoảng quét qua mọi hành lang của cơ quan, được phản ánh trong các bức điện nội bộ vào những tháng đó.  “Chúng tôi quan tâm đến việc thu thập tài liệu [thông tin tình báo], bất cứ điều gì có thể xảy ra,” Bộ Tư lệnh ở Tel Aviv thông báo cho các trạm Mossad ở châu Âu vào tháng 8 năm 1962. “Nếu một người Đức xuất hiện, người biết điều gì đó về việc này và không chịu hợp tác, chúng ta sẵn sàng bắt ông ta bằng vũ lực và buộc ông ta nói chuyện.  Hãy lưu ý điều này vì chúng ta phải lấy thông tin bằng bất cứ giá nào ”.

Các đặc nhiệm Mossad ngay lập tức bắt đầu đột nhập vào các đại sứ quán ngoại giao và lãnh sự quán Ai Cập ở một số thủ đô châu Âu để chụp ảnh tài liệu.  Họ cũng có thể tuyển dụng một nhân viên Thụy Sĩ tại văn phòng Zurich của Hàng không Ai Cập—một công ty đôi khi làm vỏ bọc cho các cơ quan tình báo của Nasser.  Nhân viên người Thụy Sĩ cho phép các nhân viên Mossad đưa các túi thư vào ban đêm, hai lần một tuần, đến một ngôi nhà an toàn.  Chúng được mở ra, nội dung của chúng được sao chụp, và sau đó chúng được đóng gói lại bởi các chuyên gia không để lại dấu vết là chúng đã bị mó máy, sau đó trả lại cho văn phòng hãng hàng không.  Sau một thời gian tương đối ngắn, Mossad đã hiểu sơ bộ về dự án tên lửa Ai Cập và những người đứng đầu nó.

Dự án được khởi xướng bởi hai nhà khoa học nổi tiếng thế giới, Tiến sĩ Eugen Sänger và Wolfgang Pilz.  Trong chiến tranh, họ đã đóng những vai trò quan trọng tại Trung tâm Nghiên cứu Quân đội Peenemünde.  Năm 1954, họ gia nhập Viện Nghiên cứu Vật lý Lực đẩy Phản lực  ở Stuttgart.  Sänger đứng đầu tổ chức danh giá này.  Pilz và hai chuyên gia kỳ cựu khác của Wehrmacht (Quân đội Đức Quốc xã), Tiến sĩ Paul Goercke và Tiến sĩ Hans Krug, là trưởng phòng.  Nhưng nhóm này, cảm thấy mình thiếu việc làm và không được tận dụng ở Đức thời hậu chiến, đã tiếp cận chế độ Ai Cập vào năm 1959 và đề nghị tuyển dụng và lãnh đạo một nhóm các nhà khoa học để phát triển tên lửa đất đối đất tầm xa.  Nasser sẵn sàng đồng ý và chỉ định một trong những cố vấn quân sự thân cận nhất của mình, Tướng Isam al-Din Mahmoud Khalil, cựu giám đốc tình báo không quân và giám đốc R&D của Quân đội Ai Cập, điều phối chương trình.  Khalil đã thiết lập một hệ thống phân khu, tách biệt với phần còn lại của Quân đội Ai Cập, dành cho các nhà khoa học Đức, những người lần đầu tiên đến Ai Cập trong chuyến thăm vào tháng 4 năm 1960.

 Cuối năm 1961, Sänger, Pilz và Goercke chuyển đến Ai Cập và tuyển dụng khoảng 35 nhà khoa học và kỹ thuật viên có kinh nghiệm cao của Đức tham gia cùng họ.  Các cơ sở ở Ai Cập bao gồm các trường thử nghiệm, phòng thí nghiệm và các khu sinh hoạt sang trọng dành cho những người nước ngoài Đức, những người được hưởng các điều kiện tuyệt vời và mức lương khổng lồ.  Tuy nhiên, Krug vẫn ở lại Đức, nơi ông thành lập một công ty có tên Intra Commercial, trên thực tế, công ty này là mặt trận châu Âu của nhóm.

 Tuy nhiên, gần như ngay sau khi Mossad nắm được cơ bản về tình hình, nhiều tin xấu đã đến.  Vào ngày 16 tháng 8 năm 1962, Isser Harel với khuôn mặt nghiêm trọng đến gặp Ben-Gurion, mang theo một tài liệu từ các túi thư của tình báo Ai Cập đã được sao chụp hai ngày trước đó ở Zurich.

 Người Israel đã bị sốc.  Tài liệu là một đơn đặt hàng được viết vào năm 1962 bởi Pilz,  cho các nhà quản lý dự án ở Ai Cập, và nó bao gồm việc phân loại các vật liệu cần mua ở châu Âu để sản xuất chín trăm tên lửa.  Đây là một con số khổng lồ.  Sau khi chặn được tin này, theo một báo cáo nội bộ của Mossad, tổ chức đã bị bao phủ bởi “một bầu không khí gần như hoảng loạn”.  Tệ hơn nữa, tài liệu đã làm các chuyên gia Israel lo ngại rằng mục đích thực sự của người Ai Cập là trang bị tên lửa mang đầu đạn phóng xạ và hóa học.

 Ben-Gurion đã triệu tập các hội nghị khẩn cấp ở cấp cao nhất.  Harel đã có một kế hoạch, đủ các loại.

Thông tin tình báo mà Mossad thu thập được cho đến nay đã tiết lộ một gót chân Achilles trong dự án tên lửa: Các hệ thống dẫn đường đã bị tụt hậu đến mức gần như không hoạt động được, điều đó có nghĩa là tên lửa không thể đi vào sản xuất hàng loạt.  Chừng nào tình huống này duy trì, Ai Cập còn cần đến các nhà khoa học Đức.  Nếu không có họ, dự án sẽ sụp đổ.  Sau đó, kế hoạch của Harel là bắt cóc hoặc loại bỏ người Đức.

 Vào cuối tháng 8, Harel đã đến châu Âu để thực hiện kế hoạch của mình.  Thời tiết đang chuyển lạnh, báo trước mùa đông lạnh nhất mà khu vực từng biết trong nhiều năm.  Sau khi mọi nỗ lực để xác định vị trí của Pilz đều thất bại, Harel quyết định hành động chống lại Krug.

 Vào thứ Hai, ngày 10 tháng 9, lúc 5:30 chiều, một người đàn ông tự giới thiệu là Saleh Qaher đã gọi điện đến nhà của Krug ở Munich.  Anh ta nói rằng mình  thay mặt Đại tá Said Nadim, phụ tá chính của Tướng Mahmoud Khalil, và rằng Nadim phải gặp Krug “ngay lập tức, về một vấn đề quan trọng.”  Saleh nói thêm, với giọng điệu thân thiện nhất, rằng Nadim, người mà Krug biết rõ, đã gửi lời hỏi thăm và đang đợi Krug tại khách sạn Ambassador ở Munich.  Saleh nói, vấn đề hiện tại là một thỏa thuận sẽ tạo ra lợi nhuận nhỏ cho Krug.  Không thể thảo luận về nó tại văn phòng Intra vì tính chất đặc biệt của nó.

 Krug không thấy điều này là bất thường và ông ấy đã chấp nhận lời mời.  Saleh không ai khác chính là một tay Mossad cũ, Oded.  Sinh ra ở Iraq, anh ta đã hoạt động trong thế lực ngầm của chủ nghĩa Zionism ở đó, trốn khỏi đất nước vào năm 1949 sau khi suýt bị bắt.  Anh ấy đã đến các trường học chính quy ở Baghdad, với những người theo đạo Hồi, và có thể dễ dàng đóng vai một người Ả Rập.  Trong nhiều năm, anh  phục vụ Mossad trong khả năng hoạt động chống lại các mục tiêu Ả Rập.

 Krug gặp Oded tại sảnh của khách sạn Ambassador.  “Chúng tôi, Đại tá Nadim và tôi, cần ông cho một công việc quan trọng,” anh nói.

 Ngày hôm sau, Oded đến văn phòng Intra để đón Krug và đưa ông đến gặp Nadim tại một biệt thự bên ngoài thành phố.  “Tôi đi taxi và Krug rất vui khi gặp tôi và giới thiệu tôi với nhân viên của công ty.  Ông ấy không hề nghi ngờ một chút nào về âm mưu của tôi.  Giữa chúng tôi có mối dây tình cảm. Trong chiếc Mercedes, trên đường đến địa chỉ mà tôi đã đưa cho ông ta, tôi đã tâng bốc Krug và nói với ông rằng chúng tôi, giới tình báo Ai Cập, đánh giá cao dịch vụ và đóng góp của ông như thế nào.  Ông ấy chủ yếu nói về chiếc Mercedes mới mua ”.

Cả hai đến ngôi nhà mà Krug tin rằng Nadim đang đợi anh.  Họ ra khỏi xe.  Một người phụ nữ mở cửa trước, và Krug đi vào. Oded ở sau ông, và cánh cửa đóng lại, Oded, theo kế hoạch, ở lại bên ngoài.

Ba đặc vụ khác đang đợi bên trong phòng.  Họ làm Krug choáng váng với vài cú đánh, bịt miệng và trói ông lại.  Khi tỉnh dậy, ông được một bác sĩ người Pháp gốc Do Thái do đoàn tuyển dụng khám.  Bác sĩ nghĩ Krug đang bị sốc nhẹ và do đó khuyến cáo không nên tiêm thuốc an thần cho ông ta.  Một đặc nhiệm Mossad nói tiếng Đức  với ông ta, “Ông là một tù nhân.  Hãy làm chính xác những gì chúng tôi bảo, nếu không chúng tôi sẽ cho ông đi đời. ”  Krug hứa sẽ tuân theo, và được đưa vào một khoang bí mật lắp đặt trong một chiếc xe cắm trại Volkswagen, và toàn bộ đội, bao gồm cả Isser Harel, người có mặt khắp nơi, lên đường đến biên giới Pháp trên chiếc xe đó với hai người khác.  Trên đường họ dừng lại trong một khu rừng, Harel nói với Krug rằng họ sắp vượt biên giới và nếu ông ta phát ra tiếng động, người lái chiếc xe sẽ kích hoạt một cơ chế bơm một lượng khí độc gây chết người vào khoang.  .

Khi họ đến Marseille, Krug bị đánh thuốc mê nặng và mang lên một chiếc máy bay của El Al chở những người Do Thái nhập cư gốc Bắc Phi đến Israel.  Nhân viên Mossad nói với nhà chức trách Pháp rằng ông ta là một người nhập cư đang ốm nặng.

 Cùng lúc đó, Mossad tiến hành một chiến dịch làm  sai lệch thông tin trên diện rộng, với một người đàn ông giống Krug và mang theo tài liệu dưới danh nghĩa của ông ta đi vòng quanh Nam Mỹ, để lại dấu vết trên giấy cho thấy Krug chỉ đơn giản là lấy tiền và trốn khỏi Ai Cập và các cộng tác viên của mình.  Đồng thời, Mossad tiết lộ thông tin sai lệch cho giới truyền thông nói rằng Krug đã cãi nhau với Tướng Khalil và người của ông ta và rõ ràng đã bị họ bắt cóc và sát hại.

 Tại Israel, Krug bị giam trong một cơ sở bí mật của Mossad và bị thẩm vấn gắt gao.  Lúc đầu, ông ấy giữ im lặng, nhưng ngay sau đó ông bắt đầu hợp tác, và trong vài tháng, ông đã “mang lại nhiều hoa trái”, theo một báo cáo của Mossad.  “Người đàn ông này có một trí nhớ tốt và ông ta biết tất cả các chi tiết tổ chức – hành chính của dự án tên lửa.”  Các tài liệu trong cặp của ông ấy cũng rất hữu ích.  Báo cáo kết luận, “Dữ liệu này có thể tạo ra một bách khoa toàn thư về trí tuệ.”

 Krug thậm chí còn tình nguyện quay trở lại Munich và làm việc như một đặc vụ của Mossad ở đó.  Tuy nhiên, cuối cùng, đổi với những người thẩm vấn Krug có vẻ như đã nói hết những gì mình biết, Mossad cân nhắc phải làm gì với ông ta.  Rõ ràng là tuân thủ lời đề nghị quay trở lại Munich của ông ta sẽ rất nguy hiểm – Krug có thể phản bội những người kiểm soát mới của mình, đến gặp cảnh sát và cho họ biết người Israel đã bắt cóc một công dân Đức trên đất Đức như thế nào.  Harel đã chọn một lối thoát dễ dàng hơn.  Ông ra lệnh cho S.G., một nhân viên của mình, đưa Krug đến một nơi hoang vắng ở phía bắc Tel Aviv và bắn ông ta.  Một máy bay của lực lượng không quân đã chở xác Krug và vứt xuống biển.

 Thành công của chiến dịch Krug đã thúc đẩy Ben-Gurion bật đèn xanh cho ngày càng nhiều hoạt động giết người có mục tiêu.  Ông đã chấp thuận việc sử dụng Đơn vị 188 của Tình báo quân sự (AMAN), một bộ phận hoạt động bí mật nhằm đưa các binh sĩ Israel dưới vỏ bọc giả tạo vào sâu bên trong các quốc gia đối phương.  Bộ chỉ huy của đơn vị được đặt tại khu nhà Sarona ở Tel Aviv, không xa văn phòng của Ben-Gurion và nó có một cơ sở đào tạo trên bãi biển ở phía bắc Tel Aviv, liền kề với phòng thí nghiệm phá hủy đặc biệt của Natan Rotberg.

 Isser Harel phẫn nộ với Đơn vị 188. Kể từ giữa những năm 1950, ông ta đã cố gắng thuyết phục Ben-Gurion chuyển nó cho Mossad, hoặc ít nhất là để ông ta phụ trách nó, nhưng bị quân đội phản đối kịch liệt, Ben-Gurion đã từ chối ông ta. 

Người đứng đầu AMAN, Thiếu tướng Meir Amit, không tin rằng các nhà khoa học Đức lại là mối đe dọa nghiêm trọng đối với Israel như Harel đã nghĩ.  Tuy nhiên, vì sự cạnh tranh trong nội bộ tổ chức với Mossad, ông ta yêu cầu Đơn vị 188 của mình được phép hành động chống lại họ, bởi vì, như ông đã nói, “Chúng ta không được bỏ qua nó.  Chúng ta phải giải quyết vấn đề này từ trong trứng nước”.  Do đó, cuộc cạnh tranh gay gắt xem ai sẽ giết được nhiều người Đức hơn đã bắt đầu giữa Đơn vị 188 và Mossad.

Trong thời gian đó, Đơn vị 188 có một đặc vụ kỳ cựu đang hoạt động dưới lớp vỏ bọc sâu ở Ai Cập.  Wolfgang Lotz là gián điệp nhị trùng hoàn hảo – con trai của một người cha ngoại tộc và mẹ là người Do Thái, anh ta không cắt bao quy đầu và trông giống như một người Đức điển hình.  Anh  đã dựng một lý lịch bọc ngoài là một cựu sĩ quan Quốc xã trong Quân đoàn Phi Châu của  Rommel, nay là nhà chăn nuôi ngựa và trở về Ai Cập để thành lập một trang trại ngựa giống.

Chỉ trong một thời gian ngắn, Lotz, một diễn viên tài năng, đã trở thành một phần không thể thiếu trong giới xã hội Đức đang phát triển ở Cairo.  Ông cung cấp cho Đơn vị 188 thông tin chi tiết về các dự án tên lửa và nhân sự của nó.  Tuy nhiên, ông không thể gánh vác trách nhiệm trừ khử họ trong những hành động đòi hỏi có sự tham gia trực tiếp của mình, vì sợ bị lộ.  Người đứng đầu Đơn vị 188, Yosef Yariv, đưa ra kết luận rằng cách tốt nhất để loại bỏ các nhà khoa học Đức là sử dụng bom thư và bưu kiện.

 Yariv ra lệnh cho Natan Rotberg bắt đầu chuẩn bị bom.  Trong thời gian đó, Rotberg đang nghiên cứu một loại chất nổ mới: Detasheet mỏng, linh hoạt, “các tấm vật liệu nổ, được phát triển cho mục đích dân sự, nhằm hợp nhất hai mảnh thép thì chúng phát  nổ” và sẽ ch6o phép anh chế tạo chất nổ vững chắc hơn. Rotberg giải thích: “Chúng tôi phải phát triển một hệ thống có thể được giữ không được phát nổ và an toàn trong suốt quá trình xáo trộn khi bức thư đi qua hệ thống phân phối, và sau đó phát nổ đúng thời điểm.“ Do đó, cơ chế của phong bì chứa chất nổ hoạt động theo cách mà quả bom được kích nổ không phải khi phóng bì được mở ra, điều này sẽ khiến khó lòng nổ trúng mục tiêu dự định, mà chỉ khi nội dung trong đó được rút ra.”  Bộ phận nghiên cứu và phát triển được thực hiện với sự hợp tác của tình báo Pháp, nhằm đổi lấy thông tin do Lotz chuyển tải về các hoạt động ngầm của Mặt trận Giải phóng Quốc gia Algeria (FLN) ở Cairo.  Đơn vị 188 cũng giúp người Pháp tuồn chất nổ vào Cairo để sử dụng trong việc ám sát các thành viên FLN ở đó.

Mục tiêu đầu tiên được gửi một quả bom thư mới là Alois Brunner, một tội phạm chiến tranh Đức Quốc xã bỏ trốn, từng là cấp phó của Adolph Eichmann và từng là chỉ huy của một trại tập trung ở Pháp, khiến 130.000 người Do Thái thiệt mạng.  Đơn vị 188 xác định y ở Damascus, nơi y đã sống trong tám năm dưới một cái tên giả.  Các quốc gia Ả Rập đã cho tị nạn không ít các tội phạm chiến tranh Đức Quốc xã và đổi lại họ nhận được nhiều dịch vụ khác nhau.  Brunner đã giúp huấn luyện các đơn vị thẩm vấn và tra tấn của cơ quan mật vụ Syria.

Y được tìm thấy nhờ sự giúp đỡ của Eli Cohen, một trong những đặc vụ hàng đầu của đơn vị, người đang hoạt động bên trong các cấp cao hơn của lực lượng quốc phòng  Syria.  Sau khi Ben-Gurion chấp thuận việc loại bỏ Brunner, Yariv quyết định dùng thử một trong những thiết bị Detasheet của Rotberg vào tên Đức Quốc xã này.  Rotberg nói: “Chúng tôi đã gửi cho y một món quà nhỏ.”

Vào ngày 13 tháng 9 năm 1962, Brunner nhận được một phong bì lớn ở Damascus.  Nó phát nổ sau khi y mở  ra.  Y bị thương nặng ở mặt và mất mắt trái, nhưng vẫn sống sót.

Tuy vậy không thối chí, họ vẫn muốn đưa quả bom tới mục tiêu. Đơn vị 188 vẫn mong muốn sử dụng phương pháp tương tự để chống lại các nhà khoa học Đức.  Mossad phản đối.  Như Rafi Eitan giải thích, “Tôi phản đối bất kỳ hành động nào mà tôi không kiểm soát.  Người đưa thư có thể mở phong bì, một đứa trẻ có thể mở phong bì.  Ai làm những việc như vậy? ”

 Và việc gửi đến được  những người Đức ở Ai Cập hóa ra lại là một vấn đề rất phức tạp, bởi vì họ không trực tiếp nhận được thư của họ.  Tình báo Ai Cập đã thu thập tất cả thư cho dự án và nhân viên của dự án tại các văn phòng của Hàng không Ai Cập, sau đó chúng mới  được gửi đến Cairo.  Vì vậy, Đơn vị 188  quyết định đột nhập vào văn phòng hàng không trong đêm và đặt phong bì vào túi thư.

 Sử dụng một phương pháp mới để mở ổ khóa bằng chìa khóa vạn năng tinh vi được phát triển trong các xưởng của Mossad, các nhân viên của Mossad đã hỗ trợ Đơn vị 188 vào được văn phòng Frankfurt của Hàng không Ai Cập vào ngày 16 tháng 11.

 Chuyên gia đột nhập được che chắn bởi một nữ đặc vụ khi họ tựa vào cửa như một cặp tình nhân.  Nhóm nghiên cứu vào văn phòng nhưng không tìm thấy túi thư.  Ngày hôm sau, họ thử lại.  Trong khi họ đang loay hoay tại cửa, người gác cổng xuất hiện, hoàn toàn say sưa.  Không có phụ nữ trong đội lần này, vì vậy hai trong số đặc vụ giả làm cặp đồng tính,  và họ đã tìm cách chuồn đi mà không làm dấy lên sự nghi ngờ của người gác cổng say rượu.  Đêm hôm sau, một nỗ lực khác lại được thực hiện, và lần này mọi việc diễn ra suôn sẻ.  Túi thư gửi đến Ai Cập nằm trên một trong các bàn làm việc.  Đội đã nhét các phong bì gài mìn bẫy vào túi.

 Pilz đã được chọn làm mục tiêu chính.  Thông tin tình báo thu thập được về y cho thấy y đang ly dị vợ để có thể kết hôn với thư ký của mình, Hannelore Wende.  Người vợ sống ở Berlin, nhưng bà đã thuê một luật sư từ Hamburg.  Do đó, quả bom thư nhắm vào Pilz được thiết kế để trông như thể nó đến từ luật sư đó, với logo và địa chỉ của ông ta xuất hiện ở mặt sau.  “Các nhà lập kế hoạch của dự án cho rằng Wende sẽ không mở một bức thư cá nhân như vậy và bà ấy sẽ tự đưa nó cho Pilz,” báo cáo cuối cùng về hoạt động này cho biết.

 Nhưng các nhà hoạch định đã sai.  Wende, người nhận được bức thư vào ngày 27 tháng 11, có lẽ nghĩ rằng nó liên quan đến cuộc sống của mình cũng nhiều như của Pilz.  Bà mở nó ra và nó phát nổ trên tay bà, làm đứt một số ngón tay, làm mù một mắt, và hỏng mắt còn lại, và làm văng một số răng ra khỏi nướu.  Các nhà chức trách Ai Cập ngay lập tức nhận ra điều gì đang xảy ra và xác định  các thư tín có gài chất nổ khác bằng máy X-quang, sau đó bàn giao chúng để các chuyên gia của tình báo Liên Xô ở Cairo xử lý và thăm dò.  Vụ nổ ở Cairo khiến các nhà khoa học và gia đình họ sợ hãi nhưng không khiến bất kỳ ai trong số họ từ bỏ công việc được trả lương cao.  Thay vào đó, tình báo Ai Cập đã thuê một sĩ quan an ninh chuyên nghiệp người Đức, một cựu nhân viên SS tên là Hermann Adolf Vallentin, lãnh điều hành công tác an ninh.  Y đã đến thăm các văn phòng Intra và các nhà cung cấp khác nhau của dự án, tư vấn cho họ về các biện pháp phòng ngừa an ninh, về cách thay thế khóa cửa và đảm bảo việc gửi nhận  thư từ của họ.  Y cũng bắt đầu thăm dò lý lịch của một số nhân viên.

 Mục tiêu tiếp theo trong danh sách trúng đích của Harel là Tiến sĩ Hans Kleinwächter và phòng thí nghiệm của ông ở thị trấn Lorch, nơi đã được thuê để phát triển hệ thống dẫn đường cho tên lửa.  Harel gửi Đội Chim (Tziporim) – đơn vị hoạt động của Shin Bet, đơn vị cũng được Mossad sử dụng – đến Châu Âu  bắt đầu lên kế hoạch cho Chiến dịch Con Nhím chống lại Kleinwächter.  Lệnh của Harel rất đơn giản: “Kleinwächter phải bị bắt cóc và đưa đến Israel, hoặc nếu điều đó không hiệu quả, hãy giết y.”

 Harel thiết lập bộ chỉ huy của mình tại thành phố Mulhouse của Pháp, trước nỗi thất vọng ngày càng tăng của ông.

 Chỉ huy đội Chim, Rafi Eitan nhớ lại: “Đó là giữa mùa đông, tuyết rơi khủng khiếp, cái lạnh thấu xương, bên ngoài nhiệt độ khoảng 20 dưới 0 độ.  Isser rất tức giận, đang ngồi trong một ngôi nhà trọ nào đó ở Pháp, bên kia sông Rhine.  Ông ta cho tôi xem một số hình ảnh và nói, “Đây là mục tiêu – hãy giết y đi.”

 Các đặc nhiệm Đội Chim đã kiệt sức sau vô số hoạt động liên quan đến  các nhà khoa học Đức mà họ đã được giao nhiệm vụ trong những tháng trước và sự hỗ trợ mà họ đã dành cho Đơn vị 188. Cuối cùng, Eitan nói với Harel rằng theo ý kiến ​​của anh, tình hình vẫn chưa chín muồi cho một vụ  giết người có mục tiêu.  “Chúng tôi cần phải chờ đợi một chút và tạo ra một cái bẫy của riêng mình, không chỉ bắn người trên đường phố.  “Cho tôi một tháng,” tôi nói với ông ta.  “Tôi sẽ thực hiện nhiệm vụ và không ai có thể biết rằng tôi thậm chí đã ở đây.”

Nhưng Harel không nghe.  Vào ngày 21 tháng 1, ông ta giải tán Đội Chim và gọi đến Mifratz, đơn vị tiêu diệt mục tiêu Mossad do Yitzhak Shamir chỉ huy, để thanh lý Kleinwächter.  Điều mà Harel không biết là Vallentin đã biết trước Kleinwächter sẽ là mục tiêu tiếp theo của Mossad.  Vallentin giao cho Kleinwächter một loạt các chỉ dẫn, đảm bảo rằng y phải thường xuyên được hộ tống, và đưa cho y một khẩu súng lục của quân đội Ai Cập.

 Vào ngày 20 tháng 2, một nhân viên theo dõi Mossad thấy Kleinwächter đang đi một mình trên con đường từ Lorch đến Basel.  Họ quyết định thực hiện cú tấn công khi y trở lại.  Shamir, người cùng với Harel, chỉ huy chiến dịch tại hiện trường, đã giao nhiệm vụ nổ súng cho một cựu sát thủ Irgun được huấn luyện tên là Akiva Cohen.  Harel đã cử Zvi Aharoni nói tiếng Đức đi cùng.  Họ đợi mục tiêu quay trở lại vào buổi tối.  Nhưng y không xuất hiện, và họ quyết định ngừng hành động.  Sau đó mọi thứ diễn ra không như ý muốn.  Kleinwächter cuối cùng lại xuất hiện, và lệnh hủy bỏ đột ngột bị đảo ngược, nhưng việc thực hiện toàn bộ hành động rất hấp tấp và nghiệp dư.  Xe của các đặc nhiệm Mifratz đã chặn xe của Kleinwächter,  nhưng cách cả hai xe đều dừng lại trên con đường hẹp đã ngăn không cho người của Mossad chạy trốn sau đó.

 Aharoni ra khỏi xe và đến chỗ Kleinwächter, như để hỏi đường.  Mục đích là để y mở cửa sổ xe.  Y đã bắt đầu làm như vậy.  Cohen, người tiếp cận Aharoni từ phía sau, rút ​​súng, nhắm qua cửa sổ đang mở và bắn.  Nhưng viên đạn đã bắn trúng kính và làm vỡ nó, sau đó trúng vào chiếc khăn quàng cổ của Kleinwächter, nhưng trượt cơ thể y.  Vì một số lý do không xác định, khẩu súng lục không khai hỏa lần nữa.  Một giả thuyết cho rằng lò xo bị gãy, một giả thuyết khác cho rằng viên đạn thứ hai bị thúi, và một giả thuyết khác là băng đạn bị lỏng và rơi ra ngoài.  Aharoni thấy rằng kế hoạch đã thất bại bèn hét lên cho mọi người chạy thoát.  Họ không thể sử dụng ô tô của mình, vì vậy họ chạy theo các hướng khác nhau để cố gắng đến các phương tiện thoát hiểm đang chờ sẵn.  Kleinwächter rút súng lục của mình và bắt đầu bắn vào những đặc vụ Israel đang chạy trốn.  Y không bắn trúng  ai, nhưng toàn bộ hoạt động là một thất bại đáng xấu hổ.

 Harel sau đó đã thực hiện một số hành động nhằm đe dọa các nhà khoa học và gia đình của họ, bao gồm cả những bức thư nặc danh đe dọa cuộc sống của họ và chứa nhiều thông tin về họ, cũng như những chuyến thăm thực tế vào lúc nửa đêm để đưa ra những cảnh báo tương tự.

 Các hoạt động này cũng thất bại thảm hại khi cảnh sát Thụy Sĩ bắt giữ một đặc nhiệm Mossad tên là Joseph Ben-Gal sau khi anh ta đe dọa Heidi, con gái của Giáo sư Goercke.  Anh ta bị dẫn độ sang Đức, bị xét xử và bị kết án tù ngắn hạn.  Các đặc vụ của Mossad theo dõi phiên tòa đã có trải nghiệm khó chịu khi chứng kiến ​​viên sĩ quan an ninh của dự án tên lửa, Hermann Vallentin bệ vệ, xuất hiện trong quá trình tố tụng với một nụ cười tự mãn, thậm chí còn không buồn che giấu khẩu súng lục của mình.

 Đến mùa xuân năm 1963, Mossad của Harel vẫn chưa hề làm  chậm lại, nói chi đến  kết liễu, tiến trình tên lửa của người Ai Cập có thể tiêu diệt Israel.  Vì vậy, Harel sau đó đã lao vào một mưu đồ chính trị.  Ông ta bắt đầu tiết lộ những câu chuyện cho báo chí — một số đúng, một số thêu dệt, một số dối trá hoàn toàn (rằng người Đức đang giúp Ai Cập sản xuất bom nguyên tử và tia laze chết người) —về việc Đức Quốc xã chế tạo vũ khí cho người Ả Rập để giết người Do Thái.  Harel hoàn toàn tin rằng các nhà khoa học Đức là bọn Đức Quốc xã vẫn còn quyết tâm hoàn thành Giải pháp Cuối cùng của Hitler, và các nhà chức trách Đức đã biết về các hoạt động của họ nhưng không làm gì để ngăn chặn họ.  Sự thật là các khoa học gia này đã quen với cuộc sống tốt đẹp dưới thời Đệ tam Đế chế, đã thất nghiệp khi nó sụp đổ, và giờ chỉ đơn giản là cố gắng kiếm một số tiền dễ dàng từ người Ai Cập.  Nhưng Harel đã kéo toàn bộ tổ chức, và thực tế là cả đất nước, đứng sau nỗi ám ảnh này của ông ta.

 Để chứng minh tuyên bố của mình, Harel trình bày thông tin thu thập được ở Cairo về Tiến sĩ Hans Eisele, Đồ tể của trại tập trung Buchenwald, người đã tham gia vào các thí nghiệm kinh hoàng trên các tù nhân Do Thái.  Y đã bị chỉ định là một tội phạm chiến tranh nhưng đã trốn thoát khỏi phiên tòa và tìm được một nơi ẩn náu thoải mái ở Ai Cập, tại đó ông ta trở thành bác sĩ của các nhà khoa học Đức.  Harel cũng bắt một số tên Đức Quốc xã khác ở Cairo, mặc dù không ai trong số họ thuộc nhóm các nhà khoa học tên lửa.

Mục đích của ông ta là công khai phỉ báng nước Đức, quốc gia có mối quan hệ phức tạp với Israel, một đối tượng có nhiều tranh chấp trong nội bộ.  Những người ôn hòa tương đối như Ben-Gurion và phụ tá chính của ông, Shimon Peres, khẳng định rằng, vào thời điểm Hoa Kỳ miễn cưỡng cung cấp cho Israel tất cả các viện trợ quân sự và kinh tế mà họ yêu cầu, Israel không thể từ chối hỗ trợ từ  Chính phủ Tây Đức, theo hình thức của một thỏa thuận tái thiết -bồi thường và bán thiết bị quân sự với giá chỉ bằng một phần nhỏ so với chi phí thực của nó.  Mặt khác, những người theo chủ nghĩa cứng rắn như Golda Meir và Harel lại bác bỏ quan điểm cho rằng Cộng hòa Liên bang Đức là một nước Đức “mới” hoặc “khác”.  Lịch sử, đối với tâm trí của họ, đã để lại một vết nhơ vĩnh viễn.

 Harel cũng đã triệu tập vào Ủy ban Biên tập, một tổ chức độc nhất của Israel, khi đó bao gồm các biên tập viên hàng đầu của báo in và truyền thông điện tử, những người tự kiểm duyệt các mục trong các ấn phẩm của họ theo yêu cầu của chính phủ.  Harel yêu cầu Ủy ban Biên tập cung cấp cho mình ba nhà báo, những người mà sau đó ông đã tuyển dụng vào Mossad.  Họ được gửi đến châu Âu, với chi phí của Mossad, để thu thập thông tin tình báo về các công ty bình phong đang mua thiết bị cho dự án Ai Cập.  Harel tuyên bố rằng mình cần các nhà báo vì lý do tác nghiệp, nhưng sự thật là ông ta muốn sử dụng sự tham gia của họ và các tài liệu họ thu thập được để rửa thông tin mà mình đã sở hữu;  như vậy, nó có thể được phổ biến cho các phương tiện truyền thông nước ngoài và Israel với mục đích sản sinh các bài báo nhằm tạo ra một bầu không khí phù hợp với mục đích của ông.

 Những câu chuyện của Harel đã tạo ra một làn sóng truyền thông điên cuồng và làn sóng hoảng sợ ngày càng tăng cao ở Israel.  Ben-Gurion cố gắng trấn an Harel nhưng vô ích.  “Theo tôi, ông ấy không tỉnh táo cho lắm,” Amos Manor, người đứng đầu Shin Bet vào thời điểm đó, cho biết.  “Đó là một điều gì đó sâu sắc hơn nhiều so với một nỗi ám ảnh.  Bạn không thể nói chuyện hợp lý về nó với ông ấy. “

 Sự việc kết thúc, như hầu hết những nỗi ám ảnh, trong sự hủy diệt của chính Harel.  Chiến dịch quảng bá của ông ta, những câu chuyện điên cuồng trên báo mà ông đã gieo rắc về tay sai của Hitler lại trỗi dậy, khiến Ben-Gurion bị thương nặng.  Thủ tướng đã bị tấn công vì đã không làm hết sức để chấm dứt mối đe dọa gây ra bởi các nhà khoa học Đức làm việc tại Ai Cập—một mối đe dọa mà các công dân Israel coi là mối nguy hiểm hiện tiền đối với sự tồn tại của họ – và vì đã dẫn đất nước của mình vào một cuộc hòa giải với Tây Đức, mà giờ đây ít nhất ông gián tiếp phải chịu trách nhiệm cho một phiên bản mới của Giải pháp Cuối cùng.

Vào ngày 25 tháng 3 năm 1963, Ben-Gurion triệu tập Harel đến văn phòng của mình và yêu cầu giải thích về một số hành động mà Harel đã thực hiện trước các phương tiện truyền thông trong nước và quốc tế mà không có sự chấp thuận của mình.  Cuộc trao đổi đã trở thành một trận tranh luận gay gắt về chính sách của chính phủ Israel đối với Đức.  Thủ tướng nhắc Harel rằng ông phải thực hiện chính sách của chính phủ chứ không phải đề ra nó.  Bị xúc phạm bởi lời quở trách, Harel xin từ chức, tin rằng Ông Già không thể xoay sở nếu không có mình và sẽ cầu xin mình ở lại.

 Ben-Gurion nghĩ khác.  Ông chấp nhận đơn từ chức ngay tại chỗ.  Sự nghiệp lẫy lừng một thời của Isser Harel đã kết thúc trong một thất bại thảm hại.  Ông lập tức được thay thế bởi Meir Amit, người đứng đầu AMAN.

__

NHƯNG ĐÓ CŨNG QUÁ trễ cho Ben-Gurion.  Chiến dịch của Harel chống lại các nhà khoa học đã rơi vào tay lãnh đạo đối lập Begin, người không bao giờ từ bỏ các cuộc đả kích nhắm vào Ben-Gurion.  Ngay cả bên trong chính đảng của mình, Mapai, mọi thứ đã lên đến mức sôi sục.  Ben-Gurion tranh cãi không ngừng với Golda Meir, người ủng hộ chính của Harel.

Chưa đầy hai tháng sau khi thay thế Harel, Ben-Gurion, biết rằng mình đã đánh mất sự hậu thuẫn của ngay cả chính đảng của mình, nên đã từ chức.  Ông được thay thế bởi Levi Eshkol.

Trong khi đó, Ai Cập vẫn đang nghiên cứu các hệ thống dẫn đường cho tên lửa có thể gây tổn hại nghiêm trọng cho Israel.

Meir Amit, một trong những chỉ huy trẻ xuất sắc của IDF – một người lập kế hoạch cho Chiến dịch Sinai năm 1956, người chịu trách nhiệm thúc đẩy Cục Tình báo Quân đội trong nhiều thế hệ – đã tiếp quản Mossad trong tình trạng hỗn loạn.

 Cơ quan đã suy sụp tinh thần sâu sắc.  Trong 9 tháng kể từ khi Ai Cập công bố bốn vụ thử tên lửa, người Israel đã học được rất ít điều quý giá về chương trình này, và mọi thứ mà Mossad và AMAN đã thử cho đến nay đều không thể làm chậm dự án, chứ chưa nói đến việc tháo dỡ nó.  Gây sức ép với Đức — cho dù thông qua chiến dịch báo chí tự thiêu của Harel hay các bài phát biểu nảy lửa của bà Bộ trưởng Ngoại giao Golda Meir trước nghị viện Knesset — đều không có gì khác biệt.  Cuối mùa hè năm đó, một lời gửi gắm mạnh mẽ từ Thủ tướng Eshkol tới Thủ tướng Konrad Adenauer của Tây Đức, yêu cầu hành động ngay lập tức để đưa các nhà khoa học Đức trở về từ Ai Cập, cũng không thể khiến vị lãnh đạo Đức lay chuyển.  Khi các nhà ngoại giao Israel báo cáo với Bộ Ngoại giao ở Jerusalem, họ chỉ có thể cho rằng “Adenauer và ban lãnh đạo đang bận tâm đến những vấn đề quan trọng hơn”, chẳng hạn như “quản lý Chiến tranh Lạnh trong thời kỳ hậu khủng hoảng tên lửa Cuba”.

Amit bắt đầu xây dựng lại tổ chức, củng cố bằng nhân sự giỏi nhất mà ông có từ AMAN.  Ngay sau khi tiếp quản, ông đã ra lệnh dừng mọi vấn đề mà ông cho là không liên quan và cắt giảm đáng kể các nguồn lực dành cho việc truy lùng tội phạm Đức Quốc xã, giải thích rằng “ chúng ta phải xét đến tính ưu tiên.  Trước mọi thứ khác, chúng ta phải cung cấp thông tin về những kẻ thù hiện nay của Nhà nước Israel ”.

Amit biết mình cần thiết lập lại chiến thuật và Mossad phải suy nghĩ lại cách tiếp cận vấn đề tên lửa của Ai Cập.  Sau đó, mệnh lệnh đầu tiên của ông ta là chuyển hướng khỏi các hoạt động tiêu diệt có mục tiêu, và thay vào đó tập trung phần lớn nguồn lực của mình vào nỗ lực tìm hiểu chính xác những gì đang diễn ra bên trong dự án tên lửa.

 Tuy nhiên, một cách bí mật, ngay cả hầu hết các quan chức hàng đầu của tổ chức đều không biết, ông chuẩn bị một dự án giết người có mục tiêu của riêng mình chống lại các nhà khoa học.  Các nhân viên hoạt động đang cố gắng tìm cách gửi bom bưu kiện từ bên trong Ai Cập, do đó rút ngắn đáng kể thời gian giữa việc gửi và mở gói hàng.  Họ đã thử phương pháp này cho một mục tiêu tương đối dễ dàng, bác sĩ Hans Eisele của nhóm chuyên gia Đức ở Ai Cập.  Vào ngày 25 tháng 9, đã xảy ra một vụ nổ tại bưu điện ở khu Maadi cao cấp của Cairo, khi một quả bom thư gửi cho Tiến sĩ Carl Debouche, tên giả mà Eisele đang sử dụng, phát nổ và làm mù mắt một nhân viên bưu điện.

Sự thất bại của chiến dịch này đã thuyết phục Amit rằng chỉ nên sử dụng những cách giết người có mục tiêu – nếu không phải là biện pháp cuối cùng, thì ít nhất chỉ sau khi lập kế hoạch tỉ mỉ để tránh được những thất bại đáng xấu hổ.  Tuy nhiên, ông ta ra lệnh cho Mossad chuẩn bị kế hoạch bắn, cho nổ tung hoặc đầu độc các nhà khoa học, trong trường hợp nỗ lực giải quyết vấn đề một cách hòa bình không có kết quả.

Amit ra lệnh tăng cường đột nhập vào tất cả các văn phòng có liên quan đến dự án tên lửa ở Đức và Thụy Sĩ, đồng thời chụp ảnh càng nhiều tài liệu càng tốt.  Các hoạt động này cực kỳ phức tạp.  Các địa điểm được bảo vệ cẩn mật — cả bởi tình báo Ai Cập và người của Hermann Vallentin — ở trung tâm của các thành phố đông đúc ở châu Âu, ở các quốc gia nơi luật pháp được thực thi nghiêm ngặt.

Các đặc vụ của Mossad đã vào lục lọi các đại sứ quán Ai Cập, cơ quan mua hàng của Ai Cập ở Cologne và văn phòng Intra ở Munich.  Họ đột nhập vào văn phòng Hàng không Ai Cập tại Frankfurt không ít hơn năm mươi sáu lần từ tháng 8 năm 1964 đến tháng 12 năm 1966.

 Thông tin thu được trong các vụ đột nhập (khoảng ba mươi nghìn tài liệu được chụp lại cho đến cuối năm 1964) là quan trọng, nhưng vẫn chưa đủ.  Mossad đã phải tuyển dụng một người nào đó nằm bên trong dự án tên lửa.  Nhiệm vụ quan trọng này được giao cho một bộ phận có tên là Junction (Tsomet trong tiếng Do Thái, nghĩa là Giao lộ), bộ phận này sẽ trở thành chi nhánh quan trọng nhất của Mossad, chịu trách nhiệm cung cấp phần lớn thông tin tình báo của tổ chức.

 Không giống như trong các bộ phim Hollywood và tiểu thuyết giả tưởng, hầu hết thông tin này không được thu thập trực tiếp bởi các nhân viên của Mossad trong bóng tối.  Đúng hơn, nó được thu lượm từ những công dân nước ngoài ở quê nhà của họ.  Các nhân viên phụ trách hồ sơ của Mossad chịu trách nhiệm tuyển dụng và điều hành các nguồn này được gọi là “nhân viên thu thập” —katsa, theo cách viết tắt của tiếng Do Thái — và họ là những nhà tâm lý học chuyên nghiệp.  Họ biết cách thuyết phục một người phản bội mọi thứ và tất cả những người y tin tưởng: bạn bè và gia đình, tổ chức, quốc gia của y.

 Tuy nhiên, thật không may, không ai trong số họ có thể đánh động tâm lý đối với bất kỳ ai gần gũi với chương trình Ai Cập.  Tuyển dụng đại lý ở các nước Ả Rập đã trở thành một ưu tiên chiến lược dài hạn, nhưng trong ngắn hạn, với đồng hồ tích tắc, Junction sẽ phải tìm kiếm nơi khác.

 ___

 VÀO THÁNG 4 NĂM 1964, AMIT cử Rafi Eitan đến Paris, nơi đóng vai trò là trung tâm thần kinh của châu Âu về tình báo Israel, để điều hành các hoạt động của Junction trên Lục địa.  Cho đến thời điểm này, tất cả các nỗ lực của Junction để thu hút một trong các nhà khoa học đều vô ích, chủ yếu là do các biện pháp phòng ngừa an ninh nghiêm ngặt do Vallentin thiết lập.  Từ ngày này sang ngày khác, y ngày càng trở nên rắc rối hơn.

 Việc phải đối phó với Vallentin sẽ dẫn đến việc đánh lưới một con cá lớn hơn nhiều.  Avraham Ahituv, điều phối viên của Junction ở Bonn, đã có một ý tưởng và anh đã trình bày nó với Eitan ở Paris vào tháng 5 năm 1964. Anh đã xác định được một nhân vật đáng ngờ đã bán vũ khí và thông tin tình báo cho chế độ Nasser và cũng là người thân cận với các nhà khoa học Đức.  “Chỉ có một vấn đề nhỏ,” Ahituv nói.  “Tên người đó là Otto Skorzeny, và ông ta là sĩ quan cấp cao của Wehrmacht, chỉ huy chiến dịch đặc biệt của Hitler và là người yêu thích của Quốc trưởng.”

“Và ông có muốn tuyển dụng tay Otto này chứ?”  Eitan hỏi một cách mỉa mai.  “Tuyệt vời.”  “Còn một vấn đề nhỏ nữa,” Ahituv nói thêm.  “Ông ấy là một Đức quốc xã tận tụy và thành viên của SS. ”

Năm 1960, Ahituv nói với Eitan, Harel đã ra lệnh cho Amal, đơn vị chuyên xử lý việc săn lùng tội phạm chiến tranh của Đức Quốc xã, thu thập càng nhiều thông tin càng tốt về Skorzeny, với mục tiêu đưa hắn ra trước công lý hoặc giết hắn.  Hồ sơ của hắn cho biết hắn là một thành viên nhiệt tình của Đảng Quốc xã Áo ở tuổi hai mươi ba, đã nhập ngũ năm 1935 cho một đơn vị SS bí mật ở Áo, và đã tham gia Anschluss (Hitler thôn tính Áo) và ở Kristallnacht (Đêm Kính Vỡ,  chiến dịch bức hại khốc liệt người Do Thái ở Đức vào ngày 9-10 tháng 11, 1938).  Hắn  thăng cấp nhanh chóng trong Waffen-SS, trở thành người đứng đầu các đơn vị hoạt động đặc biệt của nó.

 Sturmbannführer Skorzeny nhảy dù xuống Iran và huấn luyện các bộ lạc địa phương để làm nổ các đường ống dẫn dầu phục vụ quân đội Đồng minh, và hắn đã âm mưu sát hại Ba Ông Lớn —Churchill, Stalin và Roosevelt.  Hắn cũng đã lên kế hoạch bắt cóc và giết chết Tướng Dwight D. Eisenhower, khiến ông buộc phải trải qua Giáng sinh năm 1944 với cả một đội cận vệ dày đặc bao quanh.  Nổi tiếng nhất, Skorzeny được Hitler đích thân lựa chọn để chỉ huy cuộc đột kích Gran Sasso, cuộc đột kích thành công dẫn dắt ông bạn thân và đồng minh của Quốc trưởng, cựu độc tài phát xít Benito Mussolini, từ biệt thự Alpine nơi ông ta đang bị chính phủ Ý bắt làm tù binh.

 Tình báo Đồng minh gọi Skorzeny là “kẻ nguy hiểm nhất châu Âu”.  Tuy nhiên, hắn không bị kết án vì tội ác chiến tranh.  Hắn đã được tuyên bố trắng án bởi một tòa án, và sau khi bị bắt giữ lại vì các tội danh khác, hắn đã trốn thoát với sự giúp đỡ của các  bạn bè SS của mình. Hắn ẩn náu ở Tây Ban Nha của nhà độc tài Franco, từ đó hắn thiết lập các mối quan hệ thương mại có lợi với các chế độ phát xít trên khắp thế giới và cũng duy trì liên lạc với các nhà khoa học Đức ở Ai Cập.

 Sự quen biết của Skorzeny với các nhà khoa học ở Ai Cập và việc hắn là sĩ quan cấp trên của Hermann Vallentin trong chiến tranh, theo quan điểm của Eitan, là đủ để biện minh cho nỗ lực tuyển dụng hắn, bất chấp quá khứ Đức Quốc xã của hắn.  Eitan không phải là một người sống sót sau Holocaust, và ông đã giải quyết vấn đề, như không phải của mình, mà không bị tình cảm chi phối.  Ông nghĩ nếu việc đó giúp được cho Israel thì cũng đáng được tha thứ.  “Và chúng ta có thể đưa ra đề nghị với hắn để đổi lấy thứ mà không ai khác có thể làm được,” ông với các đồng nghiệp của mình.  “Cuộc sống không sợ hãi.”

Thông qua một số trung gian, Mossad thiết lập mối liên hệ với Nữ bá tước Ilse von Finckenstein — vợ của Skorzeny.  Bà ấy sẽ đóng vai trò là lối xâm nhập của Mossad.  Hồ sơ Mossad về nữ bá tước nói rằng bà là “một thành viên của tầng lớp quý tộc.  Bà là em họ của Bộ trưởng Tài chính Đức [trước chiến tranh] Hjalmar Schacht… Bà ấy 45 tuổi, một phụ nữ khá hấp dẫn, tràn đầy năng lượng.”

Raphael (Raphi) Medan, đặc vụ Mossad sinh ra ở Đức, người được giao nhiệm vụ cho biết: “Bà ấy tham gia vào tất cả mọi thứ. “ Bà đã bán các tước hiệu của giới quý tộc, có quan hệ với tình báo Vatican, và bán vũ khí nữa.”  Bà và chồng cũng có những tư tưởng phóng khoáng về mối quan hệ của họ.  “Họ không có con,” Medan nói, “và họ duy trì một cuộc hôn nhân cởi mở.  Ilse luôn trông tuyệt đẹp.  Hai năm một lần, bà  ấy phải trải qua quá trình điều trị nội tiết tố ở Thụy Sĩ để giữ gìn tuổi thanh xuân của mình ”.

Theo báo cáo của Mossad, Medan “đã nổi tiếng vì vẻ ngoài điển trai kiểu Âu, và sức lôi cuốn đối với phụ nữ”.  Một cuộc gặp gỡ được lên lịch vào cuối tháng 7 năm 1964, tại Dublin, Ireland.  Medan tự giới thiệu mình là một nhân viên Bộ Quốc phòng Israel đang nghỉ phép và đang tìm kiếm một cơ hội mở rộng trong lĩnh vực du lịch quốc tế.  Anh ta có thể quan tâm đến việc tham gia vào dự án phát triển Bahamas mà nữ bá tước có dính líu, anh ta nói.  Nữ bá tước thích Medan, và mối quan hệ của họ ấm dần lên.  Khi buổi nói chuyện kinh doanh của họ kết thúc, bà mời anh đến dự một bữa tiệc tại trang trại của mình.  Đây là khởi đầu của một loạt các cuộc gặp gỡ, bao gồm một số chuyến viếng thăm hoang dại đến các hộp đêm trên khắp châu Âu.

 Theo một tin đồn Mossad lưu truyền trong nhiều năm, và được gợi ý nhẹ nhàng trong các báo cáo nhưng không được nêu rõ ràng, Medan đã “hy sinh” bản thân vì đất nước của mình – và lợi dụng cuộc hôn nhân công khai của cặp vợ chồng người Đức – bằng cách lôi kéo nữ bá tước và cuối cùng dắt bà  ấy lên giường.  (Medan nhận xét về điều này bằng cách nói, “Có những điều mà các quý ông không được nói đến”, và mô tả cuộc gặp gỡ của họ, với một nụ cười, là “tốt và thậm chí là hài lòng.”)

Tại Madrid, vào đêm ngày 7 tháng 9, Medan nói với bà rằng một người bạn của anh từ Bộ Quốc phòng Israel muốn gặp chồng bà “về một vấn đề rất quan trọng”.  Người bạn đã ở Châu Âu và chờ hồi âm.

Thuyết phục nữ bá tước von Finckenstein hợp tác không khó.  Chỉ 4 năm trước, Israel đã lùng được, tóm cổ, xét xử và hành quyết Adolf Eichmann.  Có những thế lực hùng mạnh trong thế giới Do Thái, bao gồm cả thợ săn Đức Quốc xã Simon Wiesenthal, đã tham gia vào các chiến dịch trên toàn thế giới để săn lùng và truy tố những tên Quốc xã như Skorzeny.  Do đó, Medan đã có thể đề xuất cho nữ bá tước — và nói rộng ra là chồng bà — “cuộc sống không sợ hãi” đó.

 Vào buổi sáng, khi họ vẫn còn say sưa với rượu và khói thuốc lá trong các câu lạc bộ, nữ bá tước vui mừng thông báo cho Medan rằng chồng bà sẵn sàng gặp bạn của anh ta — đêm đó, nếu có thể.

 Medan gọi Ahituv đến Madrid.  Anh ấy đã sắp xếp một cuộc họp tại sảnh khách sạn vào buổi tối hôm đó.  Nữ bá tước đến trước, được tôn vinh vẻ đẹp quyến rũ.  Mười lăm phút sau, viên đại tá xuất hiện.  Medan giới thiệu họ với Ahituv.  Sau đó, anh ta kéo nữ bá tước sang một bên, cho  Skorzeny ở lại với Ahituv bàn  “chuyện kinh doanh.”

Báo cáo nội bộ cuối cùng của Mossad về vụ này, mặc dù được viết bằng ngôn ngữ chuyên môn khô khan, nhưng không thể bỏ qua tính chất gay gắt của buổi họp: “Thật khó để phóng đại sự miễn cưỡng về mặt cảm xúc của Avraham Ahituv đối với hoạt động này.  Avraham là  dòng dõi một gia đình tôn giáo, một người gốc Đức được giáo dục trong trường tôn giáo của người Do Thái.  Đối với ông ấy, việc tiếp xúc với một tên quái vật Đức Quốc xã là một trải nghiệm cảm xúc kinh hoàng vượt ra khỏi yêu cầu của nghề nghiệp ”.

Trong bản báo cáo chi tiết mà chính Ahituv đã đệ trình, vào ngày 14 tháng 9 năm 1964, ông ta mô tả các cuộc nói chuyện với Skorzeny trong tuần đó:

 Skorzeny là một người khổng lồ.  Một người đàn ông.  Hắn rõ ràng là rất mạnh mẽ về thể chất.  Trên má trái của hắn là vết sẹo nổi tiếng như trên các tấm ảnh chụp, dài đến mang tai.  Hắn bị điếc một phần bên tai đó và yêu cầu tôi ngồi bên phải hắn. Ăn mặc đẹp.

 Hai khoảnh khắc đã cho tôi một cú sốc.  Skorzeny đang tìm một số trong danh bạ điện thoại của hắn để đưa cho tôi.  Đột nhiên, hắn  lấy một chiếc kính một tròng từ trong túi ra và cắm nó vào hốc mắt bên phải của mình.  Ngoại hình của hắn sau đó, những gì với kích thước cơ thể của mình, vết sẹo và ánh mắt hung hăng, khiến hắn trông giống như một tên Quốc xã hoàn chỉnh.

 Sự cố thứ hai xảy ra sau cuộc gặp gỡ của chúng tôi, khi chúng tôi cùng ăn tối trong một nhà hàng gần văn phòng của hắn.  Đột nhiên ai đó đến gần chúng tôi, bấm gót chân thật lớn và chào hắn bằng tiếng Đức là “Tướng quân của tôi”.  Skorzeny nói với tôi rằng đây là chủ nhà hàng và y từng là một trong những tên Quốc xã hàng đầu ở những nơi đó…

 Tôi không ảo tưởng về những ý kiến ​​ban đầu của hắn.  Ngay cả vợ hắn cũng không cố gắng để thanh minh cho hắn.  Bà chỉ nhấn mạnh rằng hắn  không tham gia vào Holocaust…. Phần lớn cuộc trò chuyện tại buổi họp đầu tiên tập trung vào các vấn đề chính trị, về Chiến tranh thế giới thứ hai và Holocaust, quan hệ Đông-Tây và tình hình Trung Đông.

 Ahituv đưa ra vấn đề về sự tham gia của Skorzeny trong các cuộc bức hại Kristallnacht.  Ông lôi ra một danh sách dài những người đã tham gia vào các cuộc đột kích và trình bày cho Skorzeny.  Skorzeny quen thuộc với tài liệu được lưu trữ tại Yad Vashem, vì lời buộc tội đã được đưa ra và thảo luận trong phiên tòa xét xử tội ác chiến tranh mà từ đó hắn đã trốn thoát được.

Hắn chỉ vào một dấu X được in bên cạnh tên của mình.  “Đó là bằng chứng cho thấy tôi không tham gia,”  mặc dù thợ săn  Đức Quốc xã Wiesenthal giải thích dấu hiệu này là bằng chứng cho điều ngược lại.  Skorzeny phàn nàn rằng Wiesenthal đang săn lùng hắn, và hơn một lần hắn thấy mình ở trong tình huống “lo sợ cho tính mạng của mình”.  Ahituv quyết định không kéo dài vấn đề quá xa và không tranh luận.

 Ở một giai đoạn nhất định, Skorzeny cảm thấy mệt mỏi khi nói về chiến tranh.  “Hắn ngăn tôi lại và hỏi tôi việc kinh doanh của tôi là gì.  Rõ ràng là không có ích gì khi chơi trò trốn tìm.  Tôi nói với hắn rằng tôi đang ở trong cơ quan [tình báo] của Israel.  [Skorzeny nói rằng] mình không ngạc nhiên khi chúng tôi đến được với hắn.  Vào những thời điểm khác nhau, hắn  đã liên kết với các quốc gia khác nhau, và với một số quốc gia trong đó hắn vẫn duy trì mối quan hệ tuyệt vời.  Hắn chắc chắn cũng đã chuẩn bị cho việc trao đổi quan điểm với chúng tôi.”

“Trao đổi quan điểm” là cách nói tế nhị của Skorzeny rằng hắn đồng ý hợp tác toàn diện và đầy đủ với Israel.  Skorzeny yêu cầu một cái giá cho sự hỗ trợ của mình.  Hắn muốn có hộ chiếu Áo hợp lệ được cấp bằng tên thật của mình, giấy miễn truy tố suốt đời do Thủ tướng Eshkol ký, và ngay lập tức hắn được loại khỏi danh sách Phát xít Đức bị truy nã của Wiesenthal, cũng như nhận được một số tiền.

 Các điều kiện Skorzeny đưa ra đã gây ra một cuộc tranh cãi gay gắt trong Mossad.  Ahituv và Eitan nhìn thấy ở các điều kiện này “sự kiềm chế hoạt động và một yêu cầu cho sự thành công của hoạt động.”  Các quan chức cấp cao khác lập luận rằng đó là “toan tính của một tên tội phạm Đức Quốc xã nhằm tẩy rửa tên tuổi của hắn,” và họ yêu cầu một cái nhìn mới về quá khứ của Skorzeny.  Cuộc điều tra mới này đã tiết lộ thêm chi tiết về vai trò của hắn đối với sự kiện Kristallnacht, “với tư cách là thủ lĩnh của một đám đông đốt cháy giáo đường Do Thái ở Vienna,” và “cho đến gần đây, hắn là một người ủng hộ tích cực cho các tổ chức tân Quốc xã.”

Meir Amit, thực tế và vô cảm như mọi khi, cho rằng Eitan và Ahituv đúng, nhưng ông cần sự ủng hộ về mặt tinh thần của thủ tướng.  Levi Eshkol đã lắng nghe Amit và tham khảo ý kiến ​​của một số thành viên cấp cao của Mossad, những người sống sót sau Holocaust (không giống như Amit, Eitan và Ahituv, những người không), nghe thấy sự phản đối kịch liệt của họ.  Tuy nhiên, cuối cùng ông cũng chấp thuận cho Skorzeny tiền, hộ chiếu và quyền miễn trừ.

Thủ tướng cũng đã chấp thuận yêu cầu liên quan đến Wiesenthal, nhưng đó không phải là quyết định của ông ấy, cũng không phải của Mossad.  Wiesenthal là một người đàn ông cố chấp và bướng bỉnh, và mặc dù ông có liên kết chặt chẽ với Nhà nước Israel và thậm chí cả Mossad, tổ chức tài trợ cho một số hoạt động của mình, ông ta không phải là công dân Israel và ông ta làm việc ở Vienna, bên ngoài quyền tài phán của Israel  .

 Vào tháng 10 năm 1964, Raphi Medan gặp Wiesenthal để thảo luận, mà không nói chi tiết về hoạt động, lý do tại sao Skorzeny phải bị loại khỏi danh sách đen tội phạm Đức Quốc xã của Wiesenthal để bị truy lùng và truy tố.

 “Trước sự ngạc nhiên của tôi,” Medan nhớ lại, “Wiesenthal nói, ‘Ngài Medan, không có cơ hội đâu.  Đây là một tên Quốc xã và tội phạm chiến tranh và chúng tôi sẽ không bao giờ loại y khỏi danh sách của chúng tôi.’ Dù tôi có nói gì hay tôi đã cố gắng thế nào, ông ta chỉ đơn giản từ chối một cách rõ ràng.”

 Khi được thông báo rằng mình sẽ vẫn có tên trong danh sách của Wiesenthal, Skorzeny đã rất thất vọng nhưng dù sao cũng đồng ý với thỏa thuận.  Vì vậy, điều khó tin đã xảy ra — người yêu thích của Quốc trưởng, bị truy nã trên toàn thế giới với tư cách là tội phạm chiến tranh của Đức Quốc xã, kẻ rõ ràng đã đốt cháy giáo đường Do Thái và tham gia các chiến dịch SS, trở thành điệp viên chủ chốt trong chiến dịch quan trọng nhất do tình báo Israel tiến hành vào thời điểm đó.

Bước đầu tiên của Skorzeny là gửi lời tới bạn bè của mình trong số các nhà khoa học ở Ai Cập rằng mình đang hồi sinh một mạng lưới các cựu binh SS và Wehrmacht “để xây dựng một nước Đức mới” – nói cách khác là thành lập một Đế chế thứ tư.  Để chuẩn bị mặt bằng, ông ta nói với họ, tổ chức của ông sẽ phải thu thập thông tin một cách bí mật.  Do đó, các nhà khoa học Đức làm việc cho Nasser được yêu cầu, theo lời thề Wehrmacht của họ, cung cấp cho tổ chức bóng ma của Skorzeny thông tin chi tiết về nghiên cứu tên lửa của họ để lực lượng quân sự mới của Đức có thể sử dụng nó trong quá trình chế tạo.

 Đồng thời, Skorzeny và Ahituv cũng chủ mưu kế hoạch lấy thông tin của nhân viên an ninh ghê gớm Hermann Vallentin, kẻ biết mọi chuyện về dự án tên lửa Ai Cập.  Không giống như việc tuyển dụng Skorzeny tinh vi và giàu kinh nghiệm, người biết rằng mình đang giao dịch với một nhân viên Mossad, và người mà Ahituv không bao giờ cố gắng đánh lừa, cả hai quyết định sử dụng một số bí ẩn đối với Vallentin.

Skorzeny đã đóng vai trò của mình một cách hoàn hảo.  Ông ta triệu tập Hermann Vallentin đến Madrid với lý do rằng mình đang tổ chức một cuộc họp đặc biệt cho cấp dưới của mình từ “cuộc chiến vinh quang”.  Ông ta đưa Vallentin lên, với chi phí của Mossad, trong một khách sạn sang trọng và trình bày cho y kế hoạch giả mạo của mình để hồi sinh Reich (Để chế Đức).  Sau đó, ông tiết lộ rằng đây không phải là lý do duy nhất để y được mời đến Madrid, và rằng ông ấy muốn y gặp “một người bạn thân”, một sĩ quan của cơ quan mật vụ MI6 của Anh.  Ông nói, người Anh quan tâm đến những gì đang diễn ra ở Ai Cập, và ông ấy đã nhờ Vallentin giúp đỡ bạn mình.

 Vallentin nghi ngờ.  “Ngài có chắc người Israel không tham gia không?”  y hỏi.  “Hãy đứng nghiêm khi nghe  nói và xin lỗi mau!”  Skorzeny đốp chát. “Sao dám nói những điều như vậy với sĩ quan cấp trên của mình!”

 Vallentin ríu rít xin lỗi, nhưng y không bị thuyết phục.  Và trên thực tế, y  đã hoàn toàn đúng.  “Bạn” của Skorzeny không phải là người Anh, mà là một sĩ quan phụ trách hồ sơ của Mossad sinh ra ở Úc tên là Harry Barak.

Vallentin đồng ý gặp anh ta, nhưng không hợp tác, và cuộc gặp giữa hai người chẳng đi đến đâu.

 Skorzeny tháo vát ngay lập tức nghĩ ra giải pháp.  Trong cuộc gặp tiếp theo với Vallentin, ông ta nói với y rằng người bạn của mình từ MI6 đã nhắc nhở ông rằng một bức điện mà Skorzeny đã gửi khi sắp kết thúc chiến tranh, trong đó ông thông báo với bộ tổng tham mưu rằng mình đang thăng chức cho Vallentin, đã không liên lạc được với bộ tổng tham mưu hoặc Vallentin.

 Đôi mắt của Vallentin sáng lên.  Mặc dù sự thăng tiến hồi tố này giờ chỉ mang tính biểu tượng, nhưng rõ ràng nó có ý nghĩa rất lớn đối với y.  Y đứng dậy và chào Heil Hitler và cảm ơn Skorzeny rối rít.

 Skorzeny nói với Vallentin rằng ông đã sẵn sàng cung cấp cho y một văn bản xác nhận rằng y đã được thăng chức.  Vallentin rất biết ơn người bạn mới từ tình báo Anh về những thông tin mà anh ta đã cung cấp, và đồng ý giúp đỡ anh ta nhiều như anh ta muốn.

Đúng lúc, Skorzeny đã mời các cựu sĩ quan Wehrmacht khác có liên quan đến dự án tên lửa đến Madrid.  Họ đã tham dự những bữa tiệc xa hoa tại nhà riêng của ông, được coi là cuộc tụ họp của các cựu binh lực lượng đặc biệt Waffen-SS.  Các vị khách của ông đã ăn, uống và tận hưởng đến tận khuya mà không hề biết rằng chính phủ Israel đang trả tiền cho đồ ăn và thức uống của họ và đặt máy nghe lén các cuộc trò chuyện của họ.

 Thông tin được cung cấp bởi Skorzeny, Vallentin và các nhà khoa học đến Madrid đã giải quyết hầu hết các vấn đề về thông tin của Mossad liên quan đến chương trình tên lửa của Ai Cập.  Nó xác định chính xác ai đã tham gia vào dự án và chính xác tình trạng hiện tại của từng bộ phận.

 Nhờ lượng thông tin dồi dào mới từ hoạt động này, Mossad của Meir Amit đã xoay sở để phá vỡ dự án tên lửa của Ai Cập từ bên trong, sử dụng một số phương pháp song song.  Một là gửi thư đe dọa đến nhiều nhà khoa học Đức.  Chúng được diễn đạt rất khéo léo, dựa trên thông tin tình báo cấp cao nhất do Vallentin cung cấp, và bao gồm các chi tiết riêng tư của người nhận.

 “Hãy nhớ rằng ngay cả khi bạn không phải chịu trách nhiệm cho những tội ác của đất nước Đức trong quá khứ, bạn sẽ không thể chối bỏ trách nhiệm của mình cho những việc làm của bạn ngày hôm nay.  Tốt hơn hết bạn nên xem xét thật nghiêm túc nội dung của bức thư này, vì tương lai của bạn và tương lai của gia đình trẻ của bạn. ”  “The Gideons” là tên của tổ chức bí mật đã ký các bức thư.

 Trong khi đó, nhờ thông tin tình báo mới từ các nguồn, chủ yếu là Vallentin, Mossad đã có thể xác định được một kế hoạch bí mật của Ai Cập nhằm tuyển dụng nhiều công nhân từ nhà máy phi cơ và tên lửa Hellige ở Freiburg, những người sắp bị sa thải.  Amit quyết định tận dụng động lực để thực hiện một động thái nhanh chóng nhằm ngăn chặn việc họ đi đến Ai Cập.

Vào sáng ngày 9 tháng 12, Shimon Peres, lúc đó là thứ trưởng quốc phòng và Raphi Medan đã mang một chiếc hộp có khóa chứa một số tài liệu bằng tiếng Anh do văn phòng giám đốc Mossad chuẩn bị dựa trên tài liệu  được cung cấp bởi Skorzeny, Vallentin và các nhà khoa học đã đến Madrid, bay đi để tham gia một cuộc gặp được sắp xếp vội vã với một trong những chính trị gia cấp cao của Tây Đức, cựu Bộ trưởng Quốc phòng Franz Josef Strauss.  Peres và Strauss là kiến ​​trúc sư của thỏa thuận bồi thường giữa Tây Đức và Israel.  Strauss đứng dậy từ chỗ ngồi của mình để chào đón hai người Israel, và ông và Peres ôm nhau nồng nhiệt.

 “Chúng tôi đã ngồi trong sáu giờ,” Peres nói.  “Chúa ơi, người đàn ông đó có thể uống rượu.  Rượu từ khắp nơi trên thế giới và bia.  Tôi cũng có thể uống, nhưng không phải số lượng như vậy?  Sáu giờ và chúng tôi không ngừng uống. “

 Thông tin mà Peres trình bày cho Strauss chi tiết, được kiểm tra chéo, xác thực và nghiêm trọng hơn nhiều so với bất kỳ thông tin nào đã được trình bày cho người Đức trước đây.  “Thật không thể tưởng tượng được rằng các nhà khoa học Đức lại giúp đỡ kẻ thù tồi tệ nhất của chúng ta theo cách như vậy, trong khi bạn đứng khoanh tay”, Peres nói với Strauss, người chắc hẳn đã nắm được ý nghĩa của việc rò rỉ tài liệu này với báo chí quốc tế.

 Strauss xem xét các tài liệu, và đồng ý can thiệp.  Ông gọi cho Ludwig Bölkow, một nhân vật quyền lực trong ngành hàng không vũ trụ của Đức, và nhờ ông ta giúp đỡ.  Bölkow đã cử đại diện của mình đến mời các nhà khoa học và kỹ sư Hellige đến làm việc trong điều kiện tốt tại các nhà máy của ông, miễn là họ hứa không giúp người Ai Cập.

Kế hoạch đã thành công.  Hầu hết nhóm mới chưa hề đến Ai Cập, nơi chương trình tên lửa khẩn cấp cần sự hỗ trợ của họ với các hệ thống dẫn đường trục trặc – một sự kiện đã làm tê liệt dự án.

 Cú đánh cuối cùng xảy ra khi một đại diện của Bölkow đến Ai Cập để thuyết phục các nhà khoa học đang làm việc ở đó trở về nhà.  Từng người một từ bỏ chương trình và đến tháng 7 năm 1965, thậm chí Pilz đã biến mất, trở về Đức để lãnh đạo một trong các bộ phận máy bay của Bölkow.

 Vụ các nhà khoa học Đức là lần đầu tiên Mossad huy động toàn bộ lực lượng để ngăn chặn thứ mà họ coi là mối đe dọa hiện hữu từ kẻ thù, và là lần đầu tiên Israel cho phép mình nhắm mục tiêu vào dân thường từ các quốc gia mà họ có quan hệ ngoại giao.  Với những nguy cơ vừa mới được dỡ bỏ, một báo cáo nội bộ tuyệt mật năm 1982 đã được viết, phân tích liệu có thể giải quyết vụ việc bằng cách sử dụng các phương pháp “mềm” — đề nghị hào phóng tiền từ chính phủ Đức cho các nhà khoa học — mà không cần tiến hành  “vụ biến mất bí ẩn của Krug, hoặc quả bom giết Hannelore Wende, hoặc các bom thư  và lời đe dọa khác.”

 Báo cáo kết luận rằng điều đó sẽ không thể xảy ra: Mossad tin rằng rằng, nếu không có mối đe dọa bạo lực nhắm vào họ, các nhà khoa học Đức sẽ không sẵn sàng nhận tiền và từ bỏ dự án.

Tổng thống Ai Cập Nasser trong một buổi thử tên lửa với các nhà khoa học Đức và Ai Cập

Chiến binh Oded của Mossad,  người bắt BS Hans Krug và mang ông đến Israel để thẩm vấn

Ảnh giám sát Hans Krug của Mossad