Ronen Bergman
Trần Quang Nghĩa dịch
CHƯƠNG 20 : NEBUCHADNEZZA
ĐÊM 6/4/1979, bên ngoài một nhà ga máy bay bên bờ sông, một cặp đèn pha xuyên qua bóng tối chiếu hai hình nón ánh sáng màu trắng vàng xuống vỉa hè, mở rộng ra khi xe đến gần. Đó là một chiếc ô tô hiệu Fiat 127, động cơ kêu ken két và dừng lại cách cổng trước hai trăm mét.
Hai lính canh người Pháp bên ngoài nhà ga máy bay – tại La Seyne-sur-Mer, ngay phía tây Toulon trên bờ biển Địa Trung Hải của Pháp – cảnh giác nhìn chiếc xe. Nhà ga máy bay thuộc Tập đoàn CNIM, chuyên sản xuất các bộ phận phức tạp, quy mô lớn cho tàu và lò phản ứng hạt nhân. Lúc nào cũng có hai lính gác túc trực – ba ca một ngày, mỗi ca tám tiếng, tất cả đều nhàm chán.
Các lính canh bước vài bước về phía hàng rào khi cánh cửa ôtô mở ra. Hai phụ nữ bước ra. Những cô gái xinh đẹp, lính canh nghĩ. Nhưng các phụ nữ có vẻ bối rối, gần như bực tức, khi họ loạng choạng đi về phía cổng.
“Pouvez-vous nous aider?” một cô hỏi từ phía bên kia hàng rào. Các anh có thể giúp tụi em không? Cô ấy cho biết, họ là những du khách người Anh, đi nghỉ đêm ở Riviera, nhưng chiếc xe tệ hại của họ cứ hỏng mãi. Cô ấy cười. Một lời tán tỉnh. Cô ấy nói, có lẽ để sau, các lính canh có thể đến chung vui cùng họ tại một quán bar nào đó.
Các bảo vệ đi lấy một số dụng cụ, ra mở cổng, và đi về phía ô tô. Họ đang mỉm cười.
Phía sau họ, năm đặc công Lưỡi Lê hối hả vượt qua hàng rào, nhanh chóng và không gây tiếng động, một thao tác mà họ đã luyện tập không ngừng tại một căn cứ quân sự trên bờ biển phía nam của Israel. Cũng lặng lẽ như vậy, họ tiến vào nhà ga máy bay. Bên trong, họ gắn năm quả bom công phá mạnh vào hai hình trụ khổng lồ. Họ hẹn giờ trên kíp nổ, sau đó lẻn ra ngoài, vượt qua hàng rào và đi vào màn đêm.
Họ mất chưa đến năm phút để hành động.
Trên con đường phía trước nhà ga máy bay, các người bảo vệ đã khởi động chiếc xe. Thật dễ dàng đáng ngạc nhiên. Sau đó, các phụ nữ – cả hai đều là đặc vụ Israel – hứa sẽ gặp họ sau và lái xe đi.
Cùng lúc đó, cách đó không xa, một nam một nữ nắm tay nhau chậm rãi đi tới. Họ dường như bận tâm vào sự lãng mạn của mình. Người đàn ông, tóc vuốt ngược ra sau, trông hơi giống Humphrey Bogart. Anh nhìn qua vai người phụ nữ và thấy chiếc xe đã nổ máy và lái đi. Cặp đôi quay lại, cách đó vài con phố, họ lên ô tô và cũng phóng đi. Họ là Mike Harari, ông sếp của Caesarea, và Tamara, một nữ đặc vụ Mossad.
Ba mươi phút sau, nhà ga máy bay phát nổ. Những ngọn lửa xé toạc bầu trời đêm và thắp sáng bờ sông với màu cam và đỏ. Lính cứu hỏa đã dập tắt ngọn lửa trước khi tòa nhà bị phá hủy hoàn toàn, nhưng mọi thứ bên trong đều bị hư hỏng nặng, bao gồm cả một số máy móc được chế tạo cẩn thận mà phải mất hơn hai năm để sản xuất. Được lắp ráp hoàn chỉnh với các bộ phận còn lại, chúng sẽ tạo ra một lò phản ứng hạt nhân có công suất 70 megawatt, đủ lớn để người ta gọi nó là lò phản ứng loại Osiris.
Osiris là vị thần Ai Cập cổ đại của thế giới bên kia, thế giới ngầm và người chết. Người Pháp đã bán nó cho Saddam Hussein, nhà độc tài Iraq, người tự coi mình là hiện thân hiện đại của Nebuchadnezzar, vị vua Babylon đã phá hủy Vương quốc Israel.
Vài giờ sau vụ đánh bom, một phát ngôn viên của Groupe des Écologistes Français (Nhóm Nhà Sinh Thái học Pháp) đã điện thoại cho một tờ báo nhận trách nhiệm vụ đánh bom . Nhưng không ai, nhất là tình báo Pháp, tin anh ta. Mọi người đều cho rằng đó là bàn tay của Israel, vì họ có động cơ cấp bách nhất.
__
TRONG KHI NHIỀU tài sản quốc phòng và tình báo của Israel bị sa lầy trong đống đổ nát đẫm máu ở Lebanon, các mối đe dọa hiện hữu đối với quốc gia nhỏ bé này vẫn tiếp tục ám ảnh Mossad. Đứng đầu trong số đó là Iraq, một quốc gia được cai trị bởi một tên đồ tể vô tâm với tham vọng từ lâu trở thành Saladin tiếp theo. Một trong những kịch bản ác mộng của IDF là một đội quân đông đảo của Iraq liên kết với quân Jordan mở ra một mặt trận phía đông đầy đe dọa.
Các lực lượng Israel đã bí mật can dự vào Iraq từ những năm 1960, khi thiểu số người Kurd bị áp bức nổi dậy chống lại chế độ Baghdad. Nước này đã cung cấp vũ khí cho người Kurd, và các binh sĩ IDF và nhân viên Mossad đã huấn luyện các chiến binh trong chiến tranh biệt kích. Theo Meir Amit, người điều hành Mossad khi đó, ý tưởng là “tạo ra một Trung Đông mà ở đó chúng ta có thể hành động chống lại kẻ thù của mình trên nhiều mặt trận cùng một lúc”. Nói một cách đơn giản hơn, Iraq là kẻ thù được tuyên bố của Israel, và người Kurd là kẻ thù của Baghdad – kẻ thù của kẻ thù của tôi là bạn của tôi. Đồng thời, những liên minh như vậy – ví dụ, với quốc vương của Iran và Hoàng đế Haile Selassie của Ethiopia, hai quốc gia có chung biên giới với các nước láng giềng Ả Rập thù địch của Israel – đã cho phép Mossad thiết lập các trạm nghe lén và các tài sản tình báo khác bên trong các quốc gia không thân thiện với nhau.
Bắt đầu từ năm 1969, các cố vấn của Israel, trong số đó có chuyên gia chất nổ Natan Rotberg, bắt đầu nghe về nhân vật mà người Kurd gọi là “Đồ tể của Baghdad”. Saddam Hussein al-Tikriti là người góp phần trong cuộc đảo chính lật đổ của đảng Baath lên nắm quyền một năm trước đó, và ông được bổ nhiệm làm phó chủ tịch Hội đồng Cách mạng Iraq— chỉ huy thứ hai của chế độ mới và phụ trách các lực lượng vũ trang và cơ quan tình báo. Ông ta ra lệnh ném bom xuống dân thường, cắt đứt nguồn cung cấp thực phẩm để bỏ đói những người bất đồng chính kiến, và thiết lập một mạng lưới các phòng tra tấn, tại đó ông ta thường đích thân tra tấn.
Người Kurd yêu cầu người Israel giúp họ giết Saddam — Rotberg thậm chí còn chuẩn bị một cuốn kinh Koran có gài mìn bẫy cho nhiệm vụ này, chiến thuật tương tự mà ông ta đã sử dụng để ám sát giám đốc tình báo Ai Cập vào năm 1956. Nhưng Thủ tướng Golda Meir đã từ chối ký vào Trang Đỏ. Bà ấy sợ rằng người Kurd sẽ không giữ bí mật về sự tham gia của Israel và chính phủ của bà sẽ bị lôi kéo vào một vụ bê bối quốc tế với người Nga và người Mỹ, cả hai đều đang cố gắng tán tỉnh Saddam vào thời điểm đó. Trước đó, Meir cũng đã bác bỏ quan điểm ám sát Nasser của Ai Cập, vì sợ rằng việc giết ông ta sẽ hợp pháp hóa những âm mưu ám hại bà và của các bộ trưởng của mình.
Còn toàn mạng, Saddam, vừa tàn nhẫn vừa đầy tham vọng, đã tiếp quản Đảng Baath và do đó là cả Iraq. Đến năm 1971, khi ông 34 tuổi, Saddam đã loại bỏ tất cả các đối thủ nặng ký của mình trong chế độ và nắm thực quyền trên mọi phương diện vượt qua mọi danh nghĩa, để lại chức tổng thống cho Ahmed Hasan al-Bakr, chẳng khác gì một bù nhìn. (Cuối cùng ông ta cũng tống khứ al-Bakr vào năm 1979.) Ông ấy coi mình là một nhân vật lịch sử, một nhà lãnh đạo toàn Ả Rập, người sẽ biến Iraq thành một cường quốc khu vực, lực lượng hàng đầu trong thế giới Ả Rập và ngang hàng với Iran.
Saddam nghĩ rằng người Do Thái là “sự pha trộn giữa rác rưởi và đồ thừa của nhiều quốc gia khác nhau,” và ông ta muốn vẽ lại toàn bộ Trung Đông, xóa bỏ hoàn toàn Israel. Người Iraq không giấu diếm điều này. Tờ báo của Đảng Baath Al-Jumhuriya đã viết vào tháng 3 năm 1974: “Sự tồn tại của một thực thể theo chủ nghĩa phục quốc Do Thái nhân tạo tượng trưng cho sự phủ nhận quyền tồn tại trong lịch sử của người Ả Rập và là một sự coi thường danh dự của họ. Thực thể hiếu chiến này không gì khác hơn là một căn bệnh ung thư khủng khiếp lây lan một cách nguy hiểm ra ngoài biên giới của nó. Chúng ta phải chống lại chủ nghĩa Zionism… bằng mọi cách có thể. Jerusalem cỉa Ả Rập đang chờ đợi Salah al-Din [Saladin] của Ả Rập, người sẽ cứu nó khỏi sự ô nhiễm mà Chủ nghĩa phục quốc Do Thái đã làm vấy bẩn các thánh địa của chúng ta.”
Ngụ ý rõ ràng là Saddam Hussein coi mình là phiên bản hiện đại của Saladin có sứ mạng đánh đuổi bọn ngoại đạo ra khỏi Palestine.
Nhưng Saddam nhận ra rằng Iraq sẽ không bao giờ là một cường quốc đáng tin cậy nếu không có kho vũ khí đáng gờm. Cách duy nhất để chinh phục Trung Đông là có khả năng tiêu diệt Israel. Saddam muốn vũ khí hạt nhân.
Năm 1973, nhà độc tài đưa chương trình hạt nhân của Iraq—bề ngoài là một doanh nghiệp dân sự hòa bình—dưới sự kiểm soát trực tiếp của ông ta và bắt đầu đầu tư “ngân sách hàng tỷ đô la, thực tế là không giới hạn,” theo lời của Amatzia Baram, một người viết tiểu sử nổi tiếng của Saddam, vào việc phát triển các lò phản ứng mà cuối cùng có thể sản xuất một kho vũ khí nguyên tử. Lý tưởng nhất là một nhà độc tài vốn đã nổi tiếng với việc đánh bom người dân của mình và sẵn sàng trở thành một mối đe dọa hạt nhân sẽ bị các quốc gia văn minh xa lánh. Nhưng địa chính trị là một công việc phức tạp: Một số cường quốc phương Tây, bao gồm cả Hoa Kỳ nhưng đáng chú ý nhất là Pháp, muốn phát huy ảnh hưởng của mình ở Trung Đông. Và những gì không phức tạp chỉ đơn thuần là thấp kém: Saddam đã vung ra rất nhiều tiền.
__
PHÁP VÀ ISRAEL CÓ một lịch sử lâu dài và phức tạp đã đạt đến điểm thấp nhất vào những năm 1970. Mối quan hệ đầy rẫy sự thù địch và ngờ vực kể từ khi de Gaulle tấn công quốc gia Do Thái vào những năm sáu mươi. Đối với người Pháp, khả năng Iraq là mối đe dọa chết người đối với quốc gia Israel dường như là một mối quan tâm có thể kiểm soát được.
Tổng thống Valéry Giscard d’Estaing và thủ tướng của ông, Jacques Chirac, đã sắp xếp một số thỏa thuận với Iraq trong nửa đầu những năm 70. Đáng kể nhất là việc bán hai lò phản ứng hạt nhân: một lò phản ứng rất nhỏ, lò phản ứng 100 kilowatt, được chỉ định là loại Isis, và một lò phản ứng lớn hơn loại Osiris bốn mươi megawatt, có thể mở rộng lên bảy mươi megawatt. Người Iraq đã kết hợp tên của lò phản ứng với tên quốc gia của họ, gọi nó là Osirak.
Mặc dù ý định đã nêu của Iraq là sử dụng lò phản ứng cho mục đích nghiên cứu, nhưng người Pháp biết rằng một lò phản ứng có kích thước như vậy gần như chắc chắn sẽ được sử dụng để xử lý nhiên liệu cho vũ khí hạt nhân. Lõi của lò phản ứng chứa 12 kg uranium được làm giàu 93% – đủ để chế tạo bom nguyên tử – vì vậy nếu người Pháp giữ lời hứa thay thế các thanh nhiên liệu đã qua sử dụng, người Iraq sẽ có thể chuyển đổi một số trong đó thành vật liệu để sử dụng trong vũ khí hạt nhân. .
Người Iraq cũng thừa nhận: “Việc tìm kiếm công nghệ có tiềm năng quân sự là một đáp trả đối với kho vũ khí hạt nhân của Israel,” Saddam tuyên bố trong một cuộc phỏng vấn vào ngày 8 tháng 9 năm 1975, ngay trước khi ông đến thăm Paris để ký thêm các thỏa thuận. “Thỏa thuận Pháp-Iraq là bước đầu tiên của Ả Rập hướng tới việc sở hữu vũ khí hạt nhân, ngay cả khi mục tiêu được tuyên bố của chúng tôi trong việc xây dựng lò phản ứng không phải là sản xuất bom nguyên tử.” Nhưng phải mất nhiều năm và chuyên môn rất cụ thể mới có thể chế tạo được bom nguyên tử. Bất kỳ mối đe dọa trực tiếp nào, người Pháp dường như cho rằng, có thể được xử lý khi và nếu nó phát sinh.
Người Iraq đã chi trả rất hào phóng. Khoảng bảy tỷ franc (2 tỷ đô la vào thời điểm đó) đã được chuyển trực tiếp đến Pháp. Người Pháp cũng nhận được các điều khoản thuận lợi và được giảm giá khi nhập khẩu dầu của Iraq.
Một số công ty của Pháp đã được kết nối với dự án rộng lớn và ban quản lý chung được thành lập để điều hành mọi thứ ở Paris và Baghdad. Cách công trường không xa, những khu nhà ở sang trọng được xây dựng cho hai nghìn kỹ sư và kỹ thuật viên người Pháp.
Israel không thể khoanh tay đứng nhìn. Một nhóm hỗn hợp Mossad/AMAN/Bộ Ngoại giao, đặt tên là “Kỷ nguyên mới,” được thành lập “để thực hiện một nỗ lực tập trung, đặc biệt nhằm ngăn chặn ý định sở hữu vũ khí hạt nhân của Iraq,” theo lời của Nahum Admoni, khi đó là phó giám đốc của Mossad, người đứng đầu nhóm.
Dưới vỏ bọc là các doanh nhân châu Âu hoặc các sĩ quan quân đội châu Âu của NATO, các sĩ quan phụ trách của Junction đã tiếp cận những người Iraq đang làm việc tại Pháp, những người mà họ tin rằng có khả năng trở thành người cung cấp thông tin. Một nhà khoa học có con trai bị ung thư và đang được điều trị tồi tệ ở Iraq, đã trao đổi bí mật để em được chăm sóc y tế tốt hơn. Anh ta tin rằng Yehuda Gil, nhà tuyển dụng hàng đầu của Israel, là phó giám đốc điều hành của một công ty châu Âu liên quan đến an toàn hạt nhân.
Nhưng đó chỉ là thành công nhất thời. Saddam đã khiến tất cả những người tham gia vào dự án sợ hãi phải im lặng với một đoạn video quay cảnh các bộ trưởng nội các Iraq hành quyết các quan chức khác. Khidir Hamza, một trong những giám đốc chương trình hạt nhân của Iraq cho biết: “Đó là một cuốn băng đáng sợ. Ông ấy đang gửi một thông điệp rằng nếu ông ấy không hài lòng với bạn vì bất kỳ lý do gì, thì bạn coi như đã chết.”
Tuy nhiên, người Israel có các nguồn khác: các nhà khoa học, kỹ thuật viên, thư ký và quản lý cấp trung người Pháp. Một số đã được trả hậu hĩnh. Những người khác, gốc Do Thái, đã làm như vậy vì lý do ý thức hệ. Thông qua một trong những nguồn này, Mossad đã có được “sổ dự án”, một tài liệu nêu chi tiết tất cả các thỏa thuận đã ký với Iraq. Nó dài vài trăm trang, được viết bằng tiếng Anh bởi các nhà khoa học Pháp. Trung tá Tiến sĩ Raphael Ofek, một nhà vật lý hạt nhân tại Đại học Ben-Gurion do AMAN tuyển dụng, cho biết: “Từ tài liệu đó, chúng tôi đã biết được rất nhiều điều, bao gồm cả cách bố trí địa điểm dự án, nơi đặt lò phản ứng và các phòng thí nghiệm liền kề tại Trung tâm Nghiên cứu Hạt nhân Tuwaitha.”
Đơn vị 8200, chi nhánh SIGINT của AMAN, đã thành lập một lực lượng đặc nhiệm tối mật, có biệt danh là “Apocalypse (Mạt thế)”, xâm nhập vào các đường dây điện thoại và điện báo, đồng thời các đặc vụ Cầu Vồng đã gài bọ trong các văn phòng của người Iraq ở Paris.
Với hàng loạt thông tin tình báo đáng nguyền rủa, Israel đã kêu gọi cộng đồng quốc tế dừng chương trình này. Nhưng các nhà lãnh đạo nước ngoài bực tức, họ chỉ trích và buộc tội Israel và thậm chí một số đối thủ trong nước của Begin có tật hay la làng. Họ nhấn mạnh rằng dự án của Iraq không thể gây hại cho Israel. Người Pháp tiếp tục khẳng định rằng dự án là một chương trình nghiên cứu hoàn toàn hợp pháp và họ đang sử dụng đủ cơ chế an ninh để đảm bảo rằng Iraq sẽ không thể phát triển bom hạt nhân.
Bộ trưởng Ngoại giao Moshe Dayan, người trở về sau chuyến thăm Paris, kinh hoàng trước sự thờ ơ của người Pháp đối với các yêu cầu của mình, sau đó cố gắng tiếp theo với người Mỹ, yêu cầu Washington gây áp lực với người Pháp, nhưng cũng vô ích.
Israel kết luận rằng con đường ngoại giao đã thất bại. Vào tháng 11 năm 1978, nội các an ninh đã ủy quyền cho thủ tướng thực hiện “các hành động cần thiết” để ngăn chặn dự án hạt nhân của Iraq. Mossad đã được bật đèn xanh để hành động. “Osiris,” nội các kết luận, “phải bị tiêu diệt.”
Không lâu sau đó xảy ra vụ nổ tại nhà ga máy bay trên vùng duyên hải Pháp. Các bộ phận mà đặc vụ cho nổ tung vào đêm hôm đó đã bị hư hỏng nặng, và người Israel tin rằng họ đã đẩy lùi tham vọng hạt nhân của Saddam ít nhất hai năm, khoảng thời gian mà người Pháp cần để sản xuất các bộ phận mới.
Nhưng nhà độc tài Iraq sẽ không cho phép một sự chậm trễ như vậy. Ông ra lệnh cho dự án tiến hành đúng tiến độ. Bộ trưởng Quốc phòng Iraq yêu cầu phía Pháp sửa chữa các bộ phận và giao chúng đúng hạn. Người Pháp phản bác rằng một lớp vỏ được sửa chữa sẽ không bền bằng. Sẽ rất rủi ro khi sử dụng và gần như chắc chắn sẽ phải được thay thế chỉ trong một vài năm. Nhưng không ai dám vượt qua lệnh Saddam Hussein.
Iraq vẫn có thể có vũ khí hạt nhân trong vòng vài năm nữa. Các quan chức Mossad thất vọng quyết định rằng họ cần bắt đầu sử dụng các chiến thuật tích cực hơn.
Họ sẽ bắt đầu giết các nhà khoa học.
__
CÁC MỤC TIÊU RÕ RÀNG NHẤT để loại bỏ là những người đứng đầu chương trình của Iraq, Khidir Hamza và Jafar Dhia Jafar. Theo Tiến sĩ Ofek, người thứ hai là “bộ não của dự án, nhà khoa học quan trọng nhất”. Ông tốt nghiệp Đại học Birmingham, có bằng Tiến sĩ vật lý tại Đại học Manchester, và đã từng là nhà nghiên cứu tại Trung tâm Kỹ thuật Hạt nhân của Đại học Hoàng gia, ở London.
Nhưng cả hai người đều hiếm khi rời khỏi Iraq, nơi mà việc tiêu diệt thành công một trong hai người là vô cùng khó khăn, nếu không muốn nói là không thể. Giống như Nasser thuê người Đức chế tạo tên lửa cho mình, Iraq đã chiêu mộ người Ai Cập giúp phát triển chương trình hạt nhân của mình. Người quan trọng nhất trong số họ là Yehia al-Mashad, một thần đồng vật lý hạt nhân tại Đại học Alexandria, người đã trở thành nhà khoa học cấp cao tại Trung tâm Nghiên cứu Hạt nhân tại al-Tuwaitha, ở Iraq. Mashad thường xuyên đi lại giữa Ai Cập, Iraq và Pháp. Mossad bắt đầu theo dõi hành tung của ông vào tháng 2 năm 1980 và liên tục theo dõi ông bất cứ khi nào ông ở Paris hoặc tại Viện Bảo vệ Phóng xạ và An toàn Hạt nhân của Pháp ở Fontenay-aux-Roses, gần thủ đô.
Vào đầu tháng 6, người Pháp đã chuẩn bị một lô hàng uranium cho Iraq để sử dụng trong lò phản ứng nhỏ Isis của họ. Mashad đến Pháp để kiểm tra chất lượng. Ông ta đi với hai phụ tá không bao giờ rời xa ông nửa bước, khiến tiếp cận ông ta thật khó. Khi đó, kế hoạch của Mossad là đầu độc Mashad bằng một số vật dụng thông thường và vô hại, tương tự như cách giết Wadie Haddad bằng kem đánh răng nhiễm độc vào năm 1978.
Nhưng vào phút chót, Mashad quyết định rút ngắn thời gian ở lại Pháp. Ông ấy muốn đến thăm gia đình mình ở Ai Cập. Điều đó có nghĩa là các đặc vụ của Mossad không có đủ thời gian để thực hiện kế hoạch ban đầu của họ. Nhưng Mashad cũng quyết định qua đêm cuối cùng ở Paris một mình. “Ông ấy để hai trợ lý người Iraq của mình đi ở chỗ khác vì khách sạn mà ông ấy ở rất đắt đỏ,” Hamza nói. “Ông ấy là một người đàn ông tốt bụng. Ông ấy nói với họ, ‘Được rồi, các anh có thể muốn ở trong một khu phố mua sắm thuận tiện hơn nên một khách sạn rẻ hơn sẽ giúp các anh dễ tiếp cận nơi đó hơn. Vì vậy, các anh có thể tự tiện.’”
Không có phụ tá bảo vệ, Mashad đột nhiên trở thành một mục tiêu dễ bị tổn thương hơn nhiều.
Ông ấy trở về khách sạn của mình vào khoảng 6 giờ tối ngày 13 tháng 6. Ông ấy tắm và thay đồ, uống nước và ăn bánh sandwich ở sảnh, sau đó trở về phòng của mình trên tầng chín. Carlos, chỉ huy của Lưỡi Lê, và một đặc nhiệm khác trốn trong một hốc ở hành lang, canh cửa. Kế hoạch đã thay đổi quá nhanh, họ không biết phải làm gì. Carlos có một khẩu súng lục, nhưng lệnh thường trực là không được sử dụng súng trong khách sạn trong bất kỳ trường hợp nào, vì đạn có thể xuyên tường và bắn trúng người vô tội. Carlos đang thích nghi nhanh chóng.
Thang máy mở cửa vào khoảng 9:30. Một phụ nữ trẻ bước ra, một gái điếm. Cô đi ngang qua hai đặc vụ Lưỡi Lê nhưng phớt lờ họ. Cô gõ cửa 9041. Mashad để cô vào.
Carlos và đồng đội đã đợi trong bốn giờ, cho đến khi cô gái điếm cuối cùng rời đi lúc 1:30 sáng. Lúc đó Carlos đã tìm thấy một cái gạt tàn có giá đỡ gần thang máy, cao gần một mét, có đế nặng, chân hẹp và một cơ cấu pít-tông ở đầu trên cùng của nó để xử lý đầu mẩu thuốc lá tích tụ. Anh xem xét nó cẩn thận, cân nó trong tay, cảm nhận sức nặng của nó. Anh quyết định nó đủ vững chắc để sử dụng.
“Lấy lưỡi kiếm của anh ra,” Carlos nói với đặc vụ khác, người được trang bị một con dao bỏ túi Leatherman lớn. Hai người đến gần cửa phòng Mashad và người kia gõ cửa.
“Qui est la?” Mashad nói. “Ai đó?” Ông nghe có vẻ ngái ngủ, thư thái. “An ninh khách sạn,” Carlos nói với ông ta. “Có vấn đề về vị khách gần đây của ông.”
Mashad lê bước qua phòng và mở cửa. Carlos đập mạnh cái gạt tàn xuống đầu. Mashad loạng choạng lùi lại và ngã quỵ xuống sàn. Carlos lao theo ông ta, đánh ông ta một lần nữa, rồi một lần nữa. Máu tạo thành vết loang trên thảm. Không cần đến con dao.
Hai đặc vụ rửa sạch vết máu trên cánh tay và gạt tàn thuốc. Carlos cởi chiếc áo sơ mi vấy máu của mình, vò nát và đút vào túi. Khi rời đi, họ không quên treo tấm biển KHÔNG LÀM PHIỀN lủng lẳng trên tay nắm cửa. Họ đặt cái gạt tàn về chỗ cũ, đi thang máy xuống sảnh và thong thả ra khỏi khách sạn.
An ninh khách sạn tìm thấy thi thể của Mashad mười lăm giờ sau đó. Lúc đầu, cảnh sát nghĩ rằng ông ta đã bị đánh đập trong một trò chơi tình dục bị trục trặc, nhưng họ đã tìm ra cô gái điếm và nhanh chóng loại cô ta khỏi diện tình nghi. Mashad đã không bị cướp, và ông ta không có khách nào khác. Nhưng cô gái điếm nhớ đã nhìn thấy hai người đàn ông ở hành lang.
Người Pháp nhanh chóng nhận ra rằng Mossad đã giết Mashad. Tức là giết người Iraq. “Tôi nghĩ tất cả chúng ta đều là mục tiêu,” Hamza nói. “Sau vụ đó, đi đâu tôi chỉ đi cùng một sĩ quan tình báo Iraq”.
Saddam Hussein hiểu rằng các vụ giết người có mục tiêu có thể tàn phá tinh thần của các nhà khoa học làm việc trong dự án hạt nhân của ông ta. Ông ta tặng xe hơi sang trọng và tiền thưởng bằng tiền mặt cho tất cả các nhà khoa học cấp cao và chu cấp cho vợ của Mashad khoản tiền 300.000 đô la, một khoản tiền khổng lồ vào thời điểm đó ở Ai Cập, đồng thời hứa với bà ấy và các con của Mashad một khoản trợ cấp hàng tháng suốt đời.
Tuy nhiên, Iraq không làm gì để ngăn chặn các vụ giết người. Ba tuần sau khi Mashad bị giết, một kỹ sư người Iraq học ở Anh tên là Salman Rashid đã được gửi đến Geneva để đào tạo hai tháng về việc làm giàu uranium bằng phương pháp tách đồng vị điện từ.
Anh có một vệ sĩ không bao giờ rời xa anh nửa bước. Một tuần trước khi trở về Iraq, Rashid bị ốm nặng. Các bác sĩ ở Geneva nghi ngờ anh bị vi rút tấn công. Sáu ngày sau, vào ngày 14 tháng 9, Rashid chết trong đau đớn. Khám nghiệm tử thi không phát hiện có vi rút: Mossad đã đầu độc anh ta, mặc dù không ai có thể nói chắc chắn bằng cách nào và bằng chất độc gì.
Hai tuần sau, một kỹ sư cấp cao khác của Iraq, Abd al-Rahman Rasoul, một kỹ sư xây dựng phụ trách việc xây dựng các tòa nhà khác nhau cho dự án hạt nhân, đã tham gia một hội nghị do Ủy ban Năng lượng Nguyên tử Pháp tài trợ. Ngay sau bữa tiệc cocktail và tiệc chiêu đãi chính thức khai mạc hội nghị, anh ta bị ngộ độc thực phẩm. Anh qua đời năm ngày sau đó tại một bệnh viện ở Paris.
Vào đầu tháng 8, nhiều người Pháp tham gia dự án Iraq đã nhận được một lá thư cảnh báo thẳng thừng rằng họ sẽ gặp nguy hiểm nếu không rời đi ngay lập tức. Saddam Hussein rất tức giận, và vài ngày sau, ông ta có một bài phát biểu đặc biệt giận dữ chống lại Israel, không đề cập đến các cuộc tấn công nhằm vào các nhà khoa học mà chỉ đe dọa “biến Tel Aviv thành đống đổ nát bằng bom”.
Các nhà khoa học của Saddam bắt đầu hoang mang. “Không ai muốn đi du lịch,” Hamza nói, “vì vậy chúng tôi được thưởng nếu đi du lịch.” Họ cũng được huấn luyện về an ninh cá nhân và tự vệ. “Một người nhân viên[tình báo] Mukhabarat sẽ chỉ cho chúng tôi cách ăn uống, không nhận lời mời sau khi trời tối, luôn có người đi cùng. Chúng tôi được huấn luyện để mang theo kem đánh răng, bàn chải đánh răng, dụng cụ cạo râu, dù là trong túi nhỏ hay trong túi quần.”
Một số nhà thầu Pháp đã từ chức vì sợ hãi và dự án hạt nhân của Iraq bị chậm lại một chút. Nhưng Saddam đã sử dụng các nguồn lực của một quốc gia độc tài để chế tạo một quả bom, và ông ta có thể thay thế một hoặc ba kỹ thuật viên trong quá trình này. Tất cả các nhà khoa học, cả những người đã chết và những kẻ sợ hãi, nhanh chóng được thay thế. Pháp đã gửi 12 kg uranium đã làm giàu và thực hiện đơn đặt hàng thứ hai ngay sau đó.
Cùng lắm là Israel chỉ có thể kéo dài thời gian trước khi Saddam có thể hoàn thành việc xây dựng các lò phản ứng và bắt đầu kích hoạt chúng: có thể là 18 tháng, có thể là 2 năm. Nhưng Iraq vẫn kỳ vọng—và Israel vẫn lo sợ—rằng Saddam sẽ có vũ khí hạt nhân hoạt động đầy đủ và phương tiện để vận chuyển chúng vào cuối thập kỷ này.
Yitzhak Hofi, giám đốc Mossad, biết rằng các hoạt động tình báo, giết người có mục tiêu và phá hoại chỉ có thể làm đến chừng ấy. “Tôi bỏ cuộc,” ông ấy nói với Begin vào tháng 10 năm 1980. “Chúng tôi không thể ngăn chặn việc đó. Cách duy nhất vẫn còn mở là ném bom từ trên không.”
Nói cách khác, cách duy nhất còn lại là một hành động chiến tranh.
__
CÓ SỰ BẤT ĐỒNG ở cấp cao nhất ở Israel. Một số quan chức tình báo hàng đầu của đất nước đã cảnh báo rằng việc đánh bom lò phản ứng của Iraq sẽ gây ra những hậu quả quốc tế nghiêm trọng, rằng phải mất nhiều năm trước khi lò phản ứng sản xuất đủ nhiên liệu cho một quả bom, và việc phá hủy nó sẽ buộc Saddam phải thực hiện một cách tiếp cận khác, bí mật hơn, mà việc thu thập thông tin sẽ khó khăn hơn nhiều. Có giai đoạn căng thẳng đến mức Begin ngừng mời người đứng đầu Ủy ban Năng lượng Nguyên tử của mình, Uzi Eilam, đến họp vì ông này phản đối cuộc tấn công. Một trong những nhân viên của Eilam, Giáo sư Uzi Even, lo sợ rằng việc phá hủy lò phản ứng sẽ chỉ dẫn đến việc chuyển dự án hạt nhân của Iraq sang các cơ sở bí mật mà Israel sẽ không thể giám sát được, đã tiết lộ kế hoạch tấn công dự kiến cho người đứng đầu phe đối lập, Shimon Peres. Đến lượt Peres, ông này liền viết một bản ghi nhớ bằng chữ viết tay của chính mình cho Begin, cảnh báo rằng nếu Israel tiến hành cuộc tấn công, thì quốc gia này sẽ bị cô lập trên trường quốc tế, “như một bụi gai trong đồng vắng,” sử dụng phép ẩn dụ của nhà tiên tri Jeremiah về việc Israel sẽ đơn độc như thế nào nếu Chúa Trời từ bỏ nó.
Nhưng Thủ tướng Begin, Ariel Sharon, người gần đây đã được thăng chức làm bộ trưởng quốc phòng, và tham mưu trưởng IDF Rafael Eitan đã bác bỏ mọi lập luận chống lại nhiệm vụ này. Họ tán thành ý kiến của Admoni và các quan chức tình báo hàng đầu khác rằng lò phản ứng nên bị tấn công càng sớm càng tốt, trước khi nó trở nên “nóng”, để tránh thảm họa nhân đạo khủng khiếp sẽ xảy ra trong trường hợp rò rỉ phóng xạ hạt nhân. . Tại diễn đàn Kỷ Nguyên Mới, nhà vật lý kiêm sĩ quan Tiến sĩ Ofek đã nhiều lần nhấn mạnh rằng để đảm bảo phá hủy hoàn toàn lò phản ứng, cần phải đạt được mục tiêu: “Đủ chất nổ để phá hủy bể bên trong chứa các thanh uranium”.
Vào lúc 4 giờ chiều ngày 7 tháng 6, tám máy bay F-16 cất cánh từ căn cứ Etzion, ở Sinai do Israel chiếm đóng, để tấn công lò phản ứng Osirak. Họ được sáu chiếc F-15 hộ tống yểm trợ, và sáu mươi máy bay khác đã được triển khai để hỗ trợ chiến dịch—một số bay vòng trên không trong khi những chiếc khác vẫn sẵn sàng trên mặt đất. Chúng bao gồm các máy bay Boeing được điều chỉnh để tiếp nhiên liệu trên không và chỉ huy và kiểm soát trên không, máy bay Hawkeye để cung cấp thông tin tình báo và máy bay trực thăng trong trường hợp máy bay bị rơi và cần có một chiến dịch cứu hộ. Những chiếc F-15 có thể xử lý bất kỳ chiếc MiG nào của Iraq bay lên thách thức các máy bay của Israel và chúng cũng tiến công các hệ thống tác chiến điện tử làm nhiễu radar của các khẩu đội tên lửa phòng không trên mặt đất.
Con đường dài 600 dặm, băng qua miền bắc Ả Rập Saudi và miền nam Jordan. Các phi công đã bay rất thấp, cách mặt đất chưa đầy 300 bộ , để tránh ra đa của Jordan, Saudi và Iraq.
Các máy bay đến mục tiêu vào lúc mặt trời lặn, vào khoảng 5:30 chiều. Tám chiếc F-16 đã bay lên độ cao 1.000 bộ, thực hiện động tác nhào lộn và thả bom ở góc 35 độ. Lần lượt, mỗi chiếc thả hai quả bom nặng một tấn xuống mái vòm bê tông của lò phản ứng. Một nửa số bom được thiết lập để phát nổ khi tiếp xúc, và nửa còn lại sẽ chỉ phát nổ sau khi chúng chui sâu vào cấu trúc. Bảy trong số tám phi công đã ném trúng mục tiêu và mười hai trong số mười sáu quả bom xuyên qua mái vòm. Mười binh sĩ Iraq và một kỹ thuật viên người Pháp thiệt mạng.
Người Iraq hoàn toàn bị bất ngờ. Không một tên lửa nào bắn vào các máy bay tấn công, và chỉ có hỏa lực phòng không lẻ tẻ, vô hại nhằm vào chúng trên đường quay về. Tất cả các máy bay đã về đến căn cứ an toàn. Cho đến ngày nay, những máy bay này mang hình vẽ lò phản ứng trên mũi, cùng với các vòng tròn tượng trưng cho những chiếc phi cơ bị chúng bắn hạ trong chiến đấu.
Đến nửa đêm, đoạn phim do các camera gắn trên máy bay quay được đã được phân tích, ghi lại thiệt hại to lớn gây ra cho lò phản ứng. Lúc 3 giờ sáng, Đội Apocalypse (Mạt thế) của Đơn vị 8200 chặn được cuộc điện thoại của một kỹ sư Iraq mô tả việc kiểm tra địa điểm bị đánh bom trong bóng tối. Người kỹ sư kiếm tra hồ chứa, phần trọng yếu ở trung tâm của cấu trúc, nhưng dưới ánh sáng của đèn pin, anh ta chỉ tìm thấy “những khối bê tông đổ vở bị bao phủ bởi nước” – những phần của mái vòm đã bị sập vào bên trong. Trong “khảo sát tình báo tức thời” được phân phát cho các quan chức chính phủ hàng đầu và người đứng đầu cộng đồng tình báo, AMAN xác nhận rằng hồ phản ứng đã bị hư hại không thể sửa chữa và “lò phản ứng đã bị phá hủy hoàn toàn.”
Trước cuộc tấn công, cộng đồng tình báo đã khuyến cáo rằng Israel không nhận trách nhiệm. Họ tin rằng nếu không bị bẽ mặt gây bổi rối trước công chúng, Saddam sẽ không cảm thấy áp lực phải tiến hành một cuộc phản công vào Israel. Ông ta sẽ còn chỗ để điều động.
Tuy nhiên, cuối cùng, Begin đã quyết định khác. Cuộc ném bom đã được thực hiện một cách hoàn hảo, lò phản ứng của Iraq chỉ còn lại trong đống đổ nát âm ỉ, và tham vọng hạt nhân của Saddam có lẽ đã bị đình trệ vĩnh viễn. Begin muốn thừa nhận những sự thật đó, thậm chí muốn khoe khoang về chúng. Ông ấy có cảm nhận sâu sắc về tâm trạng của công chúng Israel. Trong một bài phát biểu tại Knesset, ông đã đánh đồng Saddam với Hitler, và mối nguy của một Iraq hạt nhân với Giải pháp Cuối cùng của Đức quốc xã. “Chúng ta có thể làm gì trước mối nguy hiểm khủng khiếp như vậy?” ông hỏi. “Đất nước này và người dân của nó sẽ bị hủy diệt. Một cuộc Holocaust khác sẽ xảy ra trong lịch sử Do Thái.”
Saddam đã có một bài phát biểu riêng của mình trước ban lãnh đạo Đảng Baath. “Thật đau đớn,” ông thừa nhận với một tiếng thở dài khi đề cập đến vụ đánh bom, “bởi vì đây là thành quả quý giá mà chúng ta đã rất vất vả để thu hoạch, một trong những thành quả của cuộc cách mạng và là thành quả mà chúng ta đã nỗ lực rất nhiều về mặt chính trị, khoa học, kinh tế trong một thời gian dài”.
Nhưng ông ta nhanh chóng chuyển sang giọng điệu hiếu chiến thường lệ của mình, nguyền rủa “thực thể Zionist” và Menachem Begin.
Rồi Saddam tiếp tục: “Begin và những người khác phải nhận ra rằng cái mà họ gọi là tấn công phủ đầu, nhằm ngăn chặn sự tiến bộ và trỗi dậy của quốc gia Ả Rập, và ngăn cản quốc gia này sử dụng khoa học và công nghệ, sẽ không ngăn cản quốc gia Ả Rập tiến tới mục tiêu của mình, và phương pháp tấn công phủ đầu này sẽ không mang lại cho người Do Thái sự an toàn mà ông ta đang nói tới.”
Ba tuần sau, Begin lại ăn mừng, lần này là chiến thắng trong cuộc tổng tuyển cử.
Mossad và IDF cũng hân hoan trước thành công của chiến dịch và điều mà họ coi là sự phá hủy dự án hạt nhân của Iraq. Họ xếp Iraq xuống cuối danh sách ưu tiên tình báo.
__
NHƯNG PHẢN ỨNG CỦA SADDAM đối với vụ đánh bom lò phản ứng ở Baghdad hoàn toàn trái ngược với những gì tình báo Israel dự kiến.
Tiến sĩ Hamza nói: “Saddam dưới áp lực… trở nên hung hăng hơn và trở nên kiên quyết hơn. Vì vậy, dự án trị giá 400 triệu đô la trở thành dự án 10 tỷ đô la và bốn trăm nhà khoa học đã tăng lên bảy nghìn.”
Saddam đã ra lệnh đầu tư một nỗ lực lớn vào bất kỳ và tất cả các con đường khoa học có thể đưa ông ta đến việc chế tạo bom nguyên tử và phương tiện để đưa nó đến mục tiêu trong thời gian ngắn nhất có thể. Rất nhanh chóng, ông tìm thấy các công ty phương Tây sẵn sàng cung cấp cho ông—để đổi lấy một số tiền khổng lồ—thiết bị và nguyên liệu thô, mặc dù bề ngoài phục vụ mục đích dân sự, nhưng cũng có thể được áp dụng cho các mục đích quân sự để phát triển hạt nhân, sinh học hoặc vũ khí hóa học hủy diệt hàng loạt.
Israel chỉ phát hiện ra những dấu vết nhỏ của những nỗ lực này. Một kế hoạch mà nó đã phát hiện ra là dự án Kền kền (Condor), một nỗ lực chung của Iraq, Ai Cập và Argentina nhằm phát triển các loại tên lửa khác nhau. Một lượng lớn thông tin về dự án đã được thu thập và chuyển đến Israel bởi các đặc vụ Mossad trong các công ty Đức tham gia vào dự án và trong giới khoa học của Argentina, cũng như bởi Jonathan Pollard, điệp viên làm việc cho Israel nằm sâu bên trong một cơ quan tình báo Mỹ. Mossad bắt đầu phóng hỏa văn phòng các công ty châu Âu có liên quan và khủng bố các nhà khoa học một cách có hệ thống, theo cách tương tự như cách các nhà khoa học tên lửa Đức ở Ai Cập đã bị đe dọa vào những năm 1960. Họ nhận được những cú điện thoại nặc danh nói với họ: “Nếu bạn không từ bỏ ngay lập tức, chúng tôi sẽ giết bạn và gia đình bạn.”
Mossad cũng vạch ra các kế hoạch để thủ tiêu một số nhà khoa học, nhưng hóa ra chính áp lực, việc đốt phá và đột nhập, cũng như danh tiếng sát thủ của Mossad, đã tránh được nhu cầu giết người có mục tiêu. Các nhà khoa học rời đi, và Argentina và Ai Cập giảm bớt sự tham gia tài chính của họ.
Trong lúc quẫn bách, Saddam quay sang nhà khoa học tên lửa người Canada, trước đây làm việc cho NASA, Quân đội Hoa Kỳ và Israel, tên là Gerald Bull, yêu cầu ông phát triển tên lửa và siêu pháo, lấy cảm hứng từ tiểu thuyết khoa học viễn tưởng Từ Trái Đất Đến Mặt Trăng của Jules Verne, có thể phóng những khối lượng lớn thuốc nổ đi một khoảng cách rất xa—đến tận Tehran (430 dặm từ Baghdad) và Tel Aviv (570 dặm từ Baghdad). Bull đảm bảo với các khách hàng của mình rằng siêu pháo của ông không chỉ có tầm bắn cực xa mà còn chính xác và hiệu quả để bắn các tác nhân hóa học và sinh học, bởi vì các đầu đạn sẽ nóng ít hơn so với tên lửa Scud mà Iraq sở hữu.
Năm 1989, Bull và người Iraq dựng khẩu pháo tại Jabal Hamrayn, 125 dặm về phía bắc Baghdad. Ba lần thử nghiệm đã được tiến hành.
Thật không may, Bull không bao giờ coi trọng những cuộc điện thoại và thư nặc danh đe dọa mà ông ta đã nhận được, trong đó cảnh báo mình rằng nếu ngay lập tức không chấm dứt mối quan hệ với Saddam, “chúng tôi sẽ phải có hành động nghiêm khắc chống lại bạn, công ty của bạn và những người liên quan đến bạn.”
Vào ngày 22 tháng 3 năm 1990, một đội Lưỡi Lê đã chờ đợi ông ta tại nhà, cách văn phòng ông ở Brussels một đoạn lái xe ngắn. Hai người đàn ông núp sau cửa cầu thang. Từ vị trí thuận lợi, họ có thể nhìn thấy Bull đang đi về phía căn hộ của mình, lần mò trong túi để tìm chìa khóa. Ngay khi ông ta đi qua và quay lưng lại với họ, họ lao ra từ sau cánh cửa với khẩu súng lục Makarov giảm thanh được rút ra. Một người bắn hai viên đạn vào đầu Bull và ba viên vào lưng ông ta, trong khi người còn lại ở phía sau, bảo vệ khu vực. Bull đã chết trước khi rơi xuống sàn. Kẻ ám sát lấy ra một chiếc máy ảnh và chụp vài bức ảnh về cái đầu vỡ vụn của nhà khoa học. Một tấm cận cảnh, và một tấm khác cho thấy Bull nằm sấp trên một vũng máu lớn.
Những bức ảnh được gửi vào ngày hôm đó cho các nhân viên tại Tổ hợp Nghiên cứu Không gian, công ty của Bull. “Nếu bạn đi làm vào ngày mai,” họ viết trong một ghi chú kèm theo, “bạn sẽ kết thúc như thế này.” Không có ai đến văn phòng vào ngày hôm sau, và công ty đã sớm chấm dứt hoạt động. Mossad đảm bảo rằng tất cả các công ty vệ tinh của Bull cũng nhận được thông báo.
Dự án chết chìm trong nước. Vào ngày 2 tháng 4, sau khi Saddam biết được từ các cơ quan tình báo của mình rằng Gerald Bull đã bị ám sát, ông ta đã phát biểu trước quốc gia của mình và thề sẽ “khiến ngọn lửa thiêu rụi một nửa Israel”.
Thật vậy, cái chết của Bull chỉ làm chậm nỗ lực của Saddam trong việc có được các công cụ phóng tầm xa và không cản trở dự án hạt nhân của ông ta theo bất kỳ cách nào. Hóa ra là các cơ quan tình báo của Israel và các quốc gia phương Tây khác hoàn toàn không biết gì về phần lớn các nỗ lực R&D (Nghiên cứu và Phát triển) quân sự của Saddam.
Chuẩn tướng Shimon Shapira, thuộc bộ phận nghiên cứu của AMAN, cho biết: “Mạng lưới khổng lồ và rất tinh vi này hoạt động ngay trước mũi mọi người. “Không còn nghi ngờ gì nữa, đây là một trong những thất bại lớn nhất trong lịch sử tình báo Israel.”
Israel, Shapira nói, “may mắn hơn là hiểu biết.” Saddam Hussein đã mắc sai lầm khi xâm lược Kuwait vào tháng 8 năm 1990, cho rằng Hoa Kỳ và phần còn lại của thế giới sẽ khoanh tay ngồi nhìn trước sự xâm lược của ông ta. Ông đã sai. Ông đã gây ra cho mình một liên minh quốc tế rộng lớn, một liên minh bao gồm một số quốc gia Ả Rập, đã đánh đuổi ông ta ra khỏi Kuwait và buộc ông ta phải chấp nhận sự kiểm soát quốc tế nghiêm ngặt.
Các thanh sát viên của Liên Hợp Quốc sau đó đã phát hiện ra điều mà Mossad đã hoàn toàn bỏ sót: Vào thời điểm Chiến dịch Bão táp Sa mạc nhằm giải phóng Kuwait được phát động vào tháng 1 năm 1991, Saddam chỉ còn vài năm nữa là có đủ năng lực vũ khí hạt nhân, hóa học và sinh học, cũng như khả năng để sản xuất tên lửa và đầu đạn có thể mang những vũ khí đó đến Israel.
Ngay cả sau khi chiến tranh kết thúc, và Tổng thống Bush quyết định không xâm lược Iraq và để Saddam tại chỗ, tham mưu trưởng IDF Barak vẫn tin rằng Saddam còn là một mối đe dọa nguy hiểm rõ ràng và hiện hữu đối với Israel. Saddam chắc chắn sẽ cố gắng phát triển lại vũ khí hủy diệt hàng loạt, và lúc đó Israel không có khả năng tham gia vào bất kỳ hình thức đàm phán nào với ông ta.
Vào ngày 20 tháng 1 năm 1992, Barak ra lệnh “thành lập một biệt đội để xem xét khả năng tấn công vào mục tiêu [Saddam].” Hai tháng sau, vào ngày 12 tháng 3, nhóm do Amiram Levin đứng đầu đã báo cáo với tham mưu trưởng về tiến độ của kế hoạch. Barak nói với nhóm, “Mục tiêu này là một trong những mục tiêu quan trọng nhất mà chúng ta từng đối mặt trong bất kỳ hoạt động chính xác nào,” và ông ra lệnh chuẩn bị cho việc thực hiện kế hoạch vào tháng 7 năm đó.
Barak đã nói chuyện với cả Thủ tướng Shamir và Rabin, người thay thế ông vào năm 1992, và cố gắng thuyết phục họ rằng vũ khí ám sát nên được sử dụng l chống lại nhà lãnh đạo của một quốc gia có chủ quyền lần đầu tiên.
“Khi nhìn lại,” Barak nói nhiều năm sau đó, “hãy tưởng tượng làm thế nào chúng ta có thể cứu vãn thế giới trong suốt một thập kỷ với nhân vật khủng khiếp này. Lịch sử hẳn sẽ khác đi.”
Cả hai thủ tướng đều cho phép ông ta lên kế hoạch cho vụ tấn công. Nhiều ý tưởng đã được đưa ra: cho máy bay Israel hoặc thậm chí vệ tinh tại ở đâu đó ở Iraq, tốt nhất là ở Baghdad, chờ Saddam đến kiểm tra đống đổ nát, sau đó cho nổ tung nó cùng với ông ta và đoàn tùy tùng; thành lập một công ty nhỏ ở châu Âu để bán cho Saddam một studio truyền hình mới và hiện đại để từ đó phát các bài phát biểu của ông ta đến cả nước, lắp nó với thiết bị có thể phát sóng đến Israel và cho nổ tung nó khi mặt ông ta hiện lên màn hình; chuyển đổi tượng đài tưởng niệm một trong những đồng chí cách mạng của ông bằng một vật thay thế được gài bẫy mìn và cho nổ nó khi Saddam đứng cúi đầu trước tượng đài đó tại một buổi lễ tưởng niệm—và nhiều kế hoạch khác nhằm loại bỏ nhà độc tài Iraq.
Cuối cùng, người ta quyết định tấn công Saddam ở nơi duy nhất bên ngoài Baghdad được bảo vệ nghiêm ngặt, nơi mọi người có thể chắc chắn rằng chính ông ta, chứ không phải một nhân vật nhân đôi của ông sẽ là ở đó: mảnh đất của gia đình ông ở nghĩa trang Tikrit, trong tang lễ cho một người bà con nào đó rất thân thiết với ông ta. Người đó chính là chú của ông ấy, Khairallah Tulfah, người đã nuôi nấng ông, và đang bị bệnh nặng.
Người Israel đã theo sát việc điều trị mà Tulfah đang nhận được ở Jordan và chờ đợi tin tức về cái chết của ông. Nhưng ông cụ vẫn tiếp tục bám lấy sự sống, vì vậy một kế hoạch thay thế đã được quyết định. Thay vì Tulfah, Mossad sẽ loại bỏ Barzan al-Tikriti, đại sứ Iraq tại Liên Hợp Quốc.
Các biệt kích Sayeret Matkal sẽ được trực thăng vận đến Tikrit và sẽ đổ bộ cách đó một quãng rồi tiến đến nghĩa trang trên những chiếc xe jeep trông giống hệt những chiếc mà quân đội Iraq sử dụng nhưng thực tế được trang bị một hệ thống đặc biệt có thể lật nóc xe lộn ngược và kéo ra tên lửa dẫn đường. Khi Saddam đến dự tang lễ, họ sẽ phóng tên lửa và giết ông ta.
Nếu kế hoạch này thành công, nhiều người trong số những người liên quan tin rằng, tham mưu trưởng Ehud Barak sẽ tham gia chính trường và trở thành ứng cử viên có cơ hội tốt trở thành thủ tướng. Điều này là tự nhiên đối với một người đàn ông đã được ghi nhận là vĩ đại ngay từ khi còn là một trung úy trẻ tuổi.
Tại trại huấn luyện Tze’elim khổng lồ, ở sa mạc Negev của Israel, Sayeret Matkal đã xây dựng mô hình nghĩa trang của gia đình Hussein và thực hành thao tác. Khi họ đã sẵn sàng, vào ngày 5 tháng 11 năm 1992, những người đứng đầu IDF đã đến xem một buổi tổng duyệt có mặc trang phục. Đội tấn công bằng tên lửa đã chiếm vị trí, với các thành viên của nhân viên hành chính và tình báo của đơn vị đóng vai Saddam và đoàn tùy tùng của ông ta.
Nhưng vì những sai sót nghiêm trọng trong kế hoạch và sự mệt mỏi vì lịch trình huấn luyện kéo dài, những người điều khiển tên lửa đã nhầm lẫn giữa cuộc thử nghiệm khô (bắn tên lửa giả), vào người lính đóng giả Saddam vẫy tay với đám đông vô hình, thành cuộc thử nghiệm ướt (bắn tên lửa thật), trong đó người lính đóng Saddam sẽ được thay thế bằng một ma nơ canh. Mọi thứ lộn xộn đến mức cùng một mật khẩu, “Đem taxi đến” được sử dụng cho cả thử nghiệm khô và ướt.
Chỉ huy của lực lượng, biết rằng đây là lượt thử nghiệm khô, đã ra lệnh: “Đem taxi đến. ” Nhưng chỉ huy của những chiếc xe jeep khai hỏa tưởng rằng lượt thử nghiệm ướt đã bắt đầu. “Phóng tên lửa một,” anh ta ra lệnh, và một người của anh ta nhấn nút và bắt đầu hướng dẫn tên lửa về phía mục tiêu. Khi đến gần nó, anh ấy nhận thấy có điều gì đó không ổn, và theo một số nhân chứng, anh ta đã hét lên: “Cái gì vậy? Tôi không hiểu tại sao những hình nộm lại di chuyển.”
Nhưng đã quá trễ rồi. Tên lửa chúc xuống ngay giữa đám tùy tùng. Vài giây sau, quả tên lửa thứ hai chạm đất cách đó vài mét, nhưng nó gần như không gây thiệt hại, vì mọi người trong khu vực mục tiêu đã nằm rạp trên mặt đất, chết hoặc bị thương. Người chỉ huy nhận ra có điều gì đó không ổn đã xảy ra. “Ngừng bắn!” anh hét lên. “Ngừng bắn! Tôi nhắc lại: Ngừng bắn!”
Năm binh sĩ thiệt mạng và tất cả những người khác trong khu vực mục tiêu đều bị thương.
Xấu hổ thay, người lính đóng vai Saddam lại nằm trong số những người chỉ bị thương. Vụ việc đã trở thành nguyên nhân của một cơn bão chính trị dữ dội và một cuộc cãi vã tồi tệ giữa Barak và một số tướng lĩnh khác về việc xem ai phải chịu trách nhiệm.
Vụ tai nạn tại Tze’elim đã đặt dấu chấm hết cho kế hoạch ám sát Saddam Hussein. Sau đó, hóa ra trái với dự đoán của Barak, trên thực tế, Saddam đã không tiếp tục nỗ lực chế tạo vũ khí hạt nhân sau Chiến dịch Bão táp Sa mạc.
Dù sao đi nữa thì Israel hiện đang chuẩn bị phải đối mặt với một kẻ thù mới, một kẻ thù còn nguy hiểm hơn nhiều.
Tiến sĩ Gerald Bull (trái) thanh tra một siêu đại bác mà mình chế tạo cùng với cựu thủ tướng Quebec, Jean Lesage (phải).
Giám đốc dự án Amiram Levin (trái) và Doron Avital, chỉ huy đơn vị biệt kích của Sayeret Matkal, trong một buổi diễn tập ám sát Saddam
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét