Thứ Năm, 15 tháng 6, 2023

BẬT DẬY VÀ GIẾT LIỀN : Bài 28


Ronen Bergman

Trần Quang Nghĩa dịch

Chương 28 : CUỘC CHIẾN TỔNG LỰC

 BENJAMIN NETANYAHU KHÔNG đợi kết quả cuối cùng của cuộc bầu cử.  Vào ngày 17 tháng 5 năm 1999, ngay sau khi các cuộc thăm dò trên truyền hình bắt đầu cho thấy Đảng Lao động và lãnh đạo của nó, Ehud Barak, đã giành chiến thắng rõ ràng, Netanyahu tuyên bố từ giã cuộc đời chính trị.

 Netanyahu đã được bầu vì các vụ đánh bom tự sát của Hamas, nhưng những năm làm thủ tướng của ông đã được đánh dấu bằng một loạt vụ bê bối chính trị, khủng hoảng liên minh, các vấn đề an ninh như vụ Mashal và bế tắc ngoại giao với người Palestine.  Barak được cử tri coi là đối lập hoàn toàn với Netanyahu — quân nhân được vinh danh nhiều nhất của IDF, đệ tử và kế vị của Yitzhak Rabin, người đã hứa sẽ đưa quân đội ra khỏi Lebanon và mang lại hòa bình.  Trong bài phát biểu mừng chiến thắng của mình, Barak nói rằng đó là “bình minh của một ngày mới” khi ông đứng trước hàng trăm nghìn người ủng hộ tại quảng trường trung tâm của Tel Aviv, nay được gọi là Quảng trường Rabin, theo tên vị thủ tướng đã bị ám sát ở đó 4 năm trước.  “Hòa bình là lợi ích chung, và nó mang lại lợi ích to lớn cho cả hai dân tộc,” Barak nói với Knesset vài tháng sau đó, tuyên bố, “Hòa bình thực sự với Syria và người Palestine là đỉnh cao của việc hiện thực hóa tầm nhìn của Chủ nghĩa Phục quốc.”

 Với nghị lực to lớn, tính quyết đoán và ý thức về mục đích, Barak bắt đầu thực hiện các chính sách của mình.  Từng là bậc thầy của các hoạt động đặc biệt, ông ta thấm nhuần sự tự tin và chắc chắn rằng mình có thể lên kế hoạch cho các hoạt động ngoại giao giống như cách ông lên kế hoạch cho các hoạt động giết người có mục tiêu phía sau phòng tuyến của kẻ thù—với sự chú ý nghiêm ngặt đến từng chi tiết, lập kế hoạch cẩn thận để lường trước mọi tình huống có thể xảy ra và hành động tích cực khi cần thiết.  Nhưng hóa ra, mặc dù những phương pháp này hoạt động tốt ở quy mô nhỏ, nhưng không phải lúc nào chúng cũng hoạt động với các quy trình quốc tế phức tạp.  Và Barak hiếm khi lắng nghe lời khuyên của các phụ tá của mình.

 Dưới sự bảo trợ của Mỹ, Israel đã tham gia đàm phán với Syria.  Với tư cách là sứ giả của Barak, Tổng thống Clinton đã gặp Tổng thống Hafez al-Assad tại Geneva vào ngày 26 tháng 3 năm 2000. Clinton nói với Assad rằng Barak sẵn sàng rút khỏi toàn bộ Cao nguyên Golan, ngoại trừ một số điều chỉnh biên giới rất nhỏ, để đổi lấy hòa bình.  mặc dù ngôn ngữ của Clinton có phần kém nhiệt tình và lôi cuốn hơn những gì người ta mong đợi.  Assad, người đến dự cuộc họp với nhiều chứng bệnh khác nhau, bao gồm chứng mất trí nhớ mới chớm và kiệt sức, đã tỏ ra cứng rắn hơn bao giờ hết về việc lấy lại từng tấc đất.  Cuộc gặp gỡ nổ ra chỉ vài phút sau khi hai tổng thống hoàn tất các thủ tục ban đầu và bắt đầu thảo luận về bản chất của tranh chấp.

Barak phải giữ lời hứa của mình và rút khỏi Liban, nhưng không có bất kỳ thỏa thuận nào với Syria hoặc Liban.  Tuy nhiên, để ngăn chặn Hezbollah lợi dụng cuộc rút lui để tiêu diệt một số lượng lớn quân IDF, nó phải được thực hiện xuyên đêm và giữ thế hoàn toàn bất ngờ.

 Không lâu trước khi rút quân, AMAN đã tìm được Imad Mughniyeh, chỉ huy quân sự của Hezbollah và là người đầu tiên trong danh sách truy nã của Israel, khi ông này tiến hành các chuyến thị sát dọc theo các chiến tuyến đối đầu ở miền nam Lebanon để xem liệu Barak có giữ lời hứa rút quân hay không và để chuẩn bị lực lượng dân quân của mình cho ngày hôm sau.

 Họ lên kế hoạch ám sát ông ta.  Nhưng Barak, người đã đến biên giới phía bắc và gặp gỡ các quan chức quân sự hàng đầu ở đó vào ngày 22 tháng 5 để tham vấn khẩn cấp, chỉ ra lệnh cho họ “tiếp tục theo dõi tình báo đối tượng M” và không tấn công ông ta, có nghĩa là hủy bỏ toàn bộ dự án.  Ưu tiên hàng đầu của Barak là đảm bảo cuộc rút lui được thực hiện mà không có bất kỳ thương vong nào, và ông sợ rằng việc ám sát Mughniyeh sẽ kích động Hezbollah bắn phá các cộng đồng Israel hoặc tiến hành các cuộc tấn công lớn nhằm vào các mục tiêu của Israel ở nước ngoài, điều này sẽ đòi hỏi Israel phải đáp trả và khiến cuộc rút lui im lặng và bất ngờ là điều không thể.

 Barak đã đúng, ít nhất là trong ngắn hạn.  Một ngày sau cuộc họp ở biên giới phía bắc, ông ra lệnh rút IDF ngay lập tức khỏi Liban.  Toàn bộ cuộc rút quân được thực hiện mà không có bất kỳ thương vong nào.

 Nhưng Nasrallah đã ăn mừng việc rút quân như một chiến thắng hoàn toàn cho phe của mình, miêu tả người Israel là hèn nhát và sợ hãi, chạy trốn khỏi quân đội của Mughniyeh.  “Israel yếu hơn mạng nhện,” anh ta nói.  “Tinh thần chủ bại phổ biến trong xã hội Israel… bọn Do Thái có nhiều tài chính nhưng không phải là những người có khả năng hy sinh.”

 Nhìn lại, sự kết thúc chiếm đóng của Israel ở Lebanon đến vào thời điểm tồi tệ nhất có thể đối với Barak.  Ông thấy rằng mình không thể đạt được thỏa thuận với người Syria, vì vậy ông quyết định đẩy nhanh việc xử lý tình hình Palestine.  Nhưng có nhiều người Palestine coi việc rút lui khỏi Liban là bằng chứng cho thấy các chiến thuật du kích và khủng bố có thể đánh bại các lực lượng quân sự và tình báo mạnh nhất ở Trung Đông, và họ bắt đầu cân nhắc khả năng áp dụng các phương pháp này vào vũ đài của riêng mình.

Clinton đã mời Barak và Arafat đến Trại David vào tháng 7 năm 2000, để tổ chức các cuộc đàm phán kéo dài và hy vọng đạt được một thỏa thuận hòa bình. “Tôi biết rằng một thỏa thuận như vậy phải bao gồm một nhà nước Palestine và một thỏa hiệp ở Jerusalem,” Barak nói, “và tôi đã sẵn sàng cho điều đó.  Tôi chắc chắn rằng tôi có thể thuyết phục công chúng ở Israel rằng đó là lợi thế của chúng tôi, rằng không có lựa chọn nào khác.”

 Về phần mình, Arafat không muốn đến và ông chỉ đồng ý sau khi Clinton hứa với ông rằng ông sẽ không bị khiển trách nếu đàm phán thất bại.

 Trong thời gian này, tình báo Israel chỉ ra rằng sự sôi sục giữa những người Palestine đã lên một tầm cao mới.  Chính quyền Palestine được cho là đang chuẩn bị cho một cuộc đối đầu vũ trang với Israel nhằm gây áp lực buộc nước này phải nhượng bộ sâu rộng.

 Jibril Rajoub trích lời Thucydides (sử gia Hy Lạp cổ đại) cho biết: “Chúng tôi không chuẩn bị và không có ý định bắt đầu một cuộc đối đầu với Israel, nhưng ‘hy vọng về bản chất là một mặt hàng đắt tiền'”.  Barak nói với các cộng sự của mình, “Chúng ta đang ở trên một con tàu khổng lồ sắp va phải một tảng băng trôi, và chúng ta sẽ xoay sở để chuyển hướng nó chỉ khi chúng ta thành công ở Trại David.”

 Không khí tại các cuộc họp là lễ hội.  Barak đã sẵn sàng cho những nhượng bộ khiến những người tham gia Mỹ “há hốc mồm và vui mừng khôn xiết”, bao gồm cả một thỏa hiệp lớn sẽ trao cho người Palestine một số phần của Đông Jerusalem và quyền cai trị quốc tế đối với Núi Đền, địa điểm của Thánh đường Hồi giáo Al-Aqsa.  Chưa từng có nhà lãnh đạo Israel nào đồng ý cho đi nhiều như vậy, hoặc thỏa hiệp về những vấn đề mà cho đến lúc đó vẫn được coi là điều cấm kỵ.

 Nhưng Barak đã chưa làm đủ trước để chuẩn bị nền tảng cho cuộc họp;  ông đã không cố gắng khiến thế giới Ả Rập rộng lớn hơn ép buộc Arafat phải thỏa hiệp về các nguyên tắc của Palestine như quyền hồi hương của người tị nạn.  Ông ta cũng cư xử theo cách được coi là hách dịch và tiến hành các cuộc đàm phán với Arafat thông qua các sứ giả, mặc dù cabin của ông ta chỉ cách đó không quá vài trăm thước.

 Arafat từ chối ký, có lẽ vì ông nghĩ rằng mình sẽ nhận được những điều khoản tốt hơn từ Israel nếu ông kiên trì, hoặc có lẽ vì đơn giản là ông không thấy bất kỳ nhà lãnh đạo Ả Rập nào từng ủng hộ một thỏa hiệp với kẻ thù lớn.  Clinton nổi cơn thịnh nộ.  Ông kết thúc hội nghị thượng đỉnh và thất hứa với Arafat là không đổ lỗi cho ông về thất bại này.  Itamar Rabinovich, một trong những học giả và nhà ngoại giao hàng đầu của Israel ở Trung Đông, cho biết: “Nếu Clinton áp dụng chiến lược của Carter là cụng đầu họ vào nhau cho đến khi họ chịu thỏa hiệp, thì lịch sử đã khác”.

Trong hai tháng sau đó, các nỗ lực đã được thực hiện để thu hẹp khoảng cách.  Nhưng đến lúc này, sự căng thẳng và nghi ngờ giữa hai bên đã vượt quá mức không thể quay lại.  Một trong những cộng sự thân cận của Barak cho biết: “Chúng tôi sống với cảm giác như đang hít phải thuốc súng.

 Và bất cứ nơi nào có thuốc súng, sẽ có một kẻ phát cuồng phóng hỏa đốt nó.  Lần này người đốt lửa là Ariel Sharon.

__

 CHỖ NGƯỜI DO THÁI gọi là Núi Đền và người Hồi giáo gọi là Thánh Địa Cao Quý có lẽ là nơi nhạy cảm nhất trên thế giới ngày nay.  Nằm bên trong Khu phố cổ của Jerusalem, nó được tôn kính vì là nơi đặt tảng đá mà từ đó Chúa tạo ra thế giới và là nơi ngài kêu gọi Áp-ra-ham hy sinh con trai mình là Y-sác.  Đó cũng là nơi có Điện thờ Do Thái thứ nhất và thứ hai, nơi Chúa Giê-su đi lại và rao giảng, và là nơi người Hồi giáo tin rằng nhà tiên tri Muhammad đã cất cánh trên chuyến bay lên Thiên đường cùng với thiên thần Gabriel.  Mái Vòm Đá và Thánh đường Hồi giáo Al-Aqsa vẫn còn đó tận ngày nay.

 Trong những năm qua, nhiều cuộc đối đầu đã bùng lên ở đó.  Năm 1982, một nhóm khủng bố Do Thái âm mưu cho nổ tung Mái Vòm Đá, “để loại bỏ sự ghê tởm,” theo cách gọi của chúng, với hy vọng rằng hành động này sẽ dẫn đến chiến tranh thế giới, do đó đẩy nhanh sự xuất hiện của Đấng Tiên tri.  Mặc dù chúng đã thất bại trong âm mưu của mình, nhưng chiến lược của chúng không hoàn toàn sai lầm: Bất kỳ sự cố nào trên Núi Đền sẽ là một quả cầu tuyết có thể nhanh chóng gây ra một trận tuyết lở.

Ariel Sharon đã nhận thức được tất cả điều này.  Với tư cách là thủ lĩnh phe đối lập với chính quyền của Barak, ông quyết định thách thức, theo cách trắng trợn nhất có thể, việc Barak sẵn sàng từ bỏ chủ quyền của Israel đối với Núi Đền.  Vào ngày 28 tháng 9, ông ta dẫn đầu một nhóm các chính trị gia Likud, được bao quanh bởi hàng trăm sĩ quan cảnh sát, đến biểu tình tại thánh địa.  Ông tuyên bố: “Mọi người Do Thái ở Israel đều có quyền đến thăm và cầu nguyện trên Núi Đền.  Núi Đền là của chúng ta.”

 Người Palestine ở đó vào thời điểm đó đã gọi ông ta, “Đồ tể của Beirut… kẻ giết trẻ em và phụ nữ,” và rất nhanh sau đó họ đụng độ với cảnh sát đang bảo vệ Sharon.

Vào thời điểm diễn ra các buổi cầu nguyện sáng hôm sau, các chương trình phát sóng của Đài phát thanh Palestine và các bài giảng trong các nhà thờ Hồi giáo đã lên án gay gắt điều mà họ cho là âm mưu của Israel nhằm gây tổn hại cho các thánh địa của đạo Hồi.  Một đám đông 20.000 người, chủ yếu là thanh niên, giận dữ chờ đợi buổi cầu nguyện bắt đầu tại Al-Aqsa.  Nhiều người trong số họ trang bị đá và các đồ vật khác, và họ bắt đầu ném đá vào cảnh sát và xuống những tín đồ Do Thái đang cầu nguyện ở Bức tường phía Tây.  Trong các cuộc bạo loạn đó, bảy người Palestine đã thiệt mạng và hơn một trăm người bị thương.  Ngày hôm sau, bạo lực đã lan rộng khắp các vùng lãnh thổ Palestine bị chiếm đóng và các khu vực đông dân cư Ả Rập của Israel.  Mười hai người đàn ông và bé trai người Ả Rập Israel đã thiệt mạng (cùng với một người Palestine và một người Do Thái Israel).  Trong một thời gian ngắn, các cuộc đụng độ cục bộ đã trở thành một cuộc chiến.

 Trong nội bộ tình báo Israel, cuộc tranh luận về những gì đang diễn ra trong đầu Yasser Arafat lại một lần nữa bùng lên.  Những người đứng đầu AMAN và IDF, đặc biệt là Moshe Yaalon, tin rằng intifada là một phần trong chiến lược phức tạp và được lên kế hoạch trước của Arafat và rằng ông đã “kiểm soát ngọn lửa” từ văn phòng của mình, lúc đầu bằng các cuộc biểu tình “tự phát” do người dân của ông tổ chức, sau đó là xả súng vào quân đội Israel từ bên trong đám đông, sau đó là các cuộc tấn công bằng súng có kế hoạch nhằm vào binh lính và người định cư, và cuối cùng là các vụ đánh bom liều chết bên trong Israel.  Tham mưu trưởng vào thời điểm đó, Trung tướng Shaul Mofaz, cho biết Arafat đang “cố gắng đạt được những thành tựu ngoại giao bằng cách làm đổ máu Israel”.

 Mặt khác, Shin Bet tin rằng Arafat chưa bao giờ có bất kỳ chiến lược nào như vậy và cuộc chiến đã bắt đầu như một sự bộc phát tự phát bởi các sinh viên thất vọng trước một số vấn đề—một số trong số họ là người Palestine—những người sau đó đã bị người dân địa phương xúi giục,  lãnh đạo.  Các cuộc biểu tình đã dẫn đến phản ứng gay gắt của IDF, vốn đã “chuẩn bị kỹ càng” cho sự bùng nổ bạo lực.  Phản ứng đó đã khiến một số lượng lớn người Palestine thiệt mạng hoặc bị thương và dẫn đến tình trạng tồi tệ hơn nữa.  Arafat, Shin Bet tuyên bố, đang bị kéo theo dòng chảy của các sự kiện.

__

YOSSI AVRAHAMI LÀ MỘT doanh nhân độc lập từ Petah Tikva, ba mươi tám tuổi, đã lập gia đình, có ba con.  Trong thời gian rảnh rỗi, anh tình nguyện phụ giúp cảnh sát giao thông.  Vadim Nurzhitz trẻ hơn ba tuổi, quê ở Irkutsk, Nga và là một tài xế xe tải chuyên nghiệp.  Cả hai đều không phải là quân nhân chính quy, nhưng giống như nhiều người Israel gốc Do Thái, họ là quân dự bị, thường trực để tiếp viện cho IDF.

Để kềm chế pIntifada thứ hai, tên được gọi cho cuộc chiến mới nhất giữa Israel và người Palestine, cần có quân tiếp viện.  Avrahami và Nurzhitz được triệu tập vào ngày 1 tháng 10 năm 2000 để bảo vệ xe buýt chở học sinh của những người định cư khỏi các cuộc tấn công của người Palestine.  Vào ngày 11 tháng 10, họ được cho nghỉ phép một ngày.  Ngày hôm sau, trên đường trở về căn cứ trên xe của Nurzhitz, họ đã rẽ nhầm và đến tận thành phố Ramallah, Bờ Tây.  Đã xảy ra một số bạo loạn ở Ramallah trong những tuần trước đó và một số người Palestine đã bị giết bởi súng của IDF.  Căng thẳng đang tăng cao.  Khi chiếc xe vào thành phố, những người qua đường nhìn thấy biển số màu vàng của Israel liền bắt đầu ném đá vào xe.  Cả hai cố gắng lái xe thoát chạy nhưng bị ách tắc giao thông chặn lại.

 Cảnh sát Palestine lôi họ ra khỏi xe trước họng súng, tịch thu vũ khí của họ và đưa họ đến đồn cảnh sát để thẩm vấn.  Sau đó, chúng phó mặc họ cho một đám đông hung hãn đang tụ tập bên ngoài tràn vào đồn định đoạt số phận họ.

 Hai người cảnh sát dự bị đã bị đánh đập, khoét mắt và bị đâm nhiều nhát.  Đầu của Nurzhitz bị đập nát trước khi bị moi ruột bằng một cây gậy cắm vào cổ họng, và cơ thể anh bị đốt cháy.  Khi vợ của Avrahami, không biết chuyện gì đã xảy ra, gọi vào điện thoại di động của anh, một kẻ giết người nói với cô ấy, “Tao đã giết chồng mầy vài phút ttrước rồi.”  Một tên Palestine đã được chụp ảnh đứng ở cửa sổ tầng hai của đồn cảnh sát đang ngây ngất khoe bàn tay đẫm máu của mình trước đám đông đang cổ vũ bên dưới.  Sau đó, đám đông ném các thi thể qua cửa sổ, xuống đất và kéo họ đi khắp thành phố.

 Sự kiện này đã để lại ấn tượng sâu sắc đối với công chúng Israel, họ đã hoàn toàn đổ lỗi cho Chính quyền Palestine, những người đã không bảo vệ người Israel trên lãnh thổ của họ mà thay vào đó đã bắt giữ họ mà không có lý do và đã cho phép đám đông sát hại họ bên trong đồn cảnh sát.

 Shin Bet đã chỉ định hành vi sát hại của quần chúng không thông qua luật pháp là một “cuộc tấn công mang tính biểu tượng”, mà thủ phạm phải bị truy lùng vĩnh viễn, “giống như những kẻ chịu trách nhiệm về vụ thảm sát người Israel tại Thế vận hội Munich.”  Cuộc săn lùng diễn ra trong nhiều tháng và nhiều năm sau đó.

 Thậm chí đáng kể hơn, trong con mắt của nhiều người trong giới lãnh đạo Israel, cuộc tấn công được coi là một sự phản bội cơ bản, bằng chứng cho thấy mục tiêu của Chính quyền Palestine – và nói rộng ra là mục tiêu của Arafat – không thực sự là hòa bình, mà là xung đột.  Từ thời điểm đó trở đi, Chính quyền Palestine và bản thân Arafat sẽ bị xem là một phần của vấn đề.

 Sau vụ đám đông hành quyết ở Ramallah, IDF đã tăng cường đáng kể việc sử dụng vũ lực.  Súng được sử dụng thường xuyên hơn để chống lại những người biểu tình bạo loạn.  IDF cũng tấn công lại các cảnh sát Palestine, cho nổ tung các đồn cảnh sát vào ban đêm, khi chúng vắng người.  Đến cuối năm 2000, 276 người Palestine đã bị giết.

 Cuộc đổ máu là một thảm họa chính trị đối với Ehud Barak.  Đã tập tễnh vì thất bại ở Trại David, cuộc nổi dậy khiến ông ta mất phương hướng và hoạt động kém hiệu quả.  Ông ta công khai và nhiều lần đổ lỗi cho Arafat về những gì đã xảy ra, nhưng điều đó chỉ khiến ông trông giống một kẻ thất bại trước công chúng Israel, vì đã tin tưởng nhà lãnh đạo Palestine ngay từ đầu.  Và việc ông kiên quyết tiếp tục tiến trình hòa bình với Arafat đã khiến tiếng tăm của ông giảm xuống mức sâu chưa từng thấy.  Các cộng sự thân cận đã mô tả những tháng cuối cùng trong nhiệm kỳ của ông là hưng phấn, thiếu tập trung và không có bất kỳ định hướng rõ ràng nào.  Liên minh cầm quyền của ông bắt đầu tan rã, và vào tháng 12, ông buộc phải kêu gọi tổ chức bầu cử vào tháng 2 năm 2001.

 Barak đã bị đánh bại bởi chính kẻ đã khiêu khích ở Núi Đền  và châm ngòi cho intifada: Ariel Sharon.

 Sharon đã là một kẻ bị ruồng bỏ chính trị trong gần hai thập kỷ, kể từ khi ông dàn dựng cuộc xâm lược thảm khốc vào Liban.  Ông đã bị buộc phải từ chức bộ trưởng quốc phòng vào năm 1983, nhưng cuộc phiêu lưu quân sự sai lầm của ông – kế hoạch điên rồ của ông nhằm sắp xếp lại toàn bộ Trung Đông – đã kéo dài 18 năm, khiến 1.216 người Israel thiệt mạng và hơn 5.000 người bị thương.  cũng như hàng nghìn thương vong Lebanon.

 Đám đông người Israel biểu tình trên đường phố đã gọi ông là kẻ giết người và tội phạm chiến tranh.  Hoa Kỳ đã áp đặt một cuộc tẩy chay không chính thức đối với ông ta – chỉ các quan chức cấp dưới của Hoa Kỳ mới được phép gặp ông ta khi ông ở Mỹ, và thậm chí sau đó chỉ ở khách sạn của ông ta, ngoài giờ làm việc thông thường.  Người đàn ông này  không bao giờ dừng lại trên màu đỏ, như bài hát đã nói, đã bị công chúng khinh bỉ và ghê tởm trong nhiều năm, mặc dù đã phục vụ trong Knesset và với tư cách là bộ trưởng nội các.

Nhưng Sharon coi chính trị như một bánh xe đu quay.  “Đôi khi bạn lên và đôi khi bạn xuống,” ông ấy thường nói.  “Chỉ cần ở trên đó.”  Đầu năm 2001, khi người Israel đang khao khát một nhà lãnh đạo mạnh mẽ có thể ngăn chặn bạo lực, ông đã đánh bại Barak với tỷ số 25%.

 Sự tương phản ngay lập tức được thể hiện rõ ràng.  Các trợ lý ở lại văn phòng thủ tướng sau khi Barak rời đi cho biết bầu không khí ngay lập tức trở nên bình tĩnh hơn và ổn định hơn.  Sharon hoàn toàn trái ngược với Barak: ấm áp, quan tâm đến tâm trạng và thói quen cá nhân, cẩn thận thể hiện sự tôn trọng với mọi người.  Bản chất ông ấy hay nghi ngờ, nhưng ngay khi ông ấy cảm thấy rằng ai đó có thể tin tưởng được, ông ấy ban cho họ rất nhiều tự do.

 Ông ấy cũng cảm thấy nhức nhối sâu sắc mỗi khi có dân Israel hay người Do Thái ở bất cứ đâu bị giết trong một cuộc tấn công khủng bố.  Thư ký quân sự Yoav Galant nói: “Tôi đến đưa tin về vụ tấn công liều chết này hay vụ tấn công khác và chứng kiến trái tim ông ấy tan nát như thế nào.  Nó làm ông ấy đau đớn theo cách cá nhân nhất.  Bất kỳ đứa trẻ, phụ nữ hay đàn ông nào ở Israel bị sát hại trên xe buýt hay trong trung tâm mua sắm, ông ấy coi đó như thể họ là người thân, gia quyến của mình”.

 Sharon đánh dấu một con đường có vẻ rõ ràng để chấm dứt bạo lực.  “Ông ấy truyền cho tất cả chúng tôi niềm tin rằng chúng tôi sắp thắng cuộc chiến này, cuộc chiến chống khủng bố,” Galant nói.  “Như Napoléon đã nói, quân đoàn La Mã không vượt qua Rubicon;  Julius Caesar vượt qua Rubicon.  (Cụm từ “vượt qua Rubicon” ám chỉ “vượt qua điểm giới hạn không thể quay đầu”, nhắc đến sự kiện Julius Caesar vượt qua sông Rubicon chinh phục đất Ý vào 49 TCN). Sharon là một nhà lãnh đạo, và ông ấy đã lãnh đạo cuộc chiến chống khủng bố.”

 Ngay sau khi nhận chức thủ tướng, Sharon tuyên bố rằng các cuộc đàm phán chính trị sẽ không diễn ra trong khi các cuộc tấn công khủng bố vẫn tiếp diễn.  Ông nói, chỉ khi đạt được sự bình tĩnh, Israel mới quay trở lại bàn đàm phán.  Đồng thời, ông ấy thúc giục IDF và Shin Bet đẩy mạnh hoạt động của họ.  “Hãy suy nghĩ bên ngoài chiếc hộp,” ông với các chỉ huy.  “Hãy đến với tôi bằng những ý tưởng sáng tạo.” Ông ta liên tục nhắc họ về thời kỳ hỗn loạn của chính ông ta trong Đơn vị 101 vào những năm 1950, và về cách Meir Dagan, dưới sự chỉ huy của Sharon, đã săn lùng thành công những kẻ khủng bố trong những năm 1970.

 Kể từ khi còn là bộ trưởng quốc phòng vào đầu những năm 1980, Sharon đã nghi ngờ về khả năng của IDF, nuôi dưỡng mối nghi ngờ rằng lực lượng này đã “mất đi sức mạnh trong nhiều năm”.  Ông ta cũng không tin tưởng các sĩ quan quân đội, có lẽ vì nhớ rằng chính mình cũng đã nói dối các chính trị gia như thế nào khi còn mặc quân phục, lừa dối cấp trên để họ cho phép mình hành động.  Giờ đây, khi đã là thủ tướng, ông ấy cảm thấy rằng các sĩ quan IDF sợ thất bại, và do đó ông ấy “tin chắc rằng các chỉ huy cấp cao đang nói dối ông ấy để họ không phải chịu trách nhiệm,” Galant nói.

 Mặt khác, Sharon cảm thấy thoải mái hơn nhiều với Shin Bet và ông ấy rất tin tưởng vào người đứng đầu của nó, Avi Dichter.  Trong cuộc chiến chống khủng bố, vấn đề đầu tiên và quan trọng nhất trong chương trình nghị sự của mình, Sharon ngày càng tin tưởng vào cơ quan này, giao cho nó nhiều nhiệm vụ và quyền hạn hơn.

__

 KHI BẮT ĐẦU INTIFADA thứ hai, một số lượng đáng kể những người đã tham gia vào các cuộc tấn công khủng bố trong thập kỷ trước và đang ngồi trong các nhà tù do Chính quyền Palestine điều hành.  Sau khi các cuộc tấn công tự sát năm 1996 lật đổ chính phủ của Shimon Peres và làm gián đoạn tiến trình hòa bình, Arafat đã nhận ra rằng ông cần phải giữ các thủ lĩnh hàng đầu của Hamas và Thánh chiến Hồi giáo sau song sắt ít nhất là chừng nào ông còn đàm phán được với người Israel.  Nhưng hơn sáu tháng, bắt đầu từ tháng 10 năm 2001, Arafat ra lệnh trả tự do cho họ.

 Một lần nữa, IDF tin rằng Arafat đang cố xúi giục nhiều cuộc tấn công hơn vào Israel, trong khi Shin Bet tin rằng ông ấy chỉ đang cố gắng điên cuồng để tránh mất đi sự ủng hộ của người Palestine vào tay Hamas.  Vào thời điểm đó, hàng trăm người Palestine đã thiệt mạng trong phong trào intifada, trong khi chỉ một số ít binh lính IDF và người định cư thiệt mạng.  Tuy nhiên, các cuộc tấn công tự sát của Hamas đã bắt đầu ở quy mô đồng đều.  Yuval Diskin, phó giám đốc Shin Bet cho biết: “Các cuộc tấn công liều chết càng gia tăng và thành công, thì sự ủng hộ dành cho Hamas càng tăng theo tỷ lệ thuận một cách trực tiếp.

 Việc mất anh em nhà Awadallah và kho lưu trữ của họ là một đòn giáng mạnh, nhưng Hamas đã bắt đầu xây dựng lại dưới sự lãnh đạo của Sheikh Yassin.  Và khi nó được xây dựng lại, nó bắt đầu sử dụng các cuộc tấn công liều chết chống lại thường dân Israel ngày càng nhiều.

 Vào ngày 18 tháng 5 năm 2001, một đặc nhiệm Hamas mặc áo khoác dài màu xanh đậm đến trạm kiểm soát an ninh bên ngoài Trung tâm thương mại HaSharon, gần Netanya.  Y làm dấy lên sự nghi ngờ của lính canh, họ ngăn y vào, y liền cho nổ tung mình, giết chết 5 người ngoài cuộc.  Vào ngày 1 tháng 6, một kẻ đánh bom liều chết khác đã giết chết 21 thanh niên, hầu hết là những người Do Thái mới nhập cư từ Nga, khi xếp hàng bên ngoài một vũ trường trên bãi biển ở Tel Aviv.  Chủ vũ trường, Shlomo Cohen, từng phục vụ trong lực lượng biệt kích hải quân,  nói với đôi mắt tuyệt vọng: “Đây đúng là điều tồi tệ nhất tôi từng thấy trong đời.”

Đến đầu tháng 11, những kẻ đánh bom liều chết tấn công trên đường phố Israel gần như hàng tuần, và đôi khi vài ngày một lần.  Vào ngày 1 tháng 12, ba kẻ đánh bom liên tiếp giết chết 11 người tại trung tâm mua sắm dành cho người đi bộ Ben Yehuda ở Jerusalem, cùng địa điểm xảy ra vụ tấn công liều chết năm 1997 dẫn đến âm mưu ám sát Khaled Mashal.  Ngày hôm sau, một người đàn ông từ Nablus cho nổ tung mình trên một chiếc xe buýt ở Haifa, khiến 15 người thiệt mạng và 40 người bị thương.  “Chúng tôi đang đối mặt với một cuộc tấn công tổng lực,” chỉ huy cảnh sát quận phía Bắc cho biết khi đến hiện trường.

 Cuộc tấn công không dừng lại.  Chỉ riêng trong tháng 3 năm 2002, 138 đàn ông, phụ nữ và trẻ em đã bị giết bởi những kẻ đánh bom liều chết và 683 người bị thương.  Vụ tấn công tàn bạo nhất xảy ra vào Lễ Vượt Qua, ở tầng trệt của khách sạn Park ở Netanya, nơi tổ chức tiệc Seder cho 250 người dân có hoàn cảnh khó khăn của thành phố.  Kẻ đánh bom tự sát ăn mặc như một phụ nữ Do Thái sùng đạo bước vào hội trường và cho nổ tung mình, giết chết 30 người —  trẻ nhất 20 tuổi và già nhất 90 tuổi — và làm bị thương 143 người khác.  George Jacobovitz, một người Hungary sống sót trong trại tử thần của Đức Quốc xã, đã ở đó cùng với vợ của ông, Anna, cũng là một người sống sót sau thảm họa Holocaust đến từ Hungary.  Họ đang ăn mừng đêm Seder với Andrei Fried, con trai của Anna từ cuộc hôn nhân trước, và vợ anh, Edit.  Cả bốn người đều thiệt mạng.

 Theo người đứng đầu Shin Bet Dichter, năm 2002 là “năm tồi tệ nhất đối với các cuộc tấn công khủng bố chống lại chúng tôi kể từ khi thành lập nhà nước.”

 Chánh văn phòng Mofaz cho biết, “Đây là một chấn thương quốc gia.  Nó khiến chúng ta thiệt hại về người, thiệt hại cho an ninh quốc gia, thiệt hại cho nền kinh tế của chúng ta.  Không có du lịch, mọi người sợ đến trung tâm mua sắm, sợ ngồi trong nhà hàng và không đi xe buýt.”

 Thiếu tướng Yitzhak Ben-Yisrael, người đứng đầu Cục Phát triển Cơ sở Hạ tầng Công nghệ và Vũ khí (Maf’at trong tiếng Do Thái) cho biết  tại Bộ Quốc phòng Israel, “Cộng đồng tình báo Israel đã từng bắt gặp những kẻ đánh bom tự sát trước đây, nhưng chúng tôi không nhận ra rằng nó có thể được thực hiện với số lượng lớn như vậy. Ngay cả khi chúng tôi hiểu ra rằng đây là mối đe dọa chính, chúng tôi vẫn không có giải pháp nào cho nó, cả về học thuyết chiến đấu lẫn vũ khí.  Bạn có thể làm gì để chống lại một kẻ đánh bom liều chết khi hắn đi loanh quanh trên đường phố của bạn để tìm kiếm một nơi nào đó  cho nổ tung mình?”

 Chủ nghĩa khủng bố nói chung và các cuộc tấn công tự sát nói riêng đã tạo ra một tình huống kỳ lạ và khó chịu trong Shin Bet và IDF.  Thiếu tướng Giora Eiland, người đứng đầu Ban Kế hoạch IDF vào thời điểm đó, cho biết: “Rõ ràng là có cảm giác bất lực.  Sự thất vọng là rất lớn.  Chúng tôi chịu áp lực rất lớn phải làm điều gì đó, cả từ bên trên [bộ chỉ huy IDF và giới chính trị] lẫn bên dưới [các sĩ quan và binh lính trên chiến trường].  Láng giềng, thân bằng quyến thuộc và những người đi đường chặn lại mà hỏi: ‘Các chỉ huy quân sự ở đâu?  Ngân sách năm mươi tỷ shekel – các ông làm gì với số tiền này? Cả ngày các ông làm gì?’”

__

 TRONG KHI KHÔNG CÓ bất kỳ chiến lược lớn hơn nào về cách đối phó với cuộc tấn công khủng bố liều chết, Shin Bet chỉ tiếp tục làm những gì nó vẫn luôn làm: ám sát những tên xúi giục và tổ chức khủng bố.

 Trong năm đầu tiên của phong trào intifada, các cuộc tấn công được thực hiện một cách tản mạn, không có định hướng rõ ràng.  Vụ đầu tiên diễn ra ngay sau khi phong trào intifada bắt đầu, khi Shin Bet phát hiện ra rằng một tên Fatah đang hoạt động có tên là Hussein Abayat đứng sau nhiều vụ tấn công bằng súng trên các con đường ở Bờ Tây và ở khu phố Gilo của Jerusalem.

 Kể từ vụ hành hình ở Ramallah, tất cả các khu vực dưới sự kiểm soát của Chính quyền Palestine đã được chỉ định là lãnh thổ thù địch, trong đó cần phải hoạt động hết sức thận trọng và với sự hỗ trợ của lực lượng IDF lớn.  Nhưng việc tiến vào với một lực lượng lớn như vậy để bắt hoặc giết Abayat sẽ giúp y có thời gian chạy trốn đến nơi ẩn náu.  Người Israel kết luận rằng cách duy nhất để tiếp cận y là thực hiện một chiến dịch kết hợp sử dụng lực lượng biệt kích bí mật và một cuộc tấn công từ trên không.

 Đơn vị đặc công không quân Chim Bói cá (Kingfisher, Shaldag trong tiếng Do Thái), chỉ định mục tiêu bằng tia laser ở sâu phía sau phòng tuyến của kẻ thù, được gọi tham gia chiến dịch.  Nó được chọn vì vào thời điểm đó, đây là đơn vị duy nhất được huấn luyện để phối hợp chặt chẽ với lực lượng không quân.

 Vào ngày 9 tháng 11 năm 2000, Abayat được một nguồn tin Shin Bet người Palestine nhìn thấy đang lên chiếc Mercedes màu đen và rời làng Beit Sahour, gần Bethlehem, cùng với một số người của y.  Một đặc nhiệm Shin Bet đi cùng với nguồn tin đã liên lạc với Phòng Tác chiến Liên quân, và JWR đã liên lạc với lực lượng không quân và lực lượng trên bộ.  Những người theo dõi của Chim Bói cá  đã chỉ định chiếc xe bằng đèn đánh dấu laze cho hai đội hình gồm hai máy bay trực thăng Apache, mỗi chiếc đang theo dõi từ xa.  Chiếc xe dừng lại trước một ngôi nhà, và một đám đông tụ tập xung quanh nó.  Phó chỉ huy phi đội Apache cho biết: “Chúng tôi đã đợi vài phút cho đến khi nó lại di chuyển và rời xa mọi người.  “Sau đó chúng tôi bắn hai quả tên lửa.  Tôi bắn một phát, và phát thứ hai do chỉ huy phi đội, người đang chỉ huy đội hình kia, bắn.  Cả hai đều trúng mục tiêu.  Cho đến lúc đó, chúng tôi chỉ thực hiện các nhiệm vụ như thế này ở Lebanon.  Đó là một cảm giác kỳ lạ [làm điều này bên trong khu vực do Israel kiểm soát].

 Việc giết Abayat là vụ ám sát trên không đầu tiên ở các vùng lãnh thổ bị chiếm đóng.  Điều này cũng bất thường vì Shin Bet thường ưa thích những vụ giết người ít lộ diện hơn: những vụ giết người không có sự tham gia công khai của lực lượng Israel, điều bị cấm theo thỏa thuận hòa bình năm 1994.  Nhưng giờ đây mệnh lệnh hủy diệt các mục tiêu đặc biệt được đưa ra trong vùng lãnh thổ,  dù có hay không có sự tham gia của lực lượng Israel.

 Một trong số các mục tiêu đó là Iyad Haradan, chỉ huy của Jihad Hồi giáo ở quận Jenin.  Vào ngày 5 tháng 4 năm 2001, Haradan nhấc ống nghe của chiếc điện thoại công cộng mà anh ta thường sử dụng (nhiều kẻ khủng bố hiện đã nhận ra rằng người Israel đang nghe lén các cuộc trò chuyện trên điện thoại di động của chúng và đã bắt đầu sử dụng điện thoại công cộng để thay thế), tại trung tâm thành phố Jenin, khi nó  vang lên.  Nhưng thay vì cuộc gọi mà y mong đợi, đã có một tiếng nổ lớn giết chết y ngay lập tức.  Thiết bị đã được đặt ở đó vào đêm hôm trước bởi một đơn vị Chim.  Khu vực này đã được giám sát bởi hai máy bay không người lái và khi giọng nói của Haradan được xác định trên điện thoại, tín hiệu kích hoạt quả bom đã được gửi từ JWR.  Một chiến dịch tương tự vào ngày 27 tháng 6 đã giết chết Osama al- Jawabra, một thành viên của Lữ đoàn Tử vì đạo Al-Aqsa của Fatah ở Nablus.

 Shin Bet cũng đã cố gắng loại bỏ tổng thư ký của PFLP ở Palestine, Abu Ali Mustafa, bằng nhiều phương pháp ít lộ diện khác nhau — đầu độc, đặt bẫy điện thoại di động của y, cho nổ chiếc xe của y theo cách khiến nó trông giống như chất nổ  mà chính Mustafa đang vận chuyển đã vô tình phát nổ.  Nhưng khi những kế hoạch đó thất bại, Shin Bet đã từ bỏ việc che đậy kín đáo.  Vào ngày 27 tháng 8, một chiếc trực thăng Apache đã bắn rocket qua cửa sổ văn phòng của Mustafa ở Ramallah.  Israel tuyên bố rằng quyết định tấn công Mustafa “không phải vì y là một nhà lãnh đạo chính trị, mà được miễn trừ” – theo người Israel, vì y cũng đã trực tiếp tham gia khủng bố.

 Vụ ám sát Mustafa của Israel hoàn toàn không dập tắt được các cuộc tấn công tự sát.  Hơn nữa, đối với người Palestine, một ranh giới đã bị vượt qua.  “Tôi muốn nhắc Israel về thời kỳ đầu những năm 1970,” một lãnh đạo PFLP nói.  “Chúng ta phải đáp trả theo cách có thể ngăn chặn người Israel tiếp tục tấn công các nhà lãnh đạo Palestine.”  Trong một hành động trả đũa hai tháng sau, vào ngày 17 tháng 10, tại khách sạn Hyatt ở Jerusalem, các thành viên của PFLP đã ám sát Rehavam Zeevi, một bộ trưởng trong nội các của Sharon và là cựu tướng lĩnh IDF, người có quan điểm dân tộc chủ nghĩa cực đoan.

Zeevi từng là một người Israel nổi tiếng và được ngưỡng mộ, một người bạn tốt của Sharon từ những ngày họ còn trong quân ngũ.  Trên thực tế, không có vụ giết người có mục tiêu nào khác hoặc các hoạt động quân sự gây hấn khác do Israel thực hiện đã đạt được bất cứ điều gì ngoài việc giết chết 454 người Palestine, làm bị thương hàng ngàn người khác và kéo dài một cuộc xung đột đẫm máu và bất đối xứng khiến nhiều người Israel thiệt mạng hơn.

 Sharon càng thất vọng hơn với sự bất lực của cơ sở quốc phòng.  Một buổi sáng, trưởng văn phòng và cánh tay phải của ông ta, Dov Weissglass, yêu cầu người đứng đầu bộ phận tình báo của Shin Bet, Barak Ben-Zur, gặp ông tại một địa điểm khác thường, lối vào trung tâm thương mại quốc tế của một ngân hàng Tel Aviv. 

Weissglass đã sắp xếp vé vào phòng điều hành của trung tâm.

 Anh đưa Ben-Zur đến giữa không gian rộng lớn, xung quanh là những màn hình nhấp nháy ghi lại dòng tiền chảy vào và chảy ra khỏi Israel, nguồn cung cấp oxy cho nền kinh tế của đất nước.

 “Anh nghe thấy gì, Ben-Zur?”  Weissglass hỏi sau một phút dài im lặng.  Ben-Zur bối rối.  “Không có gì,” anh nói.  “Tôi không nghe thấy gì cả.”

 “Chính xác là vậy.  Không có gì để nghe.  Không có hành động.  Các nhà đầu tư nước ngoài sẽ không đến đây vì họ sợ điều gì đó sẽ xảy ra với họ và họ không mang tiền vì không biết điều gì sẽ xảy ra vào ngày mai.  Nếu các bạn—Shin Bet, IDF, lực lượng không quân—không làm điều gì đó, thì bên trên vũng máu và đau thương, tang tóc và nỗi buồn khủng khiếp, đất nước này sẽ phải đối mặt với sự sụp đổ kinh tế.”

 Shin Bet đã nhận được thông điệp.  Nếu những vụ giết người đơn lẻ không hiệu quả—và đúng là không —cơ quan cần một chiến lược rộng lớn hơn để hạn chế khả năng của Hamas và của các tổ chức khủng bố khác đã sử dụng những kẻ đánh bom liều chết.  Trong khi các sĩ quan tình báo thường thích bắt giữ kẻ thù, một trong những quan chức của cơ quan nói với nội các an ninh rằng khi thiếu quyền kiểm soát lãnh thổ, đó không phải là một lựa chọn.  Do đó, “bạn không có lựa chọn nào khác—bạn vừa là công tố viên vừa là luật sư bào chữa, vừa là thẩm phán vừa là đao phủ.”  Không ai mơ về chiến thắng toàn diện, hoặc thậm chí chắc chắn điều đó sẽ như thế nào, mà thay vào đó tìm kiếm một tình hình an ninh hợp lý để đảm bảo một cuộc sống tương đối yên bình cho công dân Israel.

Giám đốc cơ quan Avi Dichter đã trình bày chiến lược mới với Sharon và chính phủ trong một loạt cuộc họp vào cuối năm 2001. Lúc đầu, các bộ trưởng do dự.  Nhưng tại một cuộc họp sau vụ tấn công khủng bố vào một chiếc xe buýt ở Haifa, trong đó có 15 hành khách thiệt mạng, Sharon thì thầm với Dichter, “Cứ làm đi.  Giết hết chúng nó đi.”

Ehud Barak, Thủ tướng Israel

Ariel Sharon, thủ tướng kế nhiệm Barak

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét