Thứ Năm, 15 tháng 6, 2023

BẬT DẬY VÀ GIẾT LIỀN : Bài 29


Ronen Bergman

Trần Quang Nghĩa dịch

Chương 29 : “NHIỀU NGƯỜI ĐÁNH BOM TỰ SÁT HƠN LÀ ÁO KHOÁC NỔ”

 

CHO ĐẾN CUỐI NĂM 2001, Shin Bet tự giới hạn mình trong việc nhắm mục tiêu vào thứ được gọi là “quả bom hẹn giờ tích tắc”, những kẻ đang lên kế hoạch tấn công hoặc sắp thực hiện một cuộc tấn công, hoặc những người trực tiếp tham gia vào hành vi đó— chẳng hạn như tên chỉ huy và tuyển mộ những kẻ tấn công liều chết, hoặc kẻ chế tạo bom.

 Có một số vấn đề với cách tiếp cận đó.  Đầu tiên là xác định các mục tiêu trong số các tình nguyện viên dường như vô tận.  Một phát ngôn viên của Hamas khoe khoang: “Có nhiều người đánh bom tự sát hơn là áo khoác nổ”.  Những người Palestine này có lý lịch khác biệt nhau: Già có và trẻ có, có học thức và thất học, những kẻ không có gì để mất và những người có gia đình đông con.  Lúc đầu, họ chỉ gồm đàn ông trưởng thành, nhưng sau đó, các nhà lãnh đạo Hamas khuyến khích phụ nữ và trẻ em cũng nên hy sinh bản thân.

 Hơn nữa, xác định thành công kẻ tấn công không nhất thiết có nghĩa là ngăn chặn một cuộc tấn công.  Những người giám sát, nhân viên bàn giấy, phiên dịch viên, nhà phân tích tình báo và các nhà công nghệ đều có thể theo dõi một cuộc tấn công khi nó “cuộn dọc” – theo biệt ngữ chuyên nghiệp của cơ quan – “gần như cho đến khi có tiếng nổ”.  Nhưng họ không thể ngăn chặn chúng, vì Israel không thể hoạt động công khai bên trong lãnh thổ thù địch do Palestine kiểm soát.  Và vào thời điểm kẻ đánh bom đến được Israel thì đã quá muộn.

 Có một số  sĩ quan bàn giấy và giám sát viên lâm vào tình trạng suy nhược thần kinh trong thời kỳ này.  Một nhân viên văn phòng phát hiện ra một âm mưu tấn công vào trung tâm mua sắm Netanya vào tháng 5 năm 2001 và kích hoạt toàn bộ hệ thống để cố gắng ngăn chặn nó.  Nhưng kẻ đánh bom đã đi vào lãnh thổ Israel và không thể xác định chính xác cho đến khi hắn và 5 dân thường thiệt mạng.  Giám đốc Shin Bet Dichter cho biết: “Nhân viên văn phòng ngồi đó khóc, với những chiếc TV xung quanh chiếu cảnh các thi thể được chuyển đi, nhưng sau đó cảnh báo tiếp theo đến và cô ấy phải lau nước mắt và tiếp tục làm việc.”

 Vì việc tiêu diệt từng  cá nhân đánh bom tự sát là không hiệu quả, Dichter quyết định chuyển trọng tâm.  Bắt đầu từ cuối năm 2001, Israel sẽ nhắm mục tiêu vào “cơ sở hạ tầng tích tắc” đằng sau các cuộc tấn công.  Suy cho cùng, kẻ tự cho nổ tung mình, gài bom hay bóp cò, thường chỉ là mắt xích cuối cùng trong một chuỗi dài.  Có những kẻ tuyển dụng, những tên chuyển phát nhanh, và những kẻ thu mua vũ khí, cũng như những bọn bảo vệ các ngôi nhà an toàn và chuyển lậu tiền—cả một tổ chức được giám sát bởi những tên chỉ huy các chi bộ khu vực, những tên đứng đầu là các chỉ huy quân sự chính, bản thân họ là cấp dưới của các nhà lãnh đạo chính trị các tổ chức.

 Tất cả họ sẽ là mục tiêu.  Một bản án tử hình có thể treo lơ lửng trên đầu tất cả các thành viên tích cực của cánh quân sự Hamas, được gọi là Lữ đoàn Izz al-Din al-Qassam, và Thánh chiến Hồi giáo Palestine.  “Họ sẽ nhanh chóng nhận ra rằng không ai trong số họ – từ sĩ quan điều hành khu vực đến tài xế taxi đến nhiếp ảnh gia quay video chia tay kẻ đánh bom liều chết – miễn nhiễm với đòn tấn công,” Yitzhak Ilan, một nhân viên cấp cao của Shin Bet tại thời điểm đó,  sau này là cấp phó của thủ trưởng cơ quan, đã cho biết như vậy. Nhắm mục tiêu vào những kẻ tấn công tự sát là vô ích, bởi vì theo định nghĩa, chúng có thể bị tiêu diệt và dễ dàng bị thay thế.  Tuy nhiên, bọn chuẩn bị, tổ chức và điều động chúng thì không.  Theo quy định, chúng cũng không háo hức muốn tử vì đạo như những người chúng tuyển mộ.  Tình báo Israel ước tính rằng có ít hơn 300 người tích cực tham gia tổ chức các vụ đánh bom liều chết và không quá 500 thành viên tích cực của tất cả các nhóm khủng bố cộng lại.

Tất cả họ sẽ không phải bị giết.  “Khủng bố là một cái thùng có đáy,” Dichter giải thích với Ủy ban Đối ngoại và Quốc phòng của Knesset.  “Bạn không cần phải tiếp cận tên khủng bố cuối cùng để vô hiệu hóa nó.  Chỉ cần đạt đến một khối lượng tới hạn, và bạn sẽ thực sự làm cho nó đứng yên.”

 Cơ quan quản lý phát triển vũ khí và cơ sở hạ tầng công nghệ (DWTI) đã phát triển một mô hình toán học để xác định lượng “dư thừa” hoặc nhân lực dự bị ở Hamas.  Kết quả cho thấy việc lấy ra khỏi 20 đến 25 phần trăm nhân sự của tổ chức sẽ dẫn đến sự sụp đổ của nó.  Giám đốc DWTI Ben-Yisrael cho biết:

Một ví dụ đơn giản là ô tô. Có những thành phần quan trọng và bạn xây dựng nó ngay từ đầu với một mức độ dự phòng.  Bạn có một bánh xe dự phòng, không phải một trăm bánh xe.  Bạn đang lái xe, bang!— vỏ xe bị đâm thủng— bạn đổi bánh xe.  Bạn tiếp tục lái xe và nổ tung! – một cú đâm nữa.  Bạn có thể tiếp tục lái xe không?  Ít có khả năng.  Tại sao họ không cung cấp cho bạn nhiều bánh xe hơn?  Bởi vì nó chiếm không gian và thêm trọng lượng.  Dự phòng cũng có mức tối ưu.

 Giả sử chúng ta muốn dừng một chiếc ô tô và chúng ta đứng đối diện với nó và bắt đầu bắn.  Bạn bắn một phát, hoàn toàn ngẫu nhiên.  Xe có đi hay không?  Phụ thuộc vào nơi đạn bắn trúng.  Nó có thể va vào thamh chắn bùn, nó có thể va vào đài phát.  Chiếc xe sẽ không dừng lại.  Bắn hết lần này đến lần khác.  Xe có đi hay không?  Rõ ràng là đến một lúc nào đó chiếc xe sẽ dừng lại, mặc dù phần lớn xe không bị bắn trúng. Tại sao?  Bởi vì bạn đã bắn trúng một bộ phận quan trọng.  Và đó chính xác là mô hình của chúng tôi.

 Tất nhiên, những tên bị ám sát sẽ nhanh chóng được thay thế bởi những tên tiếp theo, nhưng theo thời gian, độ tuổi trung bình giảm xuống, cũng như mức độ kinh nghiệm khi những tên càng ngày càng trẻ hơn lấp đầy hàng ngũ.  Như Yitzhak Ilan đã nói: “Một ngày nọ, khi chỉ huy của Thánh chiến Hồi giáo ở Jenin được đưa vào phòng thẩm vấn, một tên mà chúng tôi tình cờ bắt được chứ không phải giết, tôi rất vui khi biết rằng cậu ta chỉ 19 tuổi.  Tôi nhận ra rằng chúng tôi đang trên đà  chiến thắng, rằng chúng tôi đã cắt đứt toàn bộ chuỗi trước đó.”

 Giờ đây, một chiến lược nhất quán đã được phát triển, họ phải tìm ra cách tìm và tiêu diệt những mục tiêu này.  Shin Bet đã thông báo cho Thủ tướng Sharon rằng, với rất nhiều vụ ám sát đang được xem xét, tất cả các nguồn lực liên quan của Nhà nước Israel sẽ được kêu gọi.

__

 NGƯỜI PALESTINE TRONG các vùng lãnh thổ bị chiếm đóng từ lâu đã quen  nhìn thấy máy bay không người lái vo ve trên bầu trời.  Moshe Yaalon, tham mưu phó vào thời điểm đó, cho biết: “Chúng bay quanh đó mọi lúc.  Các phương tiện bay không người lái đang thu thập thông tin tình báo thông qua camera độ nét cao.  “Giống như có mặt trời và mặt trăng,” Yaalon nói, “có tiếng ồn và mắt dõi theo của UAV.”

 Nhưng hầu hết dân thường, cả người Ả Rập và người Israel, không biết công nghệ máy bay không người lái đã tiến bộ đến mức nào trong nhiều thập kỷ kể từ khi Israel lần đầu tiên sử dụng chúng.  Bây giờ chúng lớn hơn, chúng có thể ở trong không trung lâu hơn (lên đến 48 giờ), và chúng mang theo hệ thống quang học tiên tiến hơn và trọng tải nặng hơn—lên đến một tấn tên lửa dẫn đường chính xác.

 Trong một trò chơi chiến tranh mô phỏng trận chiến với Syria vào tháng 8 năm 2001, IDF đã nhận ra rằng nó có thể chiến đấu hiệu quả với những gì được coi là thách thức quân sự cấp bách nhất của nó – kho vũ khí xe tăng của Quân đội Syria, với số lượng lên tới hàng nghìn chiếc —chỉ cần sử dụng máy bay không người lái.  Yaalon nói: “Chúng tôi có nhiều bom hơn số mục tiêu ở Trung Đông.

 Như Hoa Kỳ đã làm trong Chiến dịch Bão táp Sa mạc và vùng Balkan, Israel có thể tiến hành chiến tranh từ xa.  Nhưng khả năng của Israel thậm chí còn tiên tiến hơn so với Hoa Kỳ.  Họ không chỉ có vũ khí chính xác, như tên lửa dẫn đường và rocket, mà họ còn có máy bay có thể tiếp cận rất gần mục tiêu và có xác suất bắn trúng mục tiêu cực kỳ cao, vì máy bay không người lái có thể tự điều chỉnh trong lúc bay để phản ứng với mục tiêu đang di chuyển.  .

IDF và lực lượng không quân đều muốn giữ bí mật khả năng của mình cho đến khi xảy ra chiến tranh toàn diện.  Nên quân đội phản đối yêu cầu của Sharon về việc sử dụng máy bay không người lái chống lại các mục tiêu là con người vì như thế phơi bày chúng cho người Palestine. Nhưng thủ tướng đã đập tay xuống bàn. “Ông ấy quyết định rằng hệ thống vũ khí này, thay vì ngủ yên trên kệ chờ chiến tranh mà nó được tạo ra để sử dụng nhưng không biết bao giờ mới xảy ra, giờ nên được sử dụng để chống lại kẻ thù hiện tại,” Tướng Yoav Galant nói.

 Lực lượng không quân đã thành lập một đội đặc biệt để trang bị thêm cho máy bay không người lái, cả về đạn dược và công nghệ nhắm mục tiêu.  Xác định một chiếc xe tăng Syria trên chiến trường khác với việc đi theo một gã cưỡi lừa đang cố trốn tránh các sát thủ Israel, và việc phá hủy một chiếc xe bọc thép cần một loại tên lửa khác với loại dùng để giết một hoặc hai người mà không phá hủy một khu phố.  Lực lượng không quân giải quyết một đầu đạn phun ra hàng trăm khối vonfram 3 milimet có thể xé toạc các khối kim loại và xi măng mỏng, nhưng do mật độ của chúng, sẽ bị giới hạn trong một khu vực có đường kính 60 bộ.

 Với những vũ khí phù hợp được lấy từ quân đội, Shin Bet giờ đây cũng cần đến tin tình báo của nó.  Sharon đã chỉ thị cho AMAN, tổ chức lớn hơn nhiều lần so với Shin Bet, và Mossad, có mối quan hệ khăng khít với Shin Bet, tốt nhất là đặt mình dưới quyền của Shin Bet trong thời gian họ yêu cầu.

 Đơn vị 8200, nhánh SIGINT của AMAN, đã trải qua sự thay đổi lớn nhất.  Trước đây, nó chủ yếu đối phó với các kẻ thù bên ngoài của Israel, chủ yếu là Syria.  Giờ đây, nhiều ăng-ten mạnh mẽ, cơ sở giám sát, bộ phận phá mã và hack máy tính của nó đều tập trung vào cuộc chiến chống khủng bố liều chết.  Turban, một trong những căn cứ nghe lén của đơn vị, gần như đóng cửa khi bắt đầu tiến trình hòa bình, đã được chuyển đổi và đặt hoàn toàn dưới quyền xử lý của Shin Bet.  Nó đã trở thành cơ sở lớn nhất của Đơn vị 8200 và là nơi sản xuất hiệu quả đường dây giết người có mục tiêu.

 AMAN và lực lượng không quân đã đưa phi đội máy bay quan sát của họ—và cuối cùng là các vệ tinh do thám mà Israel đặt vào quỹ đạo—để làm việc cho Shin Bet.  Phi đội đó, ban đầu được xây dựng để cung cấp thông tin chiến trường theo thời gian thực cho các đơn vị chiến đấu, giờ được giao trách nhiệm quan sát các mục tiêu trong một cuộc hành quân.  Yitzhak Ilan nói: “Rất nhiều công dân Israel nợ mạng sống của họ nhờ thông tin có được từ VISINT – tình báo hình ảnh – và cũng như vậy, rất nhiều kẻ khủng bố đã chết vì chính thông tin đó.

 Moshe Yaalon cho biết, kết quả của tất cả những điều này là “sự hợp nhất tin tình báo ”, “không chỉ đơn thuần là sự tích hợp của vật liệu”.  Đặt tất cả mọi người từ tất cả các cơ quan xung quanh bàn trong JWR là chất xúc tác để tạo ra nhiều thông tin tình báo hơn.  “Đột nhiên,” Dichter nói, “một đại diện của 8200, một người không làm việc bằng tiếng Yiddish (tiếng Do Thái cổ)”—nói cách khác, người có công việc giám sát điện thoại của kẻ thù, yêu cầu phải thông thạo tiếng Ả Rập—“nghe thấy một nhân viên tình huống Shin Bet nói chuyện bằng tiếng Ả Rập với một nguồn tin Palestine, liền hỏi xen vào.  Và sau đó, người theo dõi trên thực địa báo cáo rằng kẻ xấu đã vào cửa hàng tạp hóa của Abu Hassan, và câu hỏi đặt ra là Abu Hassan này là ai, và liệu có nên tô màu nhãn hiệu kẻ xấu lên tên y trên máy tính hay không,  và vân vân.  Và đó là cách JWR, tự thân nó, trong quá trình hoạt động, bắt đầu trở thành một nguồn tạo ra một lượng thông tin tình báo rất lớn.”Công nghệ thông tin  thời gian thực đã trở nên đặc biệt quan trọng, bởi vì các mục tiêu đã học được bài học của riêng mình và đang đề phòng để trốn tránh những kẻ ám sát.  Họ di chuyển nhanh chóng, thay đổi phương tiện và đôi khi cải trang.  “Thời hạn sử dụng của mục tiêu” là thuật ngữ kỹ thuật chỉ khoảng thời gian có thể xác định một mục tiêu cụ thể và tập trung vào y.  Nó trở nên rất ngắn ngủi—không bao giờ quá vài giờ, và thường chỉ vài phút.  Chỉ có tốc độ truyền dữ liệu rất nhanh mới có thể cho phép ám sát thành công các mục tiêu di chuyển nhanh như vậy.

 Ngoài JWR, hệ thống tiêu diệt mục tiêu khủng bố bao gồm hàng nghìn người tham gia: sĩ quan phụ trách tiến trình, nhà phân tích hệ thống, lính bộ binh ngụy trang thực hiện nhiệm vụ quan sát thực địa, quan sát viên điều khiển máy bay không người lái, sát thủ điều khiển máy bay không người lái, thông dịch viên, chuyên gia chất nổ và lính bắn tỉa.

 Tuy nhiên, bộ máy rất lớn và phức tạp này có một hệ thống phân cấp rõ ràng và nghiêm ngặt, với Shin Bet đứng đầu, điều hành chương trình.  Một tài liệu nội bộ của Shin Bet lưu ý, “Cơ quan An ninh Tổng hợp [biệt danh chính thức của Shin Bet] chịu trách nhiệm, ngoài những điều khác, dựa theo các điều khoản của Luật GSS, trong việc bảo vệ an ninh của nhà nước…. Một cách để đạt được mục đích này là ngăn chặn và ngăn ngừa các cuộc tấn công khủng bố bằng cách đánh phủ đầu vào các đối tượng.”

 Nói chung, một chiến dịch giết người có mục tiêu bắt đầu với việc các đặc nhiệm hiện trường thu thập thông tin tình báo và xác định chính xác mục tiêu.  Thông thường, mục tiêu sẽ là một nhân vật nổi bật trong một tổ chức khủng bố—“một người xứng đáng có vé trên chuyến tàu đi về cõi chết,” như Dichter đã nói—hoặc một cá nhân khác đáng để đầu tư các nguồn lực cần thiết để giết hắn.  Một hồ sơ tình báo về mục tiêu sẽ được tổng hợp và hồ sơ đó sẽ được giao cho phó giám đốc, người sau đó sẽ quyết định liệu người đó có thực sự là một ứng cử viên thích hợp để loại bỏ hay không.  Nếu phó giám đốc và sau đó là giám đốc đều tán thành vụ ám sát, một Trang đỏ sẽ được trình lên thủ tướng.

Sau khi thủ tướng ký, các cơ quan tình báo phụ trách khu vực địa lý và tổ chức khủng bố được đề cập sẽ được hướng dẫn đặc biệt chú ý đến thông tin có thể tạo điều kiện thuận lợi cho vụ tấn công.  Thông tin này khác với thông tin tình báo về những gì mục tiêu đang lên kế hoạch, chẳng hạn, hoặc  đồng bọn của y là ai.  Nó được giới hạn cụ thể cho thông tin tình báo có thể giúp xác định liệu có “tính khả thi trong hoạt động” cho cú đánh hay không và nó phải được thu thập suốt ngày đêm.

 Ngay khi có cơ hội hành quyết, thủ tướng sẽ được liên lạc lại để cho phép giết người vào thời điểm cụ thể đó.  Sau khi đạt được mục tiêu thứ hai, Ban Giám đốc Tác chiến của Bộ Tổng tham mưu IDF xác định “cơ quan nào thực hiện và phương pháp nào thực hiện và chọn lựa loại đạn dược nào.”  Sau khi tham mưu trưởng phê duyệt kế hoạch, JWR cần xác định rõ mục tiêu từ ít nhất hai nguồn tin riêng biệt—giai đoạn đóng khung.

 Sau đó, dùi cui được chuyển cho cơ quan thực hiện, thường là lực lượng không quân.

 Về mặt sơ đồ, phần lớn bộ máy tiêu diệt mục tiêu mới về cơ bản không có gì là mới: Cấp tình báo thu thập thông tin, thủ tướng ủy quyền và lực lượng thực địa thực hiện vụ tấn công, giống như trong những năm 1970 và 1980 ở Châu Âu và Lebanon.  Nhưng có những khác biệt quan trọng.  Như một sĩ quan tình báo dày dạn kinh nghiệm Marshall McLuhan diễn giải, “Khả năng mở rộng là thông điệp,” nghĩa là bản thân việc sử dụng công nghệ tiên tiến đã tạo ra một thực tế hoàn toàn mới.  Huy động toàn bộ cộng đồng tình báo, được hỗ trợ bởi các hệ thống máy tính và thông tin liên lạc tốt nhất trên thế giới, cùng với những phát triển công nghệ quân sự tiên tiến nhất, đã làm tăng đáng kể số vụ ám sát mà hệ thống có thể thực hiện đồng thời.  Cho đến lúc đó, “Mossad phải mất hàng tháng, nếu không muốn nói là hàng năm, để lên kế hoạch và thực hiện một vụ tấn công,” một nhân viên văn phòng Shin Bet cho biết. Nhưng bây giờ, “từ Phòng Tác chiến Liên quân, chúng tôi có thể vận hành bốn hoặc năm vụ một ngày.”

__

CÁC HOẠT ĐỘNG XUẤT PHÁT từ JWR đã giết chết 24 người vào năm 2000, 84 người vào năm 2001, 101 người vào năm 2002 và 135 người vào năm 2003. Không giống những vụ giết người lẻ tẻ ở nước ngoài của Mossad, đúng là không thể – hoặc ít nhất là  hợp lý—để Israel có thể phủ nhận mình đứng đằng sau các vụ ám sát.

 Chuẩn tướng Yossi Kuperwasser, người đứng đầu bộ phận nghiên cứu của AMAN cho biết: “Chúng tôi không thể khẳng định rằng các hoạt động này được thực hiện bởi chính phủ Phần Lan.  Ngoài ra, còn có bằng chứng vật chất: Người Palestine đã trục vớt một số tên lửa không phát nổ do lỗi kỹ thuật và tìm thấy trên chúng có đóng dấu chữ  Do Thái MIKHOLIT (“bàn chải nhỏ”), biến thể của tên lửa chống tăng Mikhol (“bàn chải”), được sử dụng để chống người.

 Những lời chỉ trích về các vụ giết người có mục tiêu trong và ngoài Israel cũng khiến việc biện minh cho từng vụ việc là cần thiết, vạch rõ chi tiết về hành vi sai trái của nạn nhân để xác định rằng Israel có đủ lý do để đáp trả.  Dần dần, điều từng được coi là có tính hủy hoại cao—thừa nhận trách nhiệm về một vụ ám sát—cuối cùng đã trở thành chính sách chính thức.

 Dov Weissglass giải thích: “Việc tiếp tục cố gắng không chịu trách nhiệm sẽ là điều nực cười.  Vài phút sau khi trúng đạn, người Palestine sẽ lấy các mảnh vỡ của tên lửa mang tên công ty Israel ra khỏi xe.  Hơn thế nữa, chúng tôi muốn có một hiệu ứng răn đe.  Mỗi tiếng vo ve trên bầu trời Gaza và bạn sẽ thấy hàng ngàn người chạy trốn theo mọi hướng.  Họ không bao giờ có được một phút bình yên.  Dân số Gaza đã đạt đến tâm trạng mà bất cứ thứ gì chứa bức xạ điện tử, từ điện thoại di động đến máy nướng bánh mì, đều được họ coi như thứ có thể thu hút tên lửa của Israel.  Hoàn toàn hoảng loạn.”

 IDF bắt đầu đưa ra các tuyên bố sau mỗi lần trúng đích.  Đồng thời, Shin Bet, từ trước cho đến khi bắt đầu phong trào intifada vẫn cực kỳ tỏ ra miễn cưỡng duy trì liên lạc với giới truyền thông, giờ đã bắt đầu phân phát các đoạn trích của Trang Đỏ có liên quan – tóm tắt băn án ghi các hành động của những mục tiêu bị thi hành án tử – cho nhiều hãng tin khác nhau.  Israel lúc này đang sắp xếp lại hoàn toàn chính sách truyền thông của mình – trên thực tế, đang tiến hành một cuộc chiến tranh tuyên truyền.

Giải thích, thậm chí làm nổi bật, những gì từ lâu đã là bí mật quốc gia đòi hỏi ngôn ngữ mới và uyển ngữ mới.  Chẳng hạn, tên “Intifada,” với âm hưởng của một cuộc nổi dậy phổ biến, đã được thay thế bằng cụm từ  “cuộc chiến của những kẻ đánh bom liều chết”.  Cái chết của thường dân vô tội trong một chiến dịch ám sát được gọi là nezek agavi —“thiệt hại do tai nạn”—mà theo thời gian đã trở thành từ viết tắt NAZA.

 Một quan chức cấp cao trong văn phòng thủ tướng cho biết: “’Ám sát’ hoặc ‘loại bỏ’ hoặc ‘giết chết’ hoặc – hãy quên đi – ‘thủ tiêu’ đều nghe rất chói tai, không thích hợp để chúng tôi sử dụng. Vì vậy, chúng tôi đã tìm kiếm các thuật ngữ bỏ bớt một bước, có tính vô cảm, vô sinh, thể hiện cái ác mà chúng tôi đang cố gắng ngăn chặn bằng cách làm những gì chúng tôi đã làm.”  Lúc đầu, họ sử dụng từ “PAAMON”, có nghĩa là “chuông” nhưng cũng là từ viết tắt của cụm từ  “hành động ngăn ngừa”, nhưng từ đó không đủ hấp dẫn.  Sau đó, một số đề xuất khác đã bị loại bỏ, bao gồm các từ mã được cộng đồng tình báo sử dụng từ lâu, chẳng hạn như “xử lý tiêu cực”.  Cuối cùng, họ chọn thuật ngữ sikul memukad—tiếng Do Thái có nghĩa là “các hành động ngăn ngừa có mục tiêu”.  Cụm từ, trong tiếng Do Thái có âm thanh rõ ràng, mang tính công nghệ cao, đã truyền đạt mọi thứ mà cơ sở quốc phòng muốn báo hiệu với thế giới bên ngoài.

__

 MẶC DÙ NHỮNG MỸ TỪ NÀY có thể hữu ích cho các mối quan hệ công chúng, nhưng vẫn chưa rõ liệu chiến dịch giết người ngoài vòng pháp luật mới, công khai của Israel—có phải  là “các vụ ám sát” hay “các hành động ngăn ngừa có mục tiêu ”—mang tính hợp pháp hay không.

 Không có gì ngạc nhiên khi một số gia đình những người Palestine bị ám sát và nạn nhân của “thiệt hại do tai nạn” không tin như vậy.  Họ tranh thủ sự giúp đỡ của các hiệp hội nhân quyền và các luật sư Israel cánh tả cấp tiến có kinh nghiệm để kiến ​​nghị lên Tòa án Tối cao Israel ra lệnh điều tra và truy tố những người chịu trách nhiệm, hoặc ít nhất là cấm sử dụng các vụ ám sát và ra lệnh rằng chỉ có việc thực thi pháp luật thông thường nên được áp dụng cho cuộc xung đột Israel-Palestine.

Sự phản đối chính sách cũng không giới hạn ở các mục tiêu của nó.  Chẳng hạn, Thiếu tướng Aharon Zeevi-Farkash, người đứng đầu AMAN, không phản đối việc ám sát về nguyên tắc, nhưng ông cho rằng đó là hành động thiển cận một cách nguy hiểm.  Ông nói: “Mọi quyết định, mọi cân nhắc, mọi tham chiếu đến mọi chủ đề đều được nội các xem xét chỉ qua lăng kính của chính sách giết người có mục tiêu. “Thật bất ngờ, Shin Bet, vốn đã có được sức mạnh to lớn, lại là người đầu tiên được hỏi ý kiến ​​về mọi thứ.  Tôi nghĩ đó là một tình huống có vấn đề.”

 Đáng ngạc nhiên hơn, người đứng đầu trước đây của Shin Bet, Ami Ayalon, người đã đại tu hệ thống hoạt động và tình báo đã cho phép bắt đầu chương trình ám sát mới, đã đồng thuận.  Ông lập luận rằng Shin Bet đang giết người mà không xem xét trước các sự kiện chính trị và quốc tế có liên quan, và rằng họ không hiểu khi nào một vụ ám sát sẽ dập tắt ngọn lửa xung đột và khi nào nó sẽ quạt cho ngọn lửa xung đột cháy to hơn.

 Chẳng hạn, vào ngày 31 tháng 7 năm 2001, máy bay không người lái của IDF đã bắn nhiều tên lửa vào văn phòng của Jamal Mansour, một thành viên của nhánh chính trị Hamas, một thủ lĩnh sinh viên tại Đại học Al-Najah ở Nablus, và là người đứng đầu một viện nghiên cứu của Palestine.

 Anh ta bị giết cùng với một phụ tá của mình và sáu thường dân Palestine khác, trong đó có hai trẻ em.  Tuyên bố của người phát ngôn IDF cho biết, mặc dù là một nhân vật chính trị và truyền thông, nhưng anh ta có liên quan đến khủng bố và tổ chức các cuộc tấn công tự sát.  Ami Ayalon gọi cho Shin Bet và hỏi một quan chức cấp cao nhất ở đó xem họ có bị điên không.  “Tại sao, người này chỉ mới hai tuần trước đã đưa ra một tuyên bố ủng hộ việc ngừng các cuộc tấn công khủng bố và nói rằng tiến trình hòa bình nên được tạo cơ hội!”

 Vị quan chức trả lời rằng họ không biết về một tuyên bố như vậy.  “Ý anh là gì, khi nói ‘không biết’?”  Ayalon nổi giận.  “Tất cả các tờ báo Palestine đều đưa tin đó!  Cả thế giới đều biết!”

 Một vụ ám sát khác mà Ayalon không đồng ý là vụ ám sát Raed Karmi, một trong những thủ lĩnh của Tanzim, lực lượng dân quân có vũ trang của Fatah.  Tanzim đã bắt đầu thực hiện các cuộc tấn công khủng bố, và Trang đỏ của Karmi ngày càng dài hơn do các vụ sát hại thương nhân, người định cư và binh lính Israel ở các vùng lãnh thổ bị chiếm đóng.  Karmi đã sống sót sau một số vụ ám sát, và y đã thực hiện các biện pháp phòng ngừa đặc biệt khi thực hiện công việc kinh doanh của mình.

 Cuối cùng, Shin Bet đã tìm thấy một điểm yếu.  Karmi thường xuyên đến thăm tình nhân của y vào buổi chiều, vợ một cấp dưới của y, luôn đi trên cùng một lối đi bộ dọc theo bức tường quanh nghĩa trang Nablus, ôm lấy bức tường vì sợ rằng một máy bay không người lái của Israel có thể bay lơ lửng trên đầu.  Một đêm nọ, các đặc nhiệm của đội Chim đã thay thế một trong những viên đá của bức tường trên con đường đó bằng một viên mới chứa đầy vật liệu nổ mạnh.  Ngày hôm sau, khi Karmi đi đến chỗ hẹn hò với người tình, quả bom đã được kích nổ bằng điều khiển từ xa và y bị giết ngay lập tức.

 Ayalon không nghi ngờ rằng Karmi có liên quan đến khủng bố, nhưng ông nói rằng thời điểm được chọn – giữa lúc Hoa Kỳ đang ráo riết đưa ra sáng kiến ngừng bắn, mà Arafat đã tuyên bố ủng hộ – là một sai lầm và trên thực tế, khiến cho hành động đó là không hợp pháp  “Các quy tắc chiến tranh tồn tại để làm cho chiến tranh có thể kết thúc, để đảm bảo rằng chúng không tiếp tục leo thang.  Cấm thực hiện các hành động hiếu chiến khi rõ ràng là chúng sẽ chỉ khiến cho viễn cảnh kết thúc xung đột càng xa vời hơn.”  Ayalon tuyên bố rằng sau khi Karmi bị giết, Fatah đã tham gia sâu hơn vào khủng bố và thậm chí đã bắt đầu thực hiện các cuộc tấn công liều chết.

 Giám đốc Shin Bet Dichter nói với Ayalon rằng anh ấy, Ayalon, không nắm rõ tin tình báo lắm, rằng Karmi đã tham gia vào việc lập kế hoạch tấn công, và cả y và Arafat đều không có thiện chí thực sự nào để chấm dứt khủng bố.  Vì không có một đôi tai nào trong Shin Bet chịu lắng nghe, Ayalon đã gọi cho bộ trưởng quốc phòng trong chính phủ Sharon, Benjamin “Fuad” Ben-Eliezer, và lớn tiếng mắng mỏ ông ta: “[U.S.  Ngoại trưởng Colin] Powell sắp có chuyến thăm và Arafat đang tìm kiếm cơ hội để nối lại tiến trình hòa bình.  Ông ta đã ra lệnh cho tất cả các lực lượng của mình cấm tấn công khủng bố.”  Ayalon trích dẫn thông tin tình báo cập nhật rằng mệnh lệnh của Arafat đã có tác động đến cuộc tranh luận nội bộ ở Fatah, trong đó chính Karmi đã tham gia.  “Vậy chuyện gì xảy ra nếu Shin Bet cứ muốn giết anh ta ?  Tại sao lại cần thiết phải giết một trong những người của Arafat vào đúng thời điểm này?  Chỉ vì để có một cơ hội hành động?

Ben-Eliezer, theo lời kể của Ayalon, đã nói với mình, “Anh muốn gì ở tôi?  Đó là ý muốn của tên Dichter điên rồ đó.”  Ayalon trả lời, “Ông là bộ trưởng quốc phòng, không phải Dichter.  Đây là cuộc gọi cho ngài, không phải của anh ta.”

 “Tôi gọi đó là sự tầm thường của cái ác,” Ayalon sau đó nói, mượn nhận xét của Hannah Arendt [nhà triết học chính trị và tác giả người Do Thái sống sót qua thảm họa diệt chủng Holocaust: ND] về điều gì sẽ xảy ra khi những người bình thường bị đặt vào những tình huống bại hoại buộc họ phải tuân phục.  “Bạn đã quen với việc giết chóc.  Mạng sống con người trở thành một thứ gì đó tầm thường, dễ dàng bị vứt bỏ.  Bạn dành một phần tư giờ, hai mươi phút, để xem phải giết ai.  Và bỏ ra hai, ba ngày để tính phải giết cách nào.  Bạn đang giải quyết các chiến thuật, không phải các hệ lụy.”

__

 MẶC DÙ NGƯỜI ISRAEL CÓ THỂ không xem xét đầy đủ các tác động đạo đức của chương trình mới, nhưng họ nhận thức được rằng họ cần cung cấp vỏ bọc pháp lý cho các sĩ quan và cấp dưới, những người sau này có thể bị truy tố, ở Israel hoặc nước ngoài.  Vào đầu tháng 12 năm 2000, tham mưu trưởng IDF Shaul Mofaz đã triệu tập người đứng đầu Cơ quan Quân Pháp, Thiếu tướng Menachem Finkelstein, đến văn phòng của ông.

Mofaz nói với Finkelstein: “Tôi cho rằng anh biết Israel đôi khi có chính sách ‘xử lý tiêu cực’. Trong tình hình pháp lý hiện tại, Israel có được phép công khai giết những cá nhân được xác định có liên quan đến khủng bố không?  Nó hợp pháp hay bất hợp pháp?”

 Finkelstein choáng váng.  “Ngài có nhận ra những gì ngài đang hỏi tôi không, Tham mưu trưởng?”  ông ấy đã trả lời.  “Rằng tổng chưởng lý của IDF sẽ cho ngài biết khi nào ngài có thể giết người mà không cần xét xử?”

 Mofaz hoàn toàn nhận thức được điều đó.  Ông hỏi lại: ám sát nghi phạm có hợp pháp không?

 Những kẻ khủng bố Palestine?

 Finkelstein nói với ông ta rằng đó là một vấn đề tế nhị và phức tạp, một vấn đề đòi hỏi phải nghiên cứu so sánh các đạo luật trên toàn thế giới, thậm chí có thể là phát minh ra một khái niệm pháp lý hoàn toàn mới.  “Inter arma enim silent leges,” cuối cùng ông nói, trích lời Cicero.  Trong thời chiến, luật lệ đều im bặt.

 Tuy nhiên, ông đã ra lệnh cho một nhóm luật sư trẻ sáng giá trong IDF tìm ra giải pháp.  Vào ngày 18 tháng 1 năm 2001, một ý kiến ​​pháp lý tuyệt mật do Finkelstein ký đã được đệ trình lên thủ tướng, tổng chưởng lý, Tổng tham mưu và cấp phó của ông, và giám đốc Shin Bet.  Với tiêu đề “Tấn công những người liên quan trực tiếp đến các cuộc tấn công chống lại người Israel”, tài liệu mở đầu bằng tuyên bố sau: “Trong khuôn khổ của ý kiến ​​này, lần đầu tiên chúng tôi bắt đầu phân tích câu hỏi về tính hợp pháp của việc ngăn chặn được khởi xướng”.  —một lối nói uyển chuyển khác—“những hành động do IDF thực hiện… IDF và Shin Bet đã cho chúng tôi biết rằng những hành động đó được thực hiện để cứu mạng sống của thường dân Israel và các thành viên của lực lượng an ninh.  Do đó, về nguyên tắc, đây là một hoạt động dựa trên cơ sở đạo đức của các quy tắc liên quan đến quyền tự vệ, một trường hợp ‘Kẻ nào đến giết bạn, hãy bật dậy và giết hắn liền.’”

 Lần đầu tiên, một công cụ pháp lý đã được đề xuất để ủng hộ việc lực lượng an ninh thi hành án ngoài vòng pháp luật.  Ý kiến ​​lưu ý rằng các tác giả của nó đã cố gắng hết sức để tìm ra “sự cân bằng giữa quyền được sống của một con người và nghĩa vụ của các cơ quan an ninh trong việc bảo vệ công dân của nhà nước.”

 Đối với Finkelstein, đó là một thời điểm khó khăn.  Là người sùng đạo, thông thạo Kinh Thánh, ông đau đớn nhận ra rằng Thiên Chúa đã ngăn cản Vua Đavít xây dựng Đền Thờ vì ngà vua đã thay mặt dân tộc Israel giết quá nhiều kẻ thù.  Finkelstein tự hỏi liệu một ngày nào đó mình có bị trừng phạt hay không.  “Tôi đưa ra ý kiến ​​với đôi tay run rẩy,” ông nói.  “Rõ ràng đây không phải là vấn đề lý thuyết, và họ sẽ tận dụng nó.”

 Ý kiến ​​​​về cơ bản đã điều chỉnh lại mối quan hệ pháp lý giữa Israel và Palestine.  Xung đột không còn là vấn đề của cơ quan thực thi pháp luật, của việc cảnh sát bắt giữ những kẻ tình nghi để họ có thể ra tòa.  Thay vào đó, intifada là một “cuộc xung đột vũ trang không có chiến tranh”, nhưng áp dụng luật chiến tranh.  Những luật đó cho phép tấn công kẻ thù ở bất cứ đâu, miễn là có sự phân biệt giữa chiến binh và thường dân.

 Trong các cuộc chiến tranh cổ điển, sự phân biệt đó tương đối dễ dàng: Các thành viên trong lực lượng vũ trang của đối phương, miễn là họ đang phục vụ, là những mục tiêu hợp pháp.  Tuy nhiên, trong cuộc đối đầu giữa Israel và Palestine, sự khác biệt là khó hơn nhiều để thực hiện.  Kẻ thù là ai?  Làm thế nào có thể xác định được y?  Khi nào, nếu có, thì y không còn là kẻ thù nữa?

 Dư luận đặt ra một loại người tham gia mới trong xung đột vũ trang: “chiến binh bất hợp pháp” tham gia vào các hoạt động vũ trang nhưng không phải là một người lính theo nghĩa đầy đủ của từ này.  Thuật ngữ này bao gồm bất kỳ ai hoạt động trong một tổ chức khủng bố, ngay cả khi hoạt động của y là cận biên.  Miễn y là một thành viên tích cực trong tổ chức, y sẽ được coi là một chiến binh — ngay cả khi y đang ngủ trên giường — không giống như một người lính đang nghỉ phép đã cởi bỏ quân phục.

 Cách giải thích mở rộng về “các chiến binh” này đã dẫn đến, trong các cuộc thảo luận kéo dài ở Phòng Luật pháp Quốc tế (ILD) của Cơ quan Quân pháp IDF, đến một vấn đề gọi là “Vấn đề Anh nuôi Syria”: Nếu Israel ở trong tình trạng chiến tranh bình thường với Syria, bất kỳ chiến binh Syria nào cũng có thể bị giết một cách hợp pháp, ngay cả một anh nuôi quân đội ở hậu phương.  Do đó, theo tiêu chuẩn này, với định nghĩa rộng rãi về “chiến binh bất hợp pháp” trong cuộc xung đột giữa Israel và Palestine, có thể cho rằng bất kỳ người nào hỗ trợ Hamas cũng sẽ đủ điều kiện trở thành mục tiêu.  Điều này có thể bao gồm một người phụ nữ đã giặt quần áo của kẻ đánh bom tự sát trước khi anh ta bắt đầu thực hiện nhiệm vụ của mình hoặc một tài xế taxi cố ý đưa  kẻ hoạt động từ nơi này sang nơi khác.

Điều đó, theo ý kiến, là quá cực đoan.  Ý kiến ​​​​quy định rằng chỉ những người mà ta có được “thông tin chính xác và đáng tin cậy rằng y sẽ thực hiện các cuộc tấn công hoặc cử những kẻ tấn công” mới có thể được coi là mục tiêu nhắm tới.  Hơn nữa, ám sát không thể được sử dụng như hình phạt cho những hành vi trong quá khứ, cũng không phải là biện pháp răn đe đối với các chiến binh khác.  Nó chỉ có thể được sử dụng khi “gần như chắc chắn rằng mục tiêu đó trong tương lai sẽ tiếp tục thực hiện các hành động như thế này”.

 Ý kiến ​​​​cũng nhấn mạnh rằng, bất cứ khi nào có thể, nên bắt giữ hơn là giết ai đó, đặc biệt là ở những khu vực do IDF kiểm soát.  Không giống như quân nhân chuyên nghiệp trong chiến tranh thông thường, những người tham gia chiến đấu bất hợp pháp không được hưởng quyền miễn trừ hình sự hoặc tình trạng tù nhân chiến tranh, vì vậy họ vẫn có thể bị bắt và xét xử trong các thủ tục tố tụng hình sự thông thường.

 Khi giết chóc là cần thiết, nguyên tắc “tương xứng” vẫn phải được áp dụng.  Ý kiến ​​quy định rằng bất kỳ vụ giết người nào cũng phải được ngăn chặn càng nhiều càng tốt, để “tổn thất ngoài dự kiến về người và và tài sản trong hành động tác chiến” sẽ không “vượt quá mức lợi ích quân sự mong đợi từ hành động”.

 Cuối cùng, chỉ thủ tướng hoặc bộ trưởng quốc phòng mới có thể ký Trang đỏ.

 Tài liệu được các sĩ quan Israel hoan nghênh với sự thở phào nhẹ nhõm.  “Đó là một dấu ấn xác nhận rằng chúng tôi đang làm việc phù hợp với các tiêu chí của luật pháp quốc tế,” phó giám đốc Shin Bet Diskin cho biết.  Vào năm 2003, tiểu bang đã đệ trình một phiên bản quan điểm không được phân loại lên Tòa án Tối cao và được khẳng định vào năm 2006.

 Nhưng trong khi Finkelstein có thể lý luận rằng Israel phải tuân thủ luật pháp quốc tế, thì dư luận quốc tế lại là một vấn đề hoàn toàn khác.

__

 TRÊN BÀN LÀM VIỆC CỦA MÌNH, THỦ TƯỚNG Sharon để một cuốn sách nhỏ mà ông thỉnh thoảng lấy ra để chia sẻ với các nhà ngoại giao đến thăm.  Ông ta nhận được nó từ Cảnh sát Israel, và nó chứa những bức ảnh màu chụp một chiếc xe buýt vài phút sau khi một kẻ khủng bố liều chết cho nổ tung bên trong nó.  Những thi thể bị mất đầu và tay chân nằm rải rác ở mọi ngóc ngách.  Ngọn lửa đã làm cháy xém quần áo của các nạn nhân và khiến da họ nổi những vệt xanh lục và xanh lam.  Dov Weissglass, tham mưu trưởng và là người bạn tâm giao của Sharon, nói: “Khi một nhà ngoại giao phiền phức đó đến nói chuyện với chúng tôi một lần nữa về việc tiêu diệt tên khủng bố này hay tên khủng bố kia.  Để trả lời, ông lật từng trang, hết bức này đến bức khác cho ông ta xem, và quan sát đôi mắt mở to của ông ta khi chứng kiến ​​cảnh tàn bạo trong ảnh. Thủ tướng không chừa cho ông ta dù chỉ một hình chụp một cơ thể méo mó hay cái cổ không đầu.  Khi khách xem xong, ông bình tĩnh hỏi: ‘Bây giờ hãy nói cho tôi biết: Ngài có sẵn sàng cho phép một điều như vậy xảy ra hằng ngày trên đất nước của mình hay không?’”

 Để cung cấp cho Sharon nhiều tư liệu hơn dành cho các nhà ngoại giao xem, nhân viên của Weissglass đã mua nhiều bức ảnh từ một cơ quan báo chí Palestine chụp những người Ả Rập bị hành quyết vì nghi ngờ hợp tác với Israel.  Một số người trong số đó thực sự là đặc vụ của Shin Bet và một số chỉ là nạn nhân của việc trả thù cá nhân ác ý.  Một số vụ hành quyết được mô tả là do Muhammad Tabuah, một thủ lĩnh băng đảng địa phương có biệt danh là Hitler thực hiện để thỏa mãn tính tàn ác của hắn.  Weissglass nói: “Y thường bắn họ như những con chó, với một đám đông giết người vây quanh y. Người Palestine trông giống như một đám đông điên cuồng hỗn loạn.”

Tất nhiên, Sharon đã không chia sẻ bất kỳ thông tin do thám nào về hậu quả các cuộc tấn công của Israel.  Và, trong mọi trường hợp, các phương tiện trực quan của ông ta cuối cùng cũng ít được sử dụng: Phần còn lại của thế giới tiếp tục chỉ trích chương trình giết người có mục tiêu, cũng như việc Sharon tích cực mở rộng các khu định cư Do Thái ở các vùng lãnh thổ bị chiếm đóng.  Các nhà ngoại giao từ nhiều quốc gia lập luận rằng có mối liên hệ giữa hai chính sách đó với việc người Israel đổ máu trên đường phố.  Ngay cả Hoa Kỳ cũng coi chính sách giết người có mục tiêu là bất hợp pháp, nếu không muốn nói là một tội ác chiến tranh hoàn toàn, và các khu định cư là một hành động khiêu khích không cần thiết.

 Sharon bác bỏ những tuyên bố như vậy.  “Vấn đề của tôi,” ông tuyên bố, “là tôi đã được sinh ra từ lâu, rất lâu trước tất cả các bạn, phải không?  Và tôi nhớ hàng ngàn người Do Thái đã bị người Ả Rập sát hại trước khi chiếm đóng.  Không có mối liên hệ nào giữa hai thứ.”

Tuy nhiên, ông nhận ra rằng một số thỏa thuận phải được thực hiện với Hoa Kỳ nếu ông có hy vọng xoa dịu phần còn lại của thế giới.  “Nếu có một bài học mà tôi học được từ thời kỳ đó,” Sharon nói, đề cập đến nhiệm kỳ bộ trưởng quốc phòng của mình vào những năm 1980, “thì đó là đừng bao giờ gây chiến với người Mỹ.”

 May mắn thay, Sharon đã có mối quan hệ với Tổng thống George W. Bush, người nhậm chức cùng thời điểm với ông.  Bush đã đến Israel vào tháng 11 năm 1998, ngay sau khi tái đắc cử thống đốc bang Texas, trong một chuyến thăm do các doanh nhân Đảng Cộng hòa gốc Do Thái ở Texas tổ chức như một bước đệm để tiến tới Nhà Trắng.  Vào thời điểm đó, Sharon vẫn còn là một người hạ đẳng về mặt chính trị, nhưng ông và Thống đốc Bush đã đi thăm đất nước trên một chiếc trực thăng.  Sharon thuyết trình cho thống đốc về các mối đe dọa an ninh mà Israel phải đối mặt và mua vui cho ông bằng những câu chuyện về chiến công quân sự của mình.  Cuối cùng, Bush bị thuyết phục rằng “Sharon là người mà ông ấy có thể tin tưởng,” Fred Zeidman, một trong những người tổ chức chuyến đi, cho biết.  Thống đốc đã bị ảnh hưởng sâu sắc bởi chuyến tham quan và nhiều lần nhấn mạnh: “Là một người Texas, thật khó để tin rằng Israel nhỏ bé như thế nào…dân số nhỏ như thế nào, nằm qua suốt những chiều dài lịch sử, giữa các chiến tuyển kẻ thù và các trung tâm dân số.”

 Hai năm rưỡi sau, ngay sau chiến thắng áp đảo của mình, Sharon tới Washington.  Các trợ lý sắp xếp chuyến thăm đã nói với những người đồng cấp Mỹ của họ rằng Sharon nghi ngờ Hoa Kỳ như thế nào và ông đã bị tổn thương như thế nào bởi thái độ của nước này đối với cá nhân ông trong hai thập kỷ trước đó.  Tổng thống Bush đã nghe các báo cáo và ra lệnh thực hiện mọi việc để khiến Sharon cảm thấy được chào đón: các cuộc gặp gỡ với tất cả các quan chức cấp cao nhất của chính quyền, sự chiêu đãi nồng nhiệt của tổng thống tại Nhà Blair (Nhà khách Tổng thống), một đội cận vệ danh dự và hai mươi mốt phát đại bác chào mừng.  Cố vấn đối ngoại của ông, Shalom Turgeman, nhớ lại: “Sharon đang ở trên mây. Ngay cả ông ấy, vốn là người hoài nghi và yếm thế, cũng không thể không bị ảnh hưởng bởi cách đối xử này, và ông ấy nhận ra rằng họ thực sự muốn hợp tác với mình.”

 Cuối cùng, Weissglass đề xuất một ý tưởng với Sharon.  “Arik,” anh ấy nói, “bất kỳ sự ấm áp, hỗ trợ và tình bạn nào mà ngài có thể nhận được từ chính phủ Hoa Kỳ với vai trò là một chiến binh chống khủng bố sẽ biến mất khi ngài đội chiếc mũ siêu định cư của mình. Ngài càng thể hiện sự tuân thủ đối với các yêu cầu của người Mỹ trong việc ngăn chặn dự án định cư, thì người Mỹ càng chểnh mảng với ngài khi nói đến việc loại bỏ những kẻ xấu ”.

Với sự đồng ý của Sharon, Weissglass đã bí mật thực hiện một thỏa thuận với Cố vấn An ninh Quốc gia Hoa Kỳ Condoleezza Rice và cấp phó của bà, Stephen Hadley: Israel sẽ giảm đáng kể việc xây dựng các khu định cư mới để đổi lấy sự ủng hộ của Mỹ trong cuộc chiến với người Palestine và  chính sách giết chóc các mục tiêu của Israel.

 Weissglass nói: “Sau đó, có một sự không cân xứng hoàn hảo.  “Một mặt, các biện pháp nghiêm khắc nhất của chúng tôi đối với người Palestine không bao giờ bị quở trách—sự im lặng, hoặc đôi khi là biểu hiện hối tiếc bắt buộc nếu những người vô tội bị trúng đạn.  Mặt khác, bất kỳ một công bố nào đó, dù cho trên một số blog cánh hữu ngoài lề, viết về một khu định cư được lên kế hoạch, thì lập tức  tôi sẽ nhận được một cú điện thoại lúc 3 giờ sáng.  từ Condi [Rice], tuôn ra một tràng mắng mỏ.

 Vào thời điểm Tổng thống Bush nhận được xác nhận từ các đại diện của ông ở Israel và các vùng lãnh thổ mà Sharon đã giữ lời, sự hợp tác hoạt động và tình báo giữa hai nước đã sâu sắc hơn đáng kể.  Mặc dù vẫn còn rất nhiều lời chỉ trích từ các quốc gia ở Châu Âu, Hoa Kỳ vẫn tiếp tục sử dụng quyền phủ quyết của mình tại Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc để ngăn chặn các nỗ lực lên án Israel về các vụ ám sát.  Cuối cùng, các quốc gia Ả Rập đơn giản là từ bỏ và ngừng đệ trình kiến ​​nghị về chủ đề này.

VÀO NGÀY 11 THÁNG 9, những tên không tặc JIHAD đã lao hai chiếc máy bay vào tòa tháp Trung tâm Thương mại Thế giới và chiếc thứ ba vào Lầu Năm Góc.  Chiếc thứ tư rơi xuống cánh đồng Pennsylvania sau khi những tẻn không tặc bị hành khách áp đảo.

Thiếu tướng Giora Eiland, người đứng đầu Hội đồng An ninh Quốc gia Israel cho biết: “Ngay lập tức, những lời phàn nàn chống lại chúng tôi đã chấm dứt.  Chúng đơn giản là lập tức biến mất khỏi chương trình nghị sự [quốc tế].”

Nhiều thập kỷ Israel cố gắng giải thích các biện pháp quyết liệt của mình với phần còn lại của thế giới giờ đây đột nhiên trở nên không cần thiết.  Mọi người, trong một lúc, dường như đã ngộ ra.  Sharon ngay lập tức ra lệnh cho các tổ chức tình báo cung cấp cho người Mỹ tất cả các hồ sơ về “Blue Troll”, tên mã cho sự phát triển của tổ chức Al Qaeda ở Sudan và các thông tin tình báo liên quan khác.  Sau đó, ông ra lệnh cho Shin Bet và IDF chia sẻ kinh nghiệm của họ với những vị khách đến từ nước ngoài để học hỏi từ đất nước có chương trình chống khủng bố tốt nhất thế giới.

Diskin, người tiếp đón các vị khách cấp cao cho biết: “Có một dòng người đến đây.  Sharon đã ban hành các chỉ thị, như một phần trong mối quan hệ của ông với Bush, “để cho họ [người Mỹ] thấy mọi thứ, cung cấp cho họ rất nhiều thứ, cho phép tiếp cận mọi nơi, kể cả Phòng Tác chiến Liên quân, ngay cả trong các hoạt động ngăn chặn.”

Người Mỹ quan tâm nhất đến việc tìm hiểu cách thức hoạt động của hệ thống ám sát tích hợp tất cả các vũ khí tình báo và cách thức Israel đã phát triển khả năng thực hiện một số hoạt động đồng thời.  Chính hệ thống bị quốc tế lên án chỉ vài tuần trước đó giờ đã trở thành một mô hình để sao chép.

Diskin nói: “Các cuộc tấn công vào ngày 11/9 đã mang lại cho cuộc chiến của chúng tôi tính hợp pháp quốc tế tuyệt đối.  Chúng tôi đã có thể cởi bỏ hoàn toàn những sợi dây ràng buộc mình.”

Một phụ nữ được mang đi sau một vụ nổ bom liều chết trong một khách sạn. Đây là một trong những ảnh chụp mà Sharon bắt các vị khách ngoại giao phải xem khi ông tranh luận về việc cần thiết phải sử dụng các vụ giết người có mục tiêu như một công cụ bảo vệ an ninh quốc gia.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét