Thứ Năm, 15 tháng 6, 2023

BẬT DẬY VÀ GIẾT LIỀN : Bài 8

 

Ronen Bergman

Trần Quang Nghĩa dịch

CHƯƠNG 8 : MEIR DAGAN VÀ TÍNH CHUYÊN NGHIỆP CỦA ÔNG

 SAU VỤ CHIẾM ĐÓNG CỦA ISRAEL, người Palestine ở Gaza và Bờ Tây – cả những người tị nạn và những người luôn sống ở đó – đều thấy mình bị thống trị bởi kẻ thù, nhà nước Do Thái mà PLO đã thề sẽ tiêu diệt.  Những người Palestine trước đây không tham gia cũng như không quan tâm đến chính trị dân tộc chủ nghĩa giờ đây đã bị cuốn vào vòng xoáy của các trào lưu xung đột — quyết tâm của người Israel trong việc kiểm soát các vùng lãnh thổ bị chiếm đóng và quyết tâm của PLO đánh đuổi người Israel.

 Tất cả họ đều đã sống dưới chế độ Ả Rập độc tài và tàn ác, nhưng một người Palestine có thể đã chọn sống cách ly gần như hoàn toàn khỏi cuộc xung đột vũ trang đang diễn ra ở biên giới giữa các quốc gia Ả Rập và Israel.  Giờ đây, các trại, vốn đã phát triển thành các khu ổ chuột đông đúc, và các thành phố lớn của Palestine – Gaza, Nablus, Ramallah, Jenin và Hebron – là chiến trường chính khi Israel tích cực cố gắng khẳng định quyền lực của mình trước hoạt động khủng bố của PLO.

 Nhiệm vụ của IDF và các binh sĩ của nó, đặc biệt là thanh niên từ mười tám đến hai mươi mốt tuổi thực hiện nghĩa vụ quân sự bắt buộc, có hiệu lực từ năm 1949, cũng đã trải qua một sự thay đổi cơ bản.  Trong khi trước đây, các đội quân chiến đấu tuần tra biên giới của đất nước, bảo vệ nó khỏi những kẻ thù bên ngoài, thì giờ đây, họ được giao nhiệm vụ kiểm soát các thành phố và thị trấn của Palestine.  Cuộc chiến cũng dẫn đến những thay đổi sâu sắc trong cộng đồng tình báo.  Mossad, chịu trách nhiệm thu thập tình báo bên ngoài biên giới của Israel, từ bỏ trách nhiệm đối với các vùng lãnh thổ mới bị chiếm đóng.  Nhiệm vụ đó thuộc về Shin Bet, một cơ quan nhỏ với khoảng bảy trăm nhân viên trước đây chịu trách nhiệm chính trong việc chống lại hoạt động gián điệp và lật đổ chính trị.

 Từ năm 1968 đến năm 1970, trong khi các cuộc tấn công của PLO vào binh lính và dân thường Israel ngày càng thường xuyên hơn, hiệu quả hơn và gây chết người hơn,  thì Shin Bet đang mở rộng nhanh chóng.  Họ có được ngân sách, cơ sở vật chất và phân bổ nhân sự và tiếp nhận nhiều người nói tiếng Ả Rập từ AMAN, đặc biệt là Đơn vị 504, người chịu trách nhiệm tuyển dụng các nguồn tin gốc Ả Rập.  Chẳng bao lâu, chống lại chủ nghĩa khủng bố của người Palestine đã trở thành mục tiêu chính của tổ chức.

 Nơi diễn ra các hoạt động khắc nghiệt nhất là Dải Gaza, một trong những khu vực đông dân cư nhất trên thế giới.  Sau Chiến tranh 6 Ngày, người Israel đã lái xe qua Dải để đến Sinai, tìm kiếm các thỏa thuận mua bán tại các khu chợ ở đó, và săn lùng các trang trại và công nhân xây dựng Palestine.  Năm 1970, Israel bắt đầu thiết lập các khu định cư Do Thái ở Dải và phía bắc Sinai.  Ngày càng nhiều, người Israel bị tấn công.  Đỉnh điểm là vào năm 1970, khi 500 vụ tấn công khủng bố được thực hiện ở Dải Gaza.  Mười tám thường dân Israel đã bị sát hại trong những vụ việc này, và hàng trăm người bị thương.  Đến lúc đó, IDF chỉ có thể kiểm soát các tuyến giao thông vận tải chính;  PLO cai trị mọi nơi khác.

Để trấn áp nỗi kinh hoàng ở Dải, Shin Bet đã lập ra một danh sách các nghi can Gaza có liên quan đến các cuộc tấn công nhằm vào người Israel.  Một lượng lớn thông tin đã được thu thập và danh sách ngày càng dài ra.  Rõ ràng là Shin Bet – một tổ chức thu thập thông tin tình báo – không thể tự hoạt động.  Để bắt hoặc loại bỏ những kẻ bị truy nã, nó cần nhân lực — và hỏa lực — của quân đội.  Shinbet tìm được một người chịu lắng nghe là Thiếu tướng Ariel “Arik” Sharon, người được bổ nhiệm đứng đầu Bộ chỉ huy phía Nam của IDF vào năm 1969. Sharon bắt đầu giới thiệu ngày càng nhiều đơn vị quân đội vào Dảy Gaza để hỗ trợ Shin Bet săn lùng và bắt giữ hoặc tiêu diệt những kẻ khủng bố.  Thông tin tình báo về các hoạt động này chủ yếu được cung cấp bởi những kẻ đưa tin người Palestine hoặc do các ​​chiến binh Palestine bị giam giữ khai ra sau những phen thẩm vấn khắc nghiệt.

 Không phải ai cũng đồng ý với cách tiếp cận tích cực của Sharon.  Chuẩn tướng Yitzhak Pundak, thống đốc quân sự của Dải Gaza, chịu trách nhiệm về các vấn đề dân sự, khẳng định rằng cách để kiềm chế khủng bố của người Palestine là cải thiện chất lượng cuộc sống cho cư dân của lãnh thổ và cho phép họ tự quản lý các vấn đề dân sự và thành phố, với  sự hiện diện quân sự tối thiểu tại các khu vực có người sinh sống.  “Khua kiếm và giết chỉ để giết không thể đưa chúng ta đi đến đâu cả trừ đến một intifada, ”hoặc một cuộc tổng nổi dậy, Pundak nói.  “[Bộ trưởng Bộ Quốc phòng] Dayan và Sharon không cùng quan điểm về những gì phải làm ở Dải.  Dayan muốn giao tiếp và kết nối với dân chúng, trong khi Sharon đang săn lùng những kẻ khủng bố và chỉ có thể nhìn thấy chúng qua kính ngắm của khẩu súng trường của ông ta, và không hề quan tâm đến người dân”.

Pundak kinh hoàng trước chiến thuật của Sharon và phàn nàn một cách cay đắng.  “Tôi nghe Sharon tuyên bố trước mặt tất cả các sĩ quan,“ Ai giết được một tên khủng bố sẽ nhận được một chai sâm panh, và ai bắt được tù binh sẽ nhận được một chai soda. ”Tôi nói,“ Lạy Chúa, chính sách kiểu gì vậy?  Ai phát ngôn như thế ?  Rốt cuộc, nếu chúng ta không thể giúp đỡ họ được một chút, một chút thịnh vượng, thì tất cả bọn họ đều sẽ đi đến con đường khủng bố.’”

 Sharon khẳng khăng rằng không có hy vọng sống hoà thuận với người Palestine.  Các cuộc tấn công khủng bố phải được đáp trả bằng vũ lực, và không có ai ở phía bên kia để nói chuyện hòa bình, ông một mực khẳng định.  Nếu mục tiêu của Arafat và phần còn lại của ban lãnh đạo PLO là tiêu diệt Israel, thì điều gì còn lại để đàm phán nữa?

__

 CÁC ĐƠN VỊ QUÂN ĐỘI CHÍNH QUY trong Bộ chỉ huy phía Nam của Sharon còn có các nhiệm vụ khác, như tuần tra đường biên giới dài với Ai Cập và tham gia các trận chiến nổ ra trong Cuộc chiến tranh Tiêu hao kéo dài ba năm dọc theo kênh đào Suez, vì vậy Sharon cần một đơn vị có nhiệm vụ duy nhất là  chống khủng bố.  Không kém phần quan trọng, Sharon muốn tạo ra một nhóm nhỏ, khép kín, những người sẽ báo cáo trực tiếp với ông ta và hoạt động theo cùng một tư duy và quy tắc.

Khi đến thời điểm quyết định chọn người có thể lãnh đạo đơn vị mới,  ngay lập tức tâm trí Sharon hướng về Meir Dagan, nhớ lại một sự cố ở phía bắc Sinai vào giữa năm 1969. Fatah đã đặt tên lửa Katyusha của Liên Xô, kết nối với thiết bị hẹn giờ, ở giữa một bãi mìn và  nhắm  vào một căn cứ IDF.  Không một binh sĩ hay sĩ quan nào dám đến gần các tên lửa để tước ngòi nổ của chúng.  Nhưng Dagan, khi đó là một sĩ quan trinh sát trẻ tuổi, đã bước tới.  Anh ta chỉ đơn giản là đi đến chỗ các Katyusha, ​​không hề sợ hãi, và tháo ngòi nổ của  chúng.  Anh ta khiến Sharon nhớ đến bản thân khi còn là một sĩ quan trẻ tuổi.

 Dagan sinh năm 1945. Cha mẹ anh đã chạy trốn khỏi thị trấn Łuków ở Ba Lan sáu năm trước đó, sau khi một sĩ quan Nga cảnh báo rằng quân Đức sắp đánh chiếm khu vực này và mọi thứ sẽ không tốt cho người Do Thái.  Họ tìm thấy nơi ẩn náu trên vùng đồng bằng khắc nghiệt của Siberia.  Khi chiến tranh kết thúc, cùng với hàng chục nghìn người tị nạn khác, họ quay trở lại Ba Lan mà không hề biết rằng nhà cửa của họ không còn gì và người Do Thái đã không trốn thoát được cũng không còn ai. Chính tại một ga tàu chở hàng, đâu đó ở Ukraine, mà bé Meir chào đời.  Triển vọng sống sót của bé rất mỏng manh trên một chiếc xe chở hàng chật chội và lạnh lẽo, nhưng sự chăm sóc tận tình của cha mẹ, cộng với thể chất cường tráng bẩm sinh đã cứu em.

 “Cha mẹ tôi chưa bao giờ nói về thời kỳ đó,” Dagan nói.  “Cứ như thể ai đó đã xóa những năm 1939-1945 ra khỏi lịch.  Đúng là họ đã sống sót và cứu được chúng tôi, nhưng chiến tranh khiến họ tan nát cõi lòng.  Họ không bao giờ thực sự hồi phục ”.  Chỉ có một lần cha anh chịu thổ lộ với anh về chuyến trở về quê hương đã bị phá hủy của mình.  Ông tìm thấy thung lũng chết chóc nơi những người Do Thái đã bị thảm sát và chôn cất trong một ngôi mộ tập thể, và ông muốn dựng một tượng đài để tưởng nhớ họ.  Ông đã trả tiền cho một người Ba Lan trong làng để nhờ giúp đỡ.  Người đàn ông cho ông biết  rằng trong một cuộc vây bắt người Do Thái cuối cùng của Gestapo, bọn Đức đã yêu cầu anh ta chụp ảnh.  Họ đã quên lấy cuốn phim khi rời khỏi khu vực và người đàn ông đã đưa nó cho cha của Meir.  Khi rửa ra ảnh, ông phát hiện ra rằng trong một bức ảnh có hình của chính cha mình, ông nội của Meir, tại khoảnh khắc trước khi ông bị bắn và ném xuống hố chôn tập thể.

 Cụ ông, Dov Ehrlich, với bộ râu và vành tai dài, và đôi mắt kinh hoàng, được nhìn thấy đang quỳ gối trước quân đội Đức đang cười toe toét vung súng trường có lưỡi lê.  “Chúng tôi cứ những tưởng rằng chỉ bọn phát xít cực đoan, kẻ cuồng tín, mới là những tên giết người,” ông nói.  “Sự thật là khác: Tiểu đoàn thực hiện vụ thảm sát này là một đơn vị Wehrmacht hậu phương.  Các đơn vị chiến đấu đã ở mặt trận.  Những tên này là luật sư và thương gia, những người bình thường.  Kết luận rút ra thật khủng khiếp: Bạn có thể lấy bất cứ ai và biến y thành kẻ sát nhân ”.  Bài học thứ hai của Dagan thậm chí còn quan trọng hơn: “Hãy thừa nhận sự thật: Hầu hết những người Do Thái trong Holocaust đều chết mà không chiến đấu.  Chúng ta không bao giờ được đi đến hoàn cảnh đó nữa, quỳ xuống, không dám chiến đấu cho cuộc sống của mình ”.

Sau năm năm ở Ba Lan, trong thời gian Meir học ngôn ngữ, thứ mà anh đã sử dụng nhiều thập kỷ sau với tư cách là giám đốc Mossad để phá băng trong các cuộc họp với những người đồng cấp Ba Lan, gia đình lên đường đến Ý, nơi họ lên một con tàu chở gia súc đã từng được sửa sang để chở những người nhập cư đến Israel.  Một người bạn đi cùng Dagan trên tàu nói rằng ngay cả khi đó, trong điều kiện khốn khó, hành khách quá đông đúc, Dagan “cư xử như thể anh ấy được sinh ra để trở thành một người lính”.  Trên đường đi, con tàu gần như bị đánh chìm bởi một cơn bão, và Meir một lần nữa đối mặt với cái chết, chờ đợi trên boong, đeo dây cứu sinh và nắm chặt một quả cam.  Đó là những gì anh nhớ: trái cây trong tay anh.  “Ở đó, trên tàu, đó là lần đầu tiên tôi được nếm quả cam,” anh nói, “và tôi nhớ cha tôi,  với niềm tự hào to lớn, khi cho tôi quả cam và nói rằng nó đến từ Đất Israel.”

 Sau một tháng trên biển, họ đến được Haifa.  Tại đó, các quan chức Cơ quan Do Thái đã đưa các hành khách đến một trại trung chuyển, nơi họ ngủ trong những chiếc lều ọp ẹp, và sau đó chuyển đến nơi ở tạm thời trong một trại quân đội Anh đã sơ tán gần Lod.  Sáu gia đình sống trong mỗi phòng, chỉ có một tấm rèm ngăn cách họ. Chỉ có một vòi hoa sen cho mỗi doanh trại.  Ngoài việc sắp xếp cuộc sống khó khăn, những người nhập cư còn phải đối mặt với thái độ sỉ nhục của dân Do Thái bản địa.  Những sabra, như người Israel sinh ra ở bản địa được gọi, đã đối xử với những người tị nạn Do Thái một cách khinh thường.  Thay vì chiến đấu chống lại Đức Quốc xã, những sabra buộc tội, người Do Thái ở châu Âu đã lặng lẽ xếp hàng vào phòng hơi ngạt, giống như những con cừu đến lò sát sinh.

 Dagan bỏ học trung học năm mười bảy tuổi và gia nhập Sayeret Matkal, lực lượng tinh nhuệ chuyên thực hiện các nhiệm vụ bí mật trên chiến tuyến của kẻ thù (và cũng là lò rèn mà từ đó nhiều nhà lãnh đạo quân sự và dân sự của Israel sau này xuất thân).  Trong số ba mươi tân binh của IDF tình nguyện gia nhập Sayeret Matkal vào tháng 8 năm 1963, chỉ có mười bốn người hoàn thành chương trình huấn luyện kéo dài bảy mươi lăm tuần đầy khắc nghiệt.  Một trong những người bắt đầu khóa học với Dagan là Danny Yatom, người sau này sẽ phục vụ trong một số vị trí cấp cao của IDF và là trưởng Mossad — một trong những người tiền nhiệm của Dagan.  Yatom nhớ mình đã hoảng hốt khi lần đầu tiên chạm trán với Dagan.  “Anh ta sẽ rút con dao biệt kích của mình ra và cắm nó vào mọi thân cây hoặc cột điện thoại,” anh ta nói.  “Tôi tự nghĩ rằng mình đã đến được một đơn vị gồm toàn những kẻ giết người thực sự — và có lẽ tôi không có cơ hội sống sót ở một nơi như vậy.”  Yatom đã cắt ngang khóa học, nhưng Dagan thì không.  “Nhìn lại,” Dagan nói, “và đây chỉ là suy đoán của tôi, tôi nghĩ mình thực sự không phù hợp với việc đó.  Không phải là một sabra.  Không phải là dân ở khu định cư kibbutz.  Không phải đến từ Thung lũng ”— Thung lũng Jezreel, phía đông Haifa, nơi có nhiều kibbutz, vì vậy một tỷ lệ cao những người ở đó được Sayeret tuyển dụng.  “Họ tự nghĩ, ‘Người lạ kỳ quặc này đang cố gắng chen chân vào giữa chúng ta là ai vậy? ’”

 Dagan được tuyển chọn vào lính dù và phục vụ trong đơn vị trinh sát của lữ đoàn.  Anh đã trải qua khóa học sĩ quan bộ binh và được giải ngũ với cấp bậc trung úy vào năm 1966. Trong Chiến tranh Sáu ngày, anh được gọi đi làm nhiệm vụ dự bị và giữ chức vụ chỉ huy của một đại đội nhảy dù.  Anh đã chiến đấu đầu tiên ở Sinai và sau đó là trên Cao nguyên Golan.

 “Đột nhiên, chúng tôi thấy mình đang ở trong một chuỗi chiến tranh không hồi kết,” ông nói.  “Do đâu mà tôi có cảm giác rằng sự tồn tại của Israel không được đảm bảo?  Chỉ qua đôi chân của tôi;  chỉ qua tất cả những trận chiến này. ”  Sau Chiến tranh Sáu ngày, anh lại đăng ký vào quân đội chính quy và được bổ nhiệm vào Sinai với tư cách là sĩ quan hành quân, nơi Sharon lần đầu chạm trán với anh và sự quả cảm của anh, đánh bại tên lửa Katyusha.

 Năm 1969, anh trở thành chỉ huy của đơn vị đặc nhiệm mới của Sharon.  Nó là một lực lượng nhỏ, 150 binh sĩ cừ khôi, và cực kỳ bí mật, được thừa nhận trong các tài liệu nội bộ của IDF chỉ là Số 5176. Không chính thức, nó được gọi là Sayeret Rimon – Biệt kích Lựu đạn – vì phù hiệu của nó có hình một quả lựu đạn cầm tay, một con dao và cánh dù.  Để có căn cứ, Dagan tiếp quản một biệt thự bỏ hoang trên bãi biển, ngay phía nam Thành phố Gaza, nơi từng được Tổng thống Nasser của Ai Cập sử dụng.

Dagan “có một trục trặc nghiêm trọng trong cơ chế biết sợ hãi của mình,” một trong những người lính của anh ta nói.  Theo lời mọi người, anh ấy đặc biệt táo bạo, rất tập trung và năng nổ. Và khá thích hợp, lực lượng mới của anh ta có ít thuộc tính thường được gán cho một đơn vị quân đội.  Nó tự do, hoang dã, chỉ quan tâm đến một điều: thực hiện càng nhiều hoạt động càng tốt.  Mỗi buổi sáng, Dagan sẽ xuất hiện, để ngực trần, từ phòng ngủ của mình và đi ra ngoài sân, cùng với chú chó Doberman, Paco của mình.  Anh ta rút khẩu súng lục và bắn vào những lon nước ngọt mà binh lính đã vứt rải rác xung quanh khu đất.  Sau đó, một nhóm phụ tá sẽ làm cho anh bữa sáng và đánh giày cho anh ta.  Dagan đích thân tuyển chọn những binh lính của mình  từ các đơn vị khác, tìm kiếm những chàng trai sẵn sàng đi theo bất cứ nơi nào anh ta dẫn đầu.

 Vẫn ở độ tuổi ngoài 20, Dagan bắt đầu phát triển học thuyết chiến đấu của mình, học thuyết này rất giống với học thuyết mà IDF và các cơ quan gián điệp của Israel vẫn theo đuổi cho đến ngày nay.  Nguyên tắc chỉ đạo của học thuyết là Israel nên tránh các cuộc chiến tranh lớn, bởi vì “sự chiến thắng nhanh chóng, vĩ đại của Chiến tranh Sáu ngày sẽ không bao giờ xảy ra nữa”.  Trong tương lai, anh lập luận, Israel không nên tham gia một cuộc đối đầu quân sự quy mô lớn “trừ khi thanh gươm ở ngay cổ họng của chúng ta.”  Thay vào đó, anh tin rằng, người Ả Rập có thể bị đánh bại trong một loạt các cuộc giao tranh chính xác hạn chế.  Theo đó, các thủ lĩnh của kẻ thù và các đặc nhiệm quan trọng trong khu vực này nên bị truy đuổi, săn lùng và loại bỏ không thương tiếc.

__

 ĐẾN CUỐI NĂM 1969, sau khoảng nửa năm tuyển dụng, huấn luyện và xây dựng đơn vị của mình, Dagan quyết định đã đến lúc phải vào thực địa.  Shin Bet đã giao cho anh ta một tập hồ sơ về những kẻ bị truy nã ở Dải Gaza.  Avigdor Eldan, một trong những tân binh đầu tiên của đơn vị mới cho biết: “Nhưng hồ sơ ngày càng lớn hơn.  Shin Bet ắt hẳn đã biết người mà họ đang tìm kiếm, nhưng với sự thiếu hụt hỏa lực của đại đội, nó không thể nhúng tay vào.  Tệp chứa hơn bốn trăm tên.

 Shin Bet chia danh sách truy nã thành hai loại.  Các mục tiêu “đen” chủ yếu là các đặc vụ nhỏ không biết mình bị truy nã để thẩm vấn.  Người của Dagan đã cố gắng truy quét những mục tiêu này bằng cái mà anh gọi là “nhận dạng trinh sát”.  Một đặc nhiệm PLO “đen” bị bắt sẽ bị Shin Bet thẩm vấn và nếu y từ chối hợp tác sẽ bị tra tấn.  Sau đó, y sẽ được đưa vào một chiếc taxi, ngồi giữa hai binh sĩ của Dagan, trang bị súng lục và yêu cầu y chỉ ra những nơi ẩn náu, những gia đình đã hỗ trợ PLO, các tuyến đường mà các chiến binh đi qua và hơn thế nữa.  Biệt kích Lựu đạn  theo sau bằng xe jeep hành động ngay lập tức khi thông tin được tiết lộ, bắt giữ bất cứ ai mà người cung cấp thông tin chỉ ra.

 Mặt khác, các mục tiêu “đỏ” biết rằng mình đang bị truy nã, có nghĩa là họ đã cảnh giác hơn nhiều, đã và đang chạy trốn và thường được trang bị vũ khí nặng.  Loại bỏ màu đỏ thường yêu cầu đến đủ gần để tiếp cận nhanh chóng và hạ thủ.  Theo đó, Dagan đã cử những nhân viên giỏi nhất của mình tiến sâu vào các khu dân cư của Gaza, ăn mặc như người Ả Rập và đi cùng với các cộng tác viên người Palestine, những người cho họ một vỏ bọc thuyết phục.

 Nhóm này, được thành lập cùng với Shin Bet, có mật danh là Zikit (Tắc kè hoa). Thoạt đầu chỉ có tám chiến binh tinh nhuệ đã được chọn.  Dự án Tắc kè hoa bí mật đến mức ban đầu, “chúng tôi không biết mình được đào tạo để thực hiện loại công việc gì,” Eldan nói.  “Tất cả những gì chúng tôi biết là mông mình bị xây xát, và đừng quên rằng chúng tôi đã chiến đấu rất sung sức khi đến đó.”

 Những con tắc kè hoa mang theo giấy tờ địa phương giả mạo do Shin Bet cung cấp.  Họ có thể lẻn vào trung tâm của những khu vực đông dân cư mà không bị phát hiện cho đến khi họ rút súng.

 “Chúng tôi đã khai thác điểm yếu chính của những tổ khủng bố này,” Dagan nói.  “Vì xuất thân từ chủ nghĩa Mác nên họ đã thực hành tính bảo mât rất cao.  Mỗi thành viên chỉ biết các thành viên trong tổ của mình chứ không biết thành viên  các tổ khác.  Nếu bạn xuất hiện như một người địa phương có vũ trang và có thể nói ngôn ngữ của mục tiêu, y không có cách nào biết đó thực chất là một trò lừa cho đến khi quá muộn ”.

 Ví dụ, Moshe Rubin, một thành viên kỳ cựu của đơn vị, cho biết: “Chúng tôi nhận ra rằng các tổ chức khủng bố đang lấy vũ khí và tiền của họ thông qua các con tàu từ Lebanon.  Họ sẽ đi trên một con tàu mẹ từ Beirut và ra khơi xa, ngoài khơi bờ biển Gaza, lên những chiếc thuyền đánh cá nhỏ và tiến vào bờ.  Chúng tôi tự nhủ: “Tại sao chúng ta lại không nên lên một con tàu từ Lebanon?”

Vì vậy, vào tháng 11 năm 1970, sáu tắc kè hoa đã lên một chiếc thuyền đánh cá mà Hải quân Israel kéo đến một điểm ngoài khơi bờ biển Gaza.

 Đội bao gồm ba người lính IDF Do Thái, đứng đầu là Dagan, với sự hợp tác của hai cộng sự người Palestine. Một cộng sự đã trốn thoát khỏi cuộc thảm sát những người PLO mà Vua Hussein của Jordan đã thực hiện hai tháng trước đó và biết ơn người Israel đã cứu mình.  Người còn lại, có mật danh là Submarine (Tàu ngầm), đã sát hại một người họ hàng bằng cách dùng dao găm đâm vào hộp sọ của y và đã được Shin Bet thả ra để đổi lấy sự hợp tác của anh ta.  Thành viên cuối cùng là một sĩ quan Bedouin trong IDF ở Israel, người có nhiệm vụ giám sát các tin truyền từ các micro do người Palestine mang theo. Hai người này phải đi trước những người khác và thiết lập liên lạc với những tên bị truy nã và sau đó cho những người khác biết chuyện gì đang xảy ra. Sĩ quan Bedouin cũng có một nhiệm vụ khác: thông báo cho Dagan nếu hai người Palestine có ý định phản bội ông ta..

 Biệt đội Tắc kè hoa đến bãi biển và ẩn náu trong nhà kho đóng gói bỏ hoang của một vườn cây ăn quả trong một số ngày, với những người cộng tác thỉnh thoảng thực hiện các cuộc phiêu lưu đến các trại tị nạn xung quanh.  Họ tuyên bố rằng họ là thành viên của Mặt trận Bình dân Giải phóng Palestine đến từ Lebanon.

Lúc đầu, không có ai đến.  “Họ sợ hãi chúng tôi – không phải vì họ nghĩ chúng tôi là người Israel, mà vì họ tin rằng chúng tôi là người của PLO,” một thành viên của đơn vị kể lại.  “Những kẻ khủng bố bị truy nã không phải lúc nào cũng tốt với người dân địa phương.  Họ thường tống tiền họ, đòi ngày càng nhiều thức ăn và hãm hiếp phụ nữ.  Trong những vườn cam, chúng tôi thường tìm thấy thi thể những người Ả Rập không phải do chúng tôi giết mà bởi các tên bị truy nã, những kẻ đã giải quyết tư thù cá nhân bằng cách chụp mũ họ là người cộng tác với Israel ”.

 Trong một hoạt động dàn dựng để tạo dựng uy tín, nhóm đã bị “phát hiện” bởi một đội tuần tra IDF nổ súng và giả vờ đuổi theo.  Dagan và người của anh trốn đến một khu vực cồn cát ở phía nam trại tị nạn Beit Lahia.

 Cuộc giao tranh đã khơi dậy sự quan tâm của người dân địa phương.  “Tàu ngầm” đã tổ chức một cuộc họp giữa nhóm Tắc kè hoa và một phụ nữ được cho là có liên hệ với các thành viên Mặt trận Bình dân bị truy nã gắt gao.  Những con Tắc kè hoa đã giết một con gà và bôi máu của nó lên băng mà họ quấn quanh cổ họng, để giải thích lý do tại sao họ không thể nói chuyện và bỏ mặc phần nói chuyện cho cộng tác viên.  “Chúng tôi đến để giúp cô,” anh ta nói với người phụ nữ.  “Đưa các chỉ huy hàng đầu đến cồn cát.”

 Sau một ngày, những kẻ khủng bố đã lộ diện.  “Có ba người trong số họ — hai người đàn ông và một phụ nữ, được trang bị vũ khí, các chỉ huy hàng đầu,” Dagan nhớ lại.  Sau khi chào nhau, Dagan thì thầm một từ khóa.  Ba người lính đã nổ súng ở cự ly gần bằng khẩu súng lục Beretta 9 ly mà họ mang theo, giết chết hai người đàn ông.  Mỗi người bị bắn từ mười lăm đến hai mươi viên.

 “Người phụ nữ không bị bắn,” Dagan nói với vẻ hài lòng.

Eldan nhớ lại rằng “sau đó Meir trượt nhanh xuống cồn cát cao mà chúng tôi đang đi về phía họ, và tước lấy khẩu súng lục Star mà một trong số họ đã rút ra được và đã sử dụng để bắn vào chúng tôi, và thực hiện việc ‘kiểm tra chết chóc’ — thêm hai viên đạn nữa  vào đầu  mỗi người.”  Dagan lấy khẩu Star cho mình và đưa bao da cho Eldan.

Sau đó, họ dẫn theo người phụ nữ và giao cô cho Shin Bet để thẩm vấn.

 VÀO MỘT BUỔI SÁNG THỨ BẢY ấm áp đầu tháng giêng, một giám đốc điều hành quảng cáo ba mươi tuổi tên là Bob Aroyo đưa gia đình đi bộ trên những ngọn đồi nhìn ra Đầm phá Bardawil, trên bờ biển Địa Trung Hải của Bán đảo Sinai.  Sinh ra ở Malta và lớn lên ở Anh, Aroyo đã chuyển đến Israel vào năm 1969 cùng vợ, Preeti, và hai con của họ, Mark và Abigail, và định cư tại một vùng ngoại ô nhỏ phía đông Tel Aviv.  Những đứa trẻ vẫn còn nhỏ — Mark bảy tuổi, Abigail năm tuổi — vì vậy Aroyo đã lên kế hoạch cho một chuyến đi bộ ngắn, nhẹ nhàng;  rồi họ sẽ lái xe về phía nam trong ngày dưới ánh nắng mặt trời và không khí trong lành, sau đó trở về nhà để ăn tối sớm.  Cả hai đứa trẻ đều xinh đẹp nổi bật và khuôn mặt của chúng là những hình ảnh quen thuộc ở Israel, vì cha chúng đã sử dụng chúng trong một số quảng cáo do ông thiết kế.

 Đến 3 giờ chiều  Aroyos đã hoàn thành chuyến đi bộ đường dài và leo trở lại chiếc Ford Cortina của họ để trở về nhà.  Họ lái xe về phía bắc qua Al-Arish trước khi tiến vào Dải Gaza, nơi họ đi qua các ngôi làng và trại tị nạn của người Palestine dọc theo đường cao tốc chính.  Vào thời điểm đó, những người Israel đến Sinai vẫn thường lái xe qua Dải, vì đây là tuyến đường ngắn nhất và dễ nhất, và cho đến thời điểm đó vẫn khá an toàn.

Ngay phía bắc thành phố Gaza, gần một nhà máy 7Up, họ bị chặn lại tại một rào chắn tạm bợ.  Một thiếu niên chạy đến bên xe và ném một quả lựu đạn vào băng ghế sau.  Vụ nổ đã thổi bay phần lớn nội thất bên trong xe, bùng phát thành quả cầu lửa.  Aroyo, bị thương, bò ra ngoài và cầu xin hai thanh niên đứng gần đó kêu cứu dùm.  Nhưng họ chỉ cười và chế nhạo.  Abigail chết trong xe.  Mark chết trong bệnh viện.  Vết thương của Preeti khiến cô bị tàn tật nặng trong phần đời còn lại.  Hai ngày sau, những đứa trẻ Aroyo được chôn cất chung trong một ngôi mộ  ở nghĩa trang cổ của Jerusalem trên Núi Oliu, trong một buổi lễ có hàng chục nghìn người Israel tham dự.  Trưởng tuyên úy của IDF, Thiếu tướng Rabbi Shlomo Goren, đã đọc một bài điếu văn.  Toàn thể Israel đều thương tiếc.

 Hai tuần sau, Shin Bet đã bắt được hung thủ. Thiếu niên đã ném quả lựu đạn là một cậu bé mười lăm tuổi tên là Mohammad Suleiman al-Zaki, đến từ khu phố Shuja’iyya của Gaza;  hai đồng phạm của cậu ta mười sáu và mười bảy.  Cả ba đều là học sinh trường trung học Falastin của thành phố, chúng đã được một đơn vị cấp cao của Fatah tuyển dụng cho hoạt động.  Cuộc tấn công vào gia đình Aroyo không phải là nhiệm vụ đầu tiên của chúng.

 Vụ sát hại Mark và Abigail Aroyo đánh dấu một bước ngoặt trong việc đối phó với lũ khủng bố sau Chiến tranh Sáu Ngày.  Meir Dagan nói: “Chúng tôi quyết định rằng mọi thứ không thể diễn ra theo cách này được nữa.“ Sau khi những đứa trẻ đó bị sát hại, Arik [Sharon] đã tự mình giải quyết vấn đề khủng bố ở Dải Gaza.”  Sharon không còn hài lòng khi nhận được báo cáo từ Dagan, mặc dù ông vẫn hoàn toàn tin tưởng vào anh ta.  Kể từ thời điểm đó trở đi, Sharon “thường xuyên đến biệt thự của chúng tôi và tham gia vào việc lập kế hoạch cho các nhiệm vụ và tuần tra của chúng tôi, đến từng chi tiết nhỏ nhất.”

 Vụ sát hại Aroyo cũng đã chấm dứt hiệu quả cuộc tranh luận bên trong cơ sở quốc phòng Israel về cách xử lý dân chúng Palestine trong các vùng lãnh thổ bị xâm chiếm.  Cách tiếp cận của Sharon đã thành công.  Các lực lượng ồ ạt đổ vào Dải Gaza và, hành động theo lệnh của Sharon, phá dỡ các ngôi nhà để tạo ra những con đường tiếp cận rộng rãi qua các trại tị nạn đông đúc.  Một đêm tháng 1 năm 1972, Sharon ra lệnh trục xuất hàng nghìn người Bedouin khỏi khu vực rộng 2.500 mẫu Anh ở phía nam Rafah.  Tướng Shlomo Gazit, người phụ trách các hoạt động của chính phủ tại các khu vực bị chiếm đóng, đã bị sốc.  Ông ta tức giận khi hay tin về hành động này vào sáng hôm sau, và đe dọa sẽ từ chức.  “Không có cách nào khác để mô tả hành động này ngoài hành động thanh trừng sắc tộc và một tội ác chiến tranh,” ông sau đó nói.

 Sharon được quyền tự do sử dụng các lực lượng đặc biệt và các đơn vị bí mật để lôi ra và tiêu diệt những tên khủng bố trước khi chúng có thể tấn công vào Israel.

 Trong khi đó, Dagan và người của ông liên tục nghĩ ra các phương pháp mới để săn lùng và xử lý những người Palestine bị truy nã này.  Một chiến thuật là phục kích họ trong các nhà chứa.  Một cách khác là nấp trong các lùm cây ở vườn cam khi biết bọn khủng bố định gặp nhau ở đó, liên lạc bằng cách kéo sợi dây câu đã giăng ra giữa họ nhằm giữ im lặng tuyệt đối.  Khi bọn khủng bố ló mặt, tất cả đều bị bắn chết.

 Họ cũng thường xuyên sử dụng một cộng tác viên người Palestine để bán những quả lựu đạn đã  bị gài bẫy cho Quân đội Giải phóng Palestine.  Các ngòi nổ sẽ được cắt từ độ trễ thông thường ba giây xuống còn nửa giây, đảm bảo rằng bất cứ ai sử dụng chúng sẽ nổ banh xác trước khi kịp ném đi. Và trong một lần, vay mượn từ Chiến dịch Thái Thịt, một mưu đồ của Anh trong Thế chiến thứ hai, Dagan đã giả làm một xác chết và được đồng đội của anh ta – hai người trong số họ là cộng tác viên người Palestine, số còn lại cải trang thành người Ả Rập – khiêng vào nơi ẩn náu của bọn khủng bố.  Khi vào được bên trong, họ đã giết tất cả mọi người.

 Một tháng sau vụ Aroyo, vào ngày 29 tháng 1 năm 1971, hai chiếc xe jeep dưới sự chỉ huy của Dagan đang di chuyển xuống một con đường chạy giữa trại tị nạn Jabalia và Thành phố Gaza.  Trên đường đi, họ bắt gặp một chiếc taxi địa phương chở đầy hành khách chạy ngược chiều.  Dagan đã xác định được hai “người đỏ” trong số các hành khách: Fawzi al-Ruheidi và Mohammad al-Aswad, người còn được gọi là Abu Nimr.  Dagan ra lệnh cho xe jeep quay đầu và đuổi theo xe.  Hai chiếc xe jeep đuổi kịp và chặn đường, những binh lính của Dagan nhảy ra và bao vây chiếc taxi.  Dagan tiếp cận chiếc xe với khẩu súng lục trong tay.  Abu Nimr nhảy ra ngoài, tay cầm một quả lựu đạn, chốt được rút ra.  “Nếu bọn bây đến gần hơn nữa,” y hét lên, “tất cả chúng ta sẽ chết chung!”  Dagan dừng lại trong một hoặc hai giây.  Sau đó, anh ta hét lên “Lựu đạn!”  và tấn công Abu Nimr, nắm lấy tay cầm lựu đạn và dùng mũ bảo hiểm đập vào đầu y.  Chảy máu nhiều, Abu Nimr bất tỉnh, còn Dagan bình tĩnh và cẩn thận gỡ quả lựu đạn ra khỏi nắm tay y, tìm chốt trên mặt đất và lắp lại.  Hành động dũng cảm này đã giúp Dagan nhận được huy chương từ tổng tham mưu trưởng.  Nó cũng cho Sharon cơ hội để mô tả một kiểu khôi hài đen của ông ấy về Dagan: “Chuyên môn lớn nhất của anh ấy là tách một người Ả Rập ra  khỏi đầu y .”

Thật vậy, có rất ít chỗ để tranh luận về tính hiệu quả của các phương pháp Dagan đã chọn.  Lực lượng đặc biệt Shin Bet và IDF, dẫn đầu bởi Biệt kích Lựu đạn và được Sharon truyền cảm hứng và hậu thuẫn, về cơ bản đã quét sạch chủ nghĩa khủng bố ở Dải Gaza từ năm 1968 đến năm 1972. Các tổ chức Palestine không có phản ứng với chiến thuật của Dagan.  Họ không biết làm sao mà Shin Bet biết được bí mật của họ, hoặc làm thế nào những người lính Israel đội lốt Ả Rập có thể bất ngờ xuất hiện, không bị phát hiện, để bắt và giết các chiến binh của họ.  Danh sách bốn trăm kẻ bị truy nã của Shin Bet (với những cái tên mới liên tục được bổ sung) đã giảm xuống còn mười vào năm 1972. Năm đó, chỉ có ba mươi bảy vụ tấn công khủng bố bắt nguồn từ Dải Gaza, giảm so với hàng trăm vụ trong những năm trước đó. Con số đó sẽ tiếp tục giảm trong mỗi năm liên tiếp, trong bốn năm.

 Nhưng cũng có một cái giá phải trả cho các phương pháp đó. Yitzhak Pundak sau đó nhớ lại đã đọc một báo cáo do đơn vị đệ trình, “Đội chúng tôi đang truy đuổi một tên khủng bố bị truy nã ở Al-Shati [một trại tị nạn ở Gaza].  Y chạy vào một ngôi nhà.  Đơn vị xông vào, tước vũ khí và giết y ngay trong nhà ”.  Pundak nói rằng mình  đã lưu ý với một sĩ quan tình báo đến khả năng rằng nếu một báo cáo như vậy đến được Liên Hợp Quốc hoặc Hội Chữ Thập Đỏ, nó sẽ gây ra một vụ bê bối quốc tế.  “Vậy vấn đề là gì?” viên sĩ quan nói, theo Pundak.  “Hủy báo cáo.”

 Pundak đã kể câu chuyện này cho Tổng tư lệnh miền Nam Sharon, và khi ông ta từ chối điều tra thêm, Pundak nhớ lại, mình đã nói với Sharon, “Ông là một kẻ nói dối, một kẻ lừa đảo và một kẻ bất lương.”  Sharon đứng dậy và giơ tay lên như muốn tát Pundak, nhưng Pundak không hề sợ hãi.  “Nếu ông làm vậy, tôi sẽ bẻ gãy xương của ông ngay tại văn phòng của ông,” ông nói.  Sharon ngồi xuống.  Pundak nói rằng mình đứng nghiêm chào tay, tuyên bố, “Bây giờ tôi biết ông cũng là một tên hèn nhát,” và rời khỏi phòng.

 Một số nhà báo đã thu thập lời kể từ những nhân viên giấu tên của Dagan nói rằng họ đã bắn mọi người sau khi họ đầu hàng, giơ tay lên trời.  Một người được trích dẫn nói rằng anh ta và những người lính khác đã bắt một người Palestine đang bị truy nã vì tội giết một sĩ quan IDF.  Một đặc vụ Shin Bet đi cùng với họ đã cố tình nói rằng người này sẽ không bao giờ có thể bị đưa ra tòa xét xử, vì như thế cơ quan mật vụ sẽ buộc phải nêu tên người cộng tác đã cung cấp thông tin dẫn đến việc y bị bắt.  Do đó những người lính để cho tù nhân của họ “trốn thoát” — và sau đó bắn y khi y bỏ chạy.

Một cựu binh khác của đơn vị cho biết: “Kẻ bị bắt sẽ được dẫn từ ngôi nhà mà y bị bắt đến một con hẻm tối ở bên cạnh, nơi những người lính sẽ để lại một khẩu súng lục hoặc lựu đạn theo một cách nào đó khiến y rất muốn đưa tay ra lấy  Khi y làm vậy, họ sẽ bắn y.  Đôi khi họ nói với y, “Ngươi có hai phút để chạy,” và sau đó họ sẽ bắn y với lý do y bỏ chạy.”

 Các cựu Biệt kích Lựu đạn khác nói rằng khi đề cập đến danh sách các mục tiêu đỏ, Dagan đã đơn phương hủy bỏ quy định của IDF rằng nghi phạm có cơ hội đầu hàng trước khi bị giết.  Dưới sự chỉ huy của Dagan, màu đỏ là mục tiêu để ám sát ngay trong tầm mắt.  Dagan xác nhận điều này nhưng nói rằng điều đó là hợp lý: “Tất cả những cáo buộc về việc chúng tôi trở thành một đội tử thần hay một băng nhóm giết người là vô nghĩa.  Chúng tôi đã hành động trong điều kiện chiến đấu, với chúng tôi và những tên bị truy nã đều mặc quần áo dân sự và trang bị cùng một loại vũ khí.  Theo quan điểm của tôi, không có, và không thể có thủ tục bắt giữ một người đàn ông có vũ trang.  Hầu hết tất cả những kẻ bị truy nã vào thời điểm đó đều được trang bị vũ khí.  Bất kỳ người nào đang theo vũ khí – dù anh ta đang quay đầu chạy hay  bỏ chạy nhưng vẫn cầm vũ khí – bạn sẽ bắn anh ta.  Mục tiêu của chúng tôi không phải là giết họ, nhưng cũng không phải để tự sát.  Rõ ràng là nếu chúng tôi không bắn trước, họ sẽ bắn vào chúng tôi. “

 Sau một hoạt động bắt giữ, vào ngày 29 tháng 11 năm 1972, kết thúc với việc kẻ bị truy nã đã chết, Pundak yêu cầu cấp phó của Dagan, Shmuel Paz, phải ra hầu tòa.  Trong phiên tòa, có thông tin cho rằng Paz đã bắn từ xa vào người đàn ông mang súng trường, và y ngã xuống.  Paz tiến về phía y, vừa đi vừa bắn để đảm bảo rằng y đã chết.  “Và chính xác thì bạn muốn tôi làm gì?”  Paz hỏi.  “Việc người đó ngã không có nghĩa là y không hành động hay y chỉ bị thương và vẫn có thể bắn vào chúng tôi.  Không có cách nào khác để hành động trong tình huống như vậy, ”Dagan nói.

 Paz được hưởng lợi từ sự nghi vấn và được trắng án.  Tất cả những lời phàn nàn, tin đồn, lời khai – chưa nói gì đến nhiều xác chết – đều bị cuốn vào một cái tủ, khóa chặt để ngăn chặn bất kỳ cuộc điều tra nào từ bên ngoài.

 Không nghi ngờ gì nữa, đơn vị của Dagan rất tàn nhẫn và nó hoạt động theo các quy tắc riêng của mình.  Người ta có thể lập luận một cách hợp lý rằng đây là sự khởi đầu của một hệ thống pháp luật ngoài tư pháp song song với luật hình sự ở Israel, một hệ thống phát triển một cách thầm lặng và hoàn toàn bí mật.  Lần đầu tiên, đơn vị của Dagan đã loại bỏ những người trong lãnh thổ do Israel kiểm soát, thay vì bắt giữ và truy tố họ, theo yêu cầu của luật pháp quốc tế.  “Để bảo vệ công dân của mình,” Dagan nói, “nhà nước đôi khi phải thực hiện những hành động đi ngược lại nền dân chủ”.

 Tất cả những điều này đã được các cơ quan dân sự Israel chấp nhận, ngay cả khi họ ngoài mặt giả vờ không thấy.  Điều mà các nhà lãnh đạo nhà nước mong muốn nhất là tình hình yên tĩnh trong các lãnh thổ bị chinh phục.  Sự yên tĩnh đó cho phép các chính phủ Israel lợi dụng nguồn lao động giá rẻ của người Palestine và hàng nhập khẩu giá rẻ từ các vùng lãnh thổ, cũng như thị trường xuất khẩu – một vấn đề quan trọng đối với một quốc gia bị bao vây bởi các quốc gia thù địch mà họ không có quan hệ thương mại.

 Hơn nữa, nó cho phép xây dựng các khu định cư của người Do Thái trong các lãnh thổ bị chiếm đóng.  Những người Israel cánh hữu tin rằng Israel phải giữ vững các khu vực mà họ đã chinh phục vào năm 1967, để duy trì lợi thế chiến lược.  Ngoài ra, nhiều người Do Thái sùng đạo tin rằng cuộc chinh phục vùng đất Judea và Samaria theo kinh thánh là một hành động can thiệp của thần thánh, khôi phục quốc gia trở về tổ quốc lịch sử của nó và đẩy nhanh sự xuất hiện của Đấng Tiên tri.  Cả hai nhóm này đều hy vọng rằng việc thiết lập càng nhiều khu định cư càng tốt sẽ cản trở việc thành lập một nhà nước Palestine trong tương lai.

 Trong trường hợp không có các cuộc tấn công khủng bố, giới chính trị giải thích sự yên tĩnh mà Shin Bet và IDF đạt được là một chiến thắng hoàn toàn và một sự xác minh, như thể lịch sử đã dừng lại và không cần phải giải quyết vấn đề Palestine.  .

“Tắc kè hoa” của Meir Dagan trên đường đến một chiến dịch ở Gaza, ăn mặc như bọn du kích trở về trên một chiếc xuồng từ Lebanon.  Từ trái qua phải: (chỉ huy chiến dịch), Meir Botnick, và Avigdor Eldan, một sĩ quan IDF người Bedouin. Những người khác là các đặc vụ Palestine.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét