Thứ Năm, 15 tháng 6, 2023

BẬT DẬY VÀ GIẾT LIỀN : Bài 2


Ronen Bergman

Trần Quang Nghĩa dịch

CHƯƠNG 2 : MỘT THẾ GIỚI BÍ ẨN RA ĐỜI

VÀO NGÀY 29/11/1947, Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc đã bỏ phiếu chia cắt Palestine, dành ra một mảnh để thành lập một quê hương Do Thái có chủ quyền.  Phân vùng sẽ không có hiệu lực cho đến sáu tháng sau, nhưng các cuộc tấn công của người Ả Rập đã bắt đầu ngay ngày hôm sau.  Hassan Salameh, chỉ huy lực lượng Palestine ở miền nam đất nước, và các chiến binh của ông đã phục kích hai xe buýt của Israel gần thị trấn Petah-Tikva, giết chết 8 hành khách và làm bị thương nhiều người khác.  Nội chiến giữa người Ả Rập Palestine và người Do Thái đã bắt đầu.  Một ngày sau vụ tấn công xe buýt, Salameh đứng ở quảng trường trung tâm của thành phố cảng Jaffa của Ả Rập.  “Palestine sẽ biến thành một cuộc tắm máu,” ông hứa với đồng hương của mình.  Ông đã giữ lời hứa đó: Trong hai tuần tiếp theo, 48 người Do Thái bị giết và 155 người bị thương.

 Salameh, người dẫn đầu một lực lượng gồm năm trăm du kích và thậm chí trực tiếp tấn công Tel Aviv, đã trở thành một anh hùng trong thế giới Ả Rập, được báo chí đăng tải.  Tạp chí Al-Musawar của Ai Cập đã in một bức ảnh khổng lồ của Salameh giới thiệu về lực lượng của ông trong số ra ngày 12 tháng 1 năm 1948, dưới tiêu đề là ANH HÙNG HASSAN SALAMEH, TƯ LỆNH MẶT TRẬN PHÍA NAM.

Ben-Gurion đã chuẩn bị cho các cuộc tấn công như vậy.  Theo suy nghĩ của ông, người Ả Rập của Palestine là kẻ thù, và người Anh – những người sẽ tiếp tục cai trị cho đến khi sự phân chia có hiệu lực chính thức vào tháng 5 năm 1948 – là những kẻ tiếp tay cho họ.  Người Do Thái chỉ có thể dựa vào bản thân và sự phòng thủ thô sơ của họ.  Hầu hết quân đội Haganah đã được huấn luyện sơ sài và trang bị kém, vũ khí của họ được cất giấu trong các hang ổ bí mật để tránh bị người Anh tịch thu.  Họ là những đàn ông và phụ nữ đã từng phục vụ trong Quân đội Anh, được yểm trợ bởi những người nhập cư mới sống sót sau Holocaust (một số người trong số họ là cựu binh Hồng quân), nhưng họ bị áp đảo về quân số  so với lực lượng phối hợp của các quốc gia Ả Rập đông hơn rất nhiều.  Ben-Gurion nhận thức được đánh giá của CIA và các cơ quan tình báo khác rằng người Do Thái sẽ sụp đổ dưới sự tấn công của Ả Rập.  Một số người của ông không tự tin vào chiến thắng.  Nhưng Ben-Gurion, ít nhất là bề ngoài, thể hiện sự tin tưởng vào khả năng giành chiến thắng của Haganah.

Khi đó, để thu hẹp khoảng cách về số lượng, kế hoạch của Haganah là sử dụng vũ lực có chọn lọc, chọn mục tiêu để đạt hiệu quả tối đa.  Là một phần của quan niệm này, một tháng sau cuộc nội chiến, bộ chỉ huy cấp cao của họ đã phát động Chiến dịch Starling, trong đó có hai mươi ba nhà lãnh đạo Ả Rập Palestine sẽ là mục tiêu.

Theo Chỉ huy trưởng của Haganah, Yaakov Dori, nhiệm vụ gồm 3 phần: “Loại bỏ hoặc bắt giữ các nhà lãnh đạo của các đảng chính trị Ả Rập;  đình công chống lại các trung tâm chính trị;  các cuộc đình công chống lại các trung tâm kinh tế và sản xuất của Ả Rập ”.

Hassan Salameh đứng đầu danh sách mục tiêu.  Dưới sự lãnh đạo của Hajj Amin al-Husseini, đại luật sĩ của Jerusalem và là nhà lãnh đạo tinh thần của người Ả Rập Palestine, Salameh đã giúp lãnh đạo Cuộc nổi dậy Ả Rập năm 1936, trong đó quân du kích Ả Rập trong ba năm đã tấn công cả các mục tiêu của Anh và Do Thái.

Cả al-Husseini và Salameh đều bỏ trốn khỏi Palestine sau khi họ bị đưa vào danh sách truy nã gắt gao nhất của Ủy ban Anh.  Năm 1942, họ gia nhập lực lượng với SS và Abwehr, cơ quan tình báo quân sự của Đức Quốc xã, để thực hiện Chiến dịch Atlas.  Đó là một kế hoạch hoành tráng, trong đó biệt kích Đức và Ả Rập sẽ nhảy dù xuống Palestine và đầu độc nguồn cung cấp nước của Tel Aviv để giết càng nhiều người Do Thái càng tốt, khiến người Ả Rập của đất nước tiến hành một cuộc thánh chiến chống lại quân Anh chiếm đóng.  Nó đã thất bại thảm hại khi người Anh, sau khi bẻ khóa mật mã Enigma của Đức Quốc xã, bắt được Salameh và 4 người khác sau khi họ rơi xuống một khe núi sa mạc gần Jericho vào ngày 6 tháng 10 năm 1944.

Sau Thế chiến II, người Anh đã thả al-Husseini và Salameh. Phòng Chính trị của Cục  Do Thái, cơ quan giám sát phần lớn hoạt động bí mật của Yishuv (cư dân Do Thái ở Israel trước khi nhà nước này được thành lập) ở châu Âu, đã tìm cách xác định vị trí của Al-Husseini và giết ông ta nhiều lần trong khoảng thời gian từ năm 1945 đến năm 1948. Động cơ một phần là để trả thù cho  việc Al-Husseini hợp tác với Hitler, nhưng cũng là để phòng thủ:  Al-Husseini có thể đã ra khỏi đất nước, nhưng hắn vẫn tích cực tham gia tổ chức các cuộc tấn công vào các khu định cư của người Do Thái ở miền bắc Palestine và trong các nỗ lực ám sát các nhà lãnh đạo Do Thái.  Do thiếu tình báo và nhân viên vận hành được đào tạo, tất cả những nỗ lực đó đều thất bại.

Cuộc săn lùng Salameh, chiến dịch Haganah đầu tiên tích hợp tình báo con người và điện tử, bắt đầu đầy hứa hẹn.  Một đơn vị thuộc SHAI, chi nhánh tình báo của Haganah, và do Isser Harel chỉ huy, đã khai thác đường dây trung tâm điện thoại kết nối Jaffa với phần còn lại của đất nước.  Harel có một xưởng sản xuất dụng cụ được xây dựng trong khuôn viên của trường nông nghiệp Mikveh Israel gần đó và chất đầy nó với kéo cắt tỉa và máy cắt cỏ.  Nhưng ẩn trong một cái hố dưới sàn nhà là một thiết bị nghe được kẹp vào dây đồng của hệ thống điện thoại của Jaffa.  “Tôi sẽ không bao giờ quên gương mặt của người đặc nhiệm SHAI nói tiếng Ả Rập, người đã đeo một bộ tai nghe và lắng nghe cuộc trò chuyện đầu tiên,” Harel sau đó đã viết trong hồi ký của mình.  “Miệng anh ấy há hốc ra kinh ngạc và anh ấy vẫy tay đầy xúc động để làm im lặng những người khác đang căng thẳng chờ đợi….  Một trong những diễn giả là Salameh.  Trong một cuộc gọi bị chặn, SHAI được biết y sẽ đến Jaffa.  Các đặc vụ Haganah đã lên kế hoạch phục kích y bằng cách chặt cây chặn đường xe của y chạy qua.

Nhưng cuộc phục kích đã thất bại, và đó không phải là lần thất bại cuối cùng.  Salameh đã sống sót sau nhiều lần bị ám sát trước khi ngã xuống lúc tác chiến vào tháng 6 năm 1948, kẻ giết y không biết danh tính của y.  Hầu như tất cả các cuộc vụ giết người có mục tiêu khác trong Chiến dịch Starling cũng đều gặp thất bại, vì tình báo bị lỗi hoặc thiếu những sát thủ có tay nghề và lão luyện.

__

 CÁC HOẠT ĐỘNG DUY NHẤT đã thành công đều được thực hiện bởi hai trong số các đơn vị tinh nhuệ của Haganah, cả hai đều thuộc Palmach, quân đoàn duy nhất được huấn luyện tốt và được trang bị khá tốt của dân quân.  Một trong những đơn vị này là Palyam, “đại đội thủy quân lục chiến” và đơn vị kia là “Trung đội Ả Rập”, một đơn vị biệt kích bí mật có các thành viên hoạt động cải trang thành người Ả Rập.

Palyam, đại đội hải quân, được lệnh tiếp quản cảng ở Haifa, cửa ngõ hàng hải quan trọng nhất của Palestine, ngay sau khi người Anh khởi hành.  Nhiệm vụ của nó là đánh cắp càng nhiều vũ khí và thiết bị mà người Anh bắt đầu xuống tàu chở đi càng tốt, và ngăn chặn người Ả Rập làm điều tương tự.

 “Chúng tôi tập trung vào các tên Ả Rập thâu tóm vũ khí ở Haifa và miền bắc.  Chúng tôi đã tìm kiếm chúng và giết chúng ”, Avraham Dar, một trong những thành viên Palyam, nhớ lại.

Dar, người bản địa nói tiếng Anh, và hai thành viên Palyam khác đã đóng giả là lính Anh muốn bán các thiết bị đánh cắp cho người Palestine để lấy một lượng lớn tiền mặt.  Một điểm hẹn đã được ấn định cho cuộc trao đổi gần một nhà máy bột mì bỏ hoang ở bên ngoài một ngôi làng Ả Rập.  Ba người Do Thái, mặc quân phục Anh, có mặt tại điểm hẹn khi người Palestine đến.  Bốn người khác đang ẩn nấp gần đó chờ tín hiệu và sau đó chồm vào người Ả Rập, giết họ bằng thanh ống kim loại.  Dar nói: “Chúng tôi sợ rằng tiếng súng sẽ đánh thức những người hàng xóm, và chúng tôi quyết định thực hiện một chiến dịch im lặng.”

Trung đội Ả Rập được thành lập khi Haganah quyết định rằng họ cần một hạt nhân gồm các chiến binh được đào tạo có thể hoạt động sâu bên trong phòng tuyến của kẻ thù, thu thập thông tin và thực hiện các nhiệm vụ phá hoại và tiêu diệt mục tiêu.  Việc đào tạo những thành viên của họ – hầu hết là người nhập cư từ các vùng đất Ả Rập – bao gồm các chiến thuật biệt kích và chất nổ, nhưng cũng nghiên cứu chuyên sâu về Hồi giáo và phong tục Ả Rập.  Họ được đặt biệt danh là Mistaravim, tên của các cộng đồng người Do Thái đến ở một số nước Ả Rập, nơi họ thực hành tôn giáo Do Thái, nhưng giống với người Ả Rập ở mọi khía cạnh khác – ăn mặc, ngôn ngữ, phong tục xã hội, v.v.

Sự hợp tác giữa hai đơn vị đã tạo ra một nỗ lực nhằm vào mạng sống của Lãnh tụ Hồi giáo al-Khatib, người đứng đầu các tổ chức Hồi giáo Palestine, một trong những mục tiêu ban đầu của Chiến dịch Starling, vì ảnh hưởng đáng kể của ông trên đường phố Palestine.  Các Mistaravim có thể di chuyển khắp nơi mà không bị chặn lại bởi người Anh và người Ả Rập.  Vào tháng 2 năm 1948, họ phục kích al-Khatib khi ông trở về từ một chuyến đi đến Damascus với một đống đạn dược.  Ông  bị thương nặng, rời Palestine, và từ bỏ mọi vai trò chính trị tích cực.

Vài ngày sau, Avraham Dar nghe được từ một nhân viên cảng của anh ta thông báo rằng một nhóm người Ả Rập trong một quán cà phê đã nói về kế hoạch cho nổ một chiếc xe chở đầy chất nổ ở một khu vực đông người Do Thái ở Haifa.  Chiếc xe cứu thương của Anh mà họ mua được cho mục đích này đang được chuẩn bị sẵn sàng trong một nhà để xe ở đường Nazareth, thuộc khu vực Ả Rập của thành phố.  Các Mistaravim đã chuẩn bị một quả bom của riêng họ trong một chiếc xe tải mà họ lái vào khu Ả Rập, đóng giả các công nhân đang sửa chữa một đường ống bị vỡ và đậu bên cạnh bức tường của nhà để xe.  “Tụi mầy đang làm gì ở đây?  Không có bãi đậu xe ở đây!  Di chuyển xe tải! ”  những người đàn ông trong nhà để xe hét vào mặt họ bằng tiếng Ả Rập.

“Sẽ ngay thôi, chúng tôi vừa đi uống nước, và bây giờ  cần phải xả ra” Các Mistaravim trả lời bằng tiếng Ả Rập, thêm vào một vài câu chửi tục tĩu.  Họ đi đến một chiếc xe hơi đang đợi, và vài phút sau quả bom của họ nổ tung, kích nổ chiếc xe cứu thương và giết chết 5 người Palestine đang làm việc trên đó.

__

 VÀO NGÀY 14/5/1948, Ben-Gurion tuyên bố thành lập nhà nước Israel mới và trở thành thủ tướng kiêm bộ trưởng quốc phòng đầu tiên của nước này.  Ông biết điều gì sẽ xảy ra tiếp theo.

 Nhiều năm trước đó, Ben-Gurion đã ra lệnh thành lập một mạng lưới sâu rộng các nguồn tin ở các nước Ả Rập.  Bây giờ, ba ngày trước khi thành lập Israel, Reuven Shiloah, giám đốc Phòng Chính trị của Cục  Do Thái, bộ phận tình báo của cục  này, đã thông báo với ông rằng “các quốc gia Ả Rập cuối cùng đã quyết định tiến hành một cuộc tấn công đồng thời vào ngày 15 tháng 5….  đang lợi dụng tình trạng Israel thiếu vũ khí hạng nặng và không quân7″  Shiloah đã cung cấp nhiều chi tiết về kế hoạch tấn công.

Thông tin là chính xác.  Vào lúc nửa đêm, sau khi nhà nước Israel được tuyên bố, bảy đội quân tấn công.  Họ đông hơn rất nhiều và được trang bị tốt hơn vô cùng so với lực lượng Do Thái, và họ đã sớm đạt được những thành tựu đáng kể, chinh phục các khu định cư và gây thương vong.  Tổng thư ký của Liên đoàn Ả Rập, Abdul Rahman Azzam Pasha, tuyên bố, “Đây sẽ là một cuộc chiến tàn khốc và tàn sát sẽ được ghi nhớ như những cuộc thảm sát do quân Mông Cổ và Thập tự chinh thực hiện.”

Nhưng người Do Thái – bây giờ chính thức là “người Israel” – đã tập hợp lại một cách nhanh chóng và thậm chí còn tiến hành cuộc tấn công.  Sau một tháng, một thỏa thuận đình chiến do đặc phái viên của Liên Hợp Quốc, Bá tước Folke Bernadotte làm trung gian.  Cả hai bên đều kiệt sức và cần được nghỉ ngơi và tiếp tế.  Khi giao tranh tiếp tục, cục diện đã lật ngược lại, với tình báo và khả năng điều hành trận chiến xuất sắc, cùng với sự yểm trợ của nhiều người sống sót sau thảm sát Holocaust mới đến từ châu Âu, quân Israel đã đánh bật lực lượng Ả Rập trở lại và cuối cùng đã chinh phục được nhiều lãnh thổ hơn những gì đã được phân bổ cho quốc gia Do Thái theo kế hoạch phân vùng của Liên hợp quốc.

Mặc dù Israel đã đẩy lùi các đội quân vượt trội, Ben-Gurion không lạc quan về chiến thắng ngắn hạn còn phôi thai của Lực lượng Phòng vệ Israel.  Người Ả Rập có thể đã thua trong những trận chiến đầu tiên, nhưng họ – kể cả những người sống ở Palestine và những người ở các quốc gia Ả Rập xung quanh Israel – đều từ chối chấp nhận tính hợp pháp của quốc gia mới.  Họ thề sẽ tiêu diệt Israel và đưa những người tị nạn trở về nhà của họ.

Ben-Gurion biết IDF không thể hy vọng bảo vệ biên giới dài và phức tạp của Israel thông qua nhân lực tuyệt đối.  Từ những tàn tích của hoạt động tình báo Haganah’s SHAI, ông ta phải bắt đầu xây dựng một hệ thống gián điệp phù hợp cho một quốc gia hợp pháp.

Vào ngày 7 tháng 6, Ben-Gurion đã triệu tập các trợ lý hàng đầu của mình, đứng đầu là Shiloah, đến văn phòng tại thuộc địa cũ của Templer ở Tel Aviv.  “Tình báo là một trong những công cụ quân sự và chính trị mà chúng ta cần khẩn cấp cho cuộc chiến này,” Shiloah viết trong một bản ghi nhớ cho Ben-Gurion.  “Nó sẽ phải trở thành một công cụ lâu dài, bao gồm cả trong bộ máy chính trị [thời bình] của chúng ta.”

 Ben-Gurion không cần phải thuyết phục.  Rốt cuộc, một phần lớn sự thành lập đáng ngạc nhiên, chống lại mọi khó khăn của nhà nước và khả năng phòng thủ của nó, là nhờ vào việc sử dụng hiệu quả thông tin tình báo chính xác.

Hôm đó, ông ra lệnh thành lập ba cơ quan.  Cơ quan đầu tiên là Cục Tình báo của Bộ Tổng tham mưu Lực lượng Phòng vệ Israel, sau này thường được gọi bằng từ viết tắt tiếng Do Thái, AMAN.  Thứ hai là Shin Bet (từ viết tắt của Vụ An ninh Tổng quát), chịu trách nhiệm về an ninh nội bộ và được tạo ra như một dạng lai giữa FBI của Mỹ và MI5 của Anh.  (Tổ chức này sau đó đổi tên thành Cơ quan An ninh Israel, nhưng hầu hết người Israel vẫn gọi nó bằng từ viết tắt, Shabak, hoặc phổ biến hơn, như trong cuốn sách này, là Shin Bet.) Và thứ ba, Phòng Chính trị – bây giờ  thuộc Bộ Ngoại giao mới, thay vì Cục Do Thái – sẽ tham gia vào hoạt động gián điệp và thu thập thông tin tình báo nước ngoài.  Những ngôi nhà bị bỏ hoang của Templer ở khu lân cận Sarona, gần Bộ Quốc phòng, được giao cho từng đơn vị, đặt văn phòng của Ben-Gurion tại trung tâm của lực lượng dịch vụ an ninh có tổ chức.

Nhưng không có gì trong những tháng và năm đầu tiên đó là ngăn nắp.  Tàn dư của các cơ quan Haganah được đưa vào các dịch vụ an ninh hoặc trạm gián điệp khác nhau, sau đó xáo trộn và tái hấp thu vào một cơ quan khác.  Thêm vào đó là vô số trận chiến giành ảnh hưởng và xung đột vì cái tôi giữa những người về cơ bản là các chiến sĩ cách mạng cũ , và phần lớn là sự hỗn loạn trong hoạt động gián điệp ngầm.  Isser Harel, một trong những cha đẻ của tình báo Israel, nói: “Đó là những năm khó khăn.  “Chúng tôi phải thành lập một quốc gia và bảo vệ nó.  [Nhưng] cấu trúc của các dịch vụ và sự phân công lao động đã được xác định mà không có bất kỳ sự phán xét có hệ thống nào, không được bàn bạc với mọi người có liên quan, theo một cách gần như nghiệp dư và bí ẩn. ”

Trong điều kiện bình thường, các quản trị viên sẽ thiết lập các ranh giới và thủ tục rõ ràng, và các đặc vụ thực địa sẽ kiên nhẫn thu thập các nguồn thông tin trong khoảng thời gian nhiều năm.  Nhưng Israel không có thứ xa xỉ này.  Các hoạt động tình báo của nó phải được xây dựng một cách nhanh chóng và dưới tình trạng bị vây hãm, trong khi đất nước non trẻ còn đang chiến đấu cho sự tồn tại của chính mình.

 THỬ THÁCH ĐẦU TIÊN MÀ các điệp viên của Ben-Gurion phải đối mặt là nội bộ: Có những nhân viên dưới quyền ngang nhiên bất chấp quyền hành của ông ta, trong số đó có tàn tích của các phong trào ngầm cánh hữu.  Một ví dụ điển hình cho sự thách thức này là vụ Altalena, vào tháng 6 năm 1948. Một con tàu mang tên đó, do nhóm Irgun điều động từ châu Âu, đã đến nơi, mang theo người nhập cư và vũ khí.  Nhưng tổ chức này từ chối bàn giao tất cả vũ khí cho quân đội nhà nước mới, khăng khăng rằng một số sẽ được phân phối cho các đơn vị vẫn được duy trì nguyên vẹn.  Ben-Gurion, người đã được các đặc vụ bên trong Irgun thông báo về kế hoạch, ra lệnh con tàu phải được tiếp quản bằng vũ lực.  Trong cuộc giao tranh sau đó, tàu bị đánh chìm, và 16 chiến binh Irgun và 3 lính IDF thiệt mạng.  Ngay sau đó, lực lượng an ninh đã vây bắt được hai trăm thành viên Irgun trên khắp đất nước, chấm dứt sự tồn tại của nó.

Yitzhak Shamir và các đặc nhiệm Lehi dưới quyền chỉ huy của ông cũng từ chối chấp nhận quyền lực ôn hòa hơn của Ben-Gurion.  Vào mùa hè, trong thời gian đình chiến, phái viên Liên Hợp Quốc Bernadotte đã lập một kế hoạch hòa bình dự kiến ​​để chấm dứt giao tranh.  Nhưng kế hoạch này là không thể chấp nhận được đối với nhóm Lehi và Shamir, những người đã cáo buộc Bernadotte cộng tác với Đức Quốc xã trong Thế chiến II và lên án ông đang soạn thảo một đề xuất sẽ vẽ lại biên giới Israel theo cách sẽ khiến đất nước Israel không thể sống còn : bao gồm việc trao phần lớn Negev và Jerusalem cho người Ả Rập, và  đặt cảng Haifa và sân bay Lydda dưới sự kiểm soát của quốc tế, cũng như buộc nhà nước Do Thái phải nhận lại 300.000 người tị nạn Ả Rập –

Lehi đã đưa ra một số cảnh báo công khai, dưới dạng thông báo được dán trên đường phố của các thành phố: LỜI KHUYÊN CHO ĐẠI DIỆN BERNADOTTE: HÃY XÉO RA KHỎI QUỐC GIA CỦA CHÚNG TÔI.  Các đài phát thanh ngầm thậm chí còn thẳng thắn hơn, tuyên bố, “Bá tước sẽ kết thúc như Đức ông” (ám chỉ đến Lord Moyne đã bị ám sát).  Bernadotte phớt lờ những lời cảnh báo, và thậm chí còn ra lệnh cho các quan sát viên của Liên hợp quốc không được mang vũ khí, nói rằng: “Lá cờ của Liên hợp quốc bảo vệ chúng ta”.

 Tin chắc rằng kế hoạch của đặc sứ sẽ được chấp nhận, Shamir ra lệnh ám sát ông ta.  Vào ngày 17 tháng 9, bốn tháng sau khi nhà nước được tuyên bố, và một ngày sau khi Bernadotte đệ trình kế hoạch của mình lên Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc, ông đã đi cùng đoàn tùy tùng của mình trong một đoàn xe gồm ba chiếc xe DeSoto màu trắng từ trụ sở Liên Hiệp Quốc đến khu phố Rehavia ở Jerusalem của người Do Thái,  thì một chiếc xe jeep chặn đường họ.  Ba thanh niên đội mũ lưỡi trai nhảy ra ngoài.  Hai người trong số bắn vào lốp xe của Liên Hiệp Quốc, và người thứ ba, Yehoshua Cohen, mở cửa chiếc xe Bernadotte đang ngồi và nổ một tràng đạn  tiểu liên Schmeisser MP40.  Phát đạn đầu tiên bắn trúng người đàn ông ngồi cạnh Bernadotte, một đại tá người Pháp tên là André Serot, nhưng các phát súng tiếp theo, chính xác hơn, trúng vào ngực vị bá tước.  Cả hai người đều bị giết.  Toàn bộ cuộc tấn công chỉ diễn trong vài giây – như sấm sét, thời gian mất để bắn ra năm mươi phát đạn ”, đó là cách mà sĩ quan liên lạc Israel, Đại úy Moshe Hillman, người ngồi trên xe với các nạn nhân, mô tả.  Các thủ phạm không bao giờ bị bắt.

Vụ ám sát đã khiến giới lãnh đạo Do Thái vô cùng phẫn nộ và xấu hổ.  Hội đồng Bảo an lên án đây là “một hành động hèn nhát dường như đã được thực hiện bởi một nhóm tội phạm khủng bố ở Jerusalem,” và The New York Times viết ngày hôm sau, “Không quân đội Ả Rập nào có thể gây tổn hại nhiều đến vậy [đối với nhà nước Do Thái] trong một thời gian ngắn. ”

Ben-Gurion coi hoạt động đểu cáng cỉa nhóm Lehi là một thách thức nghiêm trọng đối với quyền lực của ông ta, một thách thức có thể dẫn đến một cuộc đảo chính hoặc thậm chí một cuộc nội chiến.  Ông phản ứng ngay lập tức, đặt cả tổ chức Irgun và Lehi ra ngoài vòng pháp luật. Ông ¹ra lệnh cho người đứng đầu Shin Bet, Isser Harel bố ráp tất cả các thành viên Lehi.  Đứng đầu danh sách truy nã là Yitzhak Shamir.  Anh ta không bị túm, nhưng nhiều người khác đã bị bắt, và bị nhốt dưới sự canh gác nghiêm ngặt.  Lehi không còn tồn tại như một tổ chức.

Ben-Gurion rất biết ơn Harel vì đã có hành động mạnh mẽ chống lại thế lực ngầm và biến ông trở thành quan chức tình báo số một trong nước.

Isser Harel là một người thấp bé, rắn rỏi và năng động, chịu ảnh hưởng của phong trào cách mạng Bolshevik Nga và sử dụng phương thức phá hoại, tiến hành chiến tranh du kích và ám sát của nó, nhưng ông ta ghê tởm chủ nghĩa cộng sản.  Dưới sự chỉ đạo của ông, Shin Bet liên tục theo dõi và tiến hành hoạt động gián điệp chính trị chống lại các đối thủ chính trị của Ben-Gurion, các đảng xã hội chủ nghĩa và cánh tả và đảng Herut cánh hữu do các cựu binh Irgun và Lehi thành lập.

Trong khi đó, Ben-Gurion và ngoại trưởng của ông, Moshe Sharett, đang băn khoăn nên áp dụng chính sách nào đổi với người Ả Rập.  Sharett là người nổi bật nhất trong số các nhà lãnh đạo ban đầu của Israel, những người tin rằng ngoại giao là cách tốt nhất để đạt được hòa bình khu vực và do đó đảm bảo an toàn cho đất nước.  Ngay cả trước khi độc lập, ông đã tiết lộ bí mật với Vua Abdullah của Jordan và thủ tướng của Lebanon, Riad al-Solh, những người sẽ đóng vai trò quan trọng trong việc thành lập liên minh xâm lược Ả Rập, và người đã chịu trách nhiệm phần lớn cho lực lượng dân quân Palestine gây thiệt hại nặng nề cho Yishuv (khi định cư Do Thái ở các nước Ả Rập) trước khi nhà nước Israel ra đời.  Bất chấp luận điệu chống Do Thái và hành động chống Israel của al-Solh, ông đã bí mật gặp Eliyahu Sasson, một trong những đại diện của Sharett, nhiều lần tại Paris vào cuối năm 1948 để thảo luận về một thỏa thuận hòa bình.  “Nếu chúng ta muốn thiết lập liên lạc với người Ả Rập để chấm dứt chiến tranh,” Sasson nói khi Sharett, phấn khích về các móc nối bí mật của nhân viên mình, đưa anh ta đến báo cáo với nội các, “chúng ta phải liên lạc với những người hiện đang nắm quyền.  .  Với những người đã tuyên chiến với chúng ta … và những người đang gặp khó khăn khi tiếp tục. ”

Những động thái ngoại giao đó rõ ràng là không hiệu quả, và Ben-Gurion, vào ngày 12 tháng 12 năm 1948, ra lệnh cho các nhân viên tình báo quân đội ám sát al-Solh.

“Sharett đã phản đối kịch liệt ý tưởng này”, Asher (Arthur) Ben- Natan, một nhân vật hàng đầu trong Phòng Chính trị của Bộ Ngoại giao, cơ quan chịu trách nhiệm về các hoạt động bí mật ở nước ngoài, nhớ lại.  “Và khi bộ phận của chúng tôi được yêu cầu giúp tình báo quân sự thực hiện mệnh lệnh, thông qua các mối liên hệ của chúng tôi ở Beirut, ông ta đã phản đối mệnh lệnh, thủ tiêu nó một cách hiệu quả.”

Sự việc này, cộng với một số cuộc đụng độ khác giữa Harel và Sharett, khiến Ben-Gurion sôi máu.  Ông coi ngoại giao là một sự thay thế yếu kém cho một quân đội hùng mạnh và tình báo  hiệu quả, và cá nhân ông coi Sharett là một đối thủ đe dọa quyền kiểm soát của thủ tướng.  Vào tháng 12 năm 1949, Ben-Gurion tách Phòng Chính trị ra khỏi sự kiểm soát của Bộ Ngoại giao và đặt nó dưới quyền chỉ huy trực tiếp của mình.  Sau đó, ông đã đặt cho cơ quan này một cái tên mới: Viện Tình báo và Hoạt động Đặc biệt.  Tuy nhiên, thông thường, nó được gọi đơn giản là “Viện” – Mossad.

 Với việc thành lập Mossad, các cơ quan tình báo Israel đã hợp nhất lại thành cộng đồng ba nhóm còn tồn tại ít nhiều dưới hình thức giống ngày nay: AMAN, nhánh tình báo quân sự cung cấp thông tin cho IDF;  Shin Bet, chịu trách nhiệm về tình báo nội bộ, chống khủng bố và phản gián;  và Mossad, giải quyết các hoạt động bí mật bên ngoài biên giới của quốc gia.

Quan trọng hơn, đó là một chiến thắng cho những ai nhìn thấy tương lai của nhà nước Israel phụ thuộc nhiều hơn vào quân đội và cộng đồng tình báo mạnh mẽ hơn là ngoại giao.  Chiến thắng đó được thể hiện trong lĩnh vực bất động sản: Những ngôi nhà trước đây của Templer ở Tel Aviv mà Phòng Chính trị chiếm giữ đã được giao lại cho Mossad.  Đó cũng là một chiến thắng cá nhân cho Isser Harel.  Khi phụ trách Shin Bet, ông ta cũng được bổ nhiệm làm thủ lĩnh của Mossad, khiến ông trở thành một trong những nhân vật quyền lực nhất – và bí mật nhất – trong lịch sử buổi đầu của Israel.

Kể từ thời điểm đó, chính sách đối ngoại và an ninh của Israel sẽ được xác định bằng cách kết hợp giữa Tel Aviv – nơi đặt bộ chỉ huy cấp cao của quân đội, trụ sở tình báo và Bộ Quốc phòng và nơi Ben-Gurion dành phần lớn thời gian của mình – và Jerusalem,  nơi Bộ Ngoại giao được đặt trong một cụm nhà tiền chế.  Tel Aviv luôn chiếm thế thượng phong.

Ben-Gurion giữ tất cả các cơ quan dưới sự kiểm soát trực tiếp của mình.  Mossad và Shin Bet dưới quyền ông ta với tư cách là thủ tướng, và tình báo quân sự nằm trong tầm ngắm của ông ta vì ông ta cũng là bộ trưởng quốc phòng.  Nó là  một sự tập trung khổng lồ của quyền lực bí mật và chính trị.  Tuy nhiên, ngay từ đầu, nó đã được chính thức giấu kín với công chúng Israel.  Ben-Gurion cấm bất kỳ ai thừa nhận, chưa nói đến việc tiết lộ, rằng mạng lưới các tổ chức chính thức rộng lớn này thậm chí còn tồn tại.  Trên thực tế, việc nhắc đến cái tên Shin Bet hoặc Mossad ở nơi công cộng đã bị cấm cho đến những năm 1960.  Bởi vì sự tồn tại của họ không thể được thừa nhận, Ben-Gurion đã ngăn cản việc tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động của chính các cơ quan đó.  Không có luật nào đưa ra mục tiêu, vai trò, sứ mệnh, quyền hạn, hoặc ngân sách hoặc mối quan hệ giữa chúng.

Nói cách khác, tình báo Israel ngay từ đầu đã chiếm lĩnh một vùng bóng tối, một vùng tiếp giáp nhưng tách biệt với các thể chế dân chủ của đất nước.  Các hoạt động của cộng đồng tình báo — hầu hết trong số đó (Shin Bet và Mossad) dưới sự chỉ huy trực tiếp của thủ tướng — diễn ra mà không có bất kỳ sự giám sát hiệu quả nào của quốc hội Israel, Knesset hoặc bất kỳ cơ quan độc lập nào khác bên ngoài.

Trong lĩnh vực bóng tối này, “an ninh nhà nước” được sử dụng để biện minh cho một số lượng lớn các hành động và hoạt động mà trong thế giới hữu hình, có thể sẽ bị truy tố hình sự và các án tù dài hạn: liên tục giám sát công dân vì liên kết dân tộc hoặc chính trị của họ  ;  các phương pháp thẩm vấn bao gồm giam giữ kéo dài mà không có chế tài tư pháp, và tra tấn;  khai man trước tòa án và che giấu sự thật khỏi luật sư và thẩm phán.

Ví dụ đáng chú ý nhất là giết người có mục tiêu.  Trong luật pháp Israel, không có hình phạt tử hình, nhưng Ben-Gurion đã phá vỡ điều này bằng cách tự cho mình quyền ra lệnh hành quyết ngoài tư pháp.

Sự biện minh cho việc duy trì vương quốc bóng tối đó là bất cứ điều gì khác ngoài việc giữ bí mật hoàn toàn có thể dẫn đến những tình huống đe dọa sự tồn tại của Israel.  Israel đã thừa hưởng từ Ủy ban Ủy trị của Anh cho Palestine trước đây một hệ thống luật pháp bao gồm các điều khoản tình trạng khẩn cấp để thực thi trật tự và trấn áp các cuộc nổi loạn.  Trong số các điều khoản đó có một yêu cầu rằng tất cả các phương tiện truyền thông in ấn và phát sóng phải gửi bất kỳ bài viết nào về hoạt động tình báo và quân đội cho một nhà kiểm duyệt quân sự, người sẽ phủ quyết phần lớn tài liệu đó.  Tình trạng khẩn cấp vẫn chưa được hủy bỏ tính đến thời điểm viết bài này.  Nhưng với tư cách là một kẻ ngụy biện cho giới truyền thông đói khát, Ben-Gurion đủ khôn ngoan để thành lập một Ủy ban Biên tập, bao gồm các tổng biên tập của các hãng tin báo in và phát thanh.  Đôi khi, bản thân Ben-Gurion, hoặc một người nào đó đại diện cho ông ta, sẽ xuất hiện trước ủy ban để chia sẻ những mẩu tin bí mật trong khi giải thích lý do tại sao những mẩu tin đó không bao giờ có thể được công bố rộng rãi trong bất kỳ hoàn cảnh nào.  Các biên tập viên đã rất vui mừng vì họ đã giành được cho mình lối đi đến vương quốc hoàng hôn và những bí ẩn của nó.  Để tỏ lòng biết ơn, họ đã tự áp đặt cho mình một mức độ tự kiểm duyệt vượt xa mức độ mà người kiểm duyệt thực tế áp đặt.

__

Vào tháng 7 năm 1952, một cuộc triển lãm tranh của họa sĩ Pháp-Đức Charles Duvall đã khai mạc tại Bảo tàng Quốc gia ở Cairo.  Duvall, một thanh niên cao lớn với điếu thuốc lủng lẳng trên môi, đã chuyển đến Ai Cập từ Paris hai năm trước đó, thông báo rằng anh “yêu vùng đất sông Nile”.  Báo chí Cairo đã đăng một số bài viết về Duvall và tác phẩm của anh – bị ảnh hưởng mạnh mẽ, các nhà phê bình cho biết, bởi Picasso – và anh nhanh chóng trở thành một nhân vật trong xã hội thượng lưu.  Thật vậy, bộ trưởng văn hóa Ai Cập đã tham dự buổi khai mạc cuộc triển lãm của Duvall và thậm chí còn mua hai bức tranh mà ông cho bảo tàng mượn, nơi chúng sẽ được treo trong hai mươi ba năm tới.

Năm tháng sau, khi triển lãm của anh ấy kết thúc, Duvall nói rằng mẹ anh ấy đã ngã bệnh và anh ấy phải gấp rút trở lại Paris để chăm sóc cho bà.  Sau khi trở về Pháp, anh đã gửi một vài bức thư cho những người bạn cũ ở Ai Cập, và sau đó người ta không bao giờ nghe được tin tức về anh nữa.

Duvall tên thật là Shlomo Cohen-Abarbanel, và anh ta là một điệp viên Israel.  Anh là con út trong số bốn người con trai của một giáo sĩ Do Thái nổi tiếng ở Hamburg, Đức.  Vào mùa đông năm 1933, khi Đức Quốc xã lên nắm quyền và bắt đầu thực thi luật chủng tộc, gia đình này đã trốn sang Pháp và sau đó là Palestine.  Mười lăm năm sau, vào năm 1947, Cohen- Abarbanel, người đã bộc lộ khả năng nghệ thuật từ khi mới chập chững biết đi, trở lại Paris để học hội họa ở tuổi hai mươi bảy.  Một thời gian ngắn sau, các nhân viên tình báo Haganah nghe nói về tài năng của anh ta và tuyển dụng anh làm giả hộ chiếu và giấy tờ để sử dụng cho những người Do Thái ở châu Âu và Bắc Phi được đưa lậu vào Palestine vi phạm luật nhập cư của Anh.  Đó là sự khởi đầu một sự nghiệp gián điệp lâu dài.  Tự thể hiện mình là một nghệ sĩ phóng túng, Cohen-Abarbanel điều hành mạng lưới đặc vụ ở Ai Cập và tuyển dụng những đặc vụ mới trên khắp thế giới Ả Rập.  Anh ta thu thập thông tin về những tội phạm chiến tranh của Đức Quốc xã đã ẩn náu ở Trung Đông, và anh ta báo cáo với cấp trên về những nỗ lực ban đầu của các nhà khoa học tên lửa Đức nhằm bán dịch vụ của họ cho quân đội Ả Rập.  Khi trở về Israel vào năm 1952, anh đã thúc đẩy cấp trên của mình trong cơ quan tình báo non trẻ Mossad đầu tư thêm nguồn lực vào việc tìm và diệt Đức Quốc xã.

 Một thời gian ngắn sau khi nắm quyền chỉ huy Mossad, Isser Harel đã yêu cầu Cohen- Abarbanel thiết kế một biểu tượng chính thức cho cơ quan.  Người nghệ sĩ giam mình trong phòng rồi xuất hiện với một thiết kế do anh ấy vẽ.  Ở trung tâm của nó là một menorah (chân đèn cổ của người Do Thái) bảy nhánh, ngọn đèn thiêng đứng trong Đền thờ ở Jerusalem mà người La Mã đã phá hủy vào năm 70 SCN. Con dấu cũng mang một truyền thuyết — câu 6 từ chương 24 trong Sách Châm ngôn, theo  truyền thống của người Do Thái, tác giả là chính Vua Solomon: “Bởi vì bằng thủ đoạn, nhà ngươi sẽ gây chiến tranh.”  Câu này sau đó đã được đổi thành một dòng khác từ Sách Châm ngôn (chương 11, câu 14), có nội dung, “Nơi không có thủ đoạn – quốc gia sụp đổ, nhưng giữa đám đông các cố vấn sẽ có sự an toàn.”  Ý nghĩa của Cohen-Abarbanel không thể rõ ràng hơn: sử dụng những mưu kế bí mật, Mossad sẽ là lá chắn tối cao của khối thịnh vượng chung Do Thái mới, đảm bảo rằng người Do Thái sẽ không bao giờ bị sỉ nhục, rằng Judea sẽ không bao giờ bị thất thủ nữa.

Điều lệ của Mossad, do Harel viết, cũng rộng rãi và đầy tham vọng.  Theo cương lĩnh chính thức của tổ chức, mục đích của tổ chức là “thu thập thông tin bí mật (chiến lược, chính trị, hoạt động) bên ngoài biên giới của quốc gia;  thực hiện các hoạt động đặc biệt bên ngoài biên giới của Israel;  ngăn cản sự phát triển và mua lại vũ khí trái phép của các quốc gia thù địch;  ngăn chặn các cuộc tấn công khủng bố nhằm vào các mục tiêu của Israel và Do Thái bên ngoài Israel;  phát triển và duy trì quan hệ tình báo và quan hệ chính trị với các nước không duy trì quan hệ ngoại giao với Israel;  chở đến Israel những người Do Thái từ những quốc gia từ chối cho phép họ rời đi, và tạo ra những khuôn khổ để bảo vệ những người Do Thái vẫn còn ở những quốc gia đó. ”  Nói cách khác, nó được giao nhiệm vụ không chỉ bảo vệ Israel và các công dân của nó mà còn hiện diện như một lực lượng canh gác cho người Do Thái thế giới.

NHIỆM VỤ TÌNH BÁO TRẺ CỦA ISRAEL đã phải đưa ra cách đối phó với một loạt thách thức được đưa ra bởi vòng vây của 21 quốc gia Ả Rập thù địch đang bao vây Israel và đe dọa tiêu diệt nó.  Có những người ở cấp cao nhất của cơ sở quốc phòng tin rằng những thách thức này sẽ được đáp ứng tốt nhất bằng cách sử dụng các hoạt động đặc biệt được xác định chính xác bên kia chiến tuyến của kẻ thù.

Để đạt được mục tiêu này, AMAN đã thành lập một đơn vị gọi là Cục Tình báo 13 (theo truyền thống của người Do Thái được coi là một con số may mắn).  Avraham Dar, hiện là một trong những sĩ quan nổi tiếng của tổ chức này, đã đến Ai Cập vào năm 1951 để thiết lập một mạng lưới điệp viên được tuyển chọn từ các nhà hoạt động theo chủ nghĩa Phục quốc tại địa phương.  Vào những thời điểm khác nhau, các tân binh đã đến châu Âu, và sau đó đến Israel để đào tạo về hoạt động gián điệp và phá hoại.  Vạch ra mục tiêu của mạng lưới của mình, Dar giải thích rằng “vấn đề chính khiến Ai Cập trở nên đối nghịch với Israel là cách Vua Farouk điều hành chính phủ.  Nếu chúng ta có thể thoát khỏi trở ngại đó nhiều vấn đề sẽ được giải quyết.  Nói cách khác ”—và ở đây Dar quay sang một câu ngạn ngữ Tây Ban Nha —“ không có chó, không có bệnh dại. ”

Việc loại bỏ “con chó” được chứng minh là không cần thiết – Farouk nhanh chóng bị lật đổ trong một cuộc đảo chính.  Và giả định của AMAN rằng mọi thứ sẽ tốt hơn khi y ra đi hóa ra là hoàn toàn không có căn cứ.  Tuy nhiên, ý tưởng rằng mạng lưới Ai Cập vốn đã được thành lập lập này có thể được sử dụng để thay đổi tiến trình lịch sử trong khu vực đơn giản là quá hấp dẫn để các nhà lãnh đạo của Israel từ bỏ.  AMAN quyết định sử dụng những đặc vụ địa phương này chống lại Phong trào Sĩ quan Tự do, tổ chức vừa lật đổ Farouk, “nhằm mục đích làm suy yếu lòng tin của phương Tây đối với chế độ [Ai Cập] bằng cách gây mất an ninh công cộng và kích động biểu tình, bắt giữ và các hành động trả đũa, vai trò của Israel vẫn còn  không lộ ra. ”  Nhưng toàn bộ hoạt động đã kết thúc trong thảm họa.

 Mặc dù được đào tạo chuyên sâu, các tân binh của AMAN đều nghiệp dư và cẩu thả, và tất cả các hoạt động phá hoại của họ đều thất bại.  Cuối cùng, 11 đặc vụ đã bị chính quyền Ai Cập hủy diệt.  Một số bị hành quyết sau các phiên tòa ngắn hạn, và một người tự sát sau khi bị tra tấn khủng khiếp.  Những người may mắn bị kết án tù dài hạn và lao động khổ sai.

Tình trạng hỗn loạn sau đó đã dẫn đến một cuộc tranh chấp chính trị lớn bùng phát ở Israel trong nhiều năm, về việc liệu AMAN có nhận được sự chấp thuận của bộ máy chính trị cho các hoạt động phá hoại này hay không.

 Bài học chính mà Israel rút ra là không bao giờ được tuyển mộ người Do Thái địa phương tại các quốc gia “mục tiêu” thù địch.  Việc bắt giữ họ gần như chắc chắn sẽ kết thúc bằng cái chết, và gây ra những gợn sóng trong toàn bộ cộng đồng Do Thái.  Mặc dù bị cám dỗ sử dụng những người đã có kinh nghiệm và không cần thiết phải tạo ra một vỏ bọc, nhưng hầu như Israel không bao giờ làm như vậy nữa.

 Tuy nhiên, niềm tin cơ bản rằng Israel có thể hành động táo bạo và thay đổi lịch sử thông qua các hoạt động đặc biệt đằng sau các chiến tuyến của kẻ thù vẫn được duy trì, và trên thực tế đã được củng cố như nguyên tắc cốt lõi trong học thuyết an ninh của Israel.  Thật vậy, triết lý này — rằng các hoạt động đặc biệt đằng sau chiến tuyến của kẻ thù ít nhất phải là một trong những phương pháp chính để bảo vệ tổ quốc — sẽ chiếm ưu thế trong số các cơ sở chính trị và tình báo của Israel cho đến ngày nay.

Và trong khi nhiều quốc gia lâu đời trên thế giới vẫn giữ sự tách biệt giữa các bộ phận tình báo thu thập thông tin và các đơn vị hoạt động sử dụng thông tin đó để thực hiện các nhiệm vụ bí mật, thì ngay từ đầu lực lượng đặc nhiệm của Israel đã là một phần không thể thiếu trong các cơ quan tình báo của họ.  Ví dụ, ở Mỹ, các đơn vị đặc nhiệm Delta Force và SEAL Team Six là các thành phần trong Bộ chỉ huy các hoạt động đặc biệt chung, không phải CIA hay tình báo quân sự.  Tuy nhiên, ở Israel, các đơn vị hoạt động đặc biệt nằm dưới sự kiểm soát trực tiếp của các cơ quan tình báo Mossad và AMAN.

Mục đích là liên tục chuyển các thông tin tình báo thu thập được vào các hoạt động.  Mặc dù các quốc gia khác vào thời điểm đó cũng đang thu thập thông tin tình báo trong thời bình, nhưng họ làm vậy chỉ để chuẩn bị trong trường hợp chiến tranh nổ ra hoặc để cho phép một cuộc tấn công đặc biệt không thường xuyên. Còn, Israel thì liên tục sử dụng tình báo của mình để phát triển các cuộc tấn công đặc biệt sau chiến tuyến của kẻ thù, với hy vọng tránh được hoàn toàn một trận chiến tranh tổng lực.

__

HÌNH THÀNH MỘT biểu tượng, cương lĩnh và triết lý quân sự là một lẽ.  Việc triển khai, như Harel đã sớm học hỏi, hoàn toàn là một điều khác, đặc biệt là khi đề cập đến hành động gây hấn.

Chiến dịch lớn đầu tiên của Mossad đã kết thúc một cách tồi tệ.  Vào tháng 11 năm 1954, một thuyền trưởng trong Hải quân Israel tên là Alexander Yisraeli – một kẻ lừa đảo đang nợ  nần chồng chất – đã trốn khỏi đất nước với một hộ chiếu giả và cố gắng bán các tài liệu tuyệt mật cho đại sứ quán Ai Cập ở Rome.  Một đặc vụ Mossad làm việc trong đại sứ quán đó đã báo tin cho các cấp trên của y ở Tel Aviv, và họ ngay lập tức bắt đầu lên kế hoạch bắt cóc Yisraeli để đưa anh ta về Israel xét xử như một tên phản bội.

Đối với Harel, đây là một bài kiểm tra quan trọng, cho cả an ninh quốc gia và sự nghiệp của ông.  Trong những năm hình thành nhà nước đó, những người đứng đầu tất cả các cơ quan đều phải tranh giành quyền lực và uy tín, và một thất bại đáng kể có thể chứng tỏ sự chết người về mặt chuyên môn.  Ông đã tập hợp một đội đặc nhiệm Mossad và Shin Bet hàng đầu để giành lấy Yisraeli ở châu Âu.  Ông giao cho người em họ thứ hai của mình, Rafi Eitan, người đã ám sát hai Templers Đức khi còn là một thiếu niên, phụ trách.

Eitan nói rằng “có một số người đã đề xuất tìm kiếm Yisraeli và giết y càng nhanh càng tốt.  Nhưng Harel đã bác bỏ điều này ngay lập tức.  “Chúng tôi không giết người Do Thái”, ông nói và tuyên bố đây là một hoạt động bắt cóc.”  Bản thân Harel nói, “Tôi chưa bao giờ nghĩ phải ra lệnh giết một người của chúng ta.  Tôi muốn anh ta bị đưa đến Israel và bị xét xử vì tội phản quốc ”.

 Đây là một điểm quan trọng.  Có một truyền thống trách nhiệm lẫn nhau trong Do Thái giáo, và một mối liên hệ sâu sắc giữa tất cả những người Do Thái, như thể họ là một gia đình lớn.  Những giá trị này được coi là đã giữ cho dân tộc Do Thái tồn tại như một quốc gia trong suốt hai ngàn năm lưu đày, và việc một người Do Thái làm hại một người Do Thái khác được coi là không thể dung thứ.  Quay trở lại những ngày hoạt động ngầm trên đất Palestine, khi đó quả là không thể tổ chức các phiên tòa xét xử, việc loại bỏ những kẻ phản bội Do Thái được coi là hợp pháp ở một mức độ nhất định, nhưng giờ đây nhà nước đã được thành lập.  “Chúng tôi không giết người Do Thái” – ngay cả khi họ được cho là mối nguy hiểm nghiêm trọng đối với an ninh quốc gia – đã trở thành luật sắt của cộng đồng tình báo Israel.

Ban đầu, kế hoạch diễn ra hoàn hảo.  Eitan và ba người khác đã chèn ép Yisraeli sau khi y bị một nữ nhân viên Mossad khác chặn lại tại một ngã tư Paris.  Tên bị bắt được đưa đến một ngôi nhà an toàn, nơi bác sĩ Mossad tiêm thuốc an thần cho y và đặt y vào trong thùng thường được sử dụng để chuyển vũ khí, trước khi đưa y lên một chuyến bay đường dài, nhiều điểm dừng trên một máy bay chở hàng của Không quân Israel.  Tại mọi điểm dừng, Yisraeli lại được tiêm thuốc cho đến khi máy bay vừa hạ cánh ở Athens (Hy Lạp), thì y lên cơn động kinh dữ dội và chết.  Theo lệnh của Harel, một trong những người của Eitan đã ném xác y từ phía sau máy bay xuống biển.

Những nhân viên của Harel đã cung cấp thông tin sai cho báo chí Israel rằng Yisraeli, người bỏ lại người vợ đang mang thai, đã ăn cắp tiền và định cư ở một nơi nào đó ở Nam Mỹ.  Harel,  rất xấu hổ khi chiến dịch mình đã kết thúc với cái chết của một người Do Thái, đã ra lệnh rằng tất cả hồ sơ về vụ án phải được chôn sâu bí mật trong một két sắt của Mossad.  Nhưng các đối thủ của Harel đã giữ bản sao một số tài liệu, để sử dụng chống lại ông vào một ngày nào đó nếu được yêu cầu.

Harel cũng đi đến kết luận rằng có nhu cầu cấp thiết về việc thành lập một đơn vị đặc biệt được thiết kế đặc biệt để thực hiện các nhiệm vụ phá hoại và giết người có mục tiêu.  Ông bắt đầu tìm kiếm “những chiến binh được huấn luyện, cứng rắn và trung thành, những người sẽ không ngần ngại bóp cò súng khi cần thiết.”  Ông đã tìm thấy họ ở nơi cuối cùng mà ông có thể mong đợi: những cựu binh của Irgun và Lehi, những người mà ông đã từng chiến đấu chống lại một cách cam go.

 Ben-Gurion đã cấm việc tuyển dụng bất kỳ cựu thành viên nào của phe cánh hữu ngầm vào các cơ quan chính phủ, và nhiều người trong số họ đã thất nghiệp, thất vọng và khao khát hành động.  Shin Bet tin rằng một số người trong số họ rất nguy hiểm và có thể bắt đầu các phong trào ngầm chống lại chế độ.

Harel nhắm đến việc một phát giết  hai con chim: thành lập đơn vị hoạt động đặc biệt của mình, và tạo điều kiện cho các chiến binh ngầm hành động dưới quyền chỉ huy của ông, bên ngoài biên giới của nhà nước.

David Shomron, Yitzhak Shamir, và những  đồng đội của họ ở Irgun và Lehi, những người được cho là đủ cứng rắn và táo bạo đã được mời đến nhà của Harel ở phía bắc Tel Aviv và tuyên thệ. Đây là việc thành lập  Mifratz, tiếng Do Thái có nghĩa là “Vịnh”,  đội sát thủ  đầu tiên của Mossad.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét