Thứ Năm, 15 tháng 6, 2023

BẬT DẬY VÀ GIẾT LIỀN : Bài 4


Ronen Bergman

Trần Quang Nghĩa dịch

Chương 4 : Toàn bộ chỉ huy tối cao chỉ với một đòn

 NHỮNG VỤ ÁM SÁT CÓ MỤC TIÊU nhắm vào Hafez và Salah đã làm rung chuyển tình báo quân sự Ai Cập, và số lượng các cuộc tấn công khủng bố vào Israel đã giảm xuống nhất định.  Theo quan điểm của Israel, đây là một thành công.

Nhưng sau đó bầu trời trong khu vực trở nên vần vũ mây đen vì một lý do khác.

Vào ngày 26 tháng 7 năm 1956, Tổng thống Ai Cập, Gamal Abdel Nasser, hành động theo một cương lĩnh chống thực dân, đã quốc hữu hóa Kênh đào Suez, tuyến đường giao thông quan trọng giữa Biển Địa Trung Hải và Biển Đỏ.  Chính phủ Anh và Pháp, mà  những công dân của họ là các cổ đông lớn của công ty vận hành đường thủy có lợi nhuận cao, đã rất tức giận.  Về phần mình, Israel mong muốn lấy lại lối đi qua kênh đào, nhưng đồng thời, họ cũng nhìn thấy cơ hội để đưa ra một thông điệp rõ ràng cho Ai Cập: cụ thể là Nasser cuối cùng sẽ phải trả một cái giá đắt khi gửi các chiến binh đến Dải Gaza,  tấn công Israel, tham vọng rõ ràng của ông là phá hủy đất nước non trẻ sẽ phải đối mặt với sức mạnh đè bẹp.

 Sự hội tụ lợi ích này tạo nên một liên minh bí mật giữa ba quốc gia, với vị tổng tham mưu trưởng năng động của Bộ Quốc phòng Israel, Shimon Peres, đóng vai trò chính trong việc vạch ra một kế hoạch chiến tranh đầy tham vọng.  Israel sẽ xâm lược Bán đảo Sinai, do đó tạo cớ cho Pháp và Anh – một cuộc khủng hoảng đe dọa Suez – cũng đem quân xâm lược.  Pháp hứa cung cấp cho Israel một chiếc ô dù trên không để chống lại các cuộc tấn công của Không quân Ai Cập.

 Không lâu trước D-Day, AMAN của Israel biết được rằng một phái đoàn bao gồm Tham mưu trưởng Ai Cập đầy quyền lực, Thống chế Abd al-Hakim Amer và nhiều quan chức cấp cao khác đã rời Cairo bằng máy bay đến Damascus.  Một cơ hội ngẫu nhiên xuất hiện.  Chỉ với một đòn tấn công chính xác, Israel có thể loại bỏ gần như toàn bộ ban lãnh đạo quân sự của Ai Cập.

Lực lượng không quân bắt đầu tiến hành huấn luyện chuyên sâu về đánh chặn ban đêm, một hoạt động khó khăn, với khả năng công nghệ sẵn có vào thời điểm đó.  Ben-Gurion và Dayan quyết định rằng Israel sẽ làm tất cả những gì có thể để che giấu bàn tay của mình và cố gắng làm cho nó trông như thể chiếc máy bay đã bị rơi vì lỗi kỹ thuật.

Nhiệm vụ có mật danh là Chiến dịch Rooster (Con gà trống).

 Người Ai Cập dự kiến ​​sẽ thực hiện chuyến bay ngắn từ Damascus trở lại Cairo bằng hai máy bay Ilyushin Il-14.  AMAN đã giao nhiệm vụ xác định và theo dõi đoàn không quân cho đơn vị tình báo tín hiệu (SIGINT) của họ.  Đơn vị (ngày nay được gọi là Đơn vị 8200) đã đạt được một số thành công nổi bật trong cuộc chiến tranh 1948–49, và sau đó AMAN đã đầu tư nhiều nguồn lực vào việc phát triển đơn vị, đơn vị này cuối cùng sẽ trở thành đơn vị lớn nhất — và, một số người nói,  quan trọng nhất — trong IDF.

Khoản đầu tư đã được đền đáp.  Vài ngày trước khi phái đoàn rời Cairo đến Damascus, các kỹ thuật viên của SIGINT đã cố gắng cô lập tần số phát sóng mà người Ai Cập dự kiến ​​sẽ sử dụng trên chuyến bay ngắn trở lại Cairo.  20 nhân viên điều hành đài Israel, tất cả đều dưới 25 tuổi, đã căng thẳng chờ đợi tại trụ sở chính ở Ramat Hasharon, phía bắc Tel Aviv, làm việc suốt ngày đêm, chờ người Ai Cập rời đường băng ở Damascus.  Đơn vị này đang chịu áp lực dữ dội từ bộ chỉ huy cấp cao, khi cuộc xâm lược trên bộ vào Bán đảo Sinai được lên kế hoạch vào ngày 29 tháng 10, và tình trạng hỗn loạn choáng váng do mất toàn bộ nhân viên quân sự cấp cao sẽ khiến người Ai Cập rơi vào tình thế bất lợi rõ rệt.  Thời gian không còn nhiều.

Ngày tháng trôi qua chậm chạp, những người điều hành trung tâm thu phát sóng kiên nhẫn chờ đợi một âm thanh trong tai nghe của họ.  Rạng sáng ngày 28 tháng 10, một ngày trước 0 giờ, và người Ai Cập vẫn chưa rời Syria.  Cuối cùng, vào lúc hai giờ chiều ngày 28 tháng 10, tín hiệu mà họ chờ đợi đã được nhận: các phi công của máy bay Ilyushin Il-14 đã sẵn sàng lên đường.

 Mattias “Chatto” Birger, chỉ huy Phi đội 119 của lực lượng không quân và là một trong những phi công giỏi nhất của lực lượng không quân vào thời điểm đó, đã được chọn cho nhiệm vụ đầy kịch tính.  Vào khoảng 8 giờ tối, SIGINT thông báo cho lực lượng không quân rằng chỉ có một trong hai chiếc Ilyushins của Ai Cập đã cất cánh.  Tuy nhiên, SIGINT tin rằng tất cả các sĩ quan Ai Cập đều có mặt trên phi cơ.  Chiến dịch Rooster xuất phát.

Chatto leo lên chiếc phản lực  Meteor Mk. 13  và cất cánh cùng với hoa tiêu  Elyashiv “Shivi” Brosh.  Đó là một đêm đặc biệt đen tối, tối đến mức cả đường chân trời gần như biến mất trong bóng đen.

Chatto  bay lên độ cao mười nghìn bộ và chững lại.  Radar báo hiệu một chiếc máy bay đang đến gần.  “Liên lạc, liên lạc, liên lạc!”  Shivi nói qua hệ thống liên lạc nội bộ.  “Hai giờ, độ cao của chúng tôi, ba dặm phía trước, chuyển sang ba giờ.  Bốn!  Quẹo phải gắt!  Chậm hơn!  Bạn đang tiến sát quá nhanh! ”

In trên bầu trời đen kịt khổng lồ, Chatto nhìn thấy những đốm sáng màu cam nhỏ, ngọn lửa phun ra từ ống xả của chiếc Ilyushin.  “Giao tiếp bằng mắt”, anh báo cáo với bộ phận kiểm soát mặt đất.

Chỉ huy lực lượng không quân Dan Tolkowsky, người ngồi ở trung tâm điều khiển, cho biết: “Tôi muốn xác nhận cụ thể về chiếc máy bay.  “Chính xác không nghi ngờ.  Hiểu không?”

Chatto hơi xoay người sang trái cho đến khi anh có thể nhìn thấy ánh sáng từ cửa sổ của khoang hành khách.  Các cửa sổ của buồng lái lớn hơn các cửa sổ khác.  Đó là một nhận dạng được khẳng định, Chatto nghĩ.  Chỉ có Ilyushin mới có cửa sổ như vậy.  Anh cũng nhận ra các nhân vật mặc quân phục đi giữa các hàng ghế. “Đã xác nhận nhân dạng!”  anh ấy nói.

 “Được phép nổ súng, chỉ khi bạn không nghi ngờ gì,” Tolkowsky trả lời.  “Đã rõ.”

 Đạn bắn ra từ bốn khẩu đại bác hai mươi milimét gắn trên mũi máy bay.  Chatto lóa mắt trước ánh sáng chói bất ngờ: một người nào đó trong phi hành đoàn mặt đất, muốn thể hiện sự giúp đỡ, đã nạp các viên đạn đánh dấu vào khẩu pháo, nhưng những tia sáng lóe lên trong bóng tối gần như hoàn toàn làm mắt anh cay xòe.

 Chatto đã hồi phục thị lực.  Anh nhìn thấy lửa trên bầu trời.  “Đã trúng mục tiêu!”  Chatto nói với kiểm soát mặt đất.  “Động cơ bên trái đang bốc cháy và có vẻ như bị đoản mạch, vì mọi thứ đều tối”.

Chatto bóp cò một lần nữa.  Ilyushin phát nổ, một quả cầu lửa trong đêm, phun ra những mảnh vỡ vụn.  Nó bắt đầu quay xuống biển.

 “Bạn có thấy nó bị rơi không?”  Tolkowsky hỏi khi Chatto quành  máy bay đi thẳng.

 “Khẳng định, bị rơi,” Chatto trả lời.

 Chatto lao máy bay hết tốc độ trở về và được chào đón trên đường băng bởi tham mưu trưởng Moshe Dayan và tướng Tolkowsky, người đã cung cấp cho Chatto tin tức là, vào phút cuối cùng, Thống chế  Amer của Ai Cập rõ ràng đã quyết định đợi chiếc máy bay thứ hai.  “Nếu có thời gian,” Chatto nói, “chúng ta sẽ đổ xăng và lại đi chơi.”

 Dayan trả lời: “Chúng tôi đã cân nhắc điều đó nhưng đi đến kết luận rằng như thế sẽ trông quá lộ liễu và sẽ có khả năng tiết lộ nguồn tin tình báo của chúng ta”.  “Chúng tôi đã quyết định để mặc Amer.  Dù vậy, ngay khi tiêu diệt Bộ Tổng tham mưu Ai Cập, bạn đã thắng một nửa cuộc chiến.  Chúng ta hãy uống một ly cho hiệp hai. “

 Không nghi ngờ gì nữa, Chiến dịch Gà trống là kỳ tích tình báo và tác chiến trên không tuyệt vời. Thật vậy, những người tham gia Chiến dịch Con gà trống bắt đầu gọi đó là “việc bắn hạ Bộ Tổng tham mưu Ai Cập” và cho rằng tình trạng hỗn loạn áp đảo trong giới chỉ huy cấp cao ở Cairo đã góp phần quan trọng vào chiến thắng của Israel trong cuộc chiến nổ ra vào ngày hôm sau.

Dù tác động có lớn như những người này tuyên bố hay không, thì IDF đã dễ dàng đánh bại Quân đội Ai Cập.  Nó khiến cả thế giới chú ý: Nhà nước Do Thái bây giờ là một lực lượng chiến đấu nghiêm túc.  Ben-Gurion, tạm thời trong trạng thái hưng phấn, đã gửi một bức thư công khai tới các sĩ quan và binh lính của Lữ đoàn 9 nói về “Vương quốc Israel thứ ba”.

__

 ĐỒNG HÀNH VỚI Bán đảo SINAI, Israel cũng đã chinh phục Dải Gaza.  Sau khi IDF chiếm Dải, Rehavia Vardi đã cử một số người của mình từ Đơn vị 504 đến lục soát tòa nhà tình báo Ai Cập ở Thành phố Gaza, nơi Mustafa Hafez đã bị giết vài tháng trước đó.  Trong một căn hầm, họ tìm thấy một kho báu được giấu kín, một kho báu mà những người Ai Cập đang trốn chạy trong tuyệt vọng đã xao nhãng việc phá hủy: hồ sơ thẻ còn nguyên vẹn của tất cả những kẻ khủng bố Palestine mà Hafez và người của ông đã triển khai chống lại Israel trong 5 năm trước Chiến dịch Sinai.

Cứ như thể người Ai Cập đã để lại một danh sách mục tiêu.  Vardi đã gặp tham mưu trưởng Dayan và xin phép ông ta để bắt đầu ra tay  giết những tên Palestine có tên trong hồ sơ thẻ.  Đến lượt mình, Dayan nhận được sự chấp thuận của Ben-Gurion.  Vardi sau đó ra lệnh cho Natan Rotberg – và thùng thuốc nổ của anh ta – chạy quá tốc độ.

Công thức đặc biệt của Rotberg được đổ vào giỏ đan bằng liễu gai, bật lửa, trái cây, rau, thậm chí cả đồ nội thất.  Các đặc vụ Ả Rập của Đơn vị 504 đã giấu những quả bom ở những nơi thích hợp hoặc chuyển chúng làm quà tặng cho khoảng ba mươi tên fedayeen  Palestine ở Gaza.  Từ tháng 11 năm 1957 đến tháng 3 năm 1958, người của Vardi đã làm việc thông qua hồ sơ, loại bỏ những tên đã khủng bố người Israel trong nhiều năm.  Các nhiệm vụ giết người có mục tiêu phần lớn là thành công, nói về mặt chiến thuật, nhưng không nhất thiết về mặt chiến lược.  Rotberg nói: “Tất cả vụ trừ khử  này đều có tầm quan trọng rất hạn chế, vì những tên khác chỉ đơn giản nhảy vào thế chỗ của chúng.”

 Rất nhanh chóng, âm mưu bí mật của Anh, Pháp và Israel đã biến thành một thảm họa ngoại giao quốc tế vang dội.  Hoa Kỳ buộc Israel phải rút khỏi Sinai và Gaza.  Pháp và Anh cũng nhượng bộ và cuối cùng mất quyền kiểm soát kênh đào, và các nhà lãnh đạo của cả hai siêu cường này buộc phải từ chức.

Chế độ Ai Cập giờ đây được coi là đã đứng lên can thiệp vào chủ nghĩa thực dân phương Tây, và đã buộc hai cường quốc châu Âu và kẻ thù Do Thái không đội trời chung của họ phải từ bỏ.  Nasser được chọn làm anh hùng và trở thành nhà lãnh đạo của thế giới Ả Rập vì mọi mục đích thiết thực.

Tuy nhiên, Nasser đã đồng ý cho phép các tàu của Israel sử dụng kênh đào và ngừng tài trợ cho các hoạt động của fedayeen ở Gaza.  Ông hiểu rằng tiềm năng bùng phát xung đột quân sự với Israel từ các hoạt động này lớn hơn những lợi thế có được từ chúng.

 Cuối cùng, vào năm 1957, có vẻ như khủng bố sẽ ngừng tràn vào Israel từ bên kia biên giới.

__

 CHIẾN DỊCH SINAI đã tuyên bố rõ ràng với các quốc gia Ả Rập rằng việc tiêu diệt Israel sẽ rất khó khăn, và nó đã cho Israel 11 năm không có chiến tranh quy mô lớn, cho đến khi Chiến tranh 6 ngày năm 1967. IDF đã sử dụng thời gian này để biến thành  một lực lượng quân sự hùng mạnh, đông đảo, được đào tạo bài bản, dựa trên công nghệ, được trang bị vũ khí hiện đại và tự hào có cánh tay tình báo AMAN, với khả năng rộng khắp.

 Những năm sau đó cũng là những năm tốt đẹp đối với Mossad.  Isser Harel đã nuôi dưỡng nó từ một tổ chức non trẻ, đôi khi vấp ngã thành một cơ quan có gần một nghìn nhân viên, nổi tiếng quốc tế về sự dẻo dai, bền bỉ và tính tháo vát.

 Israel bắt đầu nổi lên như một cường quốc tình báo vào năm 1956, sau khi Nikita Khrushchev có bài phát biểu bí mật trước Đại hội Đảng Cộng sản lần thứ XX, trong đó ông thẳng thắn nói về những tội ác của người tiền nhiệm Joseph Stalin.  Mọi bộ phận điệp viên ở thế giới phương Tây đều nóng lòng muốn có được văn bản, nghiên cứu nó để tìm manh mối cho tư duy của Khrushchev, nhưng không ai trong số họ có thể xuyên thủng bức màn bí mật của Liên Xô.  Chính tình báo Israel đã thành công, và Isser Harel đã ra lệnh giao một bản sao của bài phát biểu cho CIA.

 Giám đốc cơ quan, Allen Dulles, rất ấn tượng và tri ân, đã chuyển nó cho Tổng thống Dwight Eisenhower, người sau đó đã ra lệnh tiết lộ nó cho tờ  The New York Times.  Việc xuất bản tài liệu đã khuấy động một cơn bão toàn cầu và khiến Liên Xô vô cùng bẽ mặt.

 Liên minh bí mật giữa tình báo Mỹ và Israel ra đời.  Về phía Mỹ, dẫn đầu là James Jesus Angleton, trưởng phòng phản gián của CIA, một người ủng hộ Israel, người cũng như Harel, luôn nhìn thấy điệp viên Liên Xô bên dưới mọi gầm giường.  Thông qua kênh này, CIA sẽ có được rất nhiều thông tin tình báo về Trung Đông, một hoạt động vẫn tiếp diễn cho đến ngày nay.

 Chiến dịch Sinai của Israel năm 1956, mặc dù là một thảm họa chính trị, nhưng càng củng cố thêm vị thế của đất nước trong các hoạt động tình báo.  Sau cuộc chiến ngắn ngủi đó, Harel bắt đầu xây dựng một mạng lưới liên lạc bí mật trong các quốc gia trên khắp Trung Đông, châu Á và châu Phi, trong đó có nhiều quốc gia công khai đứng về phía Ả Rập.  Mô hình này đã được Mossad gọi là “học thuyết ngoại vi” và nó kêu gọi thiết lập các liên kết bí mật với các quốc gia và tổ chức nằm ngay bên ngoài vòng vây của các quốc gia Ả Rập thù địch xung quanh Israel, hoặc với các nhóm thiểu số chống đối nằm bên trong các quốc gia đối thủ của Israel.

 Thành tựu nổi bật trong chiến lược ngoại vi của Mossad là liên minh tình báo ba bên — có mật danh là Trident — giữa Israel, Iran thời Shah và Thổ Nhĩ Kỳ.  Những người đứng đầu cơ quan gián điệp của ba nước thỉnh thoảng sẽ gặp nhau và trao đổi một lượng lớn tài liệu tình báo.  Liên minh cũng tiến hành các hoạt động chung chống lại Liên Xô và Ả Rập.  Ben-Gurion thuyết phục Tổng thống Eisenhower rằng Trident là tài sản hàng đầu và CIA đã cung cấp tiền cho các hoạt động của nó.

Tuy nhiên, vụ  lớn nhất đối với Mossad xảy ra vào năm 1960, khi các đặc vụ Israel lần theo dấu vết của Adolf Eichmann – một trong những kiến ​​trúc sư chính và người hỗ trợ cho Giải pháp Cuối cùng (Diệt chủng dân Do Thái) của Hitler – đến Buenos Aires, nơi hắn đã sống mười năm dưới cái tên Ricardo Klement.

 Một công tố viên người Đức gốc Do Thái, Fritz Bauer, tuyệt vọng về cơ hội đưa tội phạm chiến tranh của Đức Quốc xã ra trước công lý ở Đức, vì vậy thay vào đó, ông đã tiết lộ thông tin thu thập được về Eichmann cho Mossad.  Khi một đặc vụ Mossad đến gặp ông ta, Bauer đã để anh ta một mình, với những tài liệu mật đã xếp loại nằm trên bàn. Đặc vụ Israel hiểu gợi ý và sao chép các chi tiết liên quan.

 Ben-Gurion ủy quyền cho Harel đến Buenos Aires, cầm đầu một đội lớn.  Thủ tướng đã quyết định giải quyết Eichmann, người được đặt mật danh là Dybbuk, một từ Do Thái chỉ một linh hồn xấu xa đang nắm giữ một người sống.  Nhưng mục đích của hoạt động này lớn hơn nhiều so với việc báo thù một cá nhân, bất kể những vi phạm nghiêm trọng nào y có thể đã nhúng tay vào.  Ben-Gurion ra lệnh cho Harel và nhóm của ông không được làm tổn hại đến thể chất Eichmann, mặc dù giết y là lựa chọn dễ dàng nhất, nhưng thay vào đó, phải bắt cóc y và đưa y ra xét xử ở Israel.  Mục đích là để khuấy động nhận thức cộng hưởng quốc tế và ký ức khó phai mờ về Holocaust, thông qua việc phơi bày các hành vi của một trong những thủ phạm chính của nó.

Hàng chục nhân viên và cộng tác viên của Mossad đã tham gia hoạt động, một số người trong đó mang và chuyển đổi hộ chiếu đến năm quốc gia.  Họ tản ra vào một số ngôi nhà an toàn trên khắp thủ đô của Argentina.

 Vào ngày 11 tháng 5, nhóm truy nã đã bố trí gần trạm dừng nơi người đàn ông được gọi là Klement xuống xe buýt mỗi tối lúc 7:40 và đi bộ một đoạn ngắn về nhà của anh ta.  Vào buổi tối này, xe buýt đến, nhưng Eichmann không xuất hiện.  Lệnh cho nhóm là phải đợi không quá 8 giờ tối.  và nếu y không xuất hiện vào lúc đó, hãy hủy bỏ, để không làm dấy lên sự nghi ngờ.

 Lúc tám giờ, họ đang chuẩn bị ra về, thì Rafi Eitan, chỉ huy thực địa, quyết định đợi thêm một chút nữa.  Năm phút sau, khi Eitan chuẩn bị bỏ cuộc trong đêm, thì một chiếc xe buýt khác dừng lại.  Klement bước xuống và bắt đầu bước đi, một tay đút túi.

Zvi Malchin là người đầu tiên lao đến  Anh ta sợ rằng Klement nghi ngờ điều gì đó và định rút súng, vì vậy thay vì tóm lấy y từ phía sau và kéo y lên xe như kế hoạch, anh ta đã đẩy y từ phía sau xuống một con mương và chồm lên người y, cùng với Eitan và một đặc vụ khác theo sát phía sau.  Klement hét lên, nhưng không có ai xung quanh nghe thấy y.  Trong vài giây, y đã bị khống chế và quăng vào băng ghế sau của một chiếc ô tô.  Zvi Aharoni, một đặc nhiệm của Mossad, đang ngồi ở đó, nói với y bằng tiếng Đức rằng nếu y gây rối thì y sẽ bị bắn ngay tại chỗ.

Eitan bắt đầu tìm kiếm những dấu hiệu cho thấy y thực sự là Eichmann.  Vết sẹo dưới cánh tay, nơi có hình xăm SS, nằm ở vị trí dễ thấy.  Vết sẹo của cuộc phẫu thuật cắt ruột thừa mà y  đã trải qua, được ghi lại tỉ mỉ trong hồ sơ SS của y, là một vấn đề phức tạp hơn.  Eitan phải mở thắt lưng y và nhét tay vào dưới quần của Klement, trong khi chiếc xe đang gầm rú lao về phía trước và người trên xe bị hất tung từ bên này sang bên kia.  Nhưng cuối cùng anh đã tìm thấy vết thẹo và thốt lên, “Zeh hoo!  Zeh hoo! ”- tiếng Do Thái có nghĩa là“ Chính là hắn!  Chính là hắn!”

Trong bóng tối, mắt của Eitan và Malchin sáng rực.  Họ bắt tay và ngân nga một vài nhịp của bài hát quân hành, được viết để vinh danh những chiến sĩ Do Thái đã chiến đấu với Đức Quốc xã trong các khu rừng, và kết thúc bằng dòng “Ta bước chân theo nhịp điệu: Chúng tôi ở đây.”

 Eichmann đã bị đánh thuốc mê và được đưa lậu đến Israel trong một chiếc máy bay của Hàng không Israel El Al.  Phiên tòa xét xử y ở Jerusalem đã thu hút sự chú ý chưa từng có của quốc tế, và đoàn đông nhân chứng nhắc nhở thế giới về sự tàn bạo của Holocaust.  Eichmann bị kết án tử hình và xử tử bằng cách treo cổ.  Thi thể của y đã được hỏa táng và tro cốt của y vứt xuống biển.

 Trong khi đó, bản tin sơ sài về việc phát hiện và bắt cóc Eichmann đã cho Mossad vị thế của một cơ quan gián điệp nhẫn tâm và có năng lực.  Đến giữa năm 1962, Harel được coi là chủ lực của các cơ sở quốc phòng và tình báo Israel.

 Ben-Gurion đã có được mọi thứ mà ông ấy mong đợi.

 Nhưng đối với tất cả vinh quang đó, cục của Harel đã hoàn toàn bỏ qua một mối đe dọa tàn khốc đang phát triển ngay bên cạnh.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét