Ronen Bergman
Trần Quang Nghĩa dịch
Chương 35 : THÀNH TỰU CHIẾN THUẬT ẤN TƯỢNG, THẤT BẠI CHIẾN LƯỢC THẢM KHỐC
MAHMOUD AL-MABHOUH bước vào sảnh của Khách sạn Al-Bustan Rotana ngay trước 8:30 tối, một trong số rất nhiều khách đến và đi tại khách sạn. Giống như họ, y đã bị camera kín ở lối vào bắt được. Y có mái tóc đen, đường chân tóc hơi lõm xuống và bộ ria mép đen dày. Y mặc một chiếc áo sơ mi đen và một chiếc áo khoác hơi rộng so với khổ người. Đó là một đêm tương đối lạnh ở Dubai, vốn thường rất ấm áp.
Y mới ở Dubai chưa đầy sáu giờ, nhưng y đã gặp một nhân viên ngân hàng, người đang giúp y sắp xếp các giao dịch tài chính quốc tế cần thiết để mua thiết bị giám sát đặc biệt cho Hamas ở Gaza. Y cũng đã gặp người liên lạc thường xuyên của mình từ Lực lượng Vệ binh Cách mạng Iran, đã bay đến để phối hợp vận chuyển hai chuyến hàng vũ khí lớn cho tổ chức Hồi giáo cực đoan.
Al-Mabhouh đã kinh doanh rất nhiều ở Dubai. Khi y bay đến thành phố nhỏ bé này vào ngày 19 tháng 1 năm 2010, ít nhất đó là chuyến thăm thứ năm của y trong vòng chưa đầy một năm. Y đi du lịch bằng hộ chiếu Palestine — tiểu vương quốc này là một trong số ít nơi công nhận giấy tờ do Chính quyền Palestine cấp — trong đó liệt kê tên giả và nghề nghiệp giả. Trên thực tế, y là một đặc vụ hàng đầu của Hamas và đã làm như vậy trong nhiều thập kỷ: Hai mươi năm trước, y đã bắt cóc và sát hại hai binh sĩ Israel, và gần đây hơn, sau khi người tiền nhiệm của y, Izz al-Din al-Sheikh Khalil, bị Mossad xử lý ở Damascus, y chịu trách nhiệm dự trữ vũ khí của Hamas.
Một hoặc hai bước sau al-Mabhouh, có một người đàn ông cầm điện thoại, đi theo y vào thang máy. “Đến ngay bây giờ,” gã đàn ông nói vào điện thoại. Al-Mabhouh có thể đã nghe lỏm được, nhưng dường như y không để ý. Không có gì bất thường khi một khách du lịch ở Dubai nói với một người bạn rằng mình đang trên đường đến.
Al-Mabhouh về bản chất là một người cực kỳ thận trọng. Y biết rằng người Israel muốn giết y. “Bạn phải cảnh giác,” y nói với Al Jazeera trong một cuộc phỏng vấn vào mùa xuân trước. “Còn tôi, ngợi khen Allah, họ gọi tôi là ‘con cáo’ bởi vì tôi có thể cảm nhận được những gì phía sau mình, thậm chí cả những gì đằng sau bức tường đó. Ngợi khen Allah, tôi có linh cảm cảnh giác rất phát triển. Nhưng chúng tôi biết cái giá phải trả cho con đường của mình và chúng tôi không có ngại gì điều đó. Tôi hy vọng rằng mình sẽ được chết như một chiến binh tử vì đạo.”
Thang máy dừng lại ở lầu hai. Al-Mabhouh bước ra. Gã đàn ông cầm điện thoại ở lại, đi lên tầng cao hơn. Chắc chắn là khách du lịch.
Al-Mabhouh rẽ trái và đi về phía phòng của mình, 230. Hành lang trống không. Theo thói quen, y nhanh chóng quét mắt xem xét khung cửa và cơ chế khóa, tìm kiếm các vết nứt, vết trầy xước, bất kỳ dấu hiệu giả mạo nào. Không có gì.
Y bước vào phòng, đóng cửa lại sau lưng. Bỗng y nghe thấy một tiếng động và quay lại để xem đó là gì.
Quá muộn.
__
KẾ HOẠCH ÁM SÁT Mahmoud al-Mabhouh đã được thông qua bốn ngày trước đó, vào ngày 15 tháng 1, trong một cuộc họp được sắp xếp vội vàng trong phòng họp lớn gần văn phòng của Meir Dagan, sau khi tình báo quân đội Israel đã đột nhập được vào tài khoản email mà al-Mabhouh sử dụng và phát hiện ra y đã đặt chuyến bay từ Damascus đến Dubai vào ngày 19 tháng 1.
Trong cuộc họp đó, có khoảng 15 người ngồi quanh một chiếc bàn dài, trong đó có đại diện các cánh tình báo, công nghệ và hậu cần của Mossad. Người quan trọng nhất tại hội nghị, sau Dagan, là “Holiday”, người đứng đầu Caesarea. Holiday, người hói đầu và mập mạp, đã tự mình nhận nhiệm vụ đích thân chỉ huy Chiến dịch Màn hình Plasma.
Al-Mabhouh từ lâu đã nằm trong danh sách tiêu diệt của người Israel. Một năm trước đó, tình hình ở biên giới Dải Gaza trở nên tồi tệ đến mức vào ngày 27 tháng 12 năm 2008, Israel đã phát động Chiến dịch Cast Lead (Chì Đúc), một vụ tấn công quy mô lớn nhằm ngăn chặn Hamas dội mưa tên lửa Qassam và Katyusha xuống các cộng đồng người Israel. Hamas đã có thể bắn một lượng lớn vũ khí từ Dải Gaza nhờ vào mạng lưới vận chuyển và thu mua vũ khí của al-Mabhouh, cũng như sự hỗ trợ mà lực lượng này nhận được từ Lực lượng Vệ binh Cách mạng Iran.
Tình báo của Israel về Hamas đã được cải thiện rất nhiều trong những năm gần đây, và chiến dịch bắt đầu bằng cuộc oanh tạc trên không khổng lồ của lực lượng không quân, có tên mã là Chim Mồi, vào các hầm chứa tên lửa của Hamas. Mossad đã biết rằng mạng lưới do al-Mabhouh quản lý đang bổ sung cho kho dự trữ vũ khí của Hamas. Vũ khí được vận chuyển từ Iran đến Port Sudan, trên Biển Đỏ, và từ đó chở lén lút qua Ai Cập và Sinai vào Dải Gaza thông qua nhiều đường hầm được sử dụng để tránh lực lượng tuần tra và biên phòng Ai Cập. Mossad theo dõi các chuyến hàng trên biển và khi các xe tải rời cảng Sudan. Vào tháng 1 năm 2009, Lực lượng Không quân Israel đã thực hiện bốn cuộc tấn công tầm xa và tiêu diệt các đoàn xe và lực lượng hộ tống họ.
Dagan nói: “Các hoạt động như thế này đã gây ra nhiều thiệt hại cho các tuyến đường chở lậu từ Iran đến Hamas. “Không phải là một tác động tuyệt đối, không đủ để giành chiến thắng hoàn toàn, nhưng cắt giảm đáng kể.”
Tuy nhiên, vì một số lý do, al-Mabhouh đã không di chuyển vào ngày hôm đó bằng những chiếc xe tải mà rời Sudan bằng một con đường khác. Để khắc phục điều này, Dagan đã yêu cầu và được Olmert chấp thuận cho một hoạt động xử lý tiêu cực chống lại al-Mabhouh. Khi Benjamin Netanyahu kế nhiệm Olmert vào tháng 3 năm 2009, ông đã gia hạn phê duyệt.
Dubai là nơi thuận tiện nhất để giết al-Mabhouh. Các khu vực khác mà y lưu trú từng thời gian—Tehran, Damascus, Sudan và Trung Quốc—có các cơ quan mật vụ hoạt động hiệu quả và đặt ra nhiều vấn đề hơn cho đội tấn công của Mossad. Mặt khác, Dubai có rất nhiều khách du lịch và doanh nhân nước ngoài, và theo tin của Mossad, lực lượng tình báo và thực thi pháp luật yếu hơn nhiều. Dubai vẫn là một quốc gia mục tiêu, chính thức thù địch với Israel, nhưng đến thời điểm này, Mossad đã giết một mục tiêu ở trung tâm thành phố Damascus và một vị tướng Syria trong biệt thự của chính ông ta. Để so sánh, giết một đặc vụ của Hamas ở Dubai đông khách du lịch sẽ là một mục tiêu tương đối dễ dàng.
Tuy nhiên, chiến dịch kêu gọi một đội lớn, được chia thành các đội nhỏ hơn, có thể phát hiện ra mục tiêu khi y đến Dubai và theo dõi y trong khi những người khác sắp xếp và thực hiện vụ tấn công thực sự trong phòng khách sạn, đảm bảo rằng nó có vẻ như al-Mabhouh đã chết một cách tự nhiên. Sau đó, họ cần phải loại bỏ tất cả các bằng chứng và rời khỏi đất nước trước khi xác y được tìm thấy, chỉ trong trường hợp hành vi phi pháp bị nghi ngờ.
Không phải ai cũng nghĩ rằng al-Mabhouh đủ quan trọng để biện minh cho nỗ lực và rủi ro. Một số thậm chí còn nói với Dagan rằng y không đáp ứng các điều kiện cơ bản cần thiết để phải xử lý tiêu cực. Mọi người trong Mossad đều đồng ý rằng al-Mabhouh đáng chết, nhưng để thực hiện một chiến dịch ở một quốc gia mục tiêu, y phải là một mối nguy hiểm nghiêm trọng đối với Israel, một người mà việc trừ khử y sẽ có tác động phá vỡ sâu sắc thế cân bằng của kẻ thù. Trên thực tế, al-Mabhouh không phù hợp với cả hai tiêu chí. Nhưng sau tất cả những thành công trước đó, Dagan và các quan chức khác của Mossad tràn đầy tự tin đến mức họ vẫn tiếp tục.
Một nhóm đặc vụ Caesarea lần đầu tiên lần theo dấu vết của al-Mabhouh ở Dubai vào năm 2009, không phải để giết y mà để nghiên cứu hành tung của y và chủ yếu là để chắc chắn rằng y là mục tiêu của họ. Bốn tháng sau, vào tháng 11, đoàn hành sự Màn hình Plasma lại đến Dubai, lần này là để loại bỏ y. Họ đã đầu độc một loại đồ uống được mang đến phòng khách sạn cho y, nhưng họ đã pha sai liều lượng hoặc y không nuốt đủ: Al-Mabhouh chỉ ngất đi. Khi tỉnh lại, y cắt ngắn chuyến thăm và quay trở lại Damascus, nơi một bác sĩ cho rằng cơn ngất xỉu của y là do bệnh bạch cầu đơn nhân . Y chấp nhận chẩn đoán này và không nghi ngờ rằng một mưu tính lấy mạng mình đã được thực hiện.
Diễn biến này đã gây ra sự thất vọng sâu sắc trong Mossad. Con người và tài nguyên đã bị mạo hiểm, mà công việc vẫn chưa hoàn thành. Holiday nhấn mạnh rằng lần này sẽ không có sai lầm nào: Biệt đội tấn công sẽ không rời Dubai trước khi họ tận mắt chứng kiến al-Mabhouh đã chết.
Một ý kiến phản đối phát sinh tại cuộc họp ngày 15 tháng 1 gần văn phòng của Meir Dagan. Bộ phận tài liệu sẽ gặp khó khăn khi chuẩn bị hộ chiếu giả mới đáng tin cậy cho toàn bộ nhóm. Có hơn hai chục người sẽ đến Dubai, và một số sẽ vào cùng một quốc gia với cùng danh tính và vỏ bọc đến lần thứ ba trong vòng chưa đầy sáu tháng. Trong những ngày Mossad còn rụt rè hơn dưới thời Halevy, hoạt động sẽ bị hủy bỏ chỉ vì lý do đó. Nhưng Dagan và Holiday quyết định mạo hiểm. Họ vẫn gửi nhóm đến với các giấy tờ hiện có.
Holiday không mong đợi bất kỳ vấn đề nào. Ông thừa nhận, việc phát hiện ra thi thể có thể làm dấy lên nghi ngờ và một cuộc điều tra có thể diễn ra sau đó, nhưng điều đó sẽ chỉ xảy ra rất lâu sau khi nhóm đã trở về Israel. Không có bằng chứng nào sẽ được để lại cho cảnh sát làm việc. Không có bí mật nào của Mossad sẽ bị bại lộ. Không ai sẽ bị bắt. Toàn bộ sự việc sẽ bị lãng quên nhanh chóng.
Dagan ra quyết định cuối cùng cho trợ lý trưởng của mình: “Màn hình Plasma được ủy quyền thi hành.” Khi những người tham gia rời đi, ông ấy nói thêm, bằng giọng trầm của mình, “Và chúc tất cả may mắn.”
__
BA THÀNH VIÊN ĐẦU TIÊN của nhóm Màn hình Plasma đã hạ cánh xuống Dubai lúc 6:45 sáng ngày 18 tháng 1. Trong mười chín giờ tiếp theo, những người còn lại trong nhóm—tổng cộng có ít nhất 27 thành viên—đã đến trên các chuyến bay từ Zurich, Rome , Paris và Frankfurt. Mười hai hộ chiếu của họ là người Anh, sáu người Ireland, bốn người Pháp, bốn người Úc và một người Đức. Tất cả đều là hàng thật, nhưng không có cái nào thực sự thuộc về người sử dụng nó. Một số được mượn từ chủ sở hữu của chúng, cư dân Israel có hai quốc tịch, một số được lấy dưới danh tính giả, một số bị đánh cắp và số khác thuộc về những người đã khuất.
Lúc 2:09 sáng vào ngày 19, “Gail Folliard” và “Kevin Daveron” hạ cánh. Họ chính là những trụ cột chính của chiến dịch – điều khiển bộ phận chỉ huy tiền phương, nhân viên liên lạc, bảo vệ và giám sát. Họ đăng ký vào các phòng riêng biệt tại khách sạn Jumeirah. Cả hai đều trả bằng tiền mặt, mặc dù nhiều thành viên khác trong nhóm đã sử dụng thẻ ghi nợ do một công ty tên là Payoneer phát hành, Giám đốc điều hành của công ty này là một cựu chiến binh của một đơn vị biệt kích IDF.
Nhân viên lễ tân Sri Rahayu nhận tiền của họ và đưa cho Folliard phòng số 1102 và Daveron 3308. Trước khi đi ngủ, Folliard gọi dịch vụ phòng một bữa ăn nhẹ, còn Daveron lấy một ly nước ngọt từ minibar trong phòng mình.
“Peter Elvinger,” người chỉ huy phái bộ, hạ cánh xuống sân bay sau Folliard và Daveron hai mươi mốt phút, mang theo hộ chiếu Pháp. Sau khi vượt qua kiểm soát hộ chiếu, Elvinger thực hiện một thao tác phản giám sát (maslul trong tiếng Do Thái), đi ra qua cửa nhà ga, đợi ba phút, sau đó trở lại và quay vào trong để gặp một thành viên khác trong nhóm đã đến sân bay trước đó bằng ô tô . Tất cả các thành viên của đội tấn công, như một quy trình tiêu chuẩn, liên tục sử dụng maslul, thường xuyên thay quần áo và cải trang, chẳng hạn như tóc giả và ria mép giả. Điều này là để đảm bảo không bị theo dõi và cho phép chuyển đổi danh tính giữa các giai đoạn khác nhau trong chiến dịch.
Elvinger và người liên lạc của anh ta nói chuyện chưa đầy một phút trước khi người chỉ huy bắt taxi đến khách sạn của anh ta.
Đến đầu giờ chiều, cả đội căng thẳng chờ đợi sự xuất hiện của al-Mabhouh. Y được cho là sẽ bay vào lúc 3 giờ, nhưng vẫn còn một số lỗ hổng trong thông tin tình báo. Đội Màn hình Plasma không biết y sẽ ở đâu, khi nào và tại đâu y sẽ dự các cuộc họp, hoặc di chuyển từ nơi này đến nơi khác như thế nào. Đội không thể bao quát toàn bộ thành phố, có thể mất dấu y, và không thể lên kế hoạch trước biện pháp áp sát đủ gần để giết y. “Đó là kiểu tấn công,” một đặc vụ kỳ cựu nói, “mà chính mục tiêu đề xuất cách nào và khi nào anh ta phải chịu mất mạng.”
Một số thành viên trong nhóm đã triển khai đến ba khách sạn nơi al-Mabhouh đã ở trong các chuyến thăm trước đó. Một đội giám sát khác đang ở sân bay, giết thời gian bằng cách giả vờ tán chuyện rãnh rỗi trên điện thoại. Số nhân viên còn lại, bảy người, ở lại với Elvinger trong một khách sạn khác, chờ đợi.
Al-Mabhouh đến lúc 3:35. Một nhóm theo đuôi y đến khách sạn Al-Bustan Rotana, và một tin nhắn được gửi đến các đặc vụ ở các khách sạn khác, bảo họ có thể rời khỏi vị trí của mình. Các thành viên trong nhóm đã sử dụng rộng rãi điện thoại di động, nhưng để tránh liên kết trực tiếp giữa các số của họ, họ đã quay một số ở Áo, nơi một tổng đài đơn giản được cài đặt trước để chuyển cuộc gọi, hoặc đến một điện thoại khác ở Dubai hoặc đến sở chỉ huy ở Israel.
Các thành viên đặc nhiệm đã ở trong sảnh khách sạn Al-Bustan Rotana mặc y phục chơi quần vợt và mang theo vợt, tuy nhiên, thật kỳ lạ, không có vỏ bọc đi kèm thông thường. Sau khi al-Mabhouh lấy chìa khóa phòng, hai người trong số họ bước vào thang máy sau y. Khi y ra khỏi tầng hai, họ đi theo một khoảng cách kín đáo và nhận thấy rằng y đang ở trong phòng 230. Một trong hai đặc vụ đã báo cáo điều này, qua một cuộc gọi điện thoại di động được định tuyến qua Áo, trước khi cả hai quay trở lại sảnh. .
Khi Elvinger biết số phòng của al-Mabhouh, anh ta đã gọi hai cuộc điện thoại. Đầu tiên là đến Al-Bustan Rotana, để đặt phòng. Anh ấy yêu cầu số 237, chếch với số 220 ngay bên kia hành lang. Sau đó, anh ấy gọi cho một hãng hàng không để đặt chỗ trên chuyến bay đến Munich qua Qatar vào cuối buổi tối hôm đó.
Hơn 4 giờ chiều một chút, al-Mabhouh rời khách sạn. Nhóm theo dõi y nhận thấy y đang thực hiện các biện pháp phòng ngừa, theo kiểu maslul của riêng mình. Y có lý do chính đáng để làm điều này: Hầu như tất cả các đồng đội của y ở Hamas kể từ cuối những năm 1980 đều đã chết một cách bất thường. Nhưng những động thái của y rất đơn giản và không phức tạp, và cả đội không gặp khó khăn gì khi để mắt đến y.
__
KEVIN DAVERON CHỜ Elvinger ở sảnh Al-Bustan, anh đến lúc 4:25, đưa cho Daveron một chiếc vali mà không nói một lời, rồi đi đến bàn đăng ký. Camera an ninh đã ghi lại rõ ràng hộ chiếu Liên minh châu Âu bìa đỏ của anh.
Sau khi nhận phòng 237, anh đưa chìa khóa cho Daveron, một lần nữa không nói một lời nào, và rời khách sạn mà không mang theo vali.
Hai giờ sau, bốn người đàn ông đến khách sạn, đi thành hai cặp. Tất cả đều đội mũ bóng chày che kín mặt. Họ mang theo hai túi lớn. Ba người trong số họ là “đao phủ” Caesarea. Người thứ tư là chuyên gia cạy ổ khóa. Họ đi thẳng vào thang máy và đến phòng 237. Một giờ sau đó, lúc 7:43, đội giám sát ở sảnh được giải tán, thay vào đó là những con mắt mới—bốn giờ sau khi họ mới đến, những người chơi quần vợt giả dạng cuối cùng cũng rời khỏi tiền sảnh.
Lúc 10 giờ, đội theo đuôi al-Mabhouh báo cáo rằng y đang quay trở lại khách sạn. Daveron và Folliard canh gác ở hành lang trong khi nhân viên cạy khóa bắt đầu mở ổ khóa ở cửa số 230. Ý tưởng là lập trình lại nó để chìa khóa chính của Mossad có thể mở cửa mà không bị ghi nhận, nhưng đồng thời không làm gián đoạn hoạt động của thẻ khóa bình thường. Một khách du lịch bước ra khỏi thang máy, nhưng Daveron nhanh chóng lôi kéo anh ta vào một cuộc trò chuyện ngu ngơ, nhằm đánh lạc hướng. Khách du lịch không thấy gì, ổ khóa đã hoạt động và cả đội bước vào phòng.
Rồi họ chờ đợi.
__
AL-MABHOUH CỐ VUỘT THOÁT trở lại hành lang. Nhưng hai đôi cánh tay mạnh mẽ đã giữ chặt lấy y. Một người thứ ba bịt miệng y bằng một tay và tay kia ấn vào cổ al-Mabhouh một dụng cụ sử dụng sóng siêu âm để tiêm thuốc mà không làm rách da. Dụng cụ được nạp suxamethonium chloride, một loại thuốc gây mê có tên thương mại là Scoline được sử dụng kết hợp với các loại thuốc khác trong phẫu thuật. Riêng nó, nó gây ra tình trạng tê liệt và do đó khiến các cơ hô hấp ngừng hoạt động và dẫn đến ngạt thở.
Những đặc vụ duy trì thế kìm kẹp cho đến khi al-Mabhouh ngừng vùng vẫy. Khi tình trạng tê liệt lan khắp cơ thể y, họ đặt y xuống sàn. Al-Mabhouh hoàn toàn tỉnh táo, suy nghĩ rõ ràng, nhìn thấy và nghe thấy mọi thứ. Nhưng y không thể di chuyển. Nước bọt hình thành ở khóe miệng y. Y ậm ừ.
Ba người lạ mặt lạnh lùng nhìn y, vẫn nhẹ nhàng nắm lấy tay y, đề phòng.
Đó là hình ảnh cuối cùng y nhìn thấy.
Nhóm hành quyết kiểm tra mạch của y ở hai nơi, như họ đã được hướng dẫn bởi một bác sĩ của Mossad, để đảm bảo rằng lần này y đã thực sự chết. Họ cởi giày, áo sơ mi và quần dài của y, xếp gọn gàng vào tủ rồi đặt xác xuống giường, trùm kín chăn.
Toàn bộ tập phim kéo dài hai mươi phút. Sử dụng một kỹ thuật do Mossad phát triển cho những trường hợp như vậy, nhóm đã đóng cửa theo cách trông như nó đã bị khóa từ bên trong, với sợi xích trượt vào vị trí. Họ treo biển KHÔNG LÀM PHIỀN trên tay nắm cửa, gõ hai lần vào cửa số 237 như một tín hiệu đã hoàn thành nhiệm vụ, rồi biến mất trong thang máy.
Folliard rời đi một phút sau, Daveron bốn phút sau đó, cuối cùng là đội giám sát ở sảnh. Trong vòng bốn giờ, hầu hết đội đã rời khỏi Dubai và không ai còn lại trong hai mươi bốn giờ sau đó.
Ở Tel Aviv, tâm trạng tự mãn ngự trị, một bầu không khí mà sau này được mô tả là “sự hưng phấn của một thành công lịch sử.” Tất cả mọi người tham gia — Meir Dagan, Holiday, đội tấn công — tin rằng một nhiệm vụ khác đã được hoàn thành một cách xuất sắc. Dagan đã báo cáo vụ giết người cho Netanyahu. “Al-Mabhouh,” ông ấy nói, “sẽ không làm phiền chúng ta nữa.”
__
AN NINH KHÁCH SẠN TÌM THẤY thi thể vào chiều hôm sau, sau khi không ai trả lời tiếng gõ cửa liên tục của người tạp dịch suốt cả ngày. Tuy nhiên, dường như không có lý do gì để báo động. Một thương gia trung niên chết trên giường trong một căn phòng khóa kín mà không có dấu hiệu vật lộn hay chấn thương nào, có thể là dấu hiệu của một cơn đau tim hoặc có thể là đột quỵ. Thi thể của Al-Mabhouh được đưa đến nhà xác, cái chết của y được ghi lại và liệt kê dưới cái tên giả trên hộ chiếu của y. Vấn đề không được chú ý nhiều hơn bất kỳ người nước ngoài thuộc tầng lớp trung lưu đã chết nào khác ở Dubai.
Tuy nhiên, tại Damascus, các quan chức Hamas bắt đầu thắc mắc tại sao người đại diện mà họ cử đến để môi giới một số thương vụ mua bán vũ khí lại không báo cáo lại như đã định. Một ngày sau, vào ngày 21 tháng 1, một đặc phái viên địa phương đã hỏi thăm các đồn cảnh sát và nhà xác cho đến khi anh ta tìm thấy thi thể vô thừa nhận của al-Mabhouh trong ngăn kéo tủ lạnh.
Một quan chức Hamas đã liên lạc với cảnh sát trưởng Dubai, Trung tướng Dhahi Khalfan Tamim, và nói với ông ta rằng người đàn ông đã chết mang hộ chiếu Palestine trên thực tế là một thành viên hàng đầu trong tổ chức của họ. Anh ta nói với Khalfan rằng cái chết gần như chắc chắn không phải do nguyên nhân tự nhiên và rất có thể Mossad đứng sau vụ việc.
Khalfan, năm mươi chín tuổi, vênh vào, đã coi như của riêng mình nhiệm vụ loại bỏ khỏi đất nước bọn tội phạm và đặc vụ nước ngoài đã sử dụng Dubai làm căn cứ để thực hiện hoạt động bất hợp pháp. “Cút đi,” ông ta hét vào điện thoại, “cùng với tài khoản ngân hàng, vũ khí và hộ chiếu giả chết tiệt của các người và cút khỏi đất nước của tôi!”
Tuy nhiên, ông ta cũng không thể để Mossad đi nhởn nhơ giết người. Khalfan kéo thi thể ra khỏi nhà xác để khám nghiệm tử thi. Kết quả không chắc chắn và không thể xác định liệu al-Mabhouh có bị sát hại hay không, nhưng giả định cơ bản của Khalfan là quan chức Hamas đã đúng.
__
MỘT NHƯỢC ĐIỂM CỦA CÁCH điều hành của Israel, so với các đối tác Mỹ hoặc Anh, là họ phải sử dụng hộ chiếu giả. Một nhóm CIA có thể dễ dàng được trang bị hộ chiếu hợp pháp của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ, mặc dù dưới tên giả, và về cơ bản, họ có nguồn cung cấp vô tận — một danh tính chỉ được chôn dưới danh tính tiếp theo khi cần. Hộ chiếu Mỹ và Anh được chấp nhận ở mọi nơi trên thế giới và hiếm khi thu hút sự chú ý quá mức.
Hộ chiếu Israel thì không. Chúng vô dụng khi xâm nhập vào nhiều quốc gia châu Á và châu Phi – những quốc gia mà Mossad thỉnh thoảng quan tâm đến việc giết ai đó hoặc tiến hành một số hoạt động bí mật khác. Mossad thường giả mạo các bản sao từ các quốc gia khác ít khả nghi hơn. Tuy nhiên, trong thế giới sau sự kiện 11/9, việc làm giả hộ chiếu đã trở thành một công việc phức tạp hơn.
Các tài liệu được lập cẩu thả hoặc được sử dụng quá thường xuyên có thể gây nguy hiểm cho nhiệm vụ và tính mạng của các đặc vụ. Vì vậy, khi Halevy loại bỏ các nhiệm vụ vì thiếu giấy tờ phù hợp, đó không chỉ là do sự rụt rè. Và khi Dagan thúc bách các kỹ thuật viên miễn cưỡng nộp vội vàng hộ chiếu và danh tính giả, đó chỉ là sự lãnh đạo táo bạo cho đến khi trở thành một sai lầm khủng khiếp.
Dagan đã cho phép nhóm Màn hình Plasma sử dụng cùng một danh tính 4 lần ở Dubai. Không khó để Khalfan có được danh sách tất cả những người đã vào UAE không lâu trước al-Mabhouh và sau đó rời đi ngay sau khi ông ta chết. Cũng không khó để thu hẹp danh sách đó bằng cách so sánh nó với những người đã đến và đi trong ba lần al-Mabhouh viếng thăm trước đó. Điều này đã mang lại cho Khalfan những cái tên, sau đó có thể được đối chiếu chéo với các cơ quan đăng ký khách sạn, nơi hầu như luôn có camera ghi lại hoạt động của quầy lễ tân. Chẳng mấy chốc, cảnh sát biết ai đến khi nào, họ ở đâu và họ trông như thế nào.
Sát thủ thích tiền mặt hơn, vì nó ẩn danh; nó thường không thể truy tìm. Thẻ tín dụng—hoặc thẻ ghi nợ Payoneer trả trước—thì lại có thể. Một số các cuộc gọi đến tổng đài của Áo đã được ghi lại và nếu ai đó tìm kiếm, sẽ nhận ra được. Các số mà tổng đài gọi đến cũng vậy. Do đó, việc dựng lại chuyển động của mọi đặc vụ Mossad trong Màn hình Plasma và các mối liên hệ giữa họ không quá khó khăn. Chỉ cần sàng lọc rất nhiều dữ liệu.
Từ nhiều camera quan sát, Khalfan đã tập hợp một video tường thuật về toàn bộ hoạt động. Nó bao gồm các miếng maslul vụng về để có thể gọi là chuyên nghiệp. Ví dụ, máy quay phía trên cửa phòng tắm của một khách sạn cho thấy Daveron bước vào trong đầu hói và bước ra với mái tóc dày, thậm chí không nhận ra rằng mình đang được ghi hình, mặc dù camera không bị che giấu. Đây không phải là thứ có thể khiến cả nhóm bị bại lộ trong thời gian thực, nhưng cách thực hiện cẩu thả việc chuyển đổi danh tính chắc chắn khiến mọi việc dễ dàng hơn cho các nhà điều tra.
Khalfan sau đó đã tổ chức một cuộc họp báo và đưa toàn bộ video lên Internet để cả thế giới xem. Ông ấy kêu gọi Dagan “hãy là một người đàn ông” và thú nhận hành động của mình. Ông ta yêu cầu lệnh bắt giữ quốc tế đối với Netanyahu và Dagan, và Interpol thực sự đã ban hành lệnh bắt giữ đối với tất cả 27 thành viên, mặc dù dưới tên giả của họ.
Các quốc gia có hộ chiếu mà Israel đã sử dụng đã rất tức giận. Nhiều người trong số họ đã từng âm thầm hợp tác với Mossad, nhưng không đến mức cho phép công dân mình, hư cấu hay không, bị lôi kéo vào các âm mưu ám sát. Một số chính phủ đã ra lệnh cho các đại diện của Mossad ở nước họ phải rời đi ngay lập tức và không cho phép cơ quan này thay thế người trong vài năm sau đó. Tất cả họ đều cắt giảm sự hợp tác với cơ quan Israel.
Đó là một tai họa sinh ra từ sự kiêu ngạo. “Tôi yêu Israel và yêu người Israel,” một trong những cựu giám đốc tình báo Đức nói. “Nhưng vấn đề của bạn luôn là chê bai tất cả mọi người – người Ả Rập, người Iran, Hamas. Bạn luôn cho mình là người thông minh nhất và nghĩ rằng mình có thể đánh lừa tất cả mọi người mọi lúc. Tôn trọng đối phương hơn một chút, ngay cả khi bạn nghĩ rằng anh ta là một người Ả Rập dốt nát hay một người Đức không có trí tưởng tượng, và một chút khiêm tốn hơn sẽ cứu tất cả chúng ta khỏi mớ hỗn độn khó xử này.”
Ở một mức độ nào đó, những điều đó không quan trọng ở Israel. Những lời lên án gay gắt mà quốc gia này phải hứng chịu trên trường quốc tế – kết hợp với những lời lên án tương tự mà quốc gia này thường xuyên nhận được vì cách đối xử với người Palestine – đã tạo ra một làn sóng yêu nước dâng cao. Vào ngày lễ hội hóa trang Purim của Israel, diễn ra vài tuần sau khi câu chuyện bị phanh phui, trang phục phổ biến là trang phục của vận động viên quần vợt mang theo súng lục. Hàng trăm người Israel mang hai quốc tịch đã tình nguyện cấp hộ chiếu cho Mossad để sử dụng trong các hoạt động trong tương lai. Trang web của tổ chức tràn ngập các câu hỏi về điều kiện gia nhập.
Tuy nhiên, mọi thứ đã khác, bên trong cơ quan. Sự bại lộ và sự cảnh giác tiêu cực mà Mossad nhận được đã gây tổn hại khủng khiếp ở cấp độ hoạt động, mặc dù thực tế là Khalfan chưa bao giờ truy tố được bất kỳ thủ phạm nào. Toàn bộ các bộ phận hoạt động của Mossad đã bị đóng cửa, vừa vì quá nhiều đặc vụ đã bị lộ vỏ bọc, vừa vì nhu cầu phát triển các quy trình và phương pháp mới, sau khi những quy trình và phương pháp cũ đã tràn ngập trên các phương tiện truyền thông.
Đầu tháng 7 năm 2010, nhận ra rằng vụ Dubai đã cản trở cơ hội trở thành người đứng đầu Mossad của mình, người đứng đầu Caesarea Holiday đã xin nghỉ việc.
Trong khi đó, Meir Dagan áp dụng thái độ ‘làm ăn’ như bình thường. Nói chung, Dagan tin chắc chắn rằng “trong một số trường hợp nhất định, giám đốc của Mossad phải giao nộp chìa khóa nếu anh ta gặp sơ suất gây hại cho nhà nước, vì điều đó sẽ giảm bớt áp lực cho đất nước”. Nhưng theo quan điểm của Dagan, không có chuyện gì xảy ra cả – không có sai phạm, không có sai lầm. “Chúng tôi đã đánh trúng một mục tiêu quan trọng, anh ta đã chết, và tất cả quân quan đã về nhà,” ông ấy tổng kết sau chiến dịch.
Chỉ đến năm 2013, trong một cuộc phỏng vấn dành cho cuốn sách này, lần đầu tiên Dagan mới thừa nhận rằng “Tôi đã sai khi gửi nhóm đến với những hộ chiếu đó. Đó là quyết định của tôi và chỉ một mình tôi. Tôi chịu hoàn toàn trách nhiệm về những gì đã xảy ra.”
__
KHI THẢM NẠN DUBAI diễn ra, Netanyahu “cảm thấy không có gì lạ,” một trợ lý thân cận của ông cho biết, như thể năm 1997 đang diễn ra một lần nữa. Hồi đó, Mossad đã đảm bảo với ông rằng họ có thể xâm nhập vào một quốc gia có “mục tiêu mềm” là Jordan và loại bỏ hoàn toàn Khaled Mashal. Điều đó đã kết thúc trong sự sỉ nhục và đầu hàng. Không biết bụi phóng xạ từ Dubai sẽ kéo dài bao lâu. Ông quyết định phải kiềm chế Mossad và bật đèn xanh cho các nhiệm vụ ít nguy hiểm hơn.
Ngoài ra, Dagan phải chịu sự kiểm soát.
Hai người chưa bao giờ hợp nhau. Thật vậy, mối quan hệ của Netanyahu với tất cả những người đứng đầu cộng đồng tình báo đều có vấn đề. Cố vấn an ninh quốc gia của ông Netanyahu, Uzi Arad, cho biết: “Netanyahu không dựa dẫm vào bất kỳ ai, vì vậy ông ấy đã thực hiện các động thái ngoại giao bí mật mà không thông báo cho những người đứng đầu cộng đồng. “Từ khoảnh khắc này sang khoảnh khắc khác, tôi chứng kiến sự rạn nứt của sự ngờ vực mở ra giữa ông ấy và họ.”
Về phần mình, Dagan cho rằng thủ tướng đã quá do dự khi chấp thuận các hoạt động, nhưng cũng sợ bị coi là do dự— thuộc nhóm người mắc bệnh thần kinh không thích hợp để giữ an toàn cho một quốc gia.
Nhưng Dagan vẫn ở lại Mossad. Chiến dịch chống lại Iran, đa hướng, liên kết với nhau và phức tạp, vẫn đang diễn ra. Trên thực tế, sau khi đánh thành công Masoud Alimohammadi, hồi đầu tháng 1, Dagan đã xin phép Netanyahu để tăng cường chiến dịch và tiếp tục tiêu diệt 13 nhà khoa học còn lại của nhóm vũ khí. Netanyahu, lo sợ về một rắc rối khác, đã không vội vàng chấp thuận. Mãi đến tháng 10, ông bật đèn xanh cho một vụ đánh khác. Vào ngày 29 tháng 11 năm 2010, hai người đi xe máy đã cho nổ ô tô của hai nhân vật cấp cao trong dự án hạt nhân của Iran bằng cách gắn mìn từ tính vào xe rồi phóng đi. Tiến sĩ Majid Shahriari thiệt mạng vì vụ nổ trên chiếc Peugeot 206 của ông; Fereydoon Abbasi-Davani và vợ, người cũng ở trong xe, đã cố gắng thoát khỏi chiếc Peugeot 206 trước khi nó phát nổ ngay bên ngoài Đại học Shahid Beheshti.
Tuy nhiên, đến thời điểm này, rõ ràng là chiến dịch giết người có mục tiêu cùng với các biện pháp trừng phạt kinh tế và phá hoại máy tính, đã làm chậm lại chứ không dừng lại chương trình hạt nhân của Iran. Bộ trưởng Quốc phòng Ehud Barak cho biết chương trình “đã đạt đến một điểm vượt xa những gì tôi tưởng”. Ông và Netanyahu đều kết luận rằng Iran đang gần đến thời điểm khi các công trình lắp đặt của dự án trở nên không thể phá hủy và họ đồng ý rằng Israel nên hành động để phá hủy các cơ sở này trước khi điều đó xảy ra. Họ ra lệnh cho IDF và các lực lượng tình báo chuẩn bị cho Chiến dịch Vùng Nước Sâu (Deep Waters): một cuộc tấn công tổng lực trên không, được hỗ trợ bởi lực lượng biệt kích, vào trung tâm của Iran. Khoảng 2 tỷ đô la đã được chi cho việc chuẩn bị cuộc tấn công và cho cuộc chiến được dự đoán sau đó chống lại Mặt trận Cực đoan
Dagan, trong số những người khác, cho rằng kế hoạch này thật điên rồ. Ông coi đó là một động thái hoài nghi của hai chính trị gia muốn khai thác sự ủng hộ rộng rãi của công chúng mà cuộc tấn công sẽ mang lại cho họ trong các cuộc bầu cử tiếp theo, chứ không phải là một quyết định bình đẳng dựa trên lợi ích quốc gia. “Bibi (Netanyahu) đã học được một kỹ thuật, bản chất của nó là truyền tải thông điệp trong thời gian ngắn. Ông ấy đã đạt đến một mức độ thành thạo và kiểm soát đáng kể về điều này. Nhưng ông ấy cũng là người quản lý tồi tệ nhất mà tôi biết. Ông ta có một đặc điểm nhất định, tương tự như Ehud Barak: Mỗi người trong số họ đều tưởng tượng rằng mình là thiên tài vĩ đại nhất thế giới. Netanyahu là thủ tướng duy nhất [trong lịch sử đất nước] rơi vào tình huống mà toàn bộ cơ sở quốc phòng không chấp nhận vị trí của ông.”
“Tôi đã biết rất nhiều thủ tướng,” Dagan nói. “Không ai trong số họ là thánh, tin tôi đi, nhưng tất cả họ đều có một điểm chung: Khi họ đạt đến điểm mà lợi ích cá nhân đi ngược lại lợi ích quốc gia, thì đó là lúc lợi ích quốc gia luôn chiến thắng. Tuyệt đối không thắc mắc nào. Nhưng về hai người này thì tôi không thể nói như thế được —Bibi và Ehud.”
Sự thù địch giữa Dagan và Netanyahu lên đến đỉnh điểm vào tháng 9 năm 2010. Dagan tuyên bố rằng Netanyahu đã lợi dụng một cuộc họp, có chủ đích là về Hamas, với mình, người đứng đầu Shin Bet, và tham mưu trưởng, để ra lệnh một cách bất hợp pháp việc chuẩn bị cho một cuộc tấn công: “Khi chúng tôi rời khỏi phòng, ông ấy nói, ‘Đợi một chút, Giám đốc Mossad và Tham mưu trưởng. Tôi đã quyết định đặt IDF và ông ở O cộng 30.”
“O cộng 30” là viết tắt của “sau chiến dịch ba mươi ngày”, điều đó có nghĩa là Netanyahu đang gọi cuộc tấn công tổng lực vào Iran là một “chiến dịch”, chứ không phải là thuật ngữ phù hợp hơn, một “hành động chiến tranh”. Chiến tranh cần một cuộc bỏ phiếu trong nội các, nhưng chiến dịch thì chỉ cần các thủ tướng ra lệnh.
Dagan choáng váng trước sự liều lĩnh: “Việc sử dụng bạo lực [quân sự] sẽ gây ra những hậu quả không thể chấp nhận được. Giả định khả thi rằng có thể ngăn chặn hoàn toàn dự án hạt nhân của Iran bằng một cuộc tấn công quân sự là không chính xác….Nếu Israel tấn công, [Lãnh đạo tối cao Iran] Khamenei sẽ cảm ơn Allah: Điều đó sẽ đoàn kết người dân Iran đằng sau dự án và cho phép Khamenei tuyên bố mình phải kiếm một quả bom nguyên tử để bảo vệ Iran trước sự xâm lược của Israel.”
Dagan lập luận rằng ngay cả hành động đơn thuần đặt các lực lượng Israel trong tình trạng báo động tấn công cũng có thể dẫn đến một cuộc chiến không thể tránh khỏi, bởi vì người Syria và người Iran khi thấy Israel huy động lực lượng, có thể có hành động đánh phủ đầu.
Barak có một cách giải thích khác về tranh chấp đó – ông nói rằng ông và thủ tướng chỉ đang xem xét tính khả thi của một cuộc tấn công – nhưng điều đó hầu như không quan trọng. Sự đổ vỡ trong quan hệ giữa Dagan và Netanyahu là không thể cứu vãn. Dagan đã điều hành Mossad trong tám năm, lâu hơn bất kỳ ai khác trong lịch sử ngoại trừ Isser Harel. Ông ấy đã tái tạo nó theo hình ảnh của mình, đã hồi sinh một cơ quan đang hấp hối và rụt rè, đồng thời khôi phục lại vinh quang lịch sử mà nó đã có được trong nhiều thập kỷ. Ông ta đã xâm nhập sâu vào các kẻ thù của Israel hơn bất kỳ ai tin là có thể, đã loại bỏ những mục tiêu trốn tránh cái chết hoặc chốn giam cầm trong nhiều thập kỷ, đã ngăn chặn mối đe dọa hiện hữu đối với nhà nước Do Thái trong nhiều năm.
Không gì trong số đó quan trọng. Dubai là một tình huống lúng túng, hoặc có thể chỉ là một cái cớ. Vào tháng 9 năm 2010, Netanyahu cho Dagan hay rằng nhiệm kỳ của ông sẽ không được gia hạn..
Hoặc có thể Dagan tự xin nghỉ việc. “Tôi tự quyết định rằng thế là đủ,” ông. “Tôi muốn làm những việc khác. Và ngoài ra, sự thật là tôi đã phát ốm vì ông ta.”
__
TAMIR PARDO, NGƯỜI lên kế vị Dagan với tư cách là giám đốc, đã phải phục hồi phần lớn các nhóm điều hành và quy trình, những thứ đã bị phá hủy sau hậu quả của vụ tấn công Dubai. Ông ta chỉ định N., một người có công trong việc lập kế hoạch tấn công Mughniyeh, tiến hành đánh giá toàn diện về thiệt hại, và sau đó phong anh ta làm phó của mình. Tuy nhiên, việc tái thiết các đơn vị hoạt động đã không ngăn được các hoạt động của cơ quan, đặc biệt là các hoạt động nhằm vào dự án hạt nhân của Iran. Sau vài tháng làm việc, Pardo quay trở lại chính sách giết người có mục tiêu mà người tiền nhiệm của ông đã đề ra.
Vào tháng 7 năm 2011, một người lái xe mô tô đã đi theo Darioush Rezaeinejad, tiến sĩ vật lý hạt nhân và là nhà nghiên cứu cấp cao của Tổ chức Năng lượng Nguyên tử Iran, cho đến khi ông ta đến một điểm gần Trại Imam Ali, một trong những căn cứ kiên cố nhất của Lực lượng Vệ binh Cách mạng, nơi chứa một khu vực làm giàu uranium thử nghiệm. Người đi xe đạp đã rút súng lục và bắn chết Rezaeinejad.
Vào tháng 11 năm 2011, một vụ nổ lớn đã xảy ra ở một căn cứ khác của Lực lượng Vệ binh Cách mạng, cách 30 dặm về phía tây của Tehran. Có thể nhìn thấy đám khói từ thành phố, cửa sổ kêu lạch cạch và các bức ảnh vệ tinh cho thấy gần như toàn bộ căn cứ đã bị phá hủy. Tướng Hassan Tehrani Moghaddam, người đứng đầu bộ phận phát triển tên lửa của Lực lượng Vệ binh Cách mạng, đã thiệt mạng trong vụ nổ, cùng với 16 nhân viên của ông.
Bất chấp sự thiệt mạng của al-Mabhouh, các chuyến hàng vũ khí vẫn tiếp tục chảy vào Gaza từ Iran qua Sudan. Mossad duy trì sự giám sát và Lực lượng Không quân Israel tiếp tục tấn công các đoàn xe. Thành công lớn nhất đến sau khi Mossad phát hiện ra rằng 300 tấn vũ khí và chất nổ tiên tiến, được ngụy trang thành hàng hóa dân sự và được cất giữ tại một khu quân sự ở phía nam Khartoum (Sudan), đang chờ vận chuyển đến Gaza. Kho vũ khí bao gồm tên lửa tầm ngắn và tầm trung, tên lửa phòng không và chống tăng tiên tiến và được Israel định nghĩa là thứ có thể “làm đảo lộn thế cân bằng”. Nếu nó tiếp cận Gaza, một trong những sĩ quan AMAN đã thông báo cho Thủ tướng Netanyahu biết, “chúng tôi khuyên ngài nên tấn công Hamas ngay cả khi không có sự khiêu khích trước, để ngăn họ triển khai nó.”
Nhưng những vũ khí không bao giờ đi đâu cả. Lúc 4 giờ sáng vào ngày 24 tháng 10 năm 2012, các máy bay chiến đấu F-15 của IAF đã tấn công địa điểm này và phá hủy vũ khí, cũng như các nhân viên của Lực lượng Vệ binh Cách mạng Hồi giáo và Hamas đang ở đó vào thời điểm đó. Bầu trời Khartoum được chiếu sáng bởi các vụ nổ. Các mái nhà bị thổi bay và các cửa sổ bị vỡ do vụ nổ. Người dân Khartoum khổ sở vì quyết định của chính phủ cho phép đất nước tiếp tay cho khủng bố, làm kênh chuyển lậu vũ khí. Sau sự cố này, chính quyền Sudan nói với IRCG rằng họ sẽ không cho phép điều đó nữa.
Giống như những người tiền nhiệm của mình, Pardo kiềm chế không mạo hiểm với các đặc vụ Israel trong các vụ giết người được thực hiện ở các quốc gia mục tiêu, đặc biệt là ở những nơi nguy hiểm như Tehran. Trên thực tế, tất cả các cuộc tấn công trên đất Iran đều được thực hiện bởi các thành viên của các phong trào đối lập ngầm của quốc gia đó và/hoặc các thành viên của các dân tộc thiểu số người Kurd, Baluchi và Azerbaijan vốn thù địch với chế độ.
Những vụ giết người có mục tiêu này đã có hiệu quả. Thông tin đến được với Mossad chỉ ra rằng họ đã dẫn đến tình trạng “đào tẩu trắng” – nghĩa là các nhà khoa học Iran sợ hãi đến mức nhiều người yêu cầu được chuyển sang các dự án dân sự. Dagan nói: “Có một giới hạn đối với khả năng của một tổ chức trong việc ép buộc một nhà khoa học làm việc trong một dự án khi ông không muốn.
Để tăng cường nỗi sợ hãi của các nhà khoa học, Mossad đã tìm kiếm các mục tiêu không nhất thiết phải ở vị trí rất cao trong chương trình hạt nhân, nhưng việc loại bỏ họ sẽ gây ra nhiều lo sợ nhất có thể cho số lượng lớn nhất các đồng nghiệp của họ ở cùng cấp độ. Vào ngày 12 tháng 1 năm 2012, Mostafa Ahmadi-Roshan, một kỹ sư hóa học tại cơ sở làm giàu uranium Natanz, rời nhà và đến một phòng thí nghiệm ở trung tâm thành phố Tehran. Vài tháng trước đó, một bức ảnh chụp anh tháp tùng tổng thống Iran Mahmoud Ahmadinejad trong chuyến tham quan các cơ sở hạt nhân đã xuất hiện trên các phương tiện truyền thông trên toàn cầu. Một lần nữa, một người đi xe máy đã lao tới ô tô của anh ta và gắn một quả mìn từ tính khiến anh ta tử vong tại chỗ. Vợ anh, ngồi cạnh anh, không bị thương nhưng cô ấy đã nhìn thấy mọi thứ và kể lại với các đồng nghiệp của chồng trải nghiệm kinh hoàng về những gì đã xảy ra.
Việc ám sát các nhà khoa học, bất kể họ đang làm gì, là một hành động bất hợp pháp theo luật pháp Hoa Kỳ và Hoa Kỳ không bao giờ biết và không muốn biết về những hành động này. Người Israel không bao giờ nói với người Mỹ kế hoạch của họ, “thậm chí không bằng một cái nháy mắt và một nụ cười,” Michael Hayden của CIA cho biết. Điều đó nói rằng, Hayden không nghi ngờ gì về biện pháp được thực hiện để ngăn chặn dự án hạt nhân của Iran là hiệu quả nhất: “Đó là ai đó đang giết các nhà khoa học của họ.”
Tại phiên họp đầu tiên của Hội đồng An ninh Quốc gia với tân tổng thống Barack Obama vào năm 2009, Obama đã hỏi giám đốc CIA về lượng vật liệu phân hạch mà Iran đã dự trữ tại Natanz.
Hayden trả lời, “Thưa Tổng thống, tôi thực sự biết câu trả lời cho câu hỏi đó, và tôi sẽ đưa nó cho ngài trong một phút nữa. Nhưng tôi có thể cho ngài một cách nhìn khác về điều này không? Nó không thành vấn đề.
“Không có một electron hay neutron nào ở Natanz sẽ xuất hiện trong một vũ khí hạt nhân. Những gì họ đang xây dựng tại Natanz là kiến thức. Những gì họ đang xây dựng tại Natanz là sự tự tin, và sau đó họ sẽ lấy kiến thức và sự tự tin đó và họ sẽ đi đến một nơi khác và làm giàu uranium. Kiến thức đó, thưa Tổng thống, được lưu trữ trong bộ não của các nhà khoa học.”
Hayden đã nói rất rõ ràng rằng “chương trình này không có bất kỳ mối quan hệ nào với người Mỹ. Điều đó là bất hợp pháp và chúng tôi [CIA] sẽ không bao giờ khuyến nghị hoặc ủng hộ điều đó. Tuy nhiên, theo phán đoán tình báo rộng rãi của tôi thì cái chết của những con người đó có tác động lớn đến chương trình hạt nhân của họ.”
__
CHẾ ĐỘ CỦA CÁC AYATOLLAHS Ở Tehran muốn có một quả bom nguyên tử để biến Iran thành một cường quốc trong khu vực và để đảm bảo quyền lực tiếp tục kiểm soát đất nước của họ. Thay vào đó, các hành động của Israel và Mỹ, đặc biệt là các hoạt động giết người có mục tiêu của Israel và việc gây lây nhiễm vi-rút máy tính trong Chiến dịch Thế vận hội Olympic, đã làm chậm tiến độ của chương trình một cách đáng kể. Ngoài ra, các biện pháp trừng phạt quốc tế đã đẩy Iran vào một cuộc khủng hoảng kinh tế nghiêm trọng có nguy cơ khiến chế độ này sụp đổ hoàn toàn.
Những biện pháp trừng phạt này, đặc biệt là những biện pháp do chính quyền Obama áp đặt (bao gồm cả việc tách Iran khỏi hệ thống chuyển tiền quốc tế, SWIFT), khắc nghiệt đến mức vào tháng 8 năm 2012, người đứng đầu Mũi Giáo, E.L., ước tính rằng nếu ông có thể thuyết phục Hoa Kỳ chỉ cần thực hiện thêm một số biện pháp kinh tế nữa, nền kinh tế Iran sẽ phá sản vào cuối năm nay. Ông nói: “Và tình hình đó sẽ lại lôi kéo quần chúng xuống đường và có khả năng dẫn đến việc lật đổ chế độ.
Tuy nhiên, điều này không ngăn được Benjamin Netanyahu chuẩn bị cho một cuộc tấn công quân sự công khai vào Iran. Không hoàn toàn rõ ràng liệu ông ấy có thực sự có ý định thực hiện kế hoạch hay không: Bộ trưởng Quốc phòng của ông, Ehud Barak, khẳng định rằng, “nếu điều đó phụ thuộc vào tôi, Israel sẽ tấn công,” nhưng có những người khác tin rằng Netanyahu – người có tiếng nói cuối cùng —chỉ muốn làm cho Obama tin rằng ông ta có ý định tấn công, nhằm ép buộc Obama, lèo lái ông ta đến kết luận rằng dù sao thì nước Mỹ cũng sẽ bị lôi kéo vào cuộc chiến, vì vậy tốt hơn hết là chính Mỹ nên thực hiện cuộc tấn công, trước tiên, để có thể kiểm soát thời gian.
Chính quyền Obama lo ngại rằng một cuộc tấn công của Israel sẽ khiến giá dầu tăng vọt và sự hỗn loạn sẽ xảy ra ở Trung Đông, làm tổn hại đến cơ hội tái đắc cử của tổng thống vào tháng 11 năm 2012. Chính quyền cũng ước tính rằng Israel có thể sẽ sớm tấn công và lo lắng theo dõi mọi hành động của Israel—thậm chí các cuộc diễn tập lữ đoàn thông thường của quân đội cũng trở thành nguồn gốc khiến người ta lo ngại rằng một cuộc tấn công của Israel vào Iran sắp xảy ra. Vào tháng 1, Thượng nghị sĩ Dianne Feinstein đã gặp giám đốc Mossad Pardo tại văn phòng Thượng viện của bà, yêu cầu ông giải thích lý do Lữ đoàn 35 của Israel di chuyển, như được chụp bởi một vệ tinh của Hoa Kỳ. Pardo không biết gì về cuộc diễn tập thông thường, nhưng sau đó ông đã cảnh báo Netanyahu rằng việc tiếp tục gây áp lực lên Hoa Kỳ sẽ dẫn đến một biện pháp kịch tính, và có thể không phải là biện pháp mà Netanyahu hy vọng. Bản thân Pardo tin rằng hai năm áp lực kinh tế và chính trị nữa có thể sẽ khiến Iran đầu hàng trong những điều kiện thuận lợi và từ bỏ hoàn toàn dự án hạt nhân của mình.
Nhưng Netanyahu từ chối nghe ông ta, ra lệnh cho Pardo tiếp tục thực hiện các vụ ám sát và IDF tiếp tục chuẩn bị cho một cuộc tấn công.
Vào tháng 12, Mossad đã sẵn sàng loại bỏ một nhà khoa học khác, nhưng ngay trước khi nó được tiến hành, Obama, lo sợ về hành động của Israel, đã đồng ý với đề xuất của Iran tổ chức các cuộc đàm phán bí mật ở Muscat, thủ đô của Oman. “Người Mỹ chưa bao giờ nói với chúng tôi về những cuộc nói chuyện đó, nhưng họ đã làm mọi cách để đảm bảo rằng chúng tôi sẽ biết về chúng,” một sĩ quan tình báo của Mossad, người đã phát hiện ra các cuộc họp ở Muscat, cho biết. Cô đề nghị với Pardo rằng ông nên từ bỏ kế hoạch ám sát ngay lập tức. Bà nói: “Chúng ta không được làm điều này khi một tiến trình chính trị đang diễn ra. Pardo đồng ý với cô ấy và xin phép Netanyahu ngừng toàn bộ chiến dịch ám sát trong lúc các cuộc đàm phán vẫn còn tiếp diễn.
Có lý khi cho rằng nếu các cuộc đàm phán bắt đầu hai năm sau đó, Iran sẽ đến với họ trong tình trạng yếu hơn đáng kể, nhưng ngay cả thỏa thuận cuối cùng đã đạt được cũng là sự đầu hàng của Iran trước một số yêu cầu mà các ayatollah đã khước từ trong nhiều năm. Iran đã đồng ý dỡ bỏ gần như hoàn toàn dự án hạt nhân và chịu sự giám sát và giới hạn nghiêm ngặt trong nhiều năm tới.
Đối với Dagan, thỏa thuận đánh dấu một chiến thắng kép: Chiến lược năm mặt trận của ông chống lại Iran đã đạt được nhiều mục tiêu. Đồng thời, ông Netanyahu đã hiểu rằng việc phát động một cuộc tấn công trong khi các cuộc đàm phán với Iran đang diễn ra sẽ là một cái tát không thể dung thứ vào mặt người Mỹ. Ông ta trì hoãn cuộc tấn công hết lần này đến lần khác, và khi thỏa thuận cuối cùng được ký kết, ông ta đã hủy bỏ nó hoàn toàn, ít nhất là trong tương lai gần.
Nhưng Dagan không hài lòng. Ông ấy cay đắng và thất vọng về cách mà Netanyahu đã chỉ cho mình lối thoát, còn ông ta lại không có ý định bỏ dở nó. Vào tháng 1 năm 2011, vào ngày cuối cùng trong nhiệm kỳ của mình, ông đã mời một nhóm các nhà báo đến trụ sở của Mossad và, trong một động thái chưa từng có—và trước sự ngạc nhiên của các nhà báo—đã đả kích dữ dội vào thủ tướng và bộ trưởng quốc phòng. Sau bài phát biểu của ông, trưởng ban kiểm duyệt quân sự, một phụ nữ mang quân hàm chuẩn tướng, đứng dậy và tuyên bố rằng mọi điều Dagan đã nói về kế hoạch tấn công Iran của Israel đều thuộc loại tối mật và không thể công bố trên các phương tiện truyền thông đại chúng.
Khi thấy rằng cơ quan kiểm duyệt quân sự đã cấm công bố những nhận xét của mình, Dagan chỉ cần lặp lại chúng tại một hội nghị ở Đại học Tel Aviv vào tháng 6, trước hàng trăm người tham gia, biết rằng một người tầm cỡ như mình sẽ không bị truy tố.
Sự chỉ trích của Dagan đối với Netanyahu là quá khích và mang tính cá nhân, nhưng nó cũng xuất phát từ một sự thay đổi sâu sắc trong thái độ mà Dagan đã trải qua trong những năm cuối đời với tư cách là giám đốc của Mossad, một sự thay đổi có tầm quan trọng lớn hơn nhiều so với cuộc đấu tranh dữ dội của ông với thủ tướng về dự án hạt nhân Iran.
Dagan, cùng với Sharon và hầu hết các đồng nghiệp của họ trong cộng đồng tình báo và cơ sở quốc phòng của Israel, đã tin tưởng trong nhiều năm rằng vũ lực có thể giải quyết mọi thứ, rằng cách đúng đắn để đối đầu với tranh chấp Israel-Ả Rập là “tách người Ả Rập ra khỏi đầu của y”. Nhưng đây là một ảo tưởng, và là một ảo tưởng phổ biến nguy hiểm ở thời điểm đó.
Trong suốt lịch sử liên tiếp của họ, Mossad, AMAN và Shin Bet – được cho là cộng đồng tình báo tốt nhất trên thế giới – không sớm thì muộn đã cung cấp cho các nhà lãnh đạo Israel các phản ứng tác chiến đối với mọi vấn đề trọng tâm mà họ được yêu cầu giải quyết. Nhưng chính sự thành công của cộng đồng tình báo đã nuôi dưỡng ảo tưởng cho hầu hết các nhà lãnh đạo quốc gia rằng các hoạt động bí mật có thể là một công cụ chiến lược chứ không chỉ là chiến thuật—rằng chúng có thể được sử dụng thay cho chính sách ngoại giao thực sự để chấm dứt sự tranh chấp về địa lý, sắc tộc, tôn giáo và quốc gia, trong đó Israel bị sa lầy. Do những thành công phi thường của các hoạt động bí mật của Israel, trong giai đoạn lịch sử này của mình, phần lớn các nhà lãnh đạo Israel đã đề cao và thần thánh hóa phương pháp chiến thuật chống khủng bố và các mối đe dọa hiện hữu với cái giá phải trả là tầm nhìn thực sự, tinh thần chính trị và mong muốn thực sự đạt được một giải pháp chính trị cần thiết để đạt được hòa bình.
Thật vậy, ở nhiều khía cạnh, câu chuyện về cộng đồng tình báo của Israel như được kể lại trong cuốn sách này là một trong chuỗi dài những thành công chiến thuật ấn tượng, nhưng cũng có những thất bại chiến lược thảm khốc.
Về cuối đời, Dagan, giống như Sharon, hiểu điều này. Ông đi đến kết luận rằng chỉ có một giải pháp chính trị với người Palestine – hai nhà nước, một giải pháp—có thể chấm dứt cuộc xung đột kéo dài 150 năm, và rằng kết quả của các chính sách của Netanyahu sẽ là một nhà nước lưỡng quốc với sự bình đẳng giữa người Ả Rập và người Do Thái, đồng thời với nguy cơ đàn áp và xung đột nội bộ liên tục, thay thế giấc mơ phục quốc Do Thái về một nhà nước Do Thái dân chủ với tính đại đa số của người Do Thái. Ông lo lắng những lời kêu gọi Palestine tẩy chay Israel về kinh tế và văn hóa vì bị chiếm đóng sẽ trở thành hiện thực cay đắng, “giống như cuộc tẩy chay đối với Nam Phi”, và càng lo lắng hơn về sự chia rẽ trong nội bộ Israel và mối đe dọa đối với dân chủ và dân quyền.
Tại một cuộc biểu tình ở trung tâm Tel Aviv trước cuộc bầu cử tháng 3 năm 2015, kêu gọi bỏ phiếu cho Netanyahu, Dagan nói với thủ tướng: “Làm sao ông có thể chịu trách nhiệm về số phận của chúng tôi nếu ông quá sợ hãi phải chịu trách nhiệm?
“Tại sao một người tìm kiếm quyền lãnh đạo nếu ông ta không muốn lãnh đạo? Làm thế nào mà đất nước này, mạnh hơn tất cả các nước trong khu vực nhiều lần, lại không thể thực hiện một bước đi chiến lược giúp cải thiện tình hình của chúng ta? Câu trả lời rất đơn giản: Chúng ta có một nhà lãnh đạo chỉ chiến đấu duy nhất một cuộc chiến—cuộc chiến vì sự sống còn về mặt chính trị của chính ông ta. Vì lợi ích của cuộc chiến đó, ông ta đã đẩy chúng ta trở thành một nhà nước hai quốc gia – sự kết thúc của giấc mơ phục quốc Do Thái.”
Dagan đã hét lên trước hàng chục nghìn người trong đám đông: “Tôi không muốn có một nhà nước lưỡng quốc. Tôi không muốn một nhà nước phân biệt chủng tộc. Tôi không muốn cai trị hơn ba triệu người Ả Rập. Tôi không muốn chúng ta trở thành con tin của sự sợ hãi, tuyệt vọng và bế tắc. Tôi tin rằng đã đến lúc chúng ta phải thức dậy và tôi hy vọng rằng các công dân Israel sẽ không còn là con tin của những nỗi sợ hãi và lo lắng đe dọa chúng ta cả ngày lẫn đêm.”
Với những dấu hiệu rõ ràng của căn bệnh ung thư, ông kết thúc bài phát biểu của mình trong nước mắt: “Đây là cuộc khủng hoảng lãnh đạo lớn nhất trong lịch sử của nhà nước. Chúng ta xứng đáng có một ban lãnh đạo xác định thứ tự ưu tiên mới. Một lãnh đạo sẽ phục vụ người dân chứ không phải bản thân mình.”
Nhưng những nỗ lực của ông là vô ích. Bất chấp sự ca ngợi to lớn mà ông được hưởng với tư cách là điệp viên bậc thầy cuối cùng của Israel, bài phát biểu của Dagan, cũng như lời kêu gọi của nhiều cựu lãnh đạo cơ quan tình báo và quân sự khác về một thỏa hiệp tai hại với người Palestine và những điều chỉnh khác trong quan hệ của Israel với thế giới bên ngoài, tất cả đều rơi vào tai điếc.
Đã có lúc những lời nói của các vị tướng được hầu hết người Israel coi là thiêng liêng. Nhưng các chiến dịch của họ chống lại ông Netanyahu cho đến nay vẫn chưa lật đổ được ông ta, và một số người nói rằng họ thậm chí còn ủng hộ ông ta. Israel đã trải qua những thay đổi mạnh mẽ trong những thập kỷ gần đây: Sức mạnh của giới tinh hoa cũ, bao gồm cả các tướng lĩnh và ảnh hưởng đối với chương trình nghị sự công cộng, đã giảm bớt. Giới tinh hoa mới – người Do Thái từ các vùng đất Ả Rập, Chính thống giáo, cánh hữu – đang ở thế thượng phong. “Tôi nghĩ mình sẽ có thể tạo ra sự khác biệt, để thuyết phục,” Dagan buồn bã nói với tôi trong cuộc nói chuyện qua điện thoại cuối cùng giữa chúng tôi, vài tuần trước khi ông qua đời, vào giữa tháng 3 năm 2016. “Nhưng tôi đã rất ngạc nhiên và thất vọng.”
Sự chia rẽ giữa các tướng lĩnh kiệt xuất, những người từng “ngậm dao giữa kẽ răng” nhưng sau đó đã nhận ra được giới hạn của bạo lực, và đa số người dân Israel, là một thực tế đáng buồn trong đó cuộc đời của Meir Dagan đi đến hồi kết.
Dịch xong ngày 31 tháng 12 năm 2022
Một áp phích ở Jabalia tưởng niệm Mahmoud al-Mabhouh, cùng với một em gái của mình
Al-Mabhouh bước ra thang máy , theo sau là hai “người chơi quần vợt”.
Mostafa Ahmadi-Roshan, một kỹ sư hóa tại bộ phận làm giàu uranium Natanz.
Vào ngày 12 tháng giêng năm 2012, Mossad giết Ahmadi-Roshan trong ô tô của anh.
“Israel phải bị quét sạch khỏi bản đồ thế giới”: một khẩu hiệu tuyên truyền trên đường phố Tehran với các mục tiêu trên trán các sếp AMAN, Amos Yadlin, giám đốc Mossad Dagan, và Bộ trưởng Quốc phòng Barak.
Các chỉ huy Mossad Yossi Cohen (2016–hiện giờ), trái, và Tamir Pardo (2011–2016). Cả hai đã tiếp tục sử dụng những vụ giết người có mục tiêu như là một trong những công cụ chính yếu của an ninh quốc gia.
Tin giờ chót 29/12/2022
Ông Netanyahu trở lại làm thủ tướng Israel
Ông Netanyahu đã quay trở lại chức vụ thủ tướng Israel chỉ 18 tháng sau khi mất chức, với ưu tiên hàng đầu là ngăn Iran sở hữu vũ khí hạt nhân.
Ông Benjamin Netanyahu đã tuyên thệ trở thành thủ tướng Israel ngày 29/12. Đây sẽ là nhiệm kỳ thủ tướng thứ 6 của ông Netanyahu, theo CNN. Nhà lãnh đạo Israel trở lại chính trường chỉ 18 tháng sau khi rời nhiệm sở.
Trong lần trở lại chức vụ thủ tướng Israel này, ông Netanyahu nhận được sự ủng hộ của một số chính trị gia cực hữu. Chính phủ của ông cũng được đánh giá là thiên hữu nhất trong lịch sử Israel.
Trong bài phát biểu sau khi tuyên thệ, Thủ tướng Netanyahu cho biết chính phủ của ông có ba mục tiêu chính.
Mục tiêu đầu tiên là ngăn chặn Iran sở hữu hạt nhân. Thứ hai, chính phủ của ông sẽ phát triển cơ sở hạ tầng. Thứ ba, ông sẽ ký thêm nhiều hiệp định hòa bình với các quốc gia Arab nhằm chấm dứt xung đột giữa Israel và thế giới Arab.
HẾT
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét