Ronen Bergman
Trần Quang Nghĩa dịch
CHƯƠNG 26 : “RANH MA NHƯ MỘT CON RẮN, VÀ NGÂY THƠ NHƯ MỘT ĐỨA TRẺ”
VÀO THỜI ĐIỂM SHINBET thanh toán y, Yahya Ayyash phải chịu trách nhiệm về cái chết và thương tật của hàng trăm người và đã gây ra thiệt hại khôn lường cho Nhà nước Israel và tiến trình hòa bình.
Vào thời điểm đó, có một số chỉ huy cấp cao khác đứng đầu Hamas, phụ trách các lực lượng khu vực ở Bờ Tây và Dải Gaza, và họ cũng chịu trách nhiệm về các cuộc tấn công đẫm máu chống lại người Israel. Nhưng có một sự khác biệt đáng kể giữa Ayyash và phần còn lại. Hầu hết trong số họ hoạt động bên trong các lãnh thổ bị chiếm đóng, chủ yếu trong các cuộc phục kích bằng súng chống lại binh lính trên đường. Còn Ayyash chịu trách nhiệm chính cho các vụ đánh bom tự sát diễn ra bên trong Israel, nhằm vào thường dân.
Sự nghiệp cách mạng của Ayyash tồn tại lâu hơn cái chết đột ngột của y. Trong những tháng cuối đời, y đã huấn luyện một nhóm các nhà hoạt động của Hamas về nghệ thuật chế tạo các thiết bị nổ nhỏ, gây chết người cho những kẻ đánh bom liều chết, cũng như các phương pháp tuyển mộ và chuẩn bị cho chúng. Một trong những người đó là Mohammed Diab al-Masri. Sau khi lọt vào danh sách truy nã của Shin Bet, hắn ta được biết đến ở Hamas với cái tên Mohammed Deif, có nghĩa là “Mohammed Khách trọ” trong tiếng Ả Rập, bởi vì mỗi đêm hắn ngủ tại một nơi khác nhau. Hắn sinh năm 1965 tại trại tị nạn Khan Yunis, Dải Gaza, trong một gia đình đã chạy trốn khỏi một ngôi làng gần Ashkelon trong cuộc chiến năm 1948. Deif gia nhập Hamas ngay sau khi nó được thành lập vào năm 1987. Tháng 5 năm 1989, hắn ta bị bắt lần đầu tiên và bị kết án mười sáu tháng vì là thành viên của cánh quân sự Hamas, nhưng hắn đã trở lại hoạt động ngay sau khi được trả tự do và tham gia vào các hội thảo mà Ayyash bí mật giảng dạy trên cồn cát bên ngoài Gaza. Vào tháng 11 năm 1993, hắn được giao phụ trách các hoạt động khủng bố của Hamas bên trong Dải.
Vào ngày Ayyash được chôn cất, Deif trở thành người đứng đầu Lữ đoàn Izz al-Din al-Qassam, cánh quân sự của Hamas. Đêm đó, hắn bắt đầu tuyển mộ những kẻ đánh bom liều chết. Tháng sau, hắn bắt đầu trả đũa.
Deif và người của hắn đã thực hiện bốn cuộc tấn công khủng bố. Vào ngày 25 tháng 2 năm 1996, một kẻ đánh bom tự sát đã cho nổ tung mình trên một chiếc xe buýt ở Jerusalem, giết chết 26 người. Cùng ngày hôm đó, một kẻ khủng bố liều chết khác đã giết chết một người lính và làm bị thương 36 người khác tại một trạm quá giang dành cho binh lính bên ngoài Ashkelon. Một tuần sau, vào sáng ngày 3 tháng 3, một vụ tấn công liều chết khác diễn ra trên một chiếc xe buýt ở Jerusalem, khiến 19 người thiệt mạng và 8 người bị thương. Ngày hôm sau, ngày 4 tháng 3, một kẻ đánh bom đã kích nổ thiết bị của mình gần hàng người rút tiền ATM tại Trung tâm Dizengoff, một trung tâm mua sắm sầm uất ở trung tâm Tel Aviv, khiến 13 người thiệt mạng và hơn 100 người bị thương.
Shimon Peres, người kế nhiệm Rabin làm thủ tướng, đã nắm bắt được tác động của những cuộc tấn công khủng bố này đối với dư luận Israel, sự ủng hộ của nước này đối với tiến trình hòa bình và triển vọng của chính ông trong cuộc bầu cử sắp tới, dự kiến vào tháng năm. Ông ta đã ký một Trang đỏ chống lại Mohammed Deif và ra lệnh cho Shin Bet làm mọi thứ cần thiết để loại bỏ hắn, nhưng Deif vẫn sống sót. Chính quyền Palestine, được cho là đang giúp Shin Bet chống khủng bố như một phần của các cuộc đàm phán hòa bình, đã không làm gì cả. Jibril Rajoub, một trong những người đứng đầu bộ máy an ninh Palestine thân cận với Arafat, tuyên bố, “Tôi không có quyền lực. Tôi muốn [chống khủng bố Hamas], nhưng tôi không có người, công cụ, quyền hạn.” Yuval Diskin, liên lạc viên của Shin Bet với người Palestine, không đồng ý. “Jibril là kẻ nói dối,” anh nói. “Ông ấy có quyền lực to lớn, nhưng ông ấy đã nhận lệnh từ Arafat là không được cố gắng quá sức.”
Trước bốn cuộc tấn công, Peres đã cố thuyết phục Arafat bắt giữ Deif và 34 nghi phạm khủng bố khác. Ông đến Gaza để họp khẩn cấp với Arafat vào ngày 24 tháng 1. Cùng đi với họ là thủ lĩnh AMAN Yaalon, người đã nói với Arafat, “Ông phải bắt giữ những người này ngay lập tức, nếu không mọi thứ sẽ chìm trong hỗn loạn.”
“Bắt giữ Mohammed Deif ngay lập tức!” Peres yêu cầu.
Arafat nhìn họ với đôi mắt mở to bối rối. “Mohamed Shu?” ông hỏi bằng tiếng Ả Rập. Mohammed là ai?
Tuy nhiên, cuối cùng, Arafat nhận ra rằng những kẻ đánh bom liều chết đã khiến ông, trong mắt người dân của mình, như thể là người bất lực không thể kiểm soát Chính quyền Palestine và, trong mắt cộng đồng quốc tế, như một người đang giúp một tay, cho dù chỉ là do thiếu sót, trong việc tạo ra nỗi kinh hoàng giết người. Ông nhận ra rằng tiến trình hòa bình sẽ đi đến hồi kết nếu người Israel tiếp tục bị nổ tung trên xe buýt và trung tâm mua sắm. Sau cuộc tấn công thứ tư, lực lượng an ninh của ông ta đã tiến hành một chiến dịch mạnh mẽ chống lại Hamas, bắt giữ 120 thành viên hàng đầu của tổ chức này và nướng họ bằng những kỹ thuật tra tấn khắc nghiệt nhất. Nhưng đến lúc đó thì đã quá muộn.
“Arafat là một người rất phức tạp,” Peres nói, “với tâm lý mà chúng tôi không quen thuộc. Một mặt, ông ta ranh ma như một con rắn. Mặt khác, ngây thơ như một đứa trẻ. Ông ấy muốn trở thành mọi thứ cùng một lúc, vừa là người của hòa bình vừa là người của chiến tranh. Một mặt, ông ta có một trí nhớ phi thường- ông nhớ tất cả tên, tất cả ngày sinh nhật, tất cả các sự kiện lịch sử. Mặt khác, sự thật và chân lý không phải lúc nào cũng khiến ông quan tâm.
“Chúng tôi ngồi cùng nhau, và tôi chịu ở dưới tay ông – bàn tay bị bệnh chàm, và việc đó đòi hỏi có cảm đảm. Tôi đưa cho ông ta thông tin về những tên khủng bố hàng đầu của Hamas trong lãnh thổ của ông ấy. Ông ta biết rất rõ điều đó là chính xác, nhưng đã nói dối trước mặt tôi mà không có ngại ngùng gì. Khi ông ta chịu nhìn nhận thì đã quá muộn. Nỗi kinh hoàng đã hủy hoại tôi, kết liễu tôi, tước bỏ quyền lực của tôi.”
Làn sóng khủng bố vào tháng 2 và tháng 3 năm 1996 là một nghiên cứu tình huống về việc các cuộc tấn công tự sát có thể làm thay đổi tiến trình lịch sử ra sao. Vào đầu tháng Hai, Peres đã tăng 20 điểm trong các cuộc thăm dò so với phe đối lập của ông, nhân vật diều hâu bảo thủ Benjamin “Bibi” Netanyahu. Đến giữa tháng 3, Netanyahu đã thu hẹp khoảng cách đáng kể và Peres chỉ dẫn trước 5 điểm bách phân. Vào ngày 29 tháng 5, Netanyahu đã vượt hơn được 1 phần trăm số phiếu bầu. Tất cả là do các cuộc tấn công khủng bố mà Peres đơn giản là không thể ngăn chặn. Các đệ tử của Yahya Ayyash đã đảm bảo chiến thắng cho cánh hữu và “làm trật bánh tiến trình hòa bình”, theo lời của phó thủ lĩnh Shin Bet, Yisrael Hasson.
Tuy nhiên, thật kỳ lạ là sau cuộc bầu cử, các cuộc tấn công đã dừng lại trong gần một năm. Một số người cho rằng điều này là do chiến dịch của Arafat chống lại Hamas, và việc bắt giữ nhiều thành viên trong cánh quân sự của tổ chức này. Những người khác tin rằng Hamas không còn lý do gì để thực hiện các cuộc tấn công liều chết, bởi vì Netanyahu gần như đã dừng hoàn toàn tiến trình hòa bình, dù sao đó cũng là mục tiêu ngắn hạn của các cuộc tấn công.
Netanyahu đã không bãi bỏ Hiệp định Oslo, nhưng chính phủ của ông đã gặp vô số khó khăn trong quá trình này, và trong suốt nhiệm kỳ đầu tiên của mình, tiến trình hòa bình gần như bị đình trệ hoàn toàn. Mặt khác, ông Netanyahu không bao giờ vội vàng sử dụng vũ lực hoặc bắt đầu hành động gây hấn. Phương thức hoạt động của ông là không làm gì cả: không bao giờ chủ động, dù là chiến tranh hay hòa bình.
Về phần mình, Arafat rất tức giận trước việc Israel liên tục trì hoãn việc rút quân khỏi các vùng lãnh thổ của Palestine, và để trả đũa, ông đã trả tự do cho một số nhà hoạt động Hamas mà ông đã giam giữ. Vào ngày 21 tháng 3 năm 1997, tổ chức lại tấn công ở trung tâm Tel Aviv, khi một kẻ đánh bom tự sát cho nổ tung mình tại một quán cà phê vỉa hè, không xa ngôi nhà cũ của David Ben-Gurion. Ba phụ nữ thiệt mạng và 48 người bị thương, một số bị thương nặng. Sau cuộc tấn công này, Netanyahu một lần nữa thể hiện sự kiềm chế, và bất chấp những đề nghị của các cộng sự về việc tiến hành hành động quân sự ở các khu vực của Palestine, ông đã kiềm chế không ra lệnh sử dụng vũ lực.
Vụ đánh bom ở Tel Aviv cho thấy khoảng cách ngày càng lớn giữa cách nhìn của hai nhánh tình báo chống khủng bố chính của Israel đối với Arafat. Shin Bet, dưới quyền của Ayalon, cho rằng nhà lãnh đạo Palestine bị động và yếu ớt, để cho các cuộc tấn công tiếp tục và không nỗ lực kiềm chế Hamas vì ông ta muốn tránh đối đầu với phong trào Hồi giáo chính thống.
AMAN, đứng đầu là Thiếu tướng Moshe Yaalon lôi cuốn và ngoan cố, cho rằng Arafat là trung tâm của vấn đề. Mặc dù cả Shin Bet và AMAN đều xem cùng một bản ghi các cuộc trò chuyện bí mật giữa Arafat và các nhà lãnh đạo Hamas, nhưng chỉ có Yaalon tin rằng tài liệu tình báo ngụ ý rằng Arafat đã bật đèn xanh cho các cuộc tấn công khủng bố nhằm phá vỡ thế bế tắc trong các cuộc đàm phán. Yaalon nói với ba thủ tướng mà ông từng là người đứng đầu cơ quan tình báo quân sự dưới quyền—Rabin, Peres và Netanyahu—rằng theo đánh giá của ông, “Arafat không chuẩn bị cho người dân của mình hòa bình với chúng ta, mà là chuẩn bị cho chiến tranh.” Yaalon nói rằng khi nhìn lại, tuyên bố của Rabin rằng Israel nên “theo đuổi hòa bình như thể không có khủng bố, và chống khủng bố như thể không có hòa bình” là một “tuyên bố ngớ ngẩn”, bởi vì người mà họ đang cố gắng làm hòa cũng một nhân vật đã tạo ra nỗi kinh hoàng.
Yaalon là thành viên của một kibbutz ở sa mạc Arabah, và là người con nổi bật của phong trào lao động cánh tả của Israel. Nhưng, ông ấy nói, những gì ông thấy trong tài liệu tình báo với tư cách là người đứng đầu AMAN, và sau đó là Tổng tham mưu trưởng, đã khiến ông thay đổi quyết định và nghiêng về cánh hữu. Sự thăng tiến nhanh chóng trong cấp bậc quân sự và chính trị của ông đã khuếch đại những quan điểm diều hâu của ông, và cuối cùng chúng có tác động đáng kể đến việc định hình các chính sách của Israel trong những thập kỷ tới. Cánh hữu nồng nhiệt chào đón ông ta, vì ông là một trong số ít thành viên của cộng đồng tình báo tán thành những ý kiến như vậy. Ông sẽ trở thành một trong những cộng sự thân cận nhất của Netanyahu, người đã bổ nhiệm ông vào nội các với tư cách là bộ trưởng phụ trách các vấn đề chiến lược và sau đó là bộ trưởng quốc phòng, mặc dù cũng là người sẽ buộc ông phải ra đi vào năm 2016 sau khi Yaalon, một người tuân thủ luật pháp và kỷ luật, khăng khăng rằng một người lính đã bắn chết một tên khủng bố bị thương bất lực nên bị truy tố.
Yaalon cũng được coi là một trong những chính trị gia trung thực nhất của Israel, và chắc chắn rằng việc ông ghê tởm Arafat là hoàn toàn xác thực. Ông vẫn kiên định với niềm tin rằng Arafat tiếp tục tích cực hỗ trợ khủng bố. Ông nói: “Shin Bet được sử dụng để thu thập bằng chứng trình trước tòa và dẫn đến việc kết án. “Nhưng rõ ràng Arafat phức tạp hơn nhiều. Ông ta không nói với những người đứng đầu Hamas, ‘Cứ đi và thực hiện các cuộc tấn công’, mà nói với họ về cuộc thánh chiến, và thả tất cả những tên hàng đầu của họ mà ông ta đã bắt giữ. Như thế là đủ. Cho đến nay, người ta vẫn chưa tìm thấy mệnh lệnh nào do Hitler ký ra lệnh tiêu diệt người Do Thái. Điều này có nghĩa là ông ta đã không ra lệnh thực hiện nó sao?
Chuẩn tướng Yossi Kuperwasser, một trong những nhà phân tích cấp cao của AMAN, ủng hộ lời của sếp mình: “Khi ông ấy muốn, Arafat đóng cửa 19 tổ chức Hamas và bắt giữ một số tên hoạt động của tổ chức này. Sau đó, ông ta lần lượt để thả họ đi sau khi quyết định đã đến lúc tiếp tục các cuộc tấn công khủng bố. Hamas yêu cầu bằng chứng về sự nghiêm túc của ông. “Hãy thả Ibrahim al-Makadmeh,” họ nói với ông ta. “Đó là cách duy nhất để chúng tôi biết chắc chắn rằng ông đang giúp chúng tôi được tự do hành động”. Tại sao lại là Makadmeh? Bởi vì hắn ta đứng đầu một đội sẽ ám sát Arafat. Arafat tuân theo, và một thời gian ngắn sau họ tiến hành cuộc tấn công gần dinh thự cũ của Ben-Gurion.” Kuperwasser lập luận rằng Arafat đã đủ ranh ma để thả các tù nhân Hamas sống trong các khu vực do Israel kiểm soát, để người Israel chỉ có thể tự trách mình và trong mọi trường hợp thả những tên không có liên hệ với Fatah, để giữ càng xa càng tốt giữa ông ta và các cuộc tấn công khủng bố.
__
CHỢ MAHANEH YEHUDAH ở Jerusalem hầu như lúc nào cũng đông đúc người mua sắm nông sản và quần áo giá rẻ. Nằm giữa đường huyết mạch chính của thành phố, Đường Jaffa và Phố Agrippas, chợ đã phục vụ dân chúng từ cuối thế kỷ XIX. Với những người ồn ào rao bán thịt, cá, hoa và chim ưng, với đủ màu sắc, mùi vị và cảnh vật của một khu chợ sầm uất đích thực, đây cũng là một điểm tham quan nổi tiếng thu hút khách du lịch
Trưa thứ Tư, ngày 30 tháng 7 năm 1997, không ai để ý đến hai người đàn ông mặc vest đen, sơ mi trắng, thắt cà vạt chen qua đám đông náo nhiệt. Họ mang theo những chiếc cặp nặng nề, sải bước đến trung tâm chợ, dừng lại đứng cách nhau 150 bộ – đúng như Mohammed Deif đã chỉ dẫn. Họ kéo cặp vào người, như thể đang ôm lấy chúng.
Mỗi chiếc cặp chứa đầy khoảng 33 cân thuốc nổ, đinh và ốc vít.
Hai tên này đã kích nổ chúng, và các vụ nổ lớn bắn ra các mảnh đạn đã giết chết 16 người và làm bị thương 178 người.
Hamas đã nhận trách nhiệm về vụ tấn công trong một tuyên bố gửi tới Hội Chữ thập đỏ. Nhưng Deif cũng đã nhận ra rằng Shin Bet, sau các vụ đánh bom trước đó, đã nhận diện được thủ phạm từ phần thi thể còn lại của y và sử dụng thông tin này để xác định chính xác những người mà họ đã tiếp xúc trước khi tấn công. Vì vậy, lần này, những kẻ đánh bom khủng bố đã cố gắng hết sức để che giấu nhân thân của mình. Chẳng hạn, họ cắt nhãn trên quần áo của mình, khiến các nhà điều tra Shin Bet sẽ không thể lần đến một nhà buôn cụ thể nào có thể nhận ra họ. Họ ôm chặt quả bom để phá hủy càng nhiều cơ thể và khuôn mặt của họ càng tốt. Các chiến binh Hamas đã dặn dò gia đình họ không được dựng lều tang để khách đến chia buồn, như phong tục của người Palestine, vì vậy Shin Bet sẽ không thể xác định danh tính của họ và thu thập hình ảnh về những người liên hệ của họ.
Tuy nhiên, sau một cuộc điều tra tận lực, cơ quan này đã có thể báo cáo với thủ tướng rằng họ đã xác định được nhân thân của các tên khủng bố đã tan xác và rằng Mohammed Deif là người đứng sau kế hoạch tấn công và tuyển mộ các tên đánh bom liều chết này.
Mười ngày sau vụ đánh bom, Thủ tướng Netanyahu đã triệu tập một cuộc họp nội các an ninh. Bắt đầu cuộc họp, ông ấy nói rõ rằng mình đã không kiềm chế được nữa. Sau khi các quan chức của Mossad và Shin Bet giải thích với các bộ trưởng rằng nhiều thủ lĩnh của Hamas đã tìm nơi ẩn náu ở Jordan, Syria, các quốc gia vùng Vịnh, Hoa Kỳ và Châu Âu, Netanyahu tuyên bố rằng ông ủng hộ hành động chống lại họ. Nội các ủy quyền cho thủ tướng và bộ trưởng quốc phòng đặt ra các mục tiêu cụ thể.
Ngày hôm sau, Netanyahu gọi điện cho Tổng giám đốc Mossad Danny Yatom và yêu cầu một danh sách sát thủ. Yatom được tháp tùng bởi người đứng đầu Caesarea, HH, và giám đốc tình báo của Caesarea, Moshe (Mishka) Ben-David.
Ben-David là một người kỳ quặc trong Mossad. Dáng người thấp và rắn rỏi, ông ta để một bộ râu dài khác thường và gia nhập Mossad năm 1987, ở độ tuổi tương đối cao 35. Mẹ ông, một dịch giả và biên tập viên, nói chuyện với ông ngay từ nhỏ bằng tiếng Nga, vì vậy ông đã thông thạo ngôn ngữ đó trước khi học tiếng Do Thái. Khi được 18 tuổi, kiến thức về tiếng Nga đã khiến ông nghiễm nhiên trở thành ứng cử viên cho Đơn vị 8200, có nhiệm vụ lắng nghe trộm các cố vấn Nga, những người lúc đó đang hỗ trợ quân đội Ai Cập và Syria. Khi nghỉ hưu khỏi IDF, ông đã đại diện cho phong trào thanh niên Israel ở Hoa Kỳ một thời gian, sau đó quay trở lại điều hành một trung tâm thanh niên ở Israel. Ông nuôi ngựa ở vùng núi Jerusalem, viết sách và lấy bằng tiến sĩ văn học và đai đen karate. Ông cũng kết hôn và nuôi dạy ba người con.
Chỉ sau khi đạt được tất cả những điều này, Ben-David mới quyết định nộp đơn vào Mossad. “Tôi thực sự quan tâm,” ông ấy giải thích, “và tôi cũng hiểu tầm quan trọng của chủ nghĩa phục quốc Do Thái và tầm quan trọng quốc gia trong việc đóng góp cho an ninh của đất nước sau một số năm tự mình làm mọi việc. Tôi thấy rằng chiến tranh đang hoành hành ở Lebanon và hòa bình vẫn còn xa vời, và điều đó không thực sự quan trọng đối với bất kỳ ai từ Jerusalem đến Tel Aviv.”
Ông ấy nói chính xác thì không phải là không ai quan tâm. Đơn giản là dễ dàng hơn để giả vờ thế giới không phải là một nơi nguy hiểm như vậy. “Đám đông quán cà phê ở Tel Aviv trở nên cáu kỉnh khi họ bắt gặp một cái nhìn rõ ràng về một thế giới mà Nhà nước Israel vẫn phải đối mặt với mối nguy hiểm hiện hữu, và thực tế là không ít người và các tổ chức đang thực sự nỗ lực và không tiếc công sức. Ben-David nói. “Sẽ dễ chịu hơn nhiều nếu không nghĩ về những người xấu và chỉ cần ngồi yên… Tôi nghĩ rằng đại đa số những người trong Mossad đều giống như tôi. Tình yêu phiêu lưu, mưu trí và mong muốn có một sự nghiệp tốt đẹp chỉ tốt đẹp cho đến khi lời kêu gọi cuối cùng lên chuyến bay 337 tới Tehran. Đó là khi tất cả kết thúc. Nếu không có niềm tin rằng mục tiêu của bạn là động cơ yêu nước chính đáng và mạnh mẽ, bạn không thể sống sót sau cuộc hành quân thứ hai của mình.”
Yatom và các phụ tá của ông đến văn phòng của ông Netanyahu cùng với hồ sơ về một số mục tiêu tiềm năng của Hamas ở châu Âu và Trung Đông, những người chịu trách nhiệm mua hoặc gây quỹ vũ khí. Một trong số đó là Mahmoud al-Mabhouh, kẻ đã bắt cóc và giết chết hai binh sĩ Israel vào năm 1988, sau đó trốn sang Ai Cập. Netanyahu đã từ chối danh sách. “Hãy mang cho tôi một ít cá lớn, không phải những con cá thế này,” ông nói. “Tôi muốn các nhà lãnh đạo, không phải thương nhân.”
Mệnh lệnh của ông Netanyahu đã đặt ra một bài toán khó cho Ben-David và các cộng sự của mình. Lãnh đạo cấp cao của Hamas đang ở Jordan, quốc gia mà Israel đã ký hiệp ước hòa bình ba năm trước đó; Tình báo Israel, theo lệnh của Rabin và ngoài phép lịch sự ngoại giao cơ bản, không thể hoạt động ở đó nếu không có sự cho phép của người Jordan. Và rõ ràng là Vua Hussein – người có thần dân chủ yếu là người Palestine—sẽ không cấp phép đó.
Việc Mossad có giải thích rõ ràng những khó khăn về hậu cần này cho Netanyahu hay không là một vấn đề gây tranh cãi. “Netanyahu nói với chúng tôi rằng ông ấy muốn hành quyết không có dấu chân,“ Ben-David nó. “Người đứng đầu Caesarea [HH] nói với ông ta, ‘Tôi biết cách thực hiện một chiến dịch như vậy bằng súng trường, súng lục hoặc bom. Tôi không có kinh nghiệm chỉ đạo một chiến dịch thầm lặng. Khi ông phải hành động để bắn trúng mục tiêu, ông phải tiếp xúc thực sự với mục tiêu và mọi người đang theo dõi—điều đó không phải là bí mật, và nếu có sự cố xảy ra, ông không thể bỏ súng và bỏ chạy’. Netanyahu nói, ‘Việc này đủ quan trọng để anh phải thực hiện một nhiệm vụ thầm lặng…bởi vì tôi không muốn gây nguy hiểm cho mối quan hệ với Jordan.’ Ông ấy cũng nói, ‘Tôi cần xóa sổ các nhà lãnh đạo Hamas. Tôi không thể cho phép thêm những vụ đánh bom liều chết như thế này xảy ra nữa.’”
Mặt khác, Chuẩn tướng Shimon Shapira, thư ký quân sự của thủ tướng, người có mặt tại tất cả các cuộc họp, khẳng định rằng các đại diện của Caesarea không hề cho rằng việc thực hiện một nhiệm vụ ở Jordan sẽ có vấn đề. Shapira nói: “Họ cho chúng tôi ấn tượng rằng đó là một cuộc dạo chơi trong công viên, giống như đi dạo ở trung tâm Tel Aviv. “Mọi thứ thật đơn giản. Không có rủi ro, không có gì có thể đi sai.”
Mossad quay lại với một danh sách các mục tiêu tiềm năng – bốn thủ lĩnh Hamas sống ở Jordan. Đôi mắt của Netanyahu sáng lên. Ông ta quen thuộc với một vài cái tên: Musa Abu Marzook, người đứng đầu văn phòng chính trị của Hamas. Marzook đã làm việc không bị cản trở ở Hoa Kỳ cho đến khi Israel yêu cầu dẫn độ anh ta. Yêu cầu đã được chấp thuận, nhưng Thủ tướng Rabin quyết định từ bỏ nó, vì Shin Bet đã cảnh báo ông rằng một phiên tòa có thể sẽ làm lộ các nguồn thông tin của nó. Thay vào đó, người Mỹ trục xuất Marzook đến Jordan.
Marzook cũng là một công dân Mỹ, điều này không khiến Netanyahu bận tâm – ông ta giết y cũng được – nhưng điều đó khiến Mossad cảnh giác. Để tránh những thiệt hại có thể xảy ra đối với mối quan hệ với Hoa Kỳ, Mossad đã đặt Marzook ở vị trí cuối cùng trong danh sách mục tiêu của mình. Điều này có nghĩa là tên của anh ta đứng sau Khaled Mashal, cấp phó của Marzook, đứng sau người phát ngôn của Hamas, Muhammad Nazal, và đứng sau Ibrahim Ghosheh, một thành viên cấp cao trong văn phòng chính trị của tổ chức này.
Mossad chỉ có một ít thông tin về mỗi người trong số họ và khan hiếm tài nguyên hoặc thời gian để lấp đầy khoảng trống. Một vụ giết người có mục tiêu chỉ có thể được thực hiện nếu có đủ thông tin tình báo về mục tiêu, do đó, việc chọn người đứng đầu thứ tự ưu tiên vì có nhiều thông tin tình báo hơn về hắn ta là điều hợp lý. Bằng cách này, mạng sống của người cuối cùng trong danh sách lẽ ra phải tương đối an toàn.
Tám ngày sau, sáu thành viên của Lưỡi Lê đến Jordan trong một nhiệm vụ trinh sát, dưới sự chỉ huy của trưởng đơn vị, Jerry. Họ bắt đầu thu thập thông tin tình báo về Mashal, 41 tuổi, người điều hành văn phòng chính trị của Hamas bên ngoài “Trung tâm Hỗ trợ Palestine”, trong một trung tâm mua sắm hào nhoáng ở trung tâm thành phố Amman. Trong vòng vài ngày, người Israel đã biết nơi y sống, cách y đi lại và những điều cơ bản trong thói quen hàng ngày của y. Họ dành rất ít thời gian để theo dõi Ghosheh hoặc Nazal, và không bao giờ đến được Marzook. Khi đội trinh sát trở về từ Jordan, Mossad đã báo cáo với Netanyahu rằng họ có đủ thông tin về Mashal để tiến hành kế hoạch loại bỏ y, nhưng không có đủ thông tin để hành động chống lại ba người kia.
Trong khi Lưỡi Lê đang thu thập thông tin ở Jordan, các đặc vụ tại Trụ sở Mossad đang tìm cách thực hiện “chiến dịch thầm lặng” mà Netanyahu đã yêu cầu. Vụ giết người không thể gây náo động, không thể thu hút sự chú ý vào các sát thủ, và lý tưởng nhất là có thể khiến Mashal chết vì nguyên nhân tự nhiên. Nhiều lựa chọn khác nhau, chẳng hạn như gây một tai nạn trên đường, đã được cân nhắc và lần lượt bị bác bỏ, cuối cùng chỉ còn lại một: đầu độc. Các cuộc tham vấn về việc sử dụng chất độc nào được tổ chức tại đơn vị công nghệ của Mossad, với sự hợp tác của Viện Nghiên cứu Sinh học Israel, một cơ sở tuyệt mật của chính phủ nằm ở Ness Ziona, phía nam Tel Aviv. Cuối cùng, họ quyết định sử dụng levofentanyl, một chất tương tự của fentanyl opioid mạnh, bản thân nó mạnh hơn móc phin hàng trăm lần. (Các công ty dược phẩm đã cố gắng phát triển levofentanyl để sử dụng làm thuốc gây mê phẫu thuật đã phát hiện ra rằng nó không thể được kiểm soát đầy đủ để tránh gây tử vong cho bệnh nhân.)
Kế hoạch là lén lút tiêm một liều thuốc gây tử vong cho Mashal. Levofentanyl là một loại thuốc có tác dụng tương đối chậm — trong khoảng thời gian vài giờ, Mashal sẽ cảm thấy ngày càng buồn ngủ hơn, cho đến khi cuối cùng y sẽ ngủ thiếp đi. Sau đó, thuốc sẽ làm chậm nhịp thở của y, cuối cùng là ngừng thở. Cái chết của y dường như chỉ là một cơn đột quỵ hoặc một cơn đau tim, và levofentanyl hầu như không để lại dấu vết gì. Trừ khi ai đó kiểm tra nó một cách gắt gao, khám nghiệm tử thi sẽ không tiết lộ điều gì. “Thuốc của các vị thần,” một số người ở Caesarea gọi nó như vậy.
Vấn đề tiếp theo là làm thế nào để đưa chất này vào cơ thể y mà không bị phát hiện. Viện Sinh học đề xuất sử dụng một thiết bị siêu âm, tương tự như thiết bị được sử dụng để tiêm chủng cho trẻ em, có thể tiêm các chất mà không cần sử dụng kim. Thiết bị này vẫn yêu cầu phải đến gần Mashal, y có thể sẽ cảm thấy một luồng không khí ẩm nhẹ. Caesarea quyết định rằng nơi tốt nhất để thực hiện vụ giết người là ở ngoài trời, trên một con phố đông đúc nơi người đi bộ thỉnh thoảng chen lấn nhau. Hai đặc vụ sẽ tiếp cận y từ phía sau, một người sẽ mở một lon sođa đã lắc kỹ, và cùng lúc đó, người kia sẽ phun chất độc từ dụng cụ siêu âm được dán vào lòng bàn tay của mình (hãy tưởng tượng Người Nhện đang bắn tơ nhện của anh ta). Khi Mashal quay lại để xem thứ gì đã làm y bị ướt thì chỉ thấy hai du khách với một lon nước có ga đang phun trào bọt . Vì chất này quá nguy hiểm nên một bác sĩ của Mossad sẽ ở Amman mang theo thuốc giải, phòng trường hợp một giọt vô tình chạm vào các đặc vụ.
Hai sát thủ vẫn đang thực tập kỹ thuật của mình—rất nhiều người đi bộ đã bị xịt Coca-Cola trên Phố Ibn Gabirol—vào đầu tháng 9 khi ba kẻ đánh bom liều chết, một trong số chúng ăn mặc như người chuyển giới để tránh bị kiểm tra, cho nổ tung mình trên phố đi bộ Ben Yehuda ở Jerusalem. Chúng đã giết chết 5 người, trong đó có một cậu bé 14 tuổi đến từ Los Angeles đang đi thăm gia đình và làm bị thương 181 người. Netanyahu, khi đến thăm hỏi nạn nhân bị thương tại Trung tâm Y tế Shaare Zedek, nói rằng mình đã chịu đựng quá đủ: “Tôi muốn xác định thật rõ ràng. Từ giờ phút này trở đi, con đường của chúng ta sẽ rất khác.”
Bước đầu tiên là giết một thủ lĩnh Hamas. Thủ tướng ra lệnh cho Giám đốc Mossad Yatom tiến hành ngay Chiến dịch Cyrus, đánh vào Mashal. Yatom một lần nữa cố gắng thuyết phục Netanyahu thay vào đó hành động trước chống lại các đặc vụ Hamas ở châu Âu, nhưng không thành công.
Tuy nhiên, tất cả những vấn đề đáng kể xảy ra sau đó không phát sinh quá nhiều từ mệnh lệnh của Netanyahu mà từ thỏa thuận của Mossad để thực hiện nó. Các nhà điều hành có quyền – điều mà họ đã thực hiện nhiều lần trong quá khứ – nói với các chỉ huy của mình, hoặc thậm chí với chính thủ tướng, rằng họ nghĩ nhiệm vụ “chưa chín muồi” hoặc rủi ro cao. Tất nhiên, không dễ dàng hay thoải mái khi nói như vậy với một thủ tướng đang gây áp lực.
Nhưng thời điểm Mossad đồng ý ngay lập tức thực hiện cuộc tấn công vào Mashal, nhân viên của họ buộc phải từ bỏ một loạt các bước chuẩn bị thông thường. Ví dụ, trong chuyến thám sát, họ đã đóng giả là khách du lịch châu Âu, những nhân vật mà họ đã sử dụng trước đây trong các hoạt động khác, đã được thử nghiệm và có thể chịu được sự giám sát gắt gao. Nhưng vì họ phải trở lại Jordan quá sớm nên họ được cấp giấy tờ của Canada, nhân thân mà họ ít quen thuộc hơn nhiều. Ngoài ra, các đặc nhiệm chưa bao giờ trải qua một cuộc diễn tập cuối cùng kỹ lưỡng trong mô hình khu vực hoạt động. Một trong những thành viên của ban điều tra nội bộ Mossad về sự kiện này cho biết: “Không phải cách thức lên kế hoạch ám sát đã không thể dẫn đến một thành công rực rỡ. Nó ắt hẳn có thể đã đạt được điều đó. Nhưng một hoạt động thuộc loại này phải kết thúc thành công, hoặc ít nhất là không thất bại. Ý tưởng lấy vô số biện pháp phòng ngừa là không cho phép những sự kiện bất ngờ hoặc vận rủi làm hỏng mọi việc.”
Hơn nữa, Bộ trưởng Quốc phòng Yitzhak Mordechai, người lẽ ra phải được yêu cầu kiểm tra và phê duyệt hoạt động – các thủ tướng có thẩm quyền chính thức để tự mình ra lệnh cho các hoạt động của Mossad, nhưng họ thường đưa ra quyết định cuối cùng với một hoặc hai bộ trưởng khác – thậm chí còn không biết rằng nó đang diễn ra. Trước đó, ông ta đã phê duyệt việc thu thập thông tin tình báo, nhưng ông ta không được thông báo về bước tiến cuối cùng hoặc địa điểm của chiến dịch. Mordechai là một cựu tướng chiến đấu và là một người cẩn thận về chi tiết, và rất có thể ông ta đã cải thiện sự chuẩn bị của Caesarea, như ông ta đã làm trong các trường hợp khác. Nhưng ông ấy chỉ đơn giản là không biết về nó.
Giám đốc Mossad Danny Yatom cho biết mình tin rằng có thể thực hiện nhiệm vụ “một cách suôn sẻ và lặng lẽ, nếu không tôi đã nói với ông Netanyahu bằng cách khác. Nhìn lại, có thể là nhân viên cánh hoạt động đã không cho tôi ước tính chính xác về các rủi ro.”
Netanyahu không cảm thấy rằng phán đoán hay chương trình nghị sự của mình là đáng trách: “Nhiệm vụ của thủ tướng là gì? Để thiết lập chính sách. Mossad có các đơn vị tình báo và một đơn vị tác chiến, theo ý kiến của tôi, kể từ sau vụ giết Shaqaqi, họ đã khá buồn ngủ. Tôi nói, ‘Hãy cho tôi các mục tiêu.’ Họ đưa cho tôi, ngoài những người khác, Khaled Mashal, người mà theo tôi là một mục tiêu phù hợp. Công việc của tôi không phải là điều tra viên nội bộ của Mossad. Công việc của tôi là hỏi, ‘Các anh có thể thực hiện sứ mệnh không? Các anh đã sẵn sàng chưa?’ và từ lúc họ nói đồng ý, tôi phải dựa vào họ.”
__
HAI THÀNH VIÊN ĐẦU TIÊN của đội Lưỡi Lê đến Jordan vào ngày 19 tháng 9. Một ngày sau, Jerry và năm đặc vụ khác, trong đó có một phụ nữ, nhận phòng khách sạn InterContinental ở Amman. Đặc biệt, sĩ quan tình báo Caesarea Ben-David và một nữ bác sĩ gây mê, “Dr. Platinum,” cũng tham gia. Mossad thỉnh thoảng sử dụng Platinum cho các nhiệm vụ đặc biệt. Ví dụ, cô ấy đã dùng thuốc an thần cho nhà công nghệ hạt nhân và người thổi còi Mordechai Vanunu ở Rome, vào năm 1986, để ông ta có thể bị đưa trở lại Israel đối mặt với phiên tòa. Lần này, Platinum mang theo thuốc giải độc levofentanyl.
Đội Mossad quyết định phục kích Mashal ở lối vào văn phòng Hamas, nằm trên tầng ba của trung tâm mua sắm Shamiya. Để đến văn phòng, Mashal sẽ phải đi bộ từ ô tô của mình, ở lề đường, qua một hành lang có mái vòm mở, một hành lang hình vòng cung dài khoảng ba mươi mét. Jerry bảo hai đặc vụ đợi đằng sau một trong những mái vòm và bắt đầu đi về phía lối vào khi Mashal bước ra khỏi xe. Họ sẽ đến phía sau và đồng thời xịt chất độc và cola vào ông ta.
Trong năm buổi sáng, điều kiện không ổn. Một lần, Mashal không xuất hiện. Một lần khác, có quá nhiều người trong khu vực tấn công được ấn định.
Mỗi buổi sáng, Ben-David và Platinum đợi ở khách sạn cho đến khi họ được thông báo rằng ngày hôm đó đã hết lịch trình. “Sau đó, chúng tôi đã làm những gì khách du lịch làm: tham quan,” Ben-David nói. “Amman là một thành phố rất thú vị.”
Vào ngày 24 tháng 9, hai đặc vụ Lưỡi Lê đang làm nhiệm vụ canh gác đã làm dấy lên sự nghi ngờ của một nhân viên tại trung tâm Shamiya. Jerry nhận ra rằng việc lảng vảng quanh khu vực này lâu hơn nữa là quá nguy hiểm. Đội sẽ phải rời Jordan vào ngày hôm sau, cho dù nhiệm vụ có hoàn thành hay không. Họ sẽ phải gấp rút.
Nhưng nhóm đã không thu thập đủ thông tin về các hành tung của Mashal, chẳng hạn như họ không biết rằng đôi khi ông ấy đi cùng con mình khi tài xế đưa chúng đến trường vào buổi sáng. Đó chính xác là những gì ông ta đã làm vào ngày 25 tháng 9, ngày cuối cùng có thể thực hiện chiến dịch. Tệ hơn nữa, những đứa trẻ nhỏ ngồi thấp ở hàng ghế sau xe, và đội giám sát hoàn toàn không nhìn thấy chúng.
10h35 xe đến TTTM. Jerry ra khỏi xe giám sát và ra hiệu cho hai đặc vụ đang đợi với soda và chất độc để bắt đầu chiến dịch. Không ai mang theo bất kỳ thiết bị liên lạc nào, một biện pháp phòng ngừa được thực hiện để nếu có sự cố xảy ra, các đặc vụ sẽ không có bất kỳ thiết bị buộc tội nào trên người. Nhưng điều đó có nghĩa là cũng không có cách nào để bảo họ hủy bỏ hành động. Một khi đã bắt đầu, không có cách nào để hủy bỏ nhiệm vụ.
Mashal ra khỏi xe và bắt đầu đi về phía văn phòng của mình, hai đặc vụ Lưỡi Lê theo sau. Lẽ ra người lái xe phải tiếp tục đưa các con của Mashal đến trường nhưng cô con gái nhỏ của ông không muốn rời xa cha mình. Cô ấy nhảy ra khỏi xe và chạy theo ông, gọi to, “Ya baba, Ya baba,” tiếng Ả Rập có nghĩa là “Này, bố!” Người tài xế chạy theo cô bé. Jerry đã nhìn thấy những gì đang xảy ra, nhưng những sát thủ thì không. Anh cố gắng ra hiệu cho họ dừng lại, nhưng vào đúng thời điểm đó, họ đã ở phía sau một khung tò vò của cung đường mái vòm và không thể nhìn thấy anh ta.
Họ đến gần Mashal, và một người nâng hộp thuốc độc được dán vào lòng bàn tay và chuẩn bị xịt vào gáy Mashal. Người kia bắt đầu khui lon Coca. Ngay lúc đó, người lái xe đuổi theo cô bé đã nhìn thấy Mashal và nghĩ rằng người đàn ông đang giơ tay phía sau ông định đâm ông ta bằng dao. Anh hét lên, “Khaled, Khaled!” Mashal nghe thấy người tài xế và con gái gọi liền quay lại. Luồng chất độc bắn thẳng vào tai ông ta, thay vì vào gáy.
Chất độc vẫn sẽ có hiệu quả như thường, nhưng vỏ bọc của họ đã bị thổi bay. Mashal, thấy mình đang đối mặt với một gã đã xịt thứ gì đó từ một ống kỳ lạ vào mặt mình, ngay lập tức hiểu rằng tính mạng của mình đang gặp nguy khốn. Ông ta bắt đầu chạy khỏi hai đặc vụ Lưỡi Lê. Người tài xế bế cô bé chạy trở lại xe. Những sát thủ cũng bỏ chạy, ném ống thuốc độc và lon nước ngọt vào thùng rác trên đường đến ô tô tẩu thoát.
Danny Yatom cho biết các đặc vụ đã không hành động thích hợp. “Giả định cơ bản của chiến dịch là nó phải lặng lẽ, là mục tiêu không hay biết mình đã bị tấn công. Các đặc công đã ngang nhiên chống lệnh của tôi. Tôi đã nói rõ ràng, cả bằng văn bản và bằng lời nói, trong hai lần kiểm tra quá trình luyện tập của họ, rằng nếu có bất kỳ ai ở bên cạnh Mashal, thì họ không được tiếp tục. Tuy nhiên, họ đã làm. Đó là lý do cho sự thất bại: thực hiện do quá kích động, trong những điều kiện rõ ràng cho thấy không nên thực hiện.”
Lý tưởng nhất là một đội Caesarea thứ hai đã được triển khai gần đó, chờ để đánh lạc hướng nếu cần. Nhưng không có. Tệ hơn nữa, một gã có tên Muhammad Abu Seif, một chiến binh du kích được đào tạo và là người chuyển phát nhanh vũ khí và tiền tệ của Hamas, tình cờ đi ngang qua khi vụ việc xảy ra. Abu Seif không hiểu ngay chuyện gì đang xảy ra, nhưng việc chứng kiến ông sếp của mình chạy một đường còn hai tên lạ mặt chạy một nẻo là một manh mối rõ ràng. Gã đuổi theo hai người Israel cho đến khi họ lên xe và ghi biển số xe khi họ lái đi.
Người lái xe Israel nhìn thấy Abu Seif ghi số xe và nói với hai đặc vụ. Chiếc xe bị kẹt trong dòng xe cộ đông đúc và rẽ phải vào một con đường bên cạnh rồi lại rẽ phải hai lần. Khi họ nghĩ rằng mình đã ở đủ xa hiện trường, các đặc vụ bảo tài xế dừng lại. Vì chiếc xe đã bị phát hiện, họ nghĩ rằng tốt nhất là nên vứt nó đi, mặc dù, nhận định lại, rõ ràng là cảnh sát Jordan sẽ phải mất hàng giờ để tổ chức tìm kiếm. Nhưng người Israel không nhận ra rằng Abu Seif ngoan cường đã trưng dụng một chiếc ô tô và vẫn đang theo dõi họ. Gã đến ngay khi hai đặc vụ bắt đầu đi về hai hướng riêng biệt, một người đang ở bên kia đường.
Abu Seif là một chuyên gia chiến đấu tay đôi, được huấn luyện trong các trại mujahideen ở Afghanistan. Gã tấn công người Israel gần mình nhất, hét lên rằng y thuộc tình báo Israel và rằng y đã cố giết thủ lĩnh của Hamas. Đặc vụ thứ hai liền phóng trở lại và đấm vào đầu Abu Seif. Abu Seif choáng váng và chảy máu, nhưng thay vì bỏ chạy, những đặc vụ Israel ở lại bóp cổ gã đến bất tỉnh.
May mắn đã đứng về phía Hamas vào ngày hôm đó. Tình cờ, một cựu du kích của Quân đội Giải phóng Palestine và hiện là đặc vụ an ninh người Jordan tên là Saad al-Khatib đang ngồi trên một chiếc taxi đi ngang qua. Anh ta nhìn thấy đám đông đang xem hai người nước ngoài bóp cổ một người địa phương liền bảo tài xế dừng lại và đợi trong khi anh ta đi tách họ ra. “Một trong số họ đã nhặt một tảng đá lớn và định đập xuống đầu Abu Seif,” al-Khatib nói.
“Tôi nhảy lên người y, vật y xuống, rồi ngồi đè lên ngực y và cố gắng kiềm chế y.” Sau đó, anh ta nói với hai người Israel rằng anh ta sẽ đưa họ đến đồn cảnh sát. Sợ rằng mình có thể bị hành hình bởi đám đông tò mò đang bu quanh, hai đặc vụ đồng ý đi với anh ta mà không gặp khó khăn gì. Trong khi đó, những người ngoài cuộc đã giúp Abu Seif lên taxi — al-Khatib bảo gã ngồi phía trước — và ai đó đã cho gã mượn điện thoại di động để gọi cho Mashal.
Các đặc vụ của Mossad tự tin rằng danh tính vỏ bọc của mình sẽ có giá trị khi bị thẩm vấn. Tại đồn cảnh sát, họ xuất trình hộ chiếu Canada và nói với cảnh sát rằng họ là khách du lịch đến thưởng ngoạn các điểm tham quan của Jordan thì bất ngờ, giữa đường, họ bị “thằng điên đó” vồ lấy. chỉ vào Abu Seif, đã tấn công họ không lý do.
Nhưng sau đó họ bị khám xét, và nhà chức trách tìm thấy, trên cánh tay của một đặc vụ, những miếng băng không che vết thương nào—những miếng băng dính đã giữ dính thiết bị siêu âm. Họ đã bị bắt. Họ sử dụng các cuộc điện thoại trong tù để liên lạc với “người thân ở nước ngoài”.
Hai giờ sau khi họ bị bắt, lãnh sự Canada ở Amman đã đến đồn cảnh sát. Ông bước vào phòng giam của họ và hỏi họ đã lớn lên ở đâu và một số câu hỏi khác về Canada. Sau mười phút, ông ta bước ra và nói với những người Jordan, “Tôi không biết họ là ai. Nhất là không phải người Canada.”
Mashal, vẫn ở văn phòng của mình, đã gọi cho hai đồng nghiệp ở Hamas, Musa Abu Marzook và Muhammad Nazal. Họ quyết định đưa ra một tuyên bố nói rằng Mossad đã cố gắng giết Mashal, và rằng Tòa án Hoàng gia Jordan đã đồng lõa trong âm mưu này. Trong khi họ đang nói chuyện, Mashal bắt đầu cảm thấy rất yếu và buồn ngủ. Chất độc đã ngấm vào máu ông ta. Các đồng nghiệp và một số vệ sĩ đã vội vã đưa ông đến bệnh viện.
Trong vài giờ nữa ông ta sẽ chết.
__
DĨ NHIÊN, CUỘC GỌI MÀ những đặc vụ Lưỡi Lê bị bắt là dành cho các đồng đội Mossad của họ. Một trong số đó, một nữ đặc vụ, ngay lập tức đến InterContinental để báo cáo với Ben-David, đang ngồi trong bộ đồ bơi cạnh một hồ bơi tráng lệ trong sân rộng của khách sạn, đọc cuốn Bắt Trẻ Đồng Xanh của Salinger. Ông nói: “Từ khuôn mặt của cô ấy, tôi có thể biết rằng có điều gì đó rất không ổn. “Chúng tôi trao đổi vài lời, và tôi nhận ra rằng một sự cố nghiêm trọng đã xảy ra.” Theo kế hoạch ban đầu, đáng lẽ cả đội sẽ bay ra khỏi Amman để đến các điểm đến khác nhau, nhưng sau những gì đã xảy ra, chắc chắn người Jordan sẽ theo dõi sát sao sân bay.
Ben-David đã gọi điện cho trụ sở của Mossad, ở Tel Aviv, và được chỉ thị thu thập tất cả các thành viên của đội từ nơi ẩn náu của họ và đưa họ đến đại sứ quán Israel.
Thật tình cờ, tin tức về vụ bắt giữ các đặc vụ đã đến trụ sở của Mossad trong khi thủ tướng đang ở đó, chúc các nhân viên của cơ quan một lễ Rosh Hashanah vui vẻ. Ông Netanyahu sẽ có bài phát biểu và hàng trăm người đã tập trung lại để chờ buổi lễ bắt đầu. Ngay khi đó, Yatom báo tin xấu cho thủ tướng.
Hai người quyết định tiếp tục như không có chuyện gì xảy ra. Hầu như tất cả nhân viên của Mossad đều không biết về cuộc khủng hoảng và Netanyahu muốn truyền tải một thông điệp về nhiệm vụ an ninh như thường lệ. Ông ấy nói ngắn gọn, cảm ơn nồng nhiệt các nhân viên vì sự đóng góp của họ cho an ninh của đất nước, sau đó vội vã cùng Yatom đến văn phòng giám đốc.
Ông ta ra lệnh cho Yatom bay ngay đến Amman và nói với Vua Hussein chuyện gì đã xảy ra. Yatom phải làm “mọi thứ cần thiết” để bảo đảm hai đặc vụ được thả ra. “Và nếu cần phải cứu mạng Mashal,” Netanyahu nói với Yatom, “thì hãy để họ làm như vậy.”
Yatom đã được nhà vua tiếp kiến. Hussein choáng váng và giận dữ bước ra khỏi phòng. Yatom kể lại rằng “chính [giám đốc tình báo Jordan, tướng Samih] Batihi đã khiến nhà vua tức giận, vì cá nhân ông ta đã xúc phạm tôi. Nếu không có ông ta, chúng tôi đã có thể giải quyết vấn đề với nhà vua một cách lặng lẽ hơn nhiều và với mức giá thấp hơn nhiều.
“Trong các cuộc thảo luận, Batihi bắt đầu phàn nàn với tôi vì đã không báo với ông ấy, nói rằng chúng tôi có thể cùng nhau lên kế hoạch cho chiến dịch, vân vân và vân vân. Đó là điều hoàn toàn vô nghĩa. Chúng tôi đã nhiều lần yêu cầu người Jordan kiềm chế Hamas nhưng họ không làm gì cả. Rabin đã nhiều lần chỉ trích họ gay gắt, nhưng chẳng ích gì. Đó là lý do tại sao chúng tôi không bao giờ chia sẻ kế hoạch về Mashal với họ.”
Vào thời điểm đó, sức khỏe Mashal đang xấu đi nhanh chóng và các bác sĩ tại Bệnh viện Hồi giáo đã bó tay. Giám đốc Văn phòng Riêng của Vua Hussein, Ali Shukri, đến hỏi thăm tình hình của ông ta, và các đồng nghiệp của Mashal đã mắng mỏ anh ta, buộc tội anh ta tham gia vào một âm mưu giết người. Được lệnh của nhà vua phải tìm mọi cách để cứu mạng Mashal, Shukri đã chuyển ông ta đến Cánh Hoàng gia tại Bệnh viện Quân đội Queen Alia. Ban đầu, các đồng đội của Mashal từ chối vì sợ rằng Hussein đang lên kế hoạch giết Mashal cho xong, nhưng cuối cùng họ đồng ý chuyển đi, miễn là họ có thể túc trực bên giường bệnh của ông ấy, được bao quanh bởi lực lượng an ninh của Hamas và được giải thích mọi chi tiết về cách điều trị ông ấy cho họ biết.
Bác sĩ Sami Rababa, bác sĩ riêng của Hoàng gia, một đại tá quân y của quân đội Jordan, và là một trong những bác sĩ nổi tiếng nhất trong nước, đã được triệu tập. Ông ta chỉ biết mơ hồ về Mashal là ai và biết rất ít về Hamas. “Nhưng từ sự nhộn nhịp xung quanh bệnh viện,” ông ấy nói, “và thực tế là Ali Shukri đã ở đó, tôi hiểu rằng đây là một vị khách rất quan trọng và việc ông ấy được chữa khỏi bệnh là điều rất quan trọng đối với nhà vua.”
Mashal, vẫn còn rất bàng hoàng, kể cho Rababa những gì đã xảy ra bên ngoài văn phòng của mình. Khi nói, ông ấy liên tục ngủ gật và các nhân viên y tế phải liên tục đánh thức ông ấy. Sau đó, Rababa nhận thấy rằng lúc Mashal ngủ ông đã ngừng thở. “Rõ ràng là chúng tôi phải giữ cho ông ấy tỉnh táo nếu không ông ta sẽ ngủ thiếp đi và chết ngạt,” ông nói.
Các bác sĩ đã bắt Mashal đứng dậy và đi lại, nhưng điều đó chỉ giúp ích được một thời gian ngắn. Họ cho ông uống naloxone, thường được sử dụng để chống lại một số loại thuốc phiện, nhưng tác dụng nhanh chóng biến mất và yếu đi sau mỗi liều mới. Rababa bèn nối Mashal với máy thở—nếu họ không thể giữ cho ông ấy tỉnh táo, thì ít nhất một chiếc máy có thể giúp ông ta thở.
Không ai muốn Mashal chết. Vua Hussein lo sợ một cách chính đáng rằng cái chết của một thủ lĩnh Hamas sẽ gây ra bạo loạn trong vương quốc của mình, thậm chí có thể là một cuộc nội chiến. Netanyahu và Yatom biết rằng Hussein sau đó sẽ buộc phải xét xử và hành quyết hai tù nhân. Hơn nữa, họ biết rằng tình báo Jordan đã nghi ngờ một cách chính xác rằng các thành viên khác của đội Lưỡi Lê vẫn đang trú ẩn trong đại sứ quán Israel. Một tiểu đoàn biệt kích Jordan đang túc trực, chuẩn bị tấn công, dưới sự chỉ huy của con trai Hussein, Hoàng tử Abdullah, vị vua tương lai. Vua Hussein muốn lên tiếng rõ rằng là mình rất coi trọng vụ việc.
Mọi người đều biết rằng một loạt sự kiện tồi tệ như vậy chắc chắn sẽ phá hủy mọi mối quan hệ giữa Jordan và Israel.
“Suốt thời gian đó,” Ben-David nói, “Tôi đi loanh quanh với thuốc giải độc, mà chúng tôi không cần đến, bởi vì không ai trong chúng tôi bị ảnh hưởng… Sau đó, tôi nhận được cuộc gọi từ chỉ huy của Caesarea. Lúc đầu, vì những gì anh ấy nói quá tuyệt vời, tôi nghĩ rằng mình đã nghe nhầm. Tôi yêu cầu anh ấy nói lại lần nữa.
HH bảo Ben-David đến sảnh khách sạn, nơi anh ta sẽ gặp một đại úy tình báo Jordan và cùng y đến bệnh viện. Ben-David hiểu rằng một thỏa thuận được dàn xếp vội vàng đã được thực hiện: mạng sống của Mashal đổi lấy mạng sống của hai đặc vụ Mossad. Nói cách khác, Ben-David đi xuống hành lang để cứu sống một kẻ mà anh ta và nhóm của mình đã cố gắng giết chỉ vài giờ trước đó.
Ben-David nói: “Chúng tôi đang ở trong một tình thế khó khăn. “Nhưng trong những tình huống như thế, bạn không thể dành quá nhiều chỗ cho cảm xúc của mình. Bạn không thể nói, ‘Ồ, chúng tôi đã làm hỏng việc và cứ để họ xuống địa ngục.’ Không. Bạn làm những gì bạn phải làm – bạn thực hiện theo cách tốt nhất có thể, và chỉ có thế. Không có chỗ cho cảm xúc trong tình huống như thế này.”
Ben-David đi đến sảnh đợi, nơi một đại úy Jordan đang đợi anh ta. “Tôi vẫn nhớ cái nhìn thù địch của y. Nhưng y cũng có mệnh lệnh của mình, và phải thực hiện chúng.” Yatom đã bảo Tiến sĩ Platinum và Ben-David đi cùng viên đại úy cảnh sát đến bệnh viện và tiêm cho Mashal mũi tiêm có thể cứu sống anh ta. Nhưng người Jordan đã từ chối.
Đặc vụ Platinum được đưa đến văn phòng của Bác sĩ Rababa. “Cô ấy nói rằng cô ấy là một phần của chiến dịch, nhưng chỉ làm nhiệm vụ đối với đặc vụ chạm vào chất độc,” Rababa nhớ lại, “và rằng cô ấy hoàn toàn không biết mục đích của nhiệm vụ là gì. Cô ấy đặt hai ống thuốc lên bàn của tôi. Tôi ra lệnh kiểm tra chúng trong phòng thí nghiệm. Chúng tôi không thể dựa vào những gì họ nói. Có lẽ họ chỉ muốn hoàn thành công việc.”
Rababa duy trì phong thái chuyên nghiệp của mình đối với Platinum, phù hợp với cấp bậc y tế và quân sự của anh ấy. Nhưng bên trong, ông ta rất tức giận. “Theo tôi, y học không nên được sử dụng để giết người,” ông nói. “Và người Israel làm điều đó hết lần này đến lần khác.”
Sau đó, Mashal đã hồi phục nhanh chóng. Yatom trở về Israel cùng với hai sát thủ và Ben-David. Hai người báo cáo rằng họ đã bị đánh đập dã man nhưng không cung cấp bất kỳ thông tin nào.
Nhưng Vua Hussein không bằng lòng sự việc đến đó. Ông nói với người Israel rằng thỏa thuận mà họ đã thực hiện chỉ bao gồm hai tù nhân và người Israel sẽ phải trả giá cao hơn để có được phần còn lại của đội – sáu thành viên Lưỡi Lê trốn trong đại sứ quán. Trong khi đó, ông đã đình chỉ mọi quan hệ với Israel.
Netanyahu đã tham khảo ý kiến của Efraim Halevy, một cựu chiến binh của Mossad, người từng là phó giám đốc của cơ quan này và là đại sứ của Israel tại Liên minh châu Âu vào thời điểm đó. Halevy, sinh ra ở London, người đã dành phần lớn thời gian của mình trong bộ phận quan hệ đối ngoại của Mossad trong Cosmos, là một người hay tranh cãi, nhưng chắc chắn là một nhà ngoại giao tài giỏi và sắc sảo, biết cách cư xử với các nhà cai trị và các vị vua. Ông ấy đã đóng một vai trò quan trọng trong việc ký kết hiệp ước hòa bình Israel-Jordan năm 1994, và ông ấy biết rõ về Hussein. Nhà vua cũng kính trọng ông ta.
Sau cuộc gặp với Hussein, Halevy nói với Netanyahu và Yatom rằng để trả tự do cho sáu đặc vụ, họ sẽ phải trả cho người Jordan một khoản chuộc lớn, “đủ để nhà vua có thể công khai bảo vệ việc thả nhóm sát thủ.” Đề xuất của ông ấy là thả người sáng lập Hamas, Sheikh Ahmed Yassin ra khỏi tù, nơi ông ta đang thụ án chung thân vì vai trò của mình trong các cuộc tấn công khủng bố chống lại Israel.
Theo Halevy, đề xuất này đã vấp phải “sự phản đối kịch liệt, từ Thủ tướng Netanyahu cho đến những người điều hành cuối cùng của tổ chức.” Người Israel đã phải chịu đựng những vụ bắt cóc, giết người và tấn công khủng bố, tất cả đều được thiết kế để khiến họ sợ hãi phải thả Yassin, cuộc tranh luận đã diễn ra. Còn bây giờ họ được yêu cầu phải nhượng bộ chỉ vì điều kiện của Vua Hussein?
Netanyahu đã tham khảo ý kiến của giám đốc Shin Bet Ami Ayalon, người đã gọi chuyên gia hàng đầu của mình về Hamas, Micha Kubi, và hỏi ý kiến của ông. Kubi giận dữ đáp lại. “Đừng để ý đến những lời đe dọa của Hussein. Cuối cùng, ông ta sẽ không còn lựa chọn nào khác ngoài việc để các đặc vụ ra đi, bằng cách này hay cách khác. Nếu ngài trả tự do cho Yassin, kẻ đáng bị giam cầm đến thối rữa, hắn sẽ quay trở lại Gaza và xây dựng một Hamas khủng khiếp hơn bất cứ thứ gì chúng ta từng biết cho đến nay.”
Ayalon đã chuyển thông điệp này tới Netanyahu. Nhưng Halevy đã có sức thuyết phục, và dần dần, khi di chuyển bằng trực thăng giữa Jerusalem, Tel Aviv và Amman, ông đã thuyết phục được thủ tướng rằng không còn lựa chọn nào khác. Netanyahu hiểu rằng ông đang vướng vào một cuộc khủng hoảng lớn và trước hết, ông phải đặt ra các ưu tiên của mình: Ông muốn đưa những người đặc vụ Caesarea trở về nhà. Cách ông Netanyahu quản lý cuộc khủng hoảng Mashal một cách bình tĩnh và tự tin, kể từ thời điểm ông biết rằng các đặc vụ đã bị bắt, là một trong những giờ tuyệt vời nhất của ông với tư cách là người lãnh đạo Nhà nước Israel.
Cuối cùng, một thỏa thuận đã được ký kết: Yassin và một số lượng lớn tù nhân Palestine khác, bao gồm một số người có liên quan đến vụ sát hại người Israel, được trả tự do, để đổi lấy việc cho phép sáu đặc vụ của Mossad trở về Israel.
Thỏa thuận này một lần nữa thể hiện cam kết và sự hy sinh to lớn mà Israel đã thực hiện để đưa binh lính của mình về nước từ sau chiến tuyến của kẻ thù.
Thỏa thuận đến với một chi phí lớn. Chiến dịch thất bại ở Jordan đã vạch trần một số phương thức hoạt động của Mossad và thổi bay vỏ bọc của toàn bộ đội Lưỡi Lê, đội giờ phải được xây dựng lại. Israel phải mất nhiều năm để chỉnh đốn những thiệt hại gây ra cho mối quan hệ mong manh và quan trọng với Vương quốc Hashemite. Một sự hòa giải chính thức giữa Hussein và Netanyahu chỉ diễn ra vào cuối năm 1998, trong chuyến thăm lẫn nhau tới Hoa Kỳ. Vụ Mashal cũng lôi kéo Israel vào các tình huống ngoại giao khó xử với Canada và các quốc gia khác có hộ chiếu đã bị đội tấn công lạm dụng. Một lần nữa, Israel phải xin lỗi và hứa như một đứa trẻ bị quở mắng, không tái phạm.
Các hội đồng điều tra bên trong và bên ngoài được thành lập sau vụ việc đã phát hiện ra nhiều lời khai mâu thuẫn nhau về những người đã biết và ai đã ủy quyền hoạt động. Netanyahu và Mossad khẳng định rằng họ đã thông báo cho tất cả các nhân viên có liên quan, nhưng Bộ trưởng Quốc phòng Yitzhak Mordechai, người đứng đầu AMAN Moshe Yaalon và giám đốc Shin Bet Ayalon đều tuyên bố rằng họ không biết trước về hoạt động này, ngoại trừ một tham chiếu chung về ý tưởng phải giết Mashal được thực hiện nhiều tháng trước đó tại một cuộc họp của các chỉ huy tình báo, nơi nó được mô tả chỉ là một trong nhiều khả năng có thể xảy ra.
Ayalon đã chỉ trích gay gắt toàn bộ hoạt động, thậm chí cả động cơ của nó: “Khaled Mashal không phải là một thành viên của nhóm hoạt động khủng bố. Do đó, ngay từ đầu, anh ta không phải là một mục tiêu hợp pháp. Mashal ít tham gia vào hoạt động quân sự của Hamas hơn một bộ trưởng quốc phòng ở một quốc gia dân chủ.”
Một cuộc điều tra nội bộ của Mossad, do Tamir Pardo, người sau này trở thành giám đốc Mossad, soạn ra, đã đưa ra một trong những báo cáo nghiêm trọng nhất trong lịch sử của cơ quan. Nói một cách gay gắt, báo cáo đổ lỗi cho tất cả những ai tham gia vào việc lập kế hoạch và thực hiện chiến dịch. Các chỉ huy của Caesarea và Lưỡi Lê, Ben-David, các đặc vụ và một số người khác đều đến để chia sẻ những lời chỉ trích của họ. Không có một lĩnh vực nào bị ủy ban kiểm tra được cho là không có lỗi. Tuy nhiên, hội thảo chỉ đề cập ngầm đến vai trò của Yatom trong những thất bại này.
Người đứng đầu Caesarea, HH, đã từ chức. Jerry, mà tham vọng của anh đã từng phục vụ rất tốt cho HH, đã bị cách chức khỏi vị trí người đứng đầu Bayonet. Xấu hổ và cay đắng, anh rời tổ chức.
Trên hết, Yassin giờ đã là một người tự do. Toàn bộ mục đích giết Mashal là làm suy yếu Hamas, nhưng thay vào đó, người sáng lập và lãnh đạo tinh thần của nó hiện đã được phóng thích. Ông ta rời Israel đến các quốc gia vùng Vịnh, được cho là để điều trị y tế. Trên thực tế, ông ấy đã sử dụng các chuyến đi của mình để gây quỹ. Ông khoe khoang: “Một cuộc đối đầu lớn” với Israel sắp diễn ra.
Không có lý do gì để không tin ông ta.
Khaled Mashal đang hồi phục sau vụ đầu độc tại Bệnh viện Hoàng gia Amman
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét