Thứ Hai, 12 tháng 10, 2009

34 NĂM "GIẢI PHÓNG" - 33 NĂM TÙ ĐÀY


34 NĂM “GIẢI PHÓNG”, 33 NĂM TÙ ĐÀY!
Nguyễn Ngọc Quang
Sài Gòn ngày 06/10/2009
http://dangvidan.org/ddtt/58-58/1131-1131.html
Viết vì sư hối thúc của lương tâm, viết vì sự phẩn uất trước cái ác đê tiện và viết để đánh động lương tri. Lẽ ra tôi phải viết những dòng chữ này ngay từ ngày đầu tiên ra tù, nhưng không có phương tiện làm việc, đành phải ra mắt bạn đọc muộn vậy. Kính mong quý vị và anh Nguyễn Hữu Cầu lượng thứ.

Một số phận nghiệt ngã bị bách hại bởi một chế độ phi nhân, tàn độc mà có lẽ đến muôn nghìn kiếp sau tôi cũng không thể nghĩ được nó một thời hiện diện trên trái đất này: chế độ toàn trị Cộng Sản Việt Nam. Vâng, tôi muốn kể cho quý độc giả nghe một trong bốn mươi hai câu chuyện thương tâm mà tôi (vô phúc bị) mắt thấy tai nghe. Tôi muốn kể cho quý vị nghe sự thật về anh Nguyễn Hữu Cầu – một cựu đại úy Địa Phương Quân, Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, một trong 43 người bạn tù chính trị của tôi tại Khu Giam Riệng, phân trại K2, Z30A, Xuân Lộc, Đồng Nai.

Sau biến cố đau buồn 30/04/1975, anh Hữu Cầu bị cưỡng bách tập trung cải tạo như mọi quân nhân VNCH khác. Đến cuối năm 1981 thì được trả tự do. Sống được đúng 1 năm ở ngoài và gần cuối năm 1982 lại bị tù cho đến ngày hôm nay – 33 năm trong ngục tù Cộng Sản!

Anh Cầu quê ở Kiên Giang, là một trí thức có năng khiếu trong âm nhạc, thơ ca. Bức xúc trước những số phận nghiệt ngã của người dân và sự gian trá, giảo quyệt, thối nát đến tận cùng của Cộng Sản Việt Nam, anh đã sáng tác rất nhiếu bài thơ, bài ca và cả trường thi hơn 2000 câu (tôi không thể thuộc được). Sáng tác xong, anh thường đọc cho các bạn của mình là những bác sỹ, giáo viên ở Kiên Giang nghe, đồng thời ghi lại những tác phẩm đó trong một quyển sổ dày khoảng 500 trang. Linh tính về việc làm của mình có thể dẫn đến tù đày tiếp, anh Cầu đã ghi lại những tác phẩm của mình theo cách sau : Trang lẻ, anh Cầu ghi sáng tác của mình, còn trang chẵn (mặt sau của trang trước) anh Cầu ghi lại những tội ác tày đình một cách chi tiết của các quan chức tỉnh Kiên giang, anh và nhóm bạn mai phục, gặp gỡ, phỏng vấn nhân chứng mà có được. Anh Cầu làm việc này vì nghĩ rằng nếu bị bắt thu quyển nhạc, thì chúng không thể trưng ra bằng chứng đó trước tòa được, vì nó liên quan tới rất nhiều quan chức cấp cao của địa phương, kể cả phó chủ tịch tỉnh và Viện Trưởng Viện Kiểm Sát Nhân Dân Tỉnh Kiên Giang.

Ngày 09 tháng 10 năm 1982, anh Nguyễn Hữu Cầu bị bắt. Sau 5 tháng bị giam để điều tra, tòa án Kiên Giang mang anh Cầu ra xử với mức án tử hình với tội danh “Phá Hoại”. Thật may mắn, trong thời gian bị giam, anh Cầu được một người Công An điều tra xét hỏi cho biết là chính anh ta phải nhận nhiệm vụ giả chữ viết của anh Cầu để sao lại quyển sách của anh (mặt sau của các trang để trắng). Công việc được thực hiện trong 3 tháng mới hoàn tất. Và sau khi hoàn tất, anh sẽ bị xử chết ngay để bịt đầu mối. Biết được thông tin này, anh Cầu đã kiên quyết chối phăng đi và không thừa nhận quyển sách cùng những sáng tác của mình. Tuy vậy, anh Cầu vẫn bị xử tử hình. Một trong những người đã tham dự phiên tòa là ký giả độc lập Trương Minh Đức – đảng viên Đảng Vì Dân, người đã ở tù chung với tôi và hiện đang bị giam chung với anh Nguyễn Hữu Cầu. Sau đó, anh Cầu đã kháng án, và nhờ trợ giúp của người nhà, anh đã gặp được luật sư Trần Thời Vượng, một luật sư già sắp về hưu. Ông Vượng nói với anh Cầu là ông muốn làm một việc gì đó có ý nghĩa trước khi về hưu. Nhờ ông Vượng mà quyển sách được đem đi giám định hình sự tại Sài Gòn. Cơ Quan Giám Định Hình Sự bộ Nội Vụ kết luận : Quyển sách không phải do anh Nguyễn Hữu Cầu viết ra. Tuy thế, để binh vực lẫn nhau, tòa phúc thẩm Tp Hồ Chí Minh vẫn không xử anh được trắng án mà giảm xuống chung thân.

Tôi thật sự phẩn nộ khi được đọc bản Cáo Trạng của Viện Kiểm Sát Nhân Dân tỉnh Kiên Giang sáng tác ra để buộc tội anh Nguyễn Hữu Cầu. Tôi không còn nhớ nguyên văn, nhưng tôi đoan chắc và hoàn toàn chịu trách nhiệm về một số nội dung trong bản Cáo Trang buộc tội anh Cầu mà tôi đã đọc được. Xin hỏi quý vị - đặc biệt là các Phật Tử, có ai không biết Đức A Nan và Ca Diếp đệ tử của Đức Thích Ca Mâu Ni lúc Ngài còn tại thế? Ấy vậy mà trong bản Cáo Trạng buộc tội anh Nguyễn Hữu Cầu, Viện Kiểm Sát Nhân Dân (lại Nhân Dân!) đã viết : Tên Nguyễn Hữu Cầu đã cấu kết với những tên A Nan và Ca Diếp để nhằm mục đích hoạt động phá hoại chế độ. Nay tên Ca Diếp đã vượt biên, còn tên A Nan đang trốn tại Khánh Hòa, khi nào truy nã được thì sẽ xét xử sau.

Nhân tiện đây tôi xin thưa với quý ông Viện Kiểm Sát Nhân Dân Tỉnh Kiên Giang thời đó (1982), và quý ông Cộng Sản thời nay. Tôi xin mách cho các ông biết nơi ẩn náu của hai “tên” Ca Diếp và A Nan để quý ông dễ dàng bắt giữ mà khỏi mất công phải truy nã nữa, mệt lắm! Họ đang ở tỉnh Cực Lạc, nước Niết Bàn. Muốn qua đó thì mời quý ông qua Tây Trúc mua vé nhé! Hoặc có thể truy cập vào website sau để đăng ký, sẽ được công dân của nước Niết Bàn giao vé tới tận nhà :
samhoitoiloideduocsieuthoat.com

Tôi xin viết lại nguyên văn bài “Giọt Nước Mắt Chúa” do “tên” Nguyễn Hữu Cầu viết ca ngợi Đế Quốc Mỹ, mời quý Ki Tô hữu thưởng lãm : Lạy Cha chúng con ở trên Trời, chúng con nguyện danh Cha cả sáng, nước Cha chỉ đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời. Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày và tha nợ chúng con, như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con. Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng cứu chúng con cho khỏi sư dữ, A men!. Thật hết biết! Bài Kinh Lạy Cha để tôn vinh Đức Chúa Trời của tín đồ Ki Tô trên toàn thế giới, lại biến thành bài “Giọt Nước Mắt Chúa” trong Cáo Trạng buộc tội anh Cầu của Viện Kiểm Sát Nhân Dân Tỉnh Kiên Giang. Cáo Trạng Viết : Tên Nguyễn Hữu Cầu đã sáng tác ra bài hát “Giọt Nước Mắt Chúa” với ý thức còn mơ tưởng đến sự trở lại của Đế Quốc Mỹ, tên Cầu đã ví Đế Quốc Mỹ như là cha để cầu xin bơ thừa sữa cặn, (xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày). Còn rất nhiều điều thực sự ngu dốt đến thương hại của một cái gọi là “Bản Cáo Trang” ấy, trong tinh thần của bài viết tôi không thể đưa ra. Nếu có thể được, quý độc giả sẽ tận mắt mục kích nó trong một ngày gần đây.

Trong thời gian ở trại tù Z30A, anh cầu đã được Linh Mục Nguyễn Công Đoan, Giám Đốc Giòng Tên, cùng ở tù chung với anh Cầu, rửa tội để trở thành Kitô hữu - một trong những lý do không được giảm án hay ân xá. Đi theo lời kêu gọi của lương tâm và tinh thần của một Kitô hữu, anh cầu đã đấu tranh không khoan nhượng với những tội ác mà CSVN thông qua những bàn tay nhuốm máu của các cai tù, côn đồ, hành xử với tù nhân chính trị và tù nhân lương tâm. Cụ thể, trong thời gian 28 năm ở trại tù Z30A, anh Cầu đã làm gần 500 lá đơn tố cáo ban Giám Thị trại giam tổ chức mại dâm, buôn bán ma túy, dùng giang hồ khủng bố tù chính trị, sản xuất rượu và pháo lậu, quản giáo đánh đập và giết tù nhân, trại đã chủ trương giết tù nhân chính trị bằng cách cố tình cho lây nhiễm HIV - trại giam không cho sử dụng dụng cụ hớt tóc và dao cạo râu, mà do một tù hình sự, đến kỳ (một. tháng một lần) sẽ vào hớt tóc và cạo râu cho họ và chỉ được dùng duy nhất một lưỡi dao lam cũ, do tù nhân hình sự ấy đưa vào. Thông qua lưỡi dao này, trại giam đã truyền HIV vào tù nhân chính trị - Nhân chứng sống còn chưa chết (nhưng rồi sẽ phải chết), đã bị nhiễm HIV bằng con đường này là anh Đổ Văn Thái (nằm sát với tôi trong phòng giam), hiện đang bị giam tại Khu Giam Riêng, K2, trai giam Z30A Xuân Lộc, Đồng Nai.

Vì sợ sự thật sẽ được phơi bày ra anh sáng công luận. Nhà Cầm Quyền Cộng Sản Việt Nam mà cụ thể là Trại giam Z30A, Xuân Lộc, Đồng Nai đã biệt giam anh Cầu hơn 3 năm (tôi không nhớ chính xác thời gian). Trong thời gian đó, anh Cầu không tiếp xúc được bất kỳ ai ngoài cán bộ quản giáo và người tù hình sự đưa cơm hằng ngày. Trong 3 năm ấy, may mắn sao anh không bị bệnh nguy hiểm đến tính mạng, nhưng đôi mắt anh đã bị mù. Đến cuối năm 2007 anh mới được đưa lên bện viện Chợ Rẫy trị mắt – nhưng chỉ được một con. Cách nhốt biệt giam một người tù như thế, nhằm mục đích để bệnh hoạn giết đi một cách gián tiếp. Tôi không thể tưởng tượng ra được, đâu đó trên trái đất này có ai hành xử với đồng loại như thế không ?.

Tội ác của Cộng Sản không sao kể xiết. Gia đình tôi là một trong hàng triệu triệu nạn nhân. Tôi đã biết nhiều qua chứng kiến, đọc, nghe mẹ và nhiều người kể. Ở đây tôi không muốn nhắc tới nữa, vì đã có quá nhiều người viết lên rồi. Tuy nhiên, tôi muốn nói cho những người Cộng Sản biết một sự thật hiển hiện rằng : Với tinh thần hòa hiếu, vị tha của tâm hồn Việt, phù hợp với trào lưu vươn tới Hòa Bình, Bác Ái và Sự Thánh Thiện trên khắp hoàn cầu ngày nay. Người dân Việt có thể tha thứ cho các tội ác mà quý vị đã gieo rắc, nhưng không bao giờ họ quên đi tội ác ấy. Chỉ có một cách duy nhất để làm phai mờ dần những ký ức về tội ác của quý vị trong tâm hồn Việt. Đó là hãy nhìn thẳng vào sự thật, vượt qua nỗi sợ hãi của chính mình mà trở về với Mẹ, sà vào lòng Mẹ mà ăn năn tội và xin Mẹ tha thứ - Mẹ Việt Nam muôn vàn thân yêu và đầy lòng bác ái của chúng ta.

Tôi đang giữ ĐƠN XIN BÁO CÁO BỔ SUNG của anh Nguyễn Hữu Cầu viết gởi ông chánh án Tòa Án Tối Cao.
Xin mời quý độc giả ghé mắt :
http://dangvidan.org/images/stories/Don_NguyenHuuCau_1.jpg
http://dangvidan.org/images/stories/Don_NguyenHuuCau_2.jpg

Sở dĩ có khổ giấy dài như thế là vì trong tù, tù nhân chính trị không được sử dụng giấy và viết. Viết và giấy có được là do lượm lặt, cất giấu và dán lại mà có.

Điều đáng nói ở đây là một Đảng, một Nhà Nước đương đại trong thế hội nhập toàn cầu, đã từng đặt bút ký vào nhiều công ước, hiệp ước đầy tính nhân văn của Liên Hiệp Quốc. Ấy vậy mà đã hành xử tàn bạo đến man rợ như thế. Cộng Sản Việt Nam đã chà đạp lên lương tri Nhân Loại, coi thường Công Pháp Quốc Tế, Công Ước Liên Hiệp Quốc về Quyền Con Người, mà chính họ đã đặt bút ký vào. Cộng Sản Việt Nam đã không ngần ngại nhào nặn Lịch Sử, xuyên tạc sự thật và bức tử chính Hiến Pháp do họ soạn thảo ra để triệt tiêu bằng được tất cả những người Việt yêu nước chân chính.

Tôi khẩn cầu người Việt yêu nước trên toàn thế giới hãy lên tiếng. Mong các quốc gia dân chủ, Liên Hiệp Quốc và các tổ chức nhân quyền Quốc tế, có biện pháp hữu hiệu để buộc Nhà Cầm Quyền Cộng Sản Việt Nam thả anh Nguyễn Hữu Cầu và những người bất đồng chính kiến đang bị giam giữ trên toàn lãnh thổ Việt Nam vô điều kiện.

Nguyễn Ngọc Quang
Sài Gòn ngày 06/10/2009

MẬT THƯ TỘI ÁC of CHỦ NGHĨA CỘNG SẢN (2)


Có ba lý do che giấu tội ác của Cộng sản :

1. Trước hết là vấn đề liên hệ đến ý thức cách mạng. Cho tới ngày nay nhiều người vẫn còn sùng bái ý niệm cách mạng của giữa thế kỷ thứ 19. Các biểu tượng như lá cờ đỏ, bài quốc tế ca, nắm tay dơ lên cao, có dịp xuất hiện khi có sự tranh chấp xã hội. Hình ảnh Che' Guerava trở thành cái mốt thời trang. Nhiều nhóm người làm cách mạng , sinh hoạt công khai ,lên tiếng phản đối những ai chỉ trích về tội ác của những người làm cách mạng đi trước. Họ không ngần ngại đọc các bài diễn văn ca tụng những tội phạm như Lenine, Staline, Mao,.. Có rất nhiều tác giả viết nhiều sách ca tụng và tin tưởng vào những lời tuyên truyền của Cộng sản.

2. Lý do thứ hai của hành động che dấu tội ác của Cộng sản là bởi Sô Viết đã tham gia vào cuộc chiến tranh chống Hitler và đã chiến thắng. Đó là cơ hội để cho những người Cộng sản chính thức đeo mặt nạ của những người ái quốc lương thiện hòng đạt cho kỳ được mục tiêu tối hậu là nắm lấy chính quyền.Từ đầu tháng 6 năm 1941, khi quân Đức xua quân xâm chiến lãnh thổ Sô Viết, tất cả các đảng viên đảng Cộng sản ở các quốc gia bị Đức chiếm đóng, đồng loạt đứng lên, chiến đãu vỏ trang chống lại Quốc Xã Đức hay Phát xít Ý. Những người Cộng sản cũng đã chịu cùng số phận của các tổ chức chính trị khác. Hàng ngàn đảng viên Cộng sản bị hành hung, bắt giam, lưu đày lao động khổ sai hay bị xử bắn. Cộng sản đã thần tựơng hoá những đảng viên bi tù đày hay bị xử bắn để nâng cao lý tưởng của chúng và còn dùng để chỉ trích những ai tố cáo tội ác của chúng. Ngoài ra, còn có rất nhiều người không phải là Cộng sản, cùng sát cánh với Cộng sản trong các cuộc chiến tranh chống ngoại xâm, không chịu mở mắt ra. Tại nước Pháp, quân của cánh De Gaulle vì cùng chung chống Đức quốc xã với quân của Xô Viết nên họ theo De Gaulle trở thành bộ phận của Xô Viết đối chọi với Hoa Kỳ.
Việc các người Cộng sản tham gia chống Phát xít được coi như là mẫu mực của phe tả. Những người Cộng sản tự coi mình là tiêu biểu của lực lượng chống Phát Xít. Nhân danh nhản hiệu chống Phát xít này, Cộng sản đã làm câm họng những ai chỉ trích họ.
Francois Furet đã nhấn mạnh rất nhiều về cái điểm cốt cán này. Đức Quốc xã thua trận, các nước gọi là điều ác. Những người Cộng sản chiến thắng Đức , đó là điều thiện. Trong tòa án Numberg, Cộng sản ngồi vào ghế biện lý. Chính nhờ vậy , họ đã che lấp các hoạt động xấu xa đối với gía trị dân chủ của các nước Tây phương. Cộng sản đã từng ký hòa ước với Đức quốc xã vào năm 1939, cùng với quân Đức tàn sát các sĩ quan Ba lan tại Katyn vào mùa xuân 1940. Nhân dân các quốc gia bị Đức chiếm đóng và được các nước Đồng Minh Anh , Hoa Kỳ giải phóng thì tỏ ra vô cùng biết ơn Hồng quân Nga và cùng chia sẻ với nhân dân Xô Viết về những sự mất mát vì chiến tranh. Ngành tuyên truyền của Cộng sản khai thát triệt để các sự kiện này.Đồng thời, bộ máy tuyên truyền của Cộng sản cũng tìm cách che dấu những tội ác của chúng gây nên tại các quốc gia chúng chiếm đóng. Các nước Tây Âu cũng như dân chúng trên toàn thế giới đâu biết những gì đã xảy ra. Sử gia đã chia các cuộc chiến giải phóng ra làm hai loại : Một là dân chủ hoá các quốc gia nằm trong khối Đồng Minh Tây Âu. Hai là thiết lập chế độ độc tài ở các quốc gia thuộc quyền kiểm soát của Hồng quân Nga. Ông Witold Gombrowicz diễn tả thảm cảnh của các quốc gia bị Hồng quân chiếm đóng như sau : '' Chiến tranh đã kết thúc nhưng không giải phóng cho người dân Ba lan. Tại khu vực đau khổ Trung Âu này, đó chỉ là sự thay đổi bóng tối này bằng một bóng tối khác. Các hung thủ của Staline đến thay các hung thủ của Hitler mà thôi. Trong khi đó, tại thủ đô Ba Lê của nước Pháp người ta ca hát chào mừng nhân dân Ba lan đã được giải phóng khỏi gông cùm phong kiến..''

3. Lý do thứ ba của sự che giấu tội ác rất tế nhị.
Sau năm 1945, sự kiện diệt chủng dân Do Thái đã trở thành một hiện tượng dã man hiện đại. Hiện tượng này xâm chiếm tất cả tâm tư của con người . Trước thế chiến, Cộng sản cho rằng họ không hề có hành động ngược đãi dân Do Thái. Và họ biết rất rõ là họ sẽ đạt được nhiều thắng lợi trên mặt tuyên truyền một khi họ khuyến khích phong trào chống Phát Xít. Gần đây, tại các nước Cộng sản lại xảy ra vụ xét lại tội diệt chủng dân Do Thái , với mục đích làm mờ đi tội ác tương tự của chúng.
Khúc quanh lớn đã diễn ra vào ngày 24 tháng 2 năm 1956. Đó là ngày chính thức nhìn nhận tội ác của Cộng sản. Buổi chiều ngày hôm ấy, Bí thư thứ nhất của đảng Cộng sản Liên Xô, ông Nikita Kroutchev khai mạc Đại Hội lần thứ 20 của đảng Cộng sản. Đại hội họp trong phòng kín. Các đại biểu êm lặng và căng thẳng ngồi nghe Kroutchev vạch tội Staline, ròng rã 30 năm là người hùng của chủ nghĩa Cộng sản thế giới. Bản phúc trình mật từ ngày đó đã là nguyên nhân của sự chuyển hướng căn bản của chủ nghĩa Cộng sản ngày nay. Và đây là lần thứ nhất một người lãng đạo cao cấp Cộng sản chính thức thừa nhận những người lãnh đạo từ năm 1917 đã gây ra tội ác.
Có nhiều lý do đã thúc đẩy Kroutchev phá vỡ một trong những điều cấm kỵ của Cộng sản. Mục đính chính của Kroutchev là tìm cách quy tội cho một cá nhân để chạy tội cho chính sách dã man của chủ nghĩa Cộng sản. Trong kế hoạch này , ông tấn công và khai trừ các đảng viện tay chân của Staline, những ngươì theo Staline và chống lại ông. Kết quả cho chúng ta thấy rõ vào mùa hè năm 1957, tất cả các đảng viên thân Staline ở mọi ngành, mọi nơi đều bị cách chức. Thí dụ điển hình này chỉ là một chi tiết tầm thường . Trên thực tế còn nhiều điều kinh hòang hơn. Khi ông ta còn ở chức vụ Bí Thư vùng Ukraine , được coi như là lãnh chúa của vùng, trong nhiều năm phát động nhiều vụ tàn sát khủng khiếp. Trong tập hồi ký, ông chỉ ghi lại những thành quả tốt đẹp cuả ông mà thôi. Đại hội kết thúc với những quyết nghị và chương trình thi hành các nghị quyết. Nhưng rồi họ làm được những gì. Ông ta viết :'' Vậy chúng ta phải làm gì cho những người bị xử bắn vô tội; phải làm gì cho những người bị bắt và bị thủ tiêu? Chúng ta có bằng cớ rõ ràng rằng họ là những người công dân lương thiện, họ là những đảng viên trung thành với đảng. Họ đã hy sinh cho chủ nghĩa Cộng sản. Sớm hay muộn gì, những người hiện còn bị giam trong các khám sẽ được trả tự do. Họ sẽ kễ lại cho thân nhân nghe những gì đã xảy ra. Vì vậy tôi phải thú nhận trước các đại biểu hiện diện ngày hôm nay về đường lối lãnh đạo sai lầm của đảng trong những năm đó. Làm sao chúng ta có thể nói là chúng ta không hề biết gì chuyện đó. Chúng ta phải biết rằng đó là một thời kỳ đàn áp và độc đóan ở trong đảng. Chúng ta có nhiệm vụ phải trình bày trước đại hội những gì chúng ta biết. Trong cuộc sống, những người phạm tội sẽ nhận khoan hồng nếu như họ thú tôi . ''

Cũng có một số trường hợp hối hận xảy ra . Nhiều người trước kia tham dự trực tiếp vào các vụ tàn sát thời Staline, tiêu diệt các đảng viên khác để chiếm giữ các chức vụ quan trọng, nay cũng tư phê bình, tự kiểm điểm. Đó chỉ vì sự cưỡng bách mà phải làm. Ai đó có thể trực tiếp đứng ra ngăn chận sự tàn sát này? Đó là Kroutchev. Nhưng rồi cũng chính Kroutchev vào năm 1956 đã ra lịnh cho Hồng quân kéo xe tăng vào đè bẹp dân chúng Hung gia Lợi.
Trong các phiên họp đại hội thứ 22 của đảng Cộng sản, Kroutchev lại một lần nữa cho rằng đảng viên Cộng sản là nạn nhân của Staline. Ông cho xây đài tưởng niệm những người Cộng sản này. Ông đi trở lại con đường độc tài. Con đường độc tài tuyệt đối dành riêng cho Cộng sản.
Vào năm 1962 khi còn tại quyền Tổng bí thư đảng, ông Kroutchev cho xuất bản quyển '' Một ngày của Ivan Denissovitch '' của Alexandre Soljenitsine. Ngày 24 tháng 10 năm 1960 Kroutchev bị truất phế, nhưng không bị thủ tiêu. Ông mất âm thầm vào năm 1974. Chẳng ai hay biết , ngoại trừ thân nhân.
Nhiều người nhìn nhận rằng bản '' phúc trình mật của Kroutchev'' phá vỡ căn bản chính sách của Cộng sản trong thế kỷ thứ 20 .
Theo ông Francois Furet một đảng viên Cộng sản Pháp ly khai năm 1954 cho rằng bản phúc trình mật chỉ là một sự thú nhận quanh co. Bản phúc trình chỉ đề cập đến những ngươì Cộng sản là nạn nhân của Staline. Nhưng theo ông, dù sao bản phúc trình mật cũng xác nhận là có xảy ra các vụ tàn sát kinh hoàng và ở mức rộng lớn trên đất nước Nga. Điều mà có nhiều người từ lâu nay vẫn nghi ngờ. Nhiều lãnh tụ đảng Cộng Sản ở các quốc gia khác không chiụ thừa nhận tội ác như Kroutchev đã làm. Mãi đến năm 1979, đảng Cộng sản Trung Quốc mới chịu phân tích con đường chính trị của Mao. Họ cho rằng Mao đã có công rất lớn cho đến năm 1957. Sau đó họ Mao đã làm sai. Cộng sản Việt Nam chỉ đề cập đến điểm này xuyên qua việc tố cáo '' hành động diệt chủng của Pol Pot ''. Còn Castro thì cho rằng không hề có bạo lực xảy ra dưới thời của ông.
Cho đến lúc này, chỉ có những người chống đối Cộng sản , những thành phần ly khai lên tiếng kết án tội ác của Cộng sản. Kết quả của các vụ tố cáo chẳng đi đến đâu. Chỉ có những người sống sót được trong các trại tù của Đức quốc xã, của Cộng sản mới đủ ý chí quyết liệt tố cáo tội ác. Nhưng ở Pháp không mấy ai chịu nghe họ. Pháp có trên 10.000 công dân sinh sống trong hai vùng Alsace và Lorraine, bị Quốc Xã sát nhập vào Đức. Trong chiến tranh, Những người Pháp này bị Đức gởi đi ra mặt trận trên đất Nga. Họ bị Hồng quân bắt làm tù binh và bị ngược đãi. Cho đến ngày hôm nay, 50 năm sau, gia đình của họ không hề biết được tin tức gì cả. Chính phủ Pháp chưa giải quyết thỏa đáng.
Tháng hai năm 1956, bản phúc trình mật do Kroutchev đọc trước Đại hội Đảng lần thứ 20 đã làm đảo lộn hàng ngũ Cộng sản. Lời tố cáo không phải xuất phát từ Phương Tây Tự Do mà từ Thánh địa Mạc Tư Khoa . Ý niệm Cộng sản bị lung lay, không phải chỉ ở Nga mà còn dao động ở các nước Cộng sản chư hầu. Bởi vì lời tố cáo không phải phát xuất từ một đảng viên bình thường do bất mãn , trái lại, nó do chính Chủ tịch nhà nước đương kiêm Đệ nhất Bí Thư Kroutchev đích thân tuyên đọc. Sự kiện này khiến cho người ta tự hỏi, liệu chủ nghĩa Cộng sản còn đáng được tin tưởng hay không ? Cả hội trường, không một đảng viên đại biểu nào phát biểu chống lại, chứng tỏ bản phúc trình mật có một gía trị sức mạnh ghê gớm.
Từ đầu năm 1917, đã xảy ra nhiều sự kiện lịch sử nghịch lý. Một nhóm tỏ vẻ hồ hởi đón nhận cái gọi là '' tia sáng lớn lóe ra từ phương Đông '' . Nhóm khác cực lực chỉ trích các hoạt động của người Bônsêvich. Các cuộc tranh cải giữa hai khuynh hướng nhằm vào các cuộc khủng bố bạo lực của Lenine.
Trong những thập niên 20 và 50, cũng có nhiều ngưới lên án bộ mặt thật của những người Bônsêvich.
Nhưng phải đợi đến khi người Cộng sản tự thú thì tốc độ tố cáo mới có phần gia tăng . Nhiều uỷ ban thành hình co nhiệm vụ thu nhập những ký ức của nạn nhân. Như Uỷ Ban Quốc Tế về chế độ Trại tập trung của David Rousset hay Uy ban về sự thật tôị ác của Staline,.. Nhưng tiếng nói của các Ủy Ban bị lấn át bởi tiếng trống tuyên truyền của Cộng Sản và được nối tiếp bởi sự yên lặng hèn hạ gần như thờ ơ. Ngay cả khi Soljenitsine cho xuất bản quyển '' Quần đảo Goulag'' và tác phẩm '' Ảo ảnh chết người'' của Pin Yathay dư luận ở Tây phương vẫn tiếp tục êm lặng. Xã hội Tăy Phương vẫn từ chối nhì nhận sự thật đã xảy ra trước mắt họ : Chủ nghĩa Cộng Sản từ căn bản, ở mỗi cấp độ, tất cả đều đã nhúng tay vào tội ác.
Từ năm 1920 đến năm 1950 vì Cộng Sản bưng bít, nên các nhà nghiên cứu các tài liệu về các tội ác, chỉ có thể căn cứ vào những lời khai cuả các nhân chứng trốn thoát khỏi địa ngục Liên Sô.
Năm 1959 một viên chức cao cấp của cơ quan tình báo Sô Viết KBG rời bỏ hàng ngũ chạy qua Tây Phương tìm tự do. Ông ta trình bày tất cả các chi tiết về các trại Goulag và được viết lại trong tác phẩm '''Chế độ trại tập trung của Sô Viết từ 1930-1957'' , tác giả là Paul Barton. Sách do nhà xuất bản Plon phát hành năm 1959. Ông Paul Barton là ai. Ông ta là người Tiệp Khắc lưu vong. Tên thật của ông là Jiri Veltrusky. Ông là một trong những người tham dự của nổi dậy ở thủ đô Prague của Tiệp Khắc vào năm 1945 chống lại Đức quốc xã. Năm 1948 ông trốn qua Pháp.
Vào những thập niên 70- 80, Soljenitsine cho ra đờI tác phẩm '' Quần đảo ngụ tù Goulag''.

Dư luận có chú ý, nhưng Soljenitsine cũng đã gặp nhiều khó khăn khi tìm cách phá vỡ cái lớp lừa bịp. Vào năm 1975, một ký giả của tờ báo lớn ở Pháp , tờ Humanite' đã ví Soljenitsine, người đạt giải thưởng Nobel văn chương, như các ông Pierree Laval, Doriot và Deat. [ các ông này bị tòa án Pháp kết tôị tử hình vì đã nghinh đón quân Đức như đón những đoàn quân giải phóng ]. Những gì ông Soljenitsine viết , cũng như những gì ông Chalamov kể về Kolyma hay ông Pin Yathay nói về Cao miên đều là những nhận thức quyết định đầu tiên về ý thức.

Gần đây, ông Vladimir Boukovski, một trong những người ly khai trong phong trao ly khai dưới thời Brejnev, đã phản kháng trong tác phẩm '' Xử án tại Mạc Tư Khoa - Jugement a Moscou''. Ông ta kêu gọi thành lập một tòa án quốc tế như tòa án Numberg để xử tội ác của chế độ Cộng Sản. Tác phẩm của ông ta được thế giới Tây phương tiếp nhận nồng hậu. Nhưng đồng thời chúng ta cũng thấy các tài liệu kêu gọi phục hồi danh dự và sự nghiệp của Staline.
Ngày hôm nay các trung tâm văn khố trưng bày các sự thật , đã thúc đẩy công việc sưu tầm các tội ác. Trung tâm văn khố của Liên bang Xô Viết cũ, của các nước Đông Âu, của Cao Miên đã đưa ra ánh sáng những sự kiện kinh hoàng. Đã đến lúc phải mở một cuộc điều tra theo phương pháp khoa học về tội ác của Chủ nghĩa Cộng sản mà không sợ bị chi phối vì lý do chính trị. Câu hỏi được đặt ra là phải quy trách tội ác của Cộng Sản ở cấp độ nào cho đúng ?
Để trả lời thỏa đáng cho câu hỏi này, cần phải có những đóng góp đặc thù trong công tác nghiên cứu.
Điểm thứ nhất, chúng tôi làm bổn phận của chúng tôi đối với lịch sử.
Đối với sử gia, không thể có áp lực nào cho dù chính trị, tư tưởng hay cá nhân riêng tư cấm đóan họ nghiên cứu bất kỳ một đề tài nào. Ngày nay không ai có thể ngăn chận sự tìm hiểu, khai quật và phán quyết những gì đã xảy ra và nhất là những sự kiện từ bấy lâu nay bị dấu kín trong các văn khố cũng như trong lương tâm của con người.
Vấn đề nghiên cứu chủ nghĩa Cộng Sản không thể chỉ giới hạn trong tầm vóc một quốc gia, một xã hội hay chỉ trong lãnh vực văn hóa. Bởi với chính sách cực quyền, Cộng sản không những chỉ hoạt động trên phần đất Âu Châu và còn bao trùm khắp cả thế giới.

Nói một cách khác, vấn đề tộị ác Cộng Sản không những chỉ xảy ra trên phần đất Nga mà còn cả trên lãnh thổ Trung quốc của Mao trạch Đông, trên bắc Triểu tiên ở Việt Nam, trên đất Chùa Tháp Cao Miên của Pol Pot nữa. Tại các quốc gia này, Cộng sản thực hiện mẫu mực những gì đã xảy ra trên đất Nga, trở thành phòng trào Cộng sản thế giới. Sự kiện lịch sử mà chúng ta đang trực diện có liên quan đến toàn thể nhân loại trên trái đất.
Lịch sử và ký ức được quy định trong nhiều hình thức khác nhau. Ở một nơi, nó liên hệ đến các quốc gia mà nơi đó Cộng sản không có một chút ảnh hưởng nào trong lãnh vực kinh tế hay xã hội. Như ở các quốc gia Anh, Úc, Bỉ,..
Ở một nơi khác, chủ nghĩa Cộng sản tỏ ra đáng ghê sợ. Như ở Hoa Kỳ sau năm 1946. Cộng sản có thể cướp lấy chính quyền ở Pháp, ở Ý , ở Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha hay ở Hy lạp. Tại một số quốc gia Đông Âu, Cộng Sản ngự trị hàng chục năm, cho tới những năm gần đây mới bị dân chúng hạ bệ.. Và ngọn lửa Cộng sản vẫn còn chập chờn gây đe dọa tại Trung quốc, Bắc Triều Tiên, Cu Ba , Lao và Việt Nam.
Tuỳ theo hoàn cảnh và thái độ của những người đương thời, vấn đề lịch sử cũng như những ký ức không giống nhau. Trường hợp tại các quốc gia nói trên , thái độ của họ chỉ là những cuộc vận động đơn giản về suy tư . Nhưng ở trường hợp khác, họ còn phải đương đầu với một số vấn đề cần thiết cho sự hoà giải quốc gia trong những quyết định trừng phạt hay tha thứ cho những phạm tội đã gây ra tội ác. Nước Đức là một trường hợp đặc biệt. Việc thống nhất nước Đức quả là một phép mầu nhiệm. Nó không giống như Tiệp Khắc chia làm hai quốc gia riêng biệt . Còn Nam Tư thì tan rã ra từng mảnh nhỏ. Các nước Ba Lan, Miên thì vẫn còn còn ray rứt với cái quá khứ tội ác. Ở một mức độ nào đó, hiện tượng quên đi những gì trong quá khứ có thể chấp nhận để hàn gắn vết thương luân lý và tâm lý của từng cá nhân hay của tập thể.Tại các nước Cộng sản, thì việc chối bỏ tội ác được thực hiện một cách có hệ thống. Trung Cộng, Cu Ba Bắc triều Tiên, Việt Nam vẫn còn cai trị bằng bạo lực.
Về phương diện luân lý, không ai có quyền phủ nhận bổn phận cuả họ đối với lịch sử và ký ức.

Không một ai có quyền bảo rằng '' Ai cho anh cái quyền nói đến Thiện và Ác.'' Giáo Hội Thiên Chúa Giáo , qua thông Điệp Mit Brennender Sorge đề ngày 14 tháng 7 năm 1937 của Đức Giáo Hoàng Pio XI , đã chính thức lên án Chủ nghĩa Quốc Xã. Thông Điệp thứ hai Divini Redemtoris đề ngày 19 tháng 3 năm 1937 Đức Giáo Hoàng tố cáo Cộng Sản. Thông Điệp thứ hai nhấn mạnh những đặc quyền của Thiên Chúa ban cho loài người. Quyền sinh sống; Quyền được tòan vẹn thân thể; Quyền được hưởng những nhu cầu cấn thiết hằng ngày; Quyền được sống đến ngày cuối cùng theo con đường Chúa đã vạch định; Quyền được hội họp; Quyền tư hữu; Quyền xử dụng các tư hữu này. Cho dù ai có mĩa mai cái đạo đức gỉa nào đó của Giáo Hội khi cho phép những người làm giàu quá mức bằng cách chiếm đoạt tài sản của người khác, nhưng vấn đề nhắc nhở con người phải tôn trọng nhân phẩm vẫn là điều cần thiết.
Năm 1931, trong một Thông Điệp, Đức Giáo Hoàng XI nhận định rằng, Cộng Sản hoạt động công khai và tìm đủ mọi cách kể cả bạo lực để đạt cho kỳ được hai mục tiêu. Đó là: luôn luôn đãu tranh giai cấp và hũy bỏ hoàn toàn quyền tư hữu.

Cộng sản xử dụng mọi phương tiện để đạt cho được hai mục tiêu này. Cộng sản chẳng tôn trọng cái gì cả. Nơi nào Cộng sản nắm chính quyền thì nơi đó Cộng sản cho thi hành khủng bố tàn bạo. Các cuộc tàn sát ở Đông Âu và ở Á Châu đã chứng tỏ điều này. Lời cảnh cáo của Đức Giáo Hoàng mang nhiều ý nghĩa vì nó phát xuất từ một cơ chế tồn tại qua nhiều thế kỷ..

Nếu cho rằng Giáo Hội giữ vai trò kiểm duyệt về luân lý, thì những người viết sử phải viết làm sao về các mẫu chuyện mang tính chất anh hùng của những người Cộng sản và những mẫu chuyện thống thiết của các nạn nhân của Cộng sản ? Trong tác phẩm '' Hồi ký của nấm mồ - Memoiries d'outre-tombe , nhà văn Francois Rene' de Chateaubriand viết : '' Trong sự êm lặng của đê hèn, người ta không còn nhớ đến những tiếng kêu của dây xích của người nô lệ hay không nghe tiếng nói của người tố cáo''. Trong khi mọi người khiếp sợ trước bạo chúa, các sử gia đứng ra làm công việc báo thù cho dân tộc.''Nhưng ở vào những ngày cuối cùng trong đời, Chateubriand không còn tin tưởng vào '' việc báo thù cho dân tộc ''. Và với tư cách là sử gia, với khả năng khiêm tốn, người viết sử cho dù không muốn mình là phát ngôn viên của nạn nhân, cũng phải sẵn sàng nói lên sự thật những gì mà họ đã trãi qua. Người viết sử thực hiện công việc của ý thức. Công việc của sử gia là thiết lập các sự kiện thực đã xảy ra. Ngoài ra còn có sự liên hệ của sử gia với chế độ Cộng Sản. Họ đã bị bắt buộc phải viết lên lịch sự của sự lừa dối. Mặc dù các cánh cửa cuả các văn khố đã mở toanh, các tài liệu trình bày ra trước mặt, nhưng sử gia cũng phải đề phòng để khỏi trở thành quá '' thơ ngây'' trong một số vấn đề phức tạp, có nhiều hậu ý, cần phải tranh luận.
Nhưng các sự hiểu biết về lịch sử không thể không kể đến sự phán xét, nếu muốn tôn trọng gía trị của nền dân chủ , và nhất là việc tôn trọng nhân phẩm . Trong cái ý niệm này, sử gia phán xét những chủ chốt của lịch sử. Ngoài những lý do khách quan đã thúc đẩy các sử gia sưu tầm các tội ác lịch sử, còn có lý do của cá nhân họ. Có nhiều vị cộng tác trong tập tài liệu này đã từng là những người bị lý thuyết Cộng Sản mê hoặc. Các vị này cũng từng ủng hộ chủ nghĩa Cộng Sản chính thống Lenine - Staline hay chủ nghĩa Cộng sản ly khai Trosky - Mao Trạch Đông.
Việc nghiên cứu để so sánh các việc xảy ra ở Trung Quốc, Liên Xô, Cu Ba và cả ở Việt Nam cần phải có một cuộc sưu tầm rộng rãi. Đến nay chúng tôi chỉ có một số ít tài liệu. Ở vài nơi, các trung tâm văn khố mở cửa. Có nơi chỉ hé mở. Và nơi khác thì vẫn còn đóng kín. Với tình trạng này , chúng tôi chưa đủ để có thể bắt tay vào công việc nghiên cứu. Chúng tôi biết rằng chúng tôi có một số tài liệu tuy không toàn bộ, nhưng phát xuất từ những tổ chức đáng tin cậy, được coi như là bước khởi đầu. Chúng tôi mong rằng đây là phát súng khai trương cho các cuộc nghiên cứu rộng lớn sau này.Chúng tôi khởi đầu bằng một cuộc điều tra các sự việc đã xảy ra. Các sự việc này rất là quan trọng và không thể nào chối cãi được.
Quyển sách của chúng có quá nhiều chữ và có rất ít hình ảnh. Ngày hôm nay, con người tiếp nhận thường xuyên các tin tức, hình ảnh qua các hệ thống truyền thanh , truyền hình và trên báo chí. Ảnh hưởng của các cơ quan truyền thông có tác dụng rất lơn trong quần chúng để đánh giá phải trái các sự việc đã xảy ra. Chúng tôi chỉ có một số ít hình ảnh. Các trại tập trung Goulag chúng tôi không có hình. Chúng tôi có vài tấm ảnh của các trại cải tạo ở Trung Quốc. Hình ảnh các nạn đói của'' Bước tiến nhảy vọt'' của Trung Quốc thì không dễ gì có được. Ai cũng biết, đối với Cộng Sản các hình ảnh như vậy là tuyệt đối phải giữ bí mật.
Những người thắng trận ở tòa án Numberg có đủ điều kiện tự do để quay phim chụp hình, kể cả quay cảnh hàng ngàn người chết ở Bergen - Belsen. Họ cũng còn tìm thấy các bức ảnh do các hung thủ Đức Quốc Xã chụp các lính Đức bắn chết một người đàn bà trên tay đang bồng đứa con. Đối với chế độ Cộng Sản thì không thể chụp hình như vậy được vì các vụ khủng khiếp này luôn luôn xảy ra trong vòng bí mật.Xin quý độc giả rộng lượng chấp nhận một số ít hình ảnh sưu tầm trong quyển sách.

Xin quý độc giả hãy đọc thật kỹ từng trang một và suy tư về nổi thống khổ mà hàng chục triệu người đã chịu đựng.
Xin quý vị hãy tưởng tượng tấm bị kịch vĩ đại đã diễn ra . Nó đã ám ảnh nhân loại trên toàn thế giới từ mấy thập niên qua và sẽ còn kéo dài mấy thập niên về sau.
Câu hỏi chính yếu được đặt ra là : Tại sao những người như Lenine, Staline, Trotsky hay các đồng chí của họ phải tiêu diệt những người mà họ cho là kẻ thù ?
Tại sao những người này có quyền giết người ? Như vậy họ đã vi phạm vào điều luật, mặc dù không thành văn, nhưng đã chi phối nhân loại : Người không được giết người.

Đoạn cuối của quyển sách sẽ là phần trả lời cho các câu hỏi này.

http://www.nhacsingheo.com/ToiacCS/index.html



MẬT THƯ TỘI ÁC của CHỦ NGHĨA CỘNG SẢN (1)


Mật thư tội ác của chủ-nghĩa Cộng-sản
Tàn sát , khủng bố, đàn áp
( Le livre noir du communisme s. dir Stéphane Courtois et al. )
Lược dịch Fossion René và Trần hữu Sơn
Trần minh Tâm đánh máy.
http://www.nhacsingheo.com/ToiacCS/index.html

Đây là công trình dịch thuật của Ông René Fossion và Ông Trần hữu Sơn, những người quốc gia đã hy sinh thời giờ và công ăn việc làm của mình để đóng góp phần nào cho cuộc tranh đấu chung , khi dịch cuốn sách " Le Livre noir du communisme " , Xb Robert Laffont 1997, của các học giả Stéphane Courtois, Nicolas Werth, Jean Louis Panné, Andrzej Packowski, Karel Bartosek, Jean-Louis Margolin tố cáo tội ác của Công Sản thế giới .
Ngoài ra Ông Trần minh Tâm đã tận tình đánh máy trên 1000 trang.
Ông René Fossion, Ông Trần hữu Sơn, và ông Trần minh Tâm không sống về nghề làm báo, hay viết văn. Ngày thì làm công hai bữa, tối về nhà cặm cụi làm việc dưới ánh đèn cô đơn.
Nay thì bản dịch đã hoàn tất nên cho phổ biến trên Internet để mọi người thấy rõ "bộ mặt thật của CS". Mong rằng quý độc giả rộng lượng bỏ qua nếu có điều gì không đúng lắm vì " traduire c'est trahir" ( nói nôm na: dịch một bản văn đôi khi còn phản nghĩa điều mà tác giả muốn nói ).
Mong quý độc giả cứ tự tiện phổ biến cho bất cứ ai cần đến. Đó là ý nguyện của chúng tôi. Mong lắm thay.


Mục lục

Phần 1. Tàn sát , khủng bố , đàn áp
Chương 1. - Nghịch biện và sự hiểu lầm cuộc cách mạng tháng mười
Chương 2. - Lực lượng võ trang của chuyên chính vô-sản
Chương 3. - Khủng-bố đỏ
Chương 4. - Cuộc chiến bẩn thỉu
Chương 5. - Các diễn biến từ Tambov đến nạn đói lớn
Chương 6. - Hưu-chiến và khúc quanh lớn
Chương 7. - Giải tán quy chế điền chủ và cưỡng bách canh tác tập thể
Chương 8. - Nạn đói lớn
Chương 9. - Các phần tử xa lạ với xã-hội và các chu-kỳ đàn-áp
Chương 10. - Cuộc khủng-bố vĩ đại trong những năm 1936-1938
Chương 11. - Đế quốc ngục tù
Chương 12. - Mặt trái của cuộc chiến thắng
Chương 13. - Cao-điểm của các khủng-hoảng trong các hợp tác xã nông nghiệp
Chương 14. - Cuộc âm mưu cuối cùng
Chương 15. - Giã từ chủ-nghĩa Staline
Chương 16. - Kết-luận phần Nhà nước chống lại nhân dân..

Phần 2. Cách mạng thế-giới. Nội chiến và khủng bố
Chương 17. - Komintern được phát động và các hành động của cơ-quan này
Chương 18. - Bóng đen của cơ-quan NKVD trên lãnh-thổ Espagne
Chương 19. - Cộng-sản và khủng bố

Lời nói đầu
Người ta có thể nói rằng lịch sử là môn khoa học chuyên về nổi đau khổ của con người. Thế kỷ bạo động trong đó chúng ta đang sống, đã chứng minh hùng hồn điều này. Trong các thế kỷ trước, các cường quốc Âu Châu đã làm giàu trong các cuộc buôn bán người nô lệ da đen. Nước Pháp với chính sách thuộc địa đã ghi lại biết bao nhiêu ghê tỡm trong lịch sử. Xã hội Hoa Kỳ vẫn còn duy trì nền văn hóa bạo động phát sinh từ hai tôị ác trọng đại: Việc khai thác người nô lệ và việc tiêu diệt các giống thổ dân Da Đỏ.
Nhưng nếu nói về sự bạo động, thế kỷ chúng ta đang sống đã vượt hẳn các thế kỷ trước. Thế kỷ của chúng ta đã có quá nhiều thảm họa do con người gây ra : Hai trận thế chiến, Chế độ Đức quốc xã, các thảm trạng xãy ra ở Armenia, Biafra, Rwanda và một vài khu vực khác. Đế quốc Ottoman của Thổ Nhĩ Kỳ chủ mưu tiêu diệt các sắc dân gốc Armenia. Đức quốc xã tiêu diệt dân Do Thái. Mussolini tàn sát dân Ethiopie..Nhưng những sự tàn sát này vẫn không thể nào so với tội ác của cộng sản đã gây ra .
Chủ nghĩa Cộng Sản , một hiện tượng lớn của thế kỷ 20 , bắt đầu từ năm 1914 và kết thúc vào năm 1991 taị Mạc Tư Khoa. Chủ nghiã Cộng Sản ra đời trước chủ nghĩa Quốc Gia Xã Hôị, goị tắc là Quốc Xã. Chủ nghĩa Cộng Sản sống lâu hơn Quốc Xã và nó lan rộng ra khắp năm Châu.
Chúng ta cần phân bịệt giữa Chủ nghĩa và hành động.
Về phương diện lý thuyết chính trị, chủ nghĩa Cộng Sản đã có từ nhiều thế kỷ, nhiều ngàn năm trước. Nhà hiền triết Hy Lạp Platon đã đề cập đến '' Chế độ cộng hòa'' trong đó người dân không bị lệ thuộc vào tiền bạc hay quyền lực. Trong xã hôị đó chỉ có sự khôn ngoan, công lý và lẽ phải ngự trị mà thôi.
Một nhà tư tưởng lớn của Anh, ông Thomas More cũng đã vạch ra một quốc gia lý tưởng nhưng đã bị bạo chúa Henri VIII chặt đầu. Những tư tưởng này là những nguồn sinh khí những đóng góp quý giá cho các nền dân chủ về sau.
Còn chủ nghĩa Cộng Sản được đề cập ở đây không có vị thế của các nguồn tư tưởng trên. Đây là chủ nghĩa Cộng Sản hành động. Nó đã diễn ra ở một thời điểm nhứt định, tại các quốc gia được biết rõ qua các cuộc khủng bố , đàn áp, kiểm soát biên giơí, kiểm soát các phương tiện truyền thông , bắt giam và cho lưu đày các thành phần đối lập.
Những ký ức về khủng bố đã làm cho người ta không quên được chủ nghĩa Cộng sản . Người ta không quên Mao Chủ Tịch vĩ đại của Trung Cộng, Kim Nhựt Thành của Bắc Triều Tiên, Hồ Chí Minh của Việt Nam, Fidel Castro của Cu Ba v.v.. .. và gần với lịch sử hiện đại của chúng ta là : Maurice Thorez, Jacques Duclos, Georges Marchais.
Nhưng tội ác của Cộng Sản đã không được đánh giá trên cả luật pháp cũng như trên bình diện bình thường. Qua các trang sách này, lần đầu tiên chúng tôi đặt vấn đề với cộng sản về tội ác mà chủ nghiã này đã gây ra. Sẽ có nhiều người cho rằng phần lớn các tội ác được coi là hợp pháp vì các tội ác này do được thực hiện theo lệnh của các lãnh tụ mà nước Pháp đã đón tiếp họ một cách nồng hậu.
Các tộ ác mà chúng tôi trình bày trong quyển sách này không dựa trên các tài liệu '' pháp lý'' của chế độ Cộng sản. Chúng tôi sẽ dựa trên các văn bản '' bất thành văn ''. Nói một cách khác, các tài liệu này không được viết ra như các đạo luật thiêng liêng về luân lý của nhân loại.
Chúng ta có thể không lưu tâm đến các cuộc xử bắn các con tin, sự tàn sát nhóm nhân công nổi loạn, các mồ chôn tập thể của những người nông dân chết đói, do hoàn cảnh gây nên. Chúng tôi chỉ đề cập đến chiều sâu của tội ác mà Cộng sản đã coi đó như là cứu cánh của tòan thể hệ thống lãnh đạo.
Chúng tôi sẽ nói lên những gì ? Chúng tôi sẽ đưa ra những tội ác nào ?

Có vô số tôị ác :
Trước hết là tôị ác về văn hóa của các quốc gia Cộng sản thống trị và văn hóa của nhân loại.
Staline đã ra lịnh phá bỏ hàng trăm giáo đường của các tôn giáo taị Nga. Nhà độc tài Ceaucescu của Lỗ Ma Ni đã ra lịnh phá hủy trung tâm lịch sử Châu Âu đó là thành phố Bucaresti. Pol Pot đã cho tháo gỡ từng viên gạch của thành phố Nam Vang, thủ đô nước Cao Miên. Trong cuộc cách mạng văn hoá, Hồng Vệ Binh của Mao đã phá hủy vô số kho tàng văn hóa vô gía của nhân dân Trung Hoa.
Chúng tôi chỉ ghi lại tội ác của một số người được coi là linh hồn của các vụ tàn sát. Tuỳ theo mỗi chế độ, các phương tiện khủng bố được thi hành dưới nhiều hình thức khác nhau. Xư bắn, xử treo cổ, nhận chìm trong nước, đánh bằng gậy gộc, dùng chất khí độc, cho chết đói, đưa đi lưu đày, gây ra tai nạn trong lúc đưa đi lưu đày, bắt đi bộ trên các quãng đường dài hàng trăm cây số, Lao động khổ sai, kiệt sức,...
Chúng tôi thống kê danh sách con số người đã bị Cộng Sản giết chết. Đây chỉ là con số tối thiểu. Phải cần thời gian mới có thể đưa ra con số chính xác. Sau đây là con số người nạn nhân đã bị Cọng Sản giết chết :
Trung Quốc : 65 triệu;Liên Xô : 20 triệu;Bắc Hàn : 2 triệu;Miên : 2 triệu;Phi châu : 1,7 triệu;A phú Hãn : 1,5 triệu;Đông Âu : 1 triệu;Việt Nam : 1 triệu;Trung Mỹ :150 ngàn;

Các phong trào Cộng sản quốc tế, các đảng cộng sản đang nắm chính quyền: vài chục ngàn.
Tổng số người chết lên đến con số gần 100 triệu.
Nếu tính theo tỉ lệ thời gian thì Pol Pot đứng hàng đàu gây tội ác. Trong vòng 3 năm, Pol Pot đã tiêu diệt một phần tư dân số dân tộc Miên. Mao đã gây tội ác trầm trọng trong cuộc cách mạng văn hóa . Bàn tay của Lenine và Staline đẩm máu vì cái lô-gích tư tưởng của mình.
Nếu chỉ suy tư về tội ác thì không thể nào đánh gía được phẩm chất chiều sâu của nó được. Công việc này phải được xét xử trên tiêu chuẩn khách quan và trên khía cạnh pháp lý.

Taị tòa án Numberg vào năm 1945, các lãnh tụ Đức Quốc Xã đã bị kết án về tội diệt chủng trong thế chiến thứ hai căn cứ theo điều 6 của tòa án quốc tế. Điều luật này ghi 3 trọng tôị: chống lại hòa bình, tội ác gây ra trong chiến tranh và tội chống lại nhân loại.
Nếu căn cứ vào điều luật thứ 6 này thì Lenine, Staline cũng như tất cả chính quyền Cộng sản đã gây ra tội ác đều phải bị kết án.

Theo điều luật thứ 6A, các hành động như chỉ đạo, sửa sọan và theo đuỗi cuộc chiến tranh xâm lăng hay tiếp tay vào các cuộc chiến tranh vi phạm các thỏa ước quốc tế đều bị ghép vào tội chống lại hòa bình. Như vậy Staline phải bị kết án. Staline bí mật ký hai hiệp ớc với Đức Quốc Xã vào ngày 23 tháng 8 và ngày 28 tháng 9 năm 1938 để rãnh tay ở hai mặt trận phía Đông và phía Tây. Hai hiệp ước này đã khởi đàu Đệ nhị thế chiến. Ngoài ra Staline còn vi phạm vào tội giúp khí giới cho Bắc Triều Tiên đem quân xâm lấn Nam Triều Tiên vào ngày 25 tháng 6 năm 1950. Staline cũng đã xua quân tiến chiếm Phần Lan vào ngày 30 tháng 9 năm 1939.
Mạc Tư Khoa đã chỉ đạo các đảng Cộng sản đàng em, mở các cuộc chiến tranh phá hoại các một số quốc gia khác. Tại A Phú Hãn, Mạc Tư Khoa đã vi phạm vào điều luật thứ 6A khi đưa quân vào giúp đảng Cộng sản nước này để cướp chính quyền vào ngày 27 tháng 12 năm 1979. Nó mở đầu cho cuộc chiến kéo dài cho đến ngày nay vẫn chưa kết thúc, mặc dù quân Nga đã rút ra từ năm 1989.
Điều luật 6B nêu ra các hành động vi phạm trong lúc chiến tranh. Các điều khỏan này đã được ghi rõ trong bản '' giao ước quốc tế '' ra đời năm 1907 tại thành phố La Hague của nước Hòa Lan. Nó bao gồm các điểm: hành động ám sát, hành hạ, ngược đãi, lưu đày khổ sai, hành quyết các con tin, cướp bóc hay tước đoạt tài sản, tàn phá các thôn xóm, hạ giá tiền tệ không có lý do cho chính đáng cho nhu cầu quân sự,.. Staline đã cho thủ tiêu hầu hết các sĩ quan của quân đội Ba Lan bị bắt làm tù binh vào cuối năm 1939. Tại thành phố Katyn khi cho khai quật mồ chôn tập thể 4500 tử thi, mỗi tử thi điều có vết đạn ở sau ót. Ngoài ra còn các vụ giết người trầm trọng khác cho đến giờ này không có mấy người biết đến đó là các vụ tàn sát hàng trăm ngàn tù binh Đức ở các trại giam khổ sai từ năm 1943 cho đến năm 1945. Vụ Hồng Quân Nga hãm hiếp phụ nữ Đức trên các phần đất Đức bị chiếm.
Điều luật 6 C ghi các tội chống lại nhân loại. Nó gồm các hành động như sau : Tàn sát, tiêu diệt, biến thành nô lệ, bắt đi lưu đày, ngược đãi vì lý do chính trị, kỳ thị chủng tộc hay tôn giáo, ..

Trong bản cáo trạng tại toà án Numberg, Tổng Biện Lý Francois de Menton nhấn mạnh tính chất ý thức hệ của các tội ác này như sau :
'' Tôi cho rằng tất cả các tội ác đã gây ra cho một khối đông đảo quần chúng là tội ác chống lại tư tưởng. Tôi muốn nói lên một chủ nghĩa đã chối bỏ tất cả giá trị luân lý của nhân loại. Tội ác chống lại tư tưởng là nguồn gốc của chủ nghĩa Quốc Xã. Đó là chủ nghĩa kỳ thị chủng tộc. Đây không phải là một tại nạn rủi ro , không phải là một sự việc tình cờ. Trái lại các hành động kỳ thị đã được nghiên cứu kỹ lưỡng và được tổ chức trong khi thi hành..''
Các bản tuyên cáo của tòa án Numberg nhấn mạnh đến một điểm chính của điều khỏan ''chống lại nhân lọai ' : Lạm dụng quyền lực của nhà nườc đề phục vụ cho một chính sách và thi hành các tội ác.
Căn cứ vào điều luật này, thì tất cả các hành động xảy ra dưới thời Lenine, Staline và tại các quốc gia nằm trong tay Cộng sản đều phải bị kết án.
Cộng sản nhân danh nhà nước, nhân danh một ý thức hệ để tiêu diệt hàng chục triệu người vô tội, chỉ vì họ là quý tộc, là thành phần trung lưu, trí thức, địa chủ ,..
Khái niệm về tôị ác chống lại nhân loại rất phức tạp. Ngoài tội diệt chủng dân Do Thái do Đức quốc xã gây nên, ngày 9 tháng 12 năm 1948 Liên Hiệp Quốc xác nhận như sau :.giết hại, vi phạm tinh thần hay thân thể, cưỡng ép từ bỏ điều kiện sinh sống để dấn dần bị tiêu diệt đối với một nhóm dân, một sắc dân hay một tôn giáo điều bị ghép vào tôị ' chống lại nhân loại'.
Bộ hình luật mới của Pháp định nghĩa từ '' diệt chủng'' rộng rãi hơn . Đó là thỏa hiệp đưa đến việc tiêu diệt một phần lớn hay tòan thể một khối người, một sắc tộc, một giai cấp trong xã hội hay một tôn giáo. Quan điểm này cũng không khác nào tư tưởng của Andre Frossard. Theo ông ta, nếu một người bị giết vì lý do đã được sinh ra trong một giai cấp xã hội, một sắc dân hay theo một tôn giáo,.. đều bị coi như tội ác chống nhân loại.
Trong quyển sách '' Cuộc khủng bố đỏ ở Nga''xuất bản năm 1927 tại Bá Linh, sử gia người Nga ông Serguei Melgounov kể lại một mẫu chuyện của một người chi huy đầu tiên của cơ quan tình báo chính trị Xô Viết, có tên là Latziv. Ngày 1 tháng 11 năm 1919 ông ta ra lịnh cho một tên công an dưới quyền là tìm bắt những người thuộc giới trung lưu mà không cần cứu xét tội lỗi. Câu hỏi đầu tiên phải đặt ra là : anh thuộc thành phần nào, gốc gác từ đâu, trình độ học vấn, nghề nghiệp,..
Chính Lenine và đám thân cận của ông ta cũng không dung thứ các đối thủ chình trị. Những đối thủ chính trị này cần phải tiêu diệt ngay. Hành động diệt chủng của nhóm người BônsêVích thực sự tiến hành kể từ năm 1920 khi họ cho giải thể nhóm dân Cosaques. Đàn ông bị xử bắn. Người gìa, phụ nữ và trẻ em bị đưa đi lưu đày. Làng mạc , nhà cửa bị phá hủy.
Trong những năm 1930 , 1932 công tác giải thể nhóm dân Cosaques mạnh mẻ và tòan diện hơn. Staline xử dụng bộ máy tuyên truyền trong nước cũng như bên ngoài về việc kết án xử bắn, đưa đi lưu đày những ai chống lại lịnh ' tập thể hóa '. Tuy rằng những ngưới đưa đi lưu đày không bị giết ngay nhưng với các điều kiện lao động cực khổ, trong điều kiện thời tiết gía lạnh của mùa Đông ở vùng Bắc Tây Bá lợi Á, chẳng còn được bao nhiêu người sống sót. Cho đến nay con số tử vong chưa được chính thức đưa ra, nhưng phải kể đến hàng trăm ngàn.
Trong vụ nạn đói ở vùng Ukraine vào những năm 1932-1933 và những vụ chống tập thể hóa đã có đến trên 6 triệu ngưới chết. Tại vùng này đã diễn ra hai hình thức diệt chủng : diệt chủng giai cấp và diệt chủng sắc dân.
Quốc Xã Đức xử dụng khoa học kỹ thuật hiện đại để thiết lập các phòng hơi ngạt và lò thiêu để giết dân Do Thái. Trong khi Cộng sản xử dụng 'vũ khí đói' để tiêu diệt các sắc dân. Cộng sản tìm đủ mọi cách để kiểm sóat lương thực. Họ chỉ phân phối lương thực cho các phần tử mà họ cho là xứng đáng. Họ phân biệt giữa nhóm người này, nhóm người khác. Tình trạng này đã dẫn đến các nạn đói làm chết hàng triệu người tại các nước Cộng sản.

Bản tổng kết đàu tiên tòan bộ các tội ác được ghi như sau :

Trong những năm 1918-1922 có hàng chục ngàn con tin bị xử bắn mà không được xét xử. Hàng trăm ngàn công nhân và nông dân bị tàn sát vì chống đói chính sách tập thể hoá của Cộng sản.
Nạn đói năm 1922 đã làm cho 5 triệu người chết.
Hàng trăm người Cosaques sống quanh sông DON bị tiêu diệt.
Hàng chục ngàn chết trong các trại tập trung vào những năm 1918-1930.
Hàng trăm ngàn phú nông, trung lưu, trí thức bị đưa đi lưu đày.
Trên 6 triệu dân Uraine bị chết đói trong năm 1932-1933.
Hàng trăm ngàn ngươì thuộc các sấc dân Ba Lan, Ukraine, dân Bắc Âu, dân sống trong vùng Moldave bị đi lưu đày trong những năm 1939-1940 và tái diễn trong những năm 1944-1945.
Năm 1941, nhóm dân Đức nhưng làm việc cho Nga sinh sống dọc theo sông Volga bị đi lưu đày.
Năm 1975-1979 dân ở các thành phố Cao Miên bị đi lưu đày và bị thủ tiêu.
Tiêu diệt từ từ dân Tây Tạng do Cộng sản Trung quốc chủ trương từ năm 1950.

Cho tới nay người ta chưa tính hết tội ác do Lenine, Staline gây ra. Và các tội ác này cũng tái diễn dưới bàn tay của Mao Trạch Đông , Kim Nhật Thành và Pol Pot.
Về phương diện ngôn ngữ của các sử gia, cần phải đưa ra một vấn đề : Sử gia có quyền xử dụng các từ thuộc lãnh vực pháp lý như '' tội ác chống lại nhân lọai' hay '' tôị diệt chủng '' trong lúc nghiên cứu về tính chất của chiến tranh hay không ? Mặc khác , các khái niệm này cũng không nên quá phức tạp để giữ tính khách quan trong lúc sưu tầm tài liệu lịch sử.
Về điểm thứ nhất, lịch sử cho chúng ta thấy tôị ác diệt chủng không phải là tôị ác độc quyền của Đức quốc xã. Hãy nhìn những gì đã xãy ra gần đây ở các nước Bosnie , ở Rwanda , chúng ta sẽ bằng lòng điểm này.Phần thứ hai là chúng ta sẽ không trở lại cái thế kỷ 19. Vào thời điểm đó, sử gia chỉ tìm hiểu sự việc mà không phán đóan.
Nhưng đứng trước thảm họa của nhân loại , sự phá vỡ phẩm gía của con người, các sử gia có thể bỏ qua một số nguyên tắc để cứu xét vấn đề. Sử gia Jean Pierre Azema đã kết án chế độ Đức quốc xã có '' tôị ác chống lại nhân loại''. Và ông Pierre-Vielal Naquet cũng tuyên bố tương tự khi kết án tên Touvier, một người Pháp công tác viên đắc lực cho Đức đuốc xã.
Cũng như vậy, chúng tôi làm những công việc sưu tầm để đưa ra ánh sáng những tôị ác do Cộng sản đã gây ra.
Ngoài ra còn phải đặc trách nhiệm của các chế độ Cộng sản đang nắm quyền hành . Họ là những kẽ tòng phạm. Năm 1987, bộ hình luật của Gia Nã Đại tu chính các điều 3.76 và 3.77 ghi các điểm thuộc tôị ác chống lại nhân loại, gồm có : Mưu toan, tòng phạm, khuyến khích, giúp đỡ để thực hiện tôị ác chống lại nhân loại, âm mưu và tòng phạm sau khi đã xảy ra sự việc.
Vậy mà trong khoảng thời gian từ năm 1920 đến 1950 những người Cộng sản trên thế giới đã hô hào cổ vỏ cho hai tên gây tôị ác Lenine và Staline. Hàng trăm ngàn người tham gia vào phong trào Cộng sản quốc tế. Trong nhừng năm 1950,1960,1970 hàng triệu ngươì sùng bái Mao Trạch Đông của Trung Quốc trong cuộc cải cách văn hoá. Và gần đây còn có nhiều ngươì ca tụng Pol Pot. Về sau họ chỉ trả : chúng tôi đâu có biết.. Mà quả thật không dễ gì biết những gì Cộng sản làm. Bí mật là phương châm họat động của Cộng sản. Nhưng có nhiều người ngày nay đã biết sự thật nhưng họ vẫn êm lặng.
Năm 1969 ông Robert Conquest, một trong những sử gia đầu tiên nghiên cứu về tôị ác của Cộng sản, đã viết :'' Một việc rất rõ là có nhiều ngươì chấp nhận các cuộc thanh trừng diễn ra ở thành phố Mạc tư Khoa trong các năm 1936,1937 và 1938 theo lịnh của Staline. Chính sự chấp thuận này là sự đồng lõa cho các vụ thanh trừng tòan diện tiếp theo sau. Nhiều người ở bên ngoài đã thừa nhận các vụ hành quyết là đúng. Những ngươì này dù chỉ có lời bình phẩm về các vụ thanh trừng này cũng phải chịu trách nhiệm và phải được coi là tòng phạm trong các vụ án chính trị.
Joseph Berger, một cán bộ trong tổ chức Quốc Tế Cộng Sản, ngươì đã từng nếm mùi ở các trại lao động khổ sai , đã kể lại một lá thư của một nữ tù nhân đảng viên Cộng sản được trả tự do sau khi lưu đày với nội dung như sau :'' Các người Cộng sản thế hệ chúng tôi chấp nhận quyền lực của Staline. Họ chấp nhận hành động bạo ác của Staline. Và cả những người Cộng sản khác trên khắp thế giới. Đây là một vết nhơ mà chúng tôi đã vi phạm. Để phá bỏ vết nhơ, chúng tôi phải làm sao cho các tôị ác này không còn tái diễn. Điều gì đã diễn ra ? Phải chăng chúng tôi mất cả lý trí ? Phải chăng chúng tôi là những kẻ phản bội Cộng sản ? Thật ra chúng tôi, kể ca những nhân viện thân cận của Staline đều đã vi phạm các tôị ác. Chúng tôi đã tưởng rằng đó là những đóng góp quan trọng cho việc chiến thắng của Chủ nghĩa xã hội. Chúng tôi cũng tin tưởng tất cả các việc làm để củng cố quyền uy cho đảng Cộng sản ở Liên Xô cũng như cho các đảng Cộng sản trên toàn thế giới. Chúng tôi không bao giờ nghĩ đến có sự tranh chấp giữa chính sách và luân lý..''
Những ngươì Cộng sản Tây phương, mặc dù họ không bị khống chế bơỉ cơ quan NKVD - Bộ nội vụ- của Liên Xô nhưng họ vẫn mù quáng ca ngợi Liên Xô và nhà độc tài Staline. Phải chăng họ đã uống phải liều thuốc tiên nào đó nên luôn luôn tôn sùng quy phục quyền lực tối uy của Liên Xô.
Trong quyển sách nói về cách mạng của Nga, nhà văn Martin Malia đã vén cho chúng ta thấy tấm màn nghịch lý của một '' tư tưởng lớn'' và đã dẫn đến một kết luận : Đó là một tội ác lớn.
Bà Annie Kriegel, một nhà phân tích lớn về chủ nghĩa Cộng sản đã cho thấy hai mặt của chủ nghĩa : Mặt tươi sáng và mặt tối.
Ý thức hệ Cộng sản dự phóng một xã hội tốt đẹp. Điều này đã mê hoặc nhiều người . Nhưng xã hội Cộng sản tước đoạt tất cả trách nhiệm của chúng ta. Họ quyết định mọi việc. Nhiều người ở bên ngoài vì sợ chịu trách nhiệm và tự do đã chấp nhận chủ nghĩa Cộng sản. Nhưng những người sống trong chế độ độc tài Cộng sản thì quá chán ngán. Họ chỉ mong có sự thay đổi. Trong luận đề '' Sự sợ hãi của ý thức tự do '' ông Fromm tuyên bố : tình nguyện làm đầy tớ cho chủ nghĩa Cộng sản.
Những người tình nguyện làm đầy tớ cũng là những kẻ tòng phạm. Khi chấp nhận làm gạch nối cho công tác tuyên truyền che dấu sự thật cũng là tòng phạm.
Phân tích hiện tượng Cộng sản khi đang nắm chính quyền là một việc làm khó khăn.
Ông Jean Ellenstein cho rằng Staline là một hiện tượng vừa mang tính chất bạo tàn của thời cổ Hy Lạp , vừa mang tính độc tài của Đông phương. Nhận định này tương đối chính xác nhưng chưa khai thác được chiều sâu của tính độc tài. Một vài so sánh sau đây sẽ giải thích rõ vấn đề.
Chúng ta bằng lòng dưới thời Nga Hoàng dân chúng bị áp bức. Người Bônsêvích chiến đãu chống lại chế độ Nga Hoàng. Nhưng một khi quyền hành nằm trong tay những người BônsêVích thì sự áp bức con kinh hoàng hơn ở thời Nga Hoàng rất nhiều. Nga Hoàng đưa những tù chính trị ra trước tòa án xét xử, đúng luật lệ của một toà án. Có nghĩa là có luật sư biện hộ cho tôị nhân, có nhân chứng, có dư luận của quần chúng. Đôí vơí Cộng sản, các sự việc trên không hề xảy ra. Người tù trong chế độ Nga Hoàng hưởng đủ quy chế tù nhân. Họ có quyền đọc sách , viết thơ và nếu bị lưu đày, họ đi cùng với gia đình. Họ có quyền đi săn, đi câu cá và có quyền giúp đỡ tù nhân khác ,.. Chính Lenine và Staline cũng đã từng ở tù và bị lưu đày dưới thơì Nga Hoàng. Cả hai đã có những kinh nghiệm này.
Trong tác phẩm '' Kỹ niệm ngôi nhà của người chết'', nhà văn Dostoievski đã làm cho độc giả của ông ta xao xuyến. Nhưng nếu so với các thảm cảnh của thời Lenine, Staline thì chẳng đáng vào đâu.
Từ năm 1888 đến năm 1917, nước Nga xảy ra rất nhìều cuộc rối lọan và bị đàn áp. Đã có 6360 ngươì bị kết án tử hình. Trong số này có 3922 ngươì bị xử bắn. Nhưng so với 4 tháng đàu tiên lên nắm chính quyền, người Bônsêvích đã xử tử nhiều hơn so vơí con số này.
Vào những năm 1920 đến năm 1940, Cộng sản lên tiếng phản đối các cuộc khủng bố của chính quyền quân phiệt ở các nước khác. Chúng ta thử xét xem những gì xảy ra ở Ý. Chế độ Phát xít Ý có ngược đãi các nhà chính trị đối lập. Trong năm 1935 nhà độc tài Mussolini đã bắt vài trăm đói thủ chính trị vào tù và vài trăm người khác bị quản thúc tại các đảo. Trên thực tế có vài ngàn người lưu vong. Đó là những gì mà thế giới đã kết án nhà độc tài Mussolini và chính quyền của ông.
Trong kỳ thế chiến thứ hai, Đức quốc xã đã ra tay đàn áp các thành phần chống đối họ như các ngươì Cộng sản, nhóm xã hội ,nhóm vô chính phủ và một số nghiệp đòan. Đức quốc xã công khai đàn áp và bắt giam những ngươì này . Từ năm 1933 đến 1939 Đức quốc xã đã kết án và xử bắn 20.000 ngươì. Đó là chưa kể đến con số người bị bắn chết vì lý do không đủ tiêu chuẩn sắc tộc thuần tuý tóc vàng, da trắng; những ngươì bịnh tâm thần, tật nguyền hay gìa yếu,..
Hitler đã ra lịnh giết chết những ngươì già ,người bịnh tâm thần bằng hơi ngạt. Từ năm 1933 đến năm 1940 đã có 70.000 người chết vì hơi ngạt. Khi Giáo hội lên tiến phản đối, chương trình dùng hơi ngạt mới ngưng họat động. Sau này rút kinh nghiệm đã dùng hơi ngạt giết chết lớp người thứ ba , đó là giống dân Do Thaí.
Thoạt đầu có vài trăm ngươì Do thái bị giết chết. 35.000 người bị bắt giam vào các trại tập trung và sau đó bị đưa vào các trại tử thần. Khi tấn công vào Liên sô, quân Đức đã giết 15 triệu dân ở các vùng chiếm đóng. Có 5,1 triệu dân Do Thái, 3,3 triệu tù binh Sô Viết và 1,1 triệu dân đã bị bắt vào các trại tử thần. Ngoài con số nạn nhân này, cũng cần phải kể đến vài trăm ngàn dân Tziganes, 8 triệu người bị cưỡng bách lao động khổ sai và 1,6 triệu người còn sống sót lại trong các trại tập trung.
Tòa án Numberg đã kết án những tội phạm và đã công bố những tội ác mà họ đã gây ra. Sau cùng khi tiết lộ hành động diệt chủng giống dân Do Thái đã làm cho lương tâm nhân loại xúc động .
Ở đây chúng tôi không muốn đưa ra một danh sách so sánh về con số kinh hoàng hay bản kết toán về sự ghê tởm về những gì Cộng sản đã làm. Nhưng sự kiện tội ác của Cộng sản đã quá rõ ràng. Chế độ Cộng sản đã giết chết hàng trăm triệu ngươì so với 25 triệu nạn nhân của Đức quốc xã. Với bản đúc kết này, ít ra chúng ta cũng thấy được sự khác nhau giữa hai chế độ trong thế kỷ này. Năm 1945 , Đức quốc xã bị kết án là chế độ bị vi phạm quá nhiều tội ác trong thế kỷ. Trong khi đó chế độ Cộng sản lại được duy trì cho đến năm 1991 với tất cả tính cách pháp lý quốc tế của nó. Cho cả đến ngày hôm nay , Cộng sản vẫn còn ngự trị trên một vài quốc gia với một số tín đồ. Và mặc dù có một vài nước Cộng sản nhìn nhận tội ác của Staline, của Lenine nhưng cho đến nay họ vẫn chưa chịu từ bỏ các nguyên tắc của Lenine và họ cũng chẳng hề bị kết án có liên hệ gì với tội ác này cả.
Các phương pháp của Lenine và sau này được Staline hệ thống hóa, đã được tay chân bộ hạ của hai ông thi hành làm cho chúng ta liên tưởng đến những gì đã xảy ra trong thời Đức quốc xã. Có một số tội ác đã xảy ra trước thời Hitler.
Roudolf Hoess là người được uỷ nhiệm thiết lập trại tử thần Auschwitz . Về sau trại trưởng của trại này tiết lộ cho biết ông có nhận chỉ thị của Uỷ ban trung ương về an ninh một số chi tiết về các trại tập trung của Sô Viết.[ Nên nhớ là đầu năm 1918, Lenine đã ra lịnh cho lưu đày các chính trị đói thủ và và năm 1933 Đức quốc xã cũng áp dụng như vậy]. Tài liệu còn nhấn mạnh Xô Viết tiêu diệt tòan bộ một số dân bằng cách bắt họ lao động khổ sai.
Với mức độ và kỹ thuật gây tội ác cho một số quần chúng đông đảo mà những người Cộng sản đã khai trương áp dụng, và sau đó Đức quốc xã đã làm theo. Dưới cái nhìn của chúng tôi, người ta có thể minh chứng một chân lý về sự liên hệ trực tiếp giữa chế độ Cộng sản và sự ra đời của chế độ Đức quốc xã.
Vào các năm cuối của thập niên 20, cơ quan GPV, một danh xưng mới của cơ quan tình báo chính trị Xô Viết, cho cho ra đời chính sách tỉ lệ phân vùng. Mỗi vùng phải tìm cách bắt đi lưu đày một tỉ lệ '' thành phần thù địch ''nào đó do nhà nước chỉ định. Sau năm 1920, Hồng quân đánh bại quân Hoàng gia [ Bạch quân ], đã xảy ra các cuộc lùng bắt khủng khiếp các sắc dân địa phương Ba Lan và 3 nước vùng Baltique. Việc chuyên chở các người lưu đày trên các toa xe lửa dùng để chở súc vật đã được tái diễn tại các trại tập trung của Đức quốc xã. Năm 1943-1944 trong lúc chiến tranh đang diễn ra ở khắp nơi, Stalin, thay vì cung cấp cho chiến trường, ông ta đã dùng hàng ngàn nhân viên của cơ quan tình báo chính trị cùng với hàng chục ngàn toa xe vào công việc chuyên chở các dân thuộc sắc tộc sống trong vùng Caucase đi lưu đày trong vòng vài ngày.
Đối chiếu những gì đã xảy ra dưới chế độ Đức quốc xã và dưới chế độ Cộng sản , chúng ta sẽ thấy kỳ lạ. Vassili Grossman là ngươì đầu tiên đã nêu ra tôị ác xảy ra ở khám đường Treblinka. Mẹ ông đã bị lính Đức quốc xã giết chết trong khu biệt giam của vùng Berditchev. Ông cũng là một trong những người trưng bày tội ác của Đức quốc xã đã tiêu diệt ngươì Do Thái cư ngụ trân lãnh thổ của Sô Viết.
Trong tập truyện ngắn '' Ròi tất cả cũng đi qua - Tout passe '', ông đã đưa một nhân chứng của vụ chết vì đói ở vùng Urakine. Ông viết : '' Các văn sĩ, kể cả Staline cho rằng phú nông là những ngươì ăn bám , những ký sinh trùng. Họ là những kẻ đã đốt bỏ bông lúa và giết chết trẻ em.'' . Staline cũng còn công khai khuyến khích quần chúng nổi dậy chống lại quần chúng, tiêu diệt tất cả những ngươì mà họ gọi là tầng lớp xấu xa. Staline cho còn cho biết muốn giết họ thì hãy coi thành phần phú nông không phải là người cũng giống như Đức quốc xã coi dân Do Thái cũng không phải là ngươì.
Đức quốc Xã dự trù cho một xã hội tương lai của một sắc dân thuần chủng. Cộng sản chuẩn bị cho ngày mai một xã hội của những người vô sản. Hai cách cải tạo xã hội tuy có khác nhau về cách xử dụng tiêu chuẩn nhưng giống nhau ở mục đích. Nếu cho rằng chủ nghĩa Cộng sản là một chủ thuyết tổng quan thì thật là sai lầm. Nếu nó mang tính chất toàn cầu , thì quả thực một nửa nhân loại không còn xứng đáng để sinh tồn. Bởi nó mang tính chất của chủ nghĩa Quốc xã. Nếu có khác chăng là khác ở chổ, Cộng sản phân chia ra nhiều giai cấp trong khi Quốc xã phân chia ra giống dân và lãnh thổ.
Tội ác của Lenine, Staline và hình ảnh dân Cao Miên dưới thời Pol Pot đã đặt ra một câu hỏi mới cho các luật gia, các sử gia và cho cả nhân loại : Phải xếp vào tội nào đối với những ngươì đã tiêu diệt các thành phần bị ghép vào tội thù địch vì lý do chính trị, tư tưởng, không phải ở phạm vi vài ba cá nhân mà cả tập thể đám đông quần chúng xã hội . Phải chăng cần đặt ra một tội danh mới ? Ngươì Anh đã dùng danh từ Politicide , bao gồm ý nghĩa cuả Chính trị - politipue - và Giết chết - Cide. Người Tiệp Khắc gọi là Tội ác Cộng sản.
Người ta biết gì về những tội ác Cộng sản gây ra ? Người ta muốn biết cái gì, loại nào ? Và tại làm sao phải chờ mãi đến cuối thế kỷ này nó mới có các cuộc nghiên cứu nghiêm túc?
Việc nghiên cứu tội ác của Quốc xã đã có từ lâu và đã đi khá xa so với việc nghiên cứu các cuộc khủng bố của Lenine, Staline. Nói chung, có sự khác biệt khá lớn giữa các cuộc nghiên cứu cần phải vượt qua mặc dù các nước Đông Âu đã gia tăng các cuộc nghiên cứu này.
Một số khác biệt đã được phát hiện. Năm 1945 , lực lượng Đồng minh thắng trận đã chính thức lên án tội ác diệt chũng những người đầu não của Đức quốc xã. Nhiều công trình nghiên cứu có hệ thống và đạt nhiều kết quả trong công tác kết án này. Hàng ngàn quyển sách xuất bản , hàng trăm cuống phim trình chiếu. Như '' Đêm và sương mù - Nuit et Brouillard''; '' Sự chọn lựa của Sophine- Le choix de Sophine''; ''Danh sách của Schindler- La liste de Schindler''. Chỉ riêng ông Raul Hilberg, ông ta đã sưu tầm các chi tiết về thủ tục và phương pháp giết người dân Do Thái dưới thời Đệ Tam Đế Quốc Đức.
Những tên như Himmler, Eischman được thế giới biết đến như biểu tượng của tàn ác ,và dã man của thời đại. Nhưng người ta không hề nói đến những hung thần Cộng sản. Các tên ác ôn như Djerjinski, Iagoda hay Iejev nào có ai biết đến. Còn các tên Lenine, Staline, Hồ chí minh, Mao trạch Đông, thì lại được sùng kính đáng ngạc nhiên. Lại có một viên chức nhà nước Pháp , Le Loto đã dùng các hình ảnh này vào trong chương trình quảng cáo. Có ai bao giờ thấy các hình ảnh của Hitler hay Goebbels trong các sinh họat tương tợ hay không ?
Việc nghiên cứu tội ác của Quốc Xã Đức được chính thức xác nhận. Nguyện vọng của những người sống sót được đáp ứng. Các nhà nghiên cứu được công nhận và các nhà lãnh tụ của quốc gia liên hệ đã làm sáng tỏ gía trị của nền dân chủ. Nhưng tại sao chỉ có tiếng vang rất nhỏ về lời khai của những người sống soát trong chế độ Cộng sản ? Tại sao có sự êm lặng chính trị một cách ngượng ngùng như vậy ? Và nhất là sự êm lặng của quý vị trong Hàn Lâm về thảm họa của Cộng sản từ hơn 80 năm qua đã gây cho hơn 1/ 3 dân số trên 4 lục địa. Tại sao chúng ta bất lực để đặt yếu tố ' Tội ác'' vào trọng tâm trong công việc nghiên cứu chế độ Cộng sản? Tội ác đối với tập thể đông đảo quần chúng; tội ác hành động có âm mưu; tội ác chống lại nhân loại.
Phải chăng chúng ta không có đủ khả năng hiểu biết ? Hay đó chỉ là sự từ chối không muốn biết chỉ vì sợ hãi ?
Lý do của sự che dấu này rất phức tạp. Trước hết đó là hành động cổ điển của những người chủ mưu gây tôị ác. Họ muốn xóa bỏ những gì họ đã làm. Họ không muốn ai nhắt đến.
Năm 1956 Kroutchev đọc một bản văn bí mật nhìn nhận tội ác của Cộng sản, tội ác của các nhà lãnh đạo Cộng Sản, những người hiện đang nắm quyền hành cũng đã nhúng tay vào. Theo lời của một hung thủ, họ mong được che đậy các tội ác và cứ đổ lỗi cho Staline. Họ chỉ là người thừa hành. Vì muốn che dấu các đồng chí của ông ta nên Kroutchev chỉ nêu lên những người Cộng sản là nạn nhân trong các cuộc khủng bố này. Dĩ nhiên cũng có người Cộng sản là nạn nhân thật. Nhưng so với con số thường dân chết thì con số nạn nhân là người Cộng sản thì quá nhỏ. Thay vì kết án, Kroutchev chỉ nói rằng đó là '' Sự lạm dụng dưới thời Staline'' để mong bào chữa cho sự liên tục của chế độ .
Kroutchev cũng trình bày cho biết những trở lực và những người chống đối trong khi viết bản phúc trình mật này. Kể cả nhân vật thân cận của Staline . Tên Kaganovitch là một đảng viên thân cận với Staline. Ông ta có thể cắt cổ cha ông ta nếu như có lịnh, chỉ cần một cái nheo mắt của Staline. Ông ta cho rằng thi hành lịnh của Staline là để phục vụ cho sự nghiệp của đảng. Cũng phải được hiểu là cho cả sự nghiệp của Staline. Sau này Kaganovitch giải thích cho hành động của ông ta là vì ông muốn bảo tồn mạng sống của mình. Ông ta chỉ còn muốn có một điều là làm sao xóa bỏ tội ác của ông. Công việc này chỉ có thể thực hiện được bằng cách phải bảo vệ bí mật các văn khố dự trữ, không ai được tham khảo; kiểm soát tòan diện báo chí; kiểm soát các người ra nước ngoài; tuyên truyền và phóng đại các thành quả của chế độ; các cơ quan truyền thông thực hiện các công tác đầu tiên là ngăn chận tất cả các đề nghị đưa ra ánh sáng các sự thật về tôị ác của Cộng sản.
Vì không bằng lòng với những gì họ đã làm trong quá khứ, những tội phạm tìm mọi cách chống lại những ai muốn tìm hiểu sự thật.
Sau đệ nhi thế chiến, tại Pháp có hai vụ tố cáo tôị ác của Cộng sản. Từ tháng 4 đến tháng giêng năm 1949, tòa án Ba Lê đã xét vụ án ông Victor Kravchenko, cựu công chức cao cấp Xô Viết và là tác gỉa quyển '' Tôi chọn tự do -Je choisi la liberte' ''.
Từ tháng 11 năm 1950 đến tháng giêng năm 1951 cũng tại tòa án BaLê, ông Aragon đã kiện ông David Rousset , một nhà trí thức có khuynh hướng Trotski.
Rousset đã từng bị lưu đày trong các trại tập trung của Đức trong đệ nhị thế chiến. Năm 1946 ông đoạt giải văn chương Renaudot với tác phẩm '' Vũ trụ tập trung - Univers concentrationaire''. Ngày 12 tháng 11 năm 1946, ông Rousset kêu gọi những tù nhân ở Liên Sô hãy thành lập ủy ban điều tra các trại tập trung khổ sai . Báo chí Cộng sản lúc bấy giờ mở chiến dịch chống phá Rousset kịch liệt và chính quyền Xô Viết cho biết là không hề có trại lao động khổ sai ở xứ này. Hưởng ứng lời kêu gọi của Rousset, tờ báo Figaro Litteraire số ra ngày 25 tháng 2 năm 1950 cho đăng một bài báo tựa đề : '' Trại tập trung khổ sai của Sô Viết , Cái gì khốn khổ nhất : Địa ngục hay trại Belzebuth ? '' trong đó bà Magaret-Neuman với tư cách là nạn nhân , tường thuật lại những gì bà đã trãi qua trong trại tập trung của Sô Viết và của Quốc Xã Đức.Những nhà độc tài Sô Viết tìm mọi cách chống lại lương tâm của con người . Họ mở ra một mặt trận rộng lớn với một số vũ khí đồ sộ để can thiệp vào mọi nơi trên thế giới. Họ tuyên bố bài trừ, đe dọa, và làm mất niềm tin đối với những ngươì như Soljenitsine, Boukovski, Zinoviev, Plioutch,.. Họ đuổi những người này ra nước ngoài hay cho đi lưu đày biệt xứ. Họ quản thúc ông Sakharov, nhà bác học đầu tiên chế ra bom nguyên tử tại thành phố Gorgi. Cho Tướng Piotr Grigorenko an trí trong nhà thương điên...
Trước sự đe dọa quá lớn cùng vơí sự che đậy bịp bợm, các nạn nhân không đủ can đảm để phát biểu và cũng không còn khả năng để hội nhập vào cái xã hội còn đầy rẫy những tên chỉ điểm, những hung thủ đang sống nghênh ngang. Trong tác phẩm '' Rồi moị việc cũng qua '', tác giả Vassili Grossman tỏ vẻ thất vọng khi so sánh hai thảm kịch. Thảm kịch Do Thái đã được chính người Do Thái trên tòan thế giới chu lo tưởng niệm. Trong khi thảm kịch của những nạn nhân của chế độ Cộng sản không hề có quyền đòi hỏi bồi thường, cho dù chỉ làm một lễ tưởng niệm nhỏ. Tất cả đều bị cấm kỵ.
Một khi Cộng sản không còn che dấu được một số sự thật như các vụ xử bắn, các trại tập trung, gây ra các nạn đói,.., thì chúng vội vàng chạy tội vụng về. Sau khi nhìn nhận có xảy ra các cuộc khủng bố, họ tìm cách biện minh hợp lý. Họ cho rằng khi người ta đốn gỗ trong rừng thì có các dâm cây bay ra ngoài. Hay muốn chiên trứng gà thì phải đập vỏ trứng. Nhưng nào có chiên trứng gà nào đâu! Cái bịp bợm nhất là cách xử dùng ngôn ngữ của Cộng sản. Hình thức tập trung chúng gọi la trại cải tạo. Các tên cai tù thì mệnh danh là các tên quản giáo. Họ cố biến những tù nhân của chế độ củ thành những ngươì của chế độ mới. Ở các trại tù Xô Viết, các tên cai tù dùng bạo lực bắt tù nhân phải thừa nhận chính quyền. Tại Trung Cộng, các tù nhân là những sinh viên bị cưỡng bách đi lao động. Họ bị bắt buột phải họ các tư tưởng do đảng đưa ra và phải sửa sai tư tưởng cá nhân. Phải nói láo những sự thật. Nó làm cho tư tưởng của con người trở nên loạn thị về xã hội và chính trị. Tuy vậy sự méo mó về đường lối tuyên truyền của Cộng sản còn có thể sửa đổi được, nhưng khó có thể đưa những đã vi phạm tư tưởng trở về cái tri thức thích nghi. Cái ấn tượng đầu tin đã trở thành thiên kiến. Những người Cộng sản nhờ guồng máy tuyên truyền mạnh mẻ, khó có ai sánh kịp, cộng thêm vào đó vơí cách xử dụng ngôn ngữ điếm xão, đôi khi còn dùng vũ lực để chống lại các lời tố cáo về các hành động khủng bố của chúng, chúng tạo được một hàng ngũ chặt chẽ, kéo theo cảm tình viên, lập lại chủ nghĩa Cộng sản. Các người Cộng sản biết xử dụng một cách có hiệu lực nguyên tắc đầu tiên của hệ tư tưởng. Ông Tertullien đã từng tiên bố :'' Tôi tin, dù cho phi lý''.
Nằm trong khuôn khổ tuyên truyền, nhiều nhà trí thức khoa bản đã bán đứng lương tri của họ. Vào năm 1928, văn hào nổi danh của Nga, ông Gorki đã chấp nhận đi viếng các vùng thuộc quần đảo Solovski. Nơi đây là thí điểm tập trung mà sau này theo nhận xét của Soljenitsine, trở thành hệ thống trại tù Goulag. Sau chuyến viếng thăm, nhà đại văn hào Gorki viết các bài báo ca tụng chế độ Sô Viết và quần đảo Solovski. Một nhà văn Pháp, ông Henri Barbusse sau khi đoạt giải văn chương Goneourt vào năm 1916 đã viết bài nịnh hót chế độ Staline. Năm 1928 ông cho xuất bản quyển '' Xứ Georgie tuyệt vời''. Đó là quê hương của Staline. Tại nơi này, Staline cùng với thân cận Ordjonikidze vào năm 1921 đã mở một cuộc tàn sát rùng rợn.
Gần đây, Mario Maccio đã ca tụng Mao và Alain Peyrefitte cũng làm như vậy. Bà Danielle Mitterand cũng từng ca tụng Fidel Castro . Lòng gian tham, sự nhu nhược tính khoe khoang và sự hư ảo đã bị bạo lực cách mạng thôi miên. Các chế độ độc tài , dù với động cơ nào, vẫn luôn luôn có người sùng bái và ca tụng. Và họ cũng cần những người này. Chế độ độc tài Cộng sản cũng vậy.
Đứng trước các lời tuyên truyền của Cộng sản, các nước Tây phương có thái độ mù quáng lạ lùng. Hầu hết các nước Tây Âu đã tỏ ra quá ngây thơ đối với chế độ Cộng sản xão quyệt. Phải chăng họ khiếp sợ trước sức mạnh của Sô Viết hay vì cái vô liêm sĩ của các chính khách? Tại hội nghị Yalta vào năm 1945 đã hiện diện sự mù quáng này. Tổng Thống Hoa Kỳ đã buôn rơi các nước Đông Âu cho Staline và Staline hứa sẽ cho tổ chức bầu cở tại các quốc gia này. Năm 1944, Tổng thống De Gaulle tại Mac Tư khoa, đã bỏ rơi Ba Lan cho bạo chúa Staline để đổi lấy sự chấp thuận của lãnh tụ Cộng sản Pháp Moris Thorez về một bảo đảm an ninh xã hội và chính trị trên đất Pháp khi khi chiến tranh kết thúc.
Việc làm mù quáng này đã củng cố một cách hợp pháp lòng tin của những người Cộng sản Phương Tây và các thành phần khuynh tả. Họ cho rằng ở phía sau bức màn sắt là thiên đàng chủ nghĩa xã hội. Nhiều cuộc tranh luận về vấn đề này trong các nước dân chủ. Họ cho rằng phía bên kia bức màn sắt là một thực thể. Bà Simone Veil nhấn mạnh rằng công nhân cách mạng rất sung sướng vì họ được nhà nước yễm trợ. Một nhà nước ủng hộ chính thức các hoạt động của công nhân. Chỉ có nhà nước mới có quyền ban cho. Chủ nghĩa Cộng sản tự xưng là con đẻ của truyền thống giải phóng, con người và xã hội , một giấc mơ về sự bình đẳng thực sự, một hạnh phúc cho tất cả mọi người. Trong cái hào quang sáng chói này, Cộng sản đã phơi bày tất cả tất cả những điều nhơ nhớp mà chủ nghĩa xã hội đã gây ra.
Dù muốn hay không, sự không biết về chiều sâu của tội ác do Cộng sản gây ra mỗi lúc một gia tăng. Một phần cũng tại sự thờ ơ của các người cùng thời với anh, cha chúng ta. Không phải con người có quả tim chai đá. Ông Tzvetan Todorov nhấn mạnh : '' Ký ức tang chế của cá nhân ta đã cản trở ta cái tri giác cảm xúc các nổi đau khổ của người khác..''.
Thế kỷ 20 là thế kỷ xảy ra quá nhiều tang thương. Con người đã gánh chịu quá nhiều nổi đau khổ cho nên chẳng mấy ai còn có thể động lòng trắc ẩn trước sự đau khổ của người khác.

(còn tiếp)


LƯƠNG TÂM và TÔN GIÁO

Lương tâm và tôn giáo
Trần Quốc Việt
11/10/2009 1:08 sáng
http://www.talawas.org/?p=11346
Qua các vụ trấn áp tôn giáo gần đây, đặc biệt qua sự hành xử của chế độ trong vụ Bát Nhã, niềm hy vọng về một sự thức tỉnh lương tâm trong tầng lớp cầm quyền của chế độ đã thành ảo vọng. Chế độ tự nó không có lương tâm, nhưng chế độ là tập hợp những cá nhân cụ thể ít nhiều đều có lương tâm hẳn hoi. Song đứng trước một cỗ máy cai trị sẵn sàng nghiền nát tất cả những gì nó xem là vật cản trong hiện tại và tương lai, lương tâm của nhiều cá nhân tự động chùn lại và khép mình trong tiếng thở dài cam phận hay lẩn khuất dưới bóng của mái ấm gia đình hay danh vọng.

Chế độ toàn trị sống được là nhờ bạo lực và dối trá. Hai cái này hợp lại và, qua thời gian, đã bào mòn dần các lớp men lương tâm tích lũy từ thời sơ khai của tiến hóa. Cho nên ở Việt Nam có cảnh một em bé bị chủ của quán phở hành hạ dã man bao năm trời mà không ai lên tiếng. Cảnh đám người hiếu kỳ dửng dưng nhìn người bị đụng xe nằm trên đường phố. Cảnh đám đông bị lùa vào các quán cơm tù ngay khi các xe khách ghé vào. Cảnh đánh ghen mà nạn nhân bị lột trần truồng, bị xúc phạm thân thể trước hàng trăm cặp mắt thờ ơ bên lề. Cảnh bao thiếu nữ lui tới các nơi phá thai công khai như đi chợ. Cuộc sống nhân phẩm đã bị hủy diệt từ rất lâu ở mức độ cá nhân trong thời gian quá dài so với đời người, cho nên các sự kiện đàn áp tôn giáo vừa qua là giọt nước cuối cùng làm tràn cái ly vô lương tâm của chế độ khi nó dùng bạo lực trấn áp giới tu sĩ và những người thực hành tôn giáo. Biến cố Bát Nhã là đỉnh cao của bạo lực vì làm tổn thương đến nền văn minh tâm linh và đạo lý của con người. Quyền lực xui khiến những kẻ bên trên cam tâm đi ngược lại hướng tiến hoá của lương tâm con người, còn sự sợ hãi làm đa số ở phía dưới câm lặng và nhẫn nhục trước bao cảnh bất công cá nhân trong đời thường, rồi tiếp tục ngoảnh mặt trước những cảnh bất công lớn hơn ngoài xã hội, rồi dần biến thành một đám đông thầm lặng cùng khiếm khuyết một phần lương tâm bình thường, như lương tâm bình thường của người dân trong các nước theo thể chế dân chủ và tự do.

Nền tảng của tôn giáo là sự yêu thương, đối nghịch với sự bạo lực chính trị nhân danh ý thức hệ. Nhưng ý thức hệ nào chăng nữa cũng chỉ là phần thế tục tạm bợ, còn tôn giáo là lĩnh vực thiêng liêng trường cửu như lòng yêu nước tiềm tàng trong mỗi dân tộc. Theo nhà văn người Anh George Orwell, Marx nhìn tôn giáo với ánh mắt trân trọng và nhân ái, khác hẳn với những tín đồ của bạo lực mượn tên ông làm điều Ác. Tác giả của Trại súc vật viết như sau:
“Chính những kẻ hủy diệt nền văn minh của chúng ta đôi lúc cũng ý thức về điều này. Câu nói nổi tiếng của Marx, ‘tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân’, thường bị cắt ra khỏi ngữ cảnh của nó rồi bị gán một ý nghĩa khác một cách tinh tế nhưng vẫn rất khác ý nghĩa ông muốn nói đến. Marx, dù sao trong đoạn văn ấy, đã không nói rằng tôn giáo đơn thuần là một liều thuốc phiện do bên trên ban xuống; ông nói rằng tôn giáo là cái gì đó do nhân dân tạo ra cho mình để cung cấp một nhu cầu mà ông thừa nhận là có thực. ‘Tôn giáo là tiếng thở dài của linh hồn trong một thế giới không có linh hồn. Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân.’ Phải chăng điều ông muốn nói đơn thuần rằng con người không sống chỉ nhờ vào bánh mì, rằng sự hận thù là không đủ, rằng một thế giới đáng sống không thể dựa trên nền tảng của ‘chủ nghĩa hiện thực’ và súng máy? Giá mà ông thấy trước được ảnh hưởng trí thức của ông sẽ lớn lao như thế, có lẽ ông sẽ lặp lại lời của mình thường xuyên hơn và vang vọng hơn.”
[1]

Tôi đọc ở đâu đó rằng trước khi nhắm mắt, Marx xin gặp một linh mục và nói rằng “Tôi không phải là một người mác-xít”.
Người ta nhìn thấy biểu tượng của thế giới không có linh hồn ấy qua bức hình Mao nhìn xuống cuộc duyệt binh ở Quảng trường Thiên An Môn vừa qua. Sáu mươi năm cái Ác ngự trị được kỷ niệm bằng cuộc phô trương trơ trẽn công cụ của bạo lực – súng ống và binh lính – ở một nơi mà mùi máu oan khuất của bao thanh niên Trung Quốc dường như vẫn còn phảng phất đâu đây, cho dù bao dấu vết của cuộc thảm sát trong đêm ấy đã được chùi rửa sạch bóng từ hai mươi năm về trước.

Trái ngược hoàn toàn với Mao, Đức Dalai Lama là biểu tượng của thương yêu và là niềm hy vọng vào vẻ đẹp vĩnh cửu của lòng nhân ái trong một thế giới vẫn còn cái Ác. Ông thường kể câu chuyện rằng các nhà sư Tây Tạng, sau khi đào thoát đến Ấn Độ, đã đến gặp ông, tâm sự rằng điều họ sợ nhất khi đang ở trong tù là họ sợ một ngày nào đó họ không còn thương yêu những kẻ cai tù hành hạ họ nữa. Tín đồ thật sự còn sót lại của Mao ở Trung Quốc không nhiều, nhưng số lượng người mến phục Đức Dalai Lama ngày càng tăng ở nhiều quốc gia.
Nếu Mao từng nói: “Chủ nghĩa cộng sản không phải là thương yêu. Chủ nghĩa cộng sản là cái búa chúng ta dùng đẻ đập nát kẻ thù”, thì Đức Dalai Lama nói, “Tôn giáo của tôi rất đơn giản. Tôn giáo của tôi là tình thương.” Vì thế ta không lấy làm lạ khi biết rằng vài tuần trước lúc nhắm mắt, ông Triệu Tử Dương đã ngỏ ý nhờ Đức Dalai Lama cầu siêu cho ông. Ước vọng của nhà lãnh đạo một thời của Trung Quốc, mà số phận gắn liền với sự kiện Thiên An Môn, đã được toại nguyện
[2].
Và hôm nay, giá mà tận mắt chứng kiến cảnh các tăng ni đầu xanh tuổi trẻ ở Bát Nhã đứng âm thầm dưới mưa hàng giờ nhìn cái Ác hoành hoành qua những cánh tay bạo lực nối dài của chế độ, những người dân bị kích động, Đức Dalai Lama chắc sẽ xót thương cho những quần chúng xã hội đen này nhiều hơn cả các tăng ni bị nạn như ông từng nhắc nhở người Tây Tạng rằng công an hay cán bộ thi hành lệnh của chế độ “theo luật Nhân Quả, họ sẽ dễ bị đầu thai vào các kiếp đời khốn khổ và hèn mọn, và bổn phận của chúng ta đối với họ, cũng như đối với mọi sinh linh khác, là giúp họ lên được Niết Bàn, thay vì để họ chìm xuống các tầng thấp hơn của sự luân hồi.”
[3]

Cách đây hơn hai ngàn năm, Chúa Jesus kêu lên lần cuối khi bị đóng đinh trên cây thập giá: “Cha ơi, hãy tha thứ cho họ; vì họ không biết việc họ làm…” Tiếng kêu bi thương ấy đã hiện lên trong lòng bao tín hữu Thiên chúa ở Tam Toà và Đồng Hới khi thấy các cha và linh mục bị đánh đập, nhà thờ bị xây kín. Tinh thần thương yêu ấy càng đậm nét hơn qua ánh đạo vàng từ bi và qua những giọt nước mắt nhòe trong mưa của bao mái đầu xanh khao khát muốn tìm lại lương tâm cá nhân đích thực mà thế hệ cha anh đã đánh mất trong đêm dài mịt mùng của lịch sử.

© 2009 Trần Quốc Việt
© 2009 talawas blog

-------------------------------------

[1] George Orwell, My Country Right Or Left 1940-1943, Edited by Sonia Orwell and Ian Augus,Harcourt Brace Jovanovich 1968, trang 18
[2] Time Magazine, ấn bản phát hành tại Mỹ 19/3/2008
[3] My Land and My People, Memoirs of the Dalai Lama of Tibet, Potala Corporation, 1983 trang 233-234


Phản hồi

VanLang nói:
11/10/2009 lúc 3:18 sáng
Trần Quốc Việt: “Tôi đọc ở đâu đó rằng trước khi nhắm mắt, Marx xin gặp một linh mục và nói rằng ‘Tôi không phải là một người mác-xít’.”

Câu nói trên của Marx là do bạn ông (Frederick Engels) kể lại trong một bức thư, nguyên văn như sau: “Nor have you any other source, i.e. other than Malon at second hand, for your reiterated assertion that in France ‘Marxism’ suffers from a marked lack of esteem. Now what is known as ‘Marxism’ in France is, indeed, an altogether peculiar product — so much so that Marx once said to Lafargue: ‘Ce qu’il y a de certain c’est que moi, je ne suis pas Marxiste.’ [If anything is certain, it is that I myself am not a Marxist]”

Nguyên văn bức thư của Engels có thể đọc được ở đây:
http://www.marxists.org/archive/marx/works/1882/letters/82_11_02.htm#356

Đức Đạt-Lai Lạt-Ma Khen Ngợi Cộng Đồng Việt Tị Nạn


Ts. Nguyễn Đình Thắng
Ngày 10 tháng 10, 2009
http://www.machsong.org/modules.php?name=News&file=article&sid=1716
Tại buổi ăn trưa ngày hôm qua với anh bạn hiện làm Giám Đốc Điều Hành của Uỷ Ban Nhân Quyền Tom Lantos của Quốc Hội Hoa Kỳ, tôi tình cờ được anh kể về lời khen ngợi của Đức Đạt-Lai Lạt-Mạ dành cho cộng đồng Việt tị nạn và lời khuyên của ngài cho dân tộc Việt Nam.
Anh cho biết lời khen này được chuyển đến Dân Biểu Cao Quang Ánh tại buổi đón tiếp ngày 6 tháng 10 ở Hoa Thịnh Đốn với Uỷ Ban Nhân Quyền Tom Lantos.

“Người Việt tị nạn chịu khó hợp quần với nhau, chịu khó học hỏi để thăng tiến trong xã hội mới mà vẫn duy trì được nền văn hoá truyền thống của mình. Đó là tấm gương mà người Tây Tạng ở hải ngoại cần noi theo,” Đức Đat-Lai Lạt-Ma nói, theo lời anh bạn này kể lại.



Đức Đạt-Lai Lạt-Ma tâm tình với DB Cao Quang Ánh, trước sự chứng kiến của DB Frank Wolf, 06/10/09 (ảnh Quốc Hội Hoa Kỳ)
http://www.machsong.org/spaw/images/2009-10-06_0693_ECa%20small.jpg

Tò mò, tôi hỏi thăm DB Cao Quang Ánh thì được biết thêm là sau lời khen ngợi, Đức Đạt-Lai Lạt-Ma nhắn nhủ DB Ánh:
“Ông cần dõng dạc lên tiếng cho cộng đồng của Ông ở cấp quốc gia và quốc tế không chỉ như một vị dân biểu Mỹ mà là một vị dân biểu Mỹ gốc Việt.”

Tại buổi tiếp xúc trang trọng và đầy xúc cảm ấy, DB Ánh kể lại chính cuộc đời tị nạn của mình và những nỗ lực của Ông tại Quốc Hội nhằm tranh đấu cho tự do tôn giáo ở Việt Nam. Cũng giống như Đức Đa Lai Lạt Ma, DB Ánh phải rời bỏ quê hương, một đất nước nằm dưới chế độ cộng sản, nơi mà tự do tôn giáo và quyền làm người bị chà đạp hàng ngày. DB Ánh nêu lên tình trạng ở Thái Hà, Tam Toà, Bát Nhã, và những vị phạm khác nữa về tự do tôn giáo ở Việt Nam.

Đức Đạt-Lai Lạt-Ma khuyên nhủ cộng đồng Việt tị nạn, qua DB Ánh, đừng nản chí, đừng bỏ cuộc: “dù đang có nhiều khó khăn, tự do sẽ đến.”
Sau đó Đức Đạt-Lai Lạt-Ma nói về sự quan trọng của tính đa dạng văn hoá nhằm tạo nên một xã hội dung dị và nhân đạo và choàng cho DB Ánh tấm khăn choàng Tây Tạng làm kỷ niệm.

Trước đó, Uỷ Ban Nhân Quyền Tom Lantos đã trao cho Đức Đạt-Lai Lạt-Ma giải thưởng Nhân Quyền Tom Lantos, một giải thưởng cao quý. Tại buổi trao giải thưởng có bà quả phụ Annette Lantos, vợ của DB Tom Lantos. Cùng tham dự còn có nữ Dân Biểu Nancy Pelosi, Chủ Tịch Hạ Viện; Dân Biểu Howard Berman, Chủ Tịch Uỷ Ban Nhân Quyền Tom Lantos; Thượng Nghị Sĩ John McCain; và nhiều thành viên của Quốc Hội.

Điều trùng hợp hi hữu là chính DB Lantos cũng là một người tị nạn cộng sản đến từ Hung Gia Lợi. Khi sinh tiền, DB Lantos là một trong những kiện tướng cho nhân quyền ở Quốc Hội Hoa Kỳ.
Cuộc đón tiếp vị lãnh đạo Phật Giáo Tây Tạng nói lên mối quan tâm của Quốc Hội Hoa Kỳ về tình hình ở Tây Tạng và sự yểm trợ của dân tộc Hoa Kỳ dành cho nguyện vọng tự chủ của dân tộc Tây Tạng. Đáng tiếc là chính Tổng Thống Obama, vì áp lực của Trung Cộng, đã không đón tiếp Đức Đa Lai Lạt Ma.

Hoá ra, do tình cờ mà tôi biết được là Đức Đạt-Lai Lạt-Ma có quan tâm và theo dõi cuộc đấu tranh của cộng đồng Việt tị nạn cho nền tự do tôn giáo ở quê nhà. Tôi muốn chia sẻ điều này với mọi người Việt trên thế giới và ở Việt Nam trong hoàn cảnh của cuộc đàn áp tôn giáo ngày càng leo thang ở trong nước.
Nguyễn Đình Thắng


AI SẼ LÀ TỔNG BÍ THƯ ĐẢNG CSVN VÀO NĂM 2011 ?


Ai sẽ là Tổng bí thư vào Đại hội 11 năm 2011?
Nguyễn Đại Việt
04.10.2009
http://www.x-cafevn.org/node/2226
Đầu năm 2011 sẽ diễn ra Đại hội 11 của Đảng cộng sản Việt Nam. Mối quan tâm của nhiều người là ai sẽ là Tổng bí thư của Đảng cộng sản Việt Nam vào Đại hội 11 đó?
Ở một nước độc tài 1 đảng như ở nước ta, thì Tổng bí thư của Đảng cầm quyền là to nhất, to hơn Thủ tướng và Chủ tịch nước. Chức vụ đó sẽ có ảnh hưởng quan trọng đến đường lối đối nội và đối ngoại của VN.
Hiện nay có 3 ứng cử viên đang muốn ganh đua vào chức vụ này, đó là Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, Thường trực Ban bí thư Trương Tấn Sang, và Trưởng ban Tổ chức Trung ương Hồ Đức Việt.

Cái mạnh của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, là ông ấy là Thủ tướng, chức vụ quan trọng thứ hai của đất nước sau Tổng bí thư. Nhưng cái yếu của ông ấy là ông ấy không có thực tài, và đang bị nhiều dư luận về gia đình giàu có nứt đố đổ vách của con gái, và của em trai. Vây cánh của ông ấy cũng nhiều, nhưng chủ yếu là giới kinh doanh. Ông Dũng đã từng làm Thứ trưởng Bộ công an, nhưng chỉ hơn 1 năm, và ông ấy cũng không có nhiều thủ đoạn để kéo bè cánh, nên đàn em trong ngành công an đầy quyền lực cũng không nhiều. Phe cánh của ông ấy trong quân đội cũng hầu như không có ai, trừ Nguyễn Chí Vịnh, Tổng cục trưởng, Tổng cục 2. Nhiều người nói chỉ cần Nguyễn Chí Vịnh làm vây cánh cho ông Dũng là đủ để giành lấy chức Tổng bí thư. Nhưng hãy chờ xem.

Trong Bộ chính trị, ông Dũng cũng bị nhiều người ghét. Ông Tổng bí thư Nông Đức Mạnh thù ông Dũng vụ PMU18, vì ông Dũng định làm vụ PMU18 để đánh ông Mạnh, vì con rể ông Mạnh làm việc ở đó. Ông Phạm Gia Khiêm, Bộ trưởng Ngoại giao, và ông Nguyễn Sinh Hùng, Phó thủ tướng Thường trực cũng ghét ông DŨng, vì ông Dũng muốn bẩy 2 ông này sang Quốc Hội, để gài ông Nguyễn Thiện Nhân làm Bộ trưởng Ngoại Giao, và gài ông Hoàng Trung Hải vào thay ông Sinh Hùng. Âm mưu này của ông Dũng đến nay đã thất bại thảm hại, ông Nhân không vào được Bộ chính trị, mà là ông Tô Huy Rứa, vây cánh của ông Hồ Đức Việt. Ông Khiêm, ông Hùng vẫn tại vị.

Cái mạnh của ông Trương Tấn Sang là chức Thường trực Tổng bí thư, giống như chức Phó Tổng bí thư. Ông Sang cùng tuổi với ông Nguyễn Tấn Dũng, sinh năm 1949. Cái yếu của ông Sang là ông ấy không có sự ủng hộ sâu trong Đảng. Người ta biết ống Sang từng có nhiều mâu thuẫn với ông Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết, khi ông Sang còn làm Bí thư Sài Gòn. Ông Triết làm Bí thư tính Sông Bé từ năm 1991 đến 1996. Ông Triết ủng hộ kinh tế tư nhân, nhất là công ty của Dũng lò vôi, và ông cũng ủng hộ công ty nước ngoài đầu tư vào Sông Bé, nên kinh tế Sông Bé phát triển rất nhanh.

Ông Triết sinh năm 1942, năm 1996 ông Triết 54 tuổi, được dự kiến sẽ làm Thủ tướng thay ông Kiệt. Nhưng Sông Bé chỉ là tỉnh nhỏ, nên Bộ chính trị dự kiến cho ông Triết về làm Bí thư Sài Gòn, thay ông Sang, để làm bước đệm trước khi làm Thủ tướng. Tháng 1 năm 1997, ông Triết được điều về làm Phó bí thư Sài Gòn, chờ ông Sang (khi đó là Bí thư Sài Gòn) ra Hà Nội, để ông Triết làm Bí thư Sài Gòn. Nhưng ông Sang nhất định không ra Hà Nội. Chờ không được, nên đến tháng 12 năm 1997, ông Triết phải ra Trung ương làm chức Trưởng ban Dân vận Trung ương, để chờ Trung ương giải quyết vấn đề ông Sang.

Năm 1997, ông Lê Khả Phiêu lên làm Tổng bí thư, ông Phiêu quyết tâm giải quyết vấn đề ông Sang, yêu cầu ông Sang phải ra Hà Nội, nếu không sẽ buộc về hưu non. Cuối cùng, đầu năm 2000, ông Sang mới chịu ra Hà Nội, làm chức Trưởng ban Kinh tế trung ương, một chức vụ “ngồi chơi xơi nước”, không có thực quyền. Tháng 1 năm 2000, ông Triết mới về Sài Gòn làm Bí thư được. Chậm mất 3 năm, và nhất là mất đi cơ hội làm Thủ tướng. Ông Triết đành làm chức Bí thư Sài Gòn tới năm 2006, để được bầu làm chức Chủ tịch nước. Nếu ông Sang không ghìm chân ông Triết mất 3 năm đó, thì bây giờ chức Tổng bí thư từ năm đã vào tay ông Triết rồi. Như vậy quan hệ giữa ông Triết và ông Sang không thể gọi là tốt đẹp được. Ông Sang cũng rất may mắn, khi từ chức Trưởng ban Kinh tế trung ương được vào chức Thường trực Ban bí thư, do việc đấu đá nội bộ hồi Đại hội 10 năm 2006, nên ông Sang ở giữa được lợi.

Bây giờ ông Sang nhân cơ hội năm chức Thường trực Ban bí thư đầy quyền lực, và ông cũng còn trẻ, nên rất hang hái tìm cách nắm chức Tổng bí thư vào năm 2011.

Với ông Hồ Đức Việt, chức Trưởng Ban tổ chức Trung ương ngày nay không còn quyền lực như trước nữa. Ông Việt cũng sinh năm 1944, nhiều hơn ông Sang và ông Dũng 5 tuổi. Nhưng ông Việt có thuận lợi là người miền Bắc, lại quê hương Bác Hồ, và là con ông Hồ Tùng Mậu, nhà cách mạng lão thành cùng thời với Bác Hồ. Cái yếu nhất của ông Việt là tuổi. Nếu Tổng bí thư là người miền Nam, thì chắc chắn Thủ tướng phải là người miền Bắc, và ngược lại. Chủ tịch nước thì thường là miền Trung, nhưng cũng có thể tùy tình hình, vì chức vụ này không quan trọng lắm.

Nhưng nếu vào Đại hội 11 năm 2011, chức vụ Chủ tịch nước được gộp vào chức Tổng bí thư, tức Tổng bí thư sẽ kiêm Chủ tịch nước, thì chắc chắn Thủ tướng, và Tổng bí thư phải là một người miền Bắc, một người miền Nam.

Nhưng nếu 3 ông nói trên đánh nhau kịch liệt để tranh chức Tổng bí thư, thì có thể người ở giữa sẽ lên, đó là ông Lê Hồng Anh, Bộ trưởng Công an, hiền lành, ít nói, và không tham gia đấu đá với ai cả. Khi đó thì Thủ tướng chắc chắn phải là một người miền Bắc, và rất có thể sẽ là ông Hoàng Trung Hải, sinh năm 1959. Ông Hải trẻ nhất, cũng hiền lành ít nói, và không tham gia đấu đá với ai cả. Nếu 2 con người hiền lành, trong sạch đó lên lãnh đạo đất nước ta, thì quả là một diễm phúc lớn cho nước Việt Nam ta. Hãy chờ xem.

AI SẼ LÀ TỔNG BÍ THƯ ĐẢNG CSVN VÀO NĂM 2011 ?


Ai sẽ là Tổng bí thư vào Đại hội 11 năm 2011?
Nguyễn Đại Việt
04.10.2009
http://www.x-cafevn.org/node/2226
Đầu năm 2011 sẽ diễn ra Đại hội 11 của Đảng cộng sản Việt Nam. Mối quan tâm của nhiều người là ai sẽ là Tổng bí thư của Đảng cộng sản Việt Nam vào Đại hội 11 đó?
Ở một nước độc tài 1 đảng như ở nước ta, thì Tổng bí thư của Đảng cầm quyền là to nhất, to hơn Thủ tướng và Chủ tịch nước. Chức vụ đó sẽ có ảnh hưởng quan trọng đến đường lối đối nội và đối ngoại của VN.
Hiện nay có 3 ứng cử viên đang muốn ganh đua vào chức vụ này, đó là Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, Thường trực Ban bí thư Trương Tấn Sang, và Trưởng ban Tổ chức Trung ương Hồ Đức Việt.

Cái mạnh của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, là ông ấy là Thủ tướng, chức vụ quan trọng thứ hai của đất nước sau Tổng bí thư. Nhưng cái yếu của ông ấy là ông ấy không có thực tài, và đang bị nhiều dư luận về gia đình giàu có nứt đố đổ vách của con gái, và của em trai. Vây cánh của ông ấy cũng nhiều, nhưng chủ yếu là giới kinh doanh. Ông Dũng đã từng làm Thứ trưởng Bộ công an, nhưng chỉ hơn 1 năm, và ông ấy cũng không có nhiều thủ đoạn để kéo bè cánh, nên đàn em trong ngành công an đầy quyền lực cũng không nhiều. Phe cánh của ông ấy trong quân đội cũng hầu như không có ai, trừ Nguyễn Chí Vịnh, Tổng cục trưởng, Tổng cục 2. Nhiều người nói chỉ cần Nguyễn Chí Vịnh làm vây cánh cho ông Dũng là đủ để giành lấy chức Tổng bí thư. Nhưng hãy chờ xem.

Trong Bộ chính trị, ông Dũng cũng bị nhiều người ghét. Ông Tổng bí thư Nông Đức Mạnh thù ông Dũng vụ PMU18, vì ông Dũng định làm vụ PMU18 để đánh ông Mạnh, vì con rể ông Mạnh làm việc ở đó. Ông Phạm Gia Khiêm, Bộ trưởng Ngoại giao, và ông Nguyễn Sinh Hùng, Phó thủ tướng Thường trực cũng ghét ông DŨng, vì ông Dũng muốn bẩy 2 ông này sang Quốc Hội, để gài ông Nguyễn Thiện Nhân làm Bộ trưởng Ngoại Giao, và gài ông Hoàng Trung Hải vào thay ông Sinh Hùng. Âm mưu này của ông Dũng đến nay đã thất bại thảm hại, ông Nhân không vào được Bộ chính trị, mà là ông Tô Huy Rứa, vây cánh của ông Hồ Đức Việt. Ông Khiêm, ông Hùng vẫn tại vị.

Cái mạnh của ông Trương Tấn Sang là chức Thường trực Tổng bí thư, giống như chức Phó Tổng bí thư. Ông Sang cùng tuổi với ông Nguyễn Tấn Dũng, sinh năm 1949. Cái yếu của ông Sang là ông ấy không có sự ủng hộ sâu trong Đảng. Người ta biết ống Sang từng có nhiều mâu thuẫn với ông Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết, khi ông Sang còn làm Bí thư Sài Gòn. Ông Triết làm Bí thư tính Sông Bé từ năm 1991 đến 1996. Ông Triết ủng hộ kinh tế tư nhân, nhất là công ty của Dũng lò vôi, và ông cũng ủng hộ công ty nước ngoài đầu tư vào Sông Bé, nên kinh tế Sông Bé phát triển rất nhanh.

Ông Triết sinh năm 1942, năm 1996 ông Triết 54 tuổi, được dự kiến sẽ làm Thủ tướng thay ông Kiệt. Nhưng Sông Bé chỉ là tỉnh nhỏ, nên Bộ chính trị dự kiến cho ông Triết về làm Bí thư Sài Gòn, thay ông Sang, để làm bước đệm trước khi làm Thủ tướng. Tháng 1 năm 1997, ông Triết được điều về làm Phó bí thư Sài Gòn, chờ ông Sang (khi đó là Bí thư Sài Gòn) ra Hà Nội, để ông Triết làm Bí thư Sài Gòn. Nhưng ông Sang nhất định không ra Hà Nội. Chờ không được, nên đến tháng 12 năm 1997, ông Triết phải ra Trung ương làm chức Trưởng ban Dân vận Trung ương, để chờ Trung ương giải quyết vấn đề ông Sang.

Năm 1997, ông Lê Khả Phiêu lên làm Tổng bí thư, ông Phiêu quyết tâm giải quyết vấn đề ông Sang, yêu cầu ông Sang phải ra Hà Nội, nếu không sẽ buộc về hưu non. Cuối cùng, đầu năm 2000, ông Sang mới chịu ra Hà Nội, làm chức Trưởng ban Kinh tế trung ương, một chức vụ “ngồi chơi xơi nước”, không có thực quyền. Tháng 1 năm 2000, ông Triết mới về Sài Gòn làm Bí thư được. Chậm mất 3 năm, và nhất là mất đi cơ hội làm Thủ tướng. Ông Triết đành làm chức Bí thư Sài Gòn tới năm 2006, để được bầu làm chức Chủ tịch nước. Nếu ông Sang không ghìm chân ông Triết mất 3 năm đó, thì bây giờ chức Tổng bí thư từ năm đã vào tay ông Triết rồi. Như vậy quan hệ giữa ông Triết và ông Sang không thể gọi là tốt đẹp được. Ông Sang cũng rất may mắn, khi từ chức Trưởng ban Kinh tế trung ương được vào chức Thường trực Ban bí thư, do việc đấu đá nội bộ hồi Đại hội 10 năm 2006, nên ông Sang ở giữa được lợi.

Bây giờ ông Sang nhân cơ hội năm chức Thường trực Ban bí thư đầy quyền lực, và ông cũng còn trẻ, nên rất hang hái tìm cách nắm chức Tổng bí thư vào năm 2011.

Với ông Hồ Đức Việt, chức Trưởng Ban tổ chức Trung ương ngày nay không còn quyền lực như trước nữa. Ông Việt cũng sinh năm 1944, nhiều hơn ông Sang và ông Dũng 5 tuổi. Nhưng ông Việt có thuận lợi là người miền Bắc, lại quê hương Bác Hồ, và là con ông Hồ Tùng Mậu, nhà cách mạng lão thành cùng thời với Bác Hồ. Cái yếu nhất của ông Việt là tuổi. Nếu Tổng bí thư là người miền Nam, thì chắc chắn Thủ tướng phải là người miền Bắc, và ngược lại. Chủ tịch nước thì thường là miền Trung, nhưng cũng có thể tùy tình hình, vì chức vụ này không quan trọng lắm.

Nhưng nếu vào Đại hội 11 năm 2011, chức vụ Chủ tịch nước được gộp vào chức Tổng bí thư, tức Tổng bí thư sẽ kiêm Chủ tịch nước, thì chắc chắn Thủ tướng, và Tổng bí thư phải là một người miền Bắc, một người miền Nam.

Nhưng nếu 3 ông nói trên đánh nhau kịch liệt để tranh chức Tổng bí thư, thì có thể người ở giữa sẽ lên, đó là ông Lê Hồng Anh, Bộ trưởng Công an, hiền lành, ít nói, và không tham gia đấu đá với ai cả. Khi đó thì Thủ tướng chắc chắn phải là một người miền Bắc, và rất có thể sẽ là ông Hoàng Trung Hải, sinh năm 1959. Ông Hải trẻ nhất, cũng hiền lành ít nói, và không tham gia đấu đá với ai cả. Nếu 2 con người hiền lành, trong sạch đó lên lãnh đạo đất nước ta, thì quả là một diễm phúc lớn cho nước Việt Nam ta. Hãy chờ xem.