Thứ Sáu, 21 tháng 12, 2012

Bên thắng cuộc – Chương V: Chiến tranh



Chương V: Chiến tranh
Mặc dù từ giữa năm 1977, Pol Pot bắt đầu được nói tới như những bóng ma áo đen, đêm đêm cầm dao quắm lẻn sang giết chóc dọc biên giới Tây Nam, nhưng người dân Việt Nam vẫn sững sờ khi ngày 25-1-1978, tình trạng chiến tranh được Chính phủ công khai thừa nhận. Kể từ khi Hồ Chí Minh đọc tuyên ngôn độc lập, đất nước trải qua ba mươi năm chiến tranh liên tiếp chiến tranh. Chưa kịp hưởng một ngày thực sự yên vui, trai tráng lại phải khoác lên vai cây súng, lần này là đánh nhau với những “người anh em” Cộng sản.

Biên giới Tây Nam
Ngày 25-1-1978, tại Thành phố Hồ Chí Minh, ông Ngô Điền, vụ trưởng Vụ Thông tin Báo chí Bộ Ngoại Giao, chủ trì họp báo, cho biết nhà cầm quyền Campuchia đã huy động phần lớn lực lượng quân đội của họ đến đóng dọc biên giới, mở những cuộc tiến công quy mô tiểu đoàn, trung đoàn, rồi sư đoàn vào sâu trong lãnh thổ Việt Nam. Cuộc họp báo của ông Ngô Điền diễn ra bốn ngày sau khi Khmer Đỏ kết thúc một cuộc tấn công kéo dài trên vùng biên giới Tây Nam. Từ ngày 11 đến 19-1-1978, ba trung đoàn Khmer Đỏ đã đánh vào vùng Tịnh Biên, Phú Cường ở bờ đông kênh Vĩnh Tế, sâu hơn 3km trong lãnh thổ Việt Nam. Ngày 18-1-1978, hai trung đoàn khác đã tiến công lấn chiếm khu vực Giang Thành, thuộc huyện Hà Tiên, Kiên Giang. Trong ngày 21-1-1978, ba tiểu đoàn Khmer Đỏ chiếm Rộc Xây, một khu vực ở sâu trong đất Việt Nam từ 10-12km. Ông Ngô Điền nói: “Nghiêm trọng là ngày 19-1-1978, lần đầu tiên họ (Pol Pot) dùng pháo tầm xa cỡ lớn đặt trên đất Campuchia bắn hàng trăm quả đạn vào thị xã Châu Đốc và vùng chung quanh thị xã Tây Ninh làm chết và bị thương nhiều người, phá hoại nhà cửa và tài sản của nhân dân Việt Nam”219. Ông Điền đặc biệt lưu ý: “Lực lượng vũ trang Campuchia không chỉ tàn sát người Việt Nam mà còn tàn sát một số người Campuchia dọc biên giới, mổ bụng, moi gan rồi quay phim chụp ảnh nhằm mục đích vu cáo Việt Nam”. Hai tù binh Khmer Đỏ do ông Ngô Điền đưa đến cuộc họp báo đã “thừa nhận những hành động của Pol Pot” và tiết lộ: “Ban chỉ huy trung đoàn nói với chúng tôi rằng, Việt Nam muốn xâm lược Campuchia, Việt Nam là kẻ thù số một”220. Khmer Đỏ đã khai chiến một ngày sau khi họ chiếm được Phnom Penh. Ngày 18-4-1975, ngay sau khi Khmer Đỏ chiếm được thành phố Ta Keo, Soeun, chỉ huy trung đoàn 120, đã cho triển khai quân dọc biên giới Việt Nam. Seoun, con rể của Ta Mok, tư lệnh quân đội Khmer Đỏ, tuyên bố: “Chúng ta phải đánh Việt Nam vì mười tám tỉnh của chúng ta, kể cả Prey Nokor (Sài Gòn) đang ở đó”. Ngày 19-4-1975, một người con rể khác của Ta Mok, Khe Muth, đã cho hải quân đổ bộ lên đảo nhỏ thuộc vịnh Thái Lan và tấn công đảo Phú Quốc. Quân đội Sài Gòn đã phải chiến đấu với quân của Khe Muth cho tới tận ngày 30- 4-1975. Ngày 1-5-1975, Khmer Đỏ quấy rối nhiều nơi dọc theo biên giới từ Tây Ninh đến Hà Tiên. Ngày 4-5-1975, một lực lượng đổ bộ lên đảo Phú Quốc, nhưng đã bị Quân đội Nhân dân Việt Nam, vừa thay thế Quân đội Sài Gòn, đánh đuổi. Ngày 10-5-1975, Pol Pot cho quân đổ bộ lên quần đảo Thổ Chu, triệt phá làng mạc, bắn giết và bắt đi 515 người. Ông Phạm Văn Trà, khi ấy là trung đoàn trưởng Trung đoàn U Minh, đơn vị trực tiếp đánh chiếm đảo Phú Quốc và Poulo Vai từ tay Khmer Đỏ, kể: “Hàng trăm ngư dân của ta sinh sống lâu nay ở trên đảo Phú Quốc, thấy tàu đổ quân Pol Pot lên bờ lại nghĩ là quân Giải phóng, không đề phòng và không kịp chạy, liền bị chúng bắt ngay lập tức. Chỉ những ai đi vắng mới thoát nạn. Lính Pol Pot tập trung tất cả thường dân vô tội, xả súng bắn chết rồi hất xác xuống biển”221. Ngày 2-6-1975, ông Nguyễn Văn Linh, đại diện cho Đảng Lao động Việt Nam tới Phnom Penh gặp Bí thư Pol Pot. Trong chiến tranh, hai người đã từng biết nhau và tại cuộc gặp này, Pol Pot nói: “Quân đội Campuchia do không nắm được địa lý nên đã để xảy ra va chạm đổ máu rất đau xót”222. Pol Pot nói vậy, nhưng mãi cho tới ngày 6-6-1975, khi Quân đội Việt Nam tiến đánh, bắt sống sáu trăm tù binh, Khmer Đỏ mới bỏ chạy và bị truy đuổi tới một hòn đảo mà phía Việt Nam gọi là Hòn Trọc, phía Campuchia gọi là Poulo Vai. Một tuần sau, Pol Pot, Nuon Chea và Ieng Sary viếng thăm Hà Nội, đề nghị Việt Nam ký một “hiệp ước hữu nghị, tôn trọng độc lập, chủ quyền của nhau”. Do Pol Pot lồng vào vấn đề ranh giới trên vịnh Thái Lan nên lúc đó “hiệp ước” chưa được ký. Từ trung tuần tháng 5-1975, Bộ Chỉ huy chiến dịch giải phóng các đảo mà phía Việt Nam gọi là Hòn Ông, Hòn Bà, phía Campuchia gọi là Poulo Wai, được thành lập. Poulo Wai nằm cách thị xã Rạch Giá 220km và cách An Thới, Phú Quốc 113km về phía tây. Hòn Ông cao năm mươi mốt mét, Hòn Bà cao sáu mươi mốt mét, nằm song song, cách nhau ba cây số, diện tích tương đương nhau. Mỗi đảo có một bãi cát vàng; còn lại bốn bề của đảo đều là vách đá dựng đứng. Quân đội Sài Gòn từng xây trên đảo Hòn Bà một cây đèn biển và một sân bay dã chiến, chủ yếu cho trực thăng và máy bay trinh sát L.19 đậu. Trung đoàn U Minh được giao đánh chiếm Poulo Wai trong vòng hai đến ba ngày. Mặc dù được trang bị tàu há mồm và có sự hiệp đồng tác chiến của máy bay ném bom A.37, trực thăng vũ trang và máy bay trinh sát L.19, nhưng do lực lượng Pol Pot chiếm đảo sử dụng hỏa lực mạnh nên chiến sự kéo dài từ ngày 5-6-1975 cho đến sáng 14-6-1975, Trung đoàn U Minh mới làm chủ hoàn toàn hai đảo, bắt sống 782 lính Khmer Đỏ223. Ngày 2-8-1975, đích thân Bí thư Thứ nhất Lê Duẩn đến Phnom Penh, ký với Pol Pot một bản thông cáo chung. Phía Việt Nam đồng ý trả lại Poulo Wai cho Campuchia. Ngày 4-8-1975, khi Nuon Chea, phó bí thư Trung ương Đảng Campuchia, tới Hà Nội, ông ta được Nguyễn Văn Linh thông báo: “Lực lượng vũ trang Việt Nam không còn ở đảo Trọc nữa”. Nuôn Chea nói: “Vấn đề đảo Wai, thay mặt Đảng, chúng tôi xin cảm ơn sâu sắc”. Nhưng khi ông Linh thắc mắc về số phận của 515 người dân Thổ Chu bị Khmer Đỏ bắt đi hôm 10-5-1975, Nuôn Chea chỉ hứa: “Sẽ giải quyết”224. Từ đây, sẽ không ai còn được nghe nói tới số phận của 515 người dân Việt Nam này. Tháng 4-1976, hai đảng Campuchia và Việt Nam thỏa thuận sẽ có cuộc gặp vào tháng 6 năm đó giữa lãnh đạo cấp cao để bàn bạc giải quyết vấn đề biên giới, tạo tiền đề cho việc ký kết về mặt nhà nước một hiệp ước về biên giới225. Cuộc đám phán gần như không đạt được kết quả nào, nhưng ngày 23-5-1976 trong thư gửi Bộ Chính trị Đảng Lao động Việt Nam, Nuon Chea vẫn dùng những lời lẽ thắm thiết: “Công việc của hai đoàn chúng ta trong thời gian qua đã đạt được thắng lợi lớn, củng cố và phát triển hơn nữa tình đoàn kết chiến đấu… Hai đoàn chúng ta đã hiểu biết, thông cảm với nhau và hết sức chân thành trên tinh thần là bạn chiến đấu là anh em cách mạng”226. Khmer Đỏ cho đến lúc bấy giờ vẫn được gọi là đồng chí, và Hà Nội đã không phân tích đúng mức các báo cáo của bộ đội biên phòng lúc bấy giờ. Theo ông Ngô Điền: “Năm 1978, tôi đưa đoàn nhà báo nước ngoài đến vùng biên giới An Giang và Tây Ninh, bản thân tôi sững sờ, ghê tởm trước hành động dã man của bọn diệt chủng. Về Hà Nội, tôi gặp anh Phạm Văn Xô, ủy viên Trung ương Đảng. Khi ở Trung ương Cục miền Nam anh thường được giao liên hệ với bọn Pol Pot – Ieng Sary. Tôi thuật lại cho anh những điều mắt thấy tai nghe về tội ác của Pol Pot. Cho đến lúc đó, anh Hai Xô vẫn còn cho rằng những tội ác đấy có thể do chủ trương của lãnh đạo địa phương”227. Chỉ trong năm tháng đầu tiên sau ngày Pol Pot cầm quyền, đã có hơn 150 nghìn người từ Campuchia chạy sang tị nạn tại các tỉnh biên giới Việt Nam; trừ những người gốc Việt, hàng chục nghìn người Hoa và người Khmer đã bị buộc quay trở lại. Số phận của họ, cũng như của hàng triệu người Campuchia khác, được tin là đã bị các Angkars đặt dưới dao, dưới búa228. Hàng trăm người thân của những người Khmer Issarak tập kết ra miền Bắc Việt Nam, trở về gia nhập Khmer Đỏ từ năm 1970, cũng đã bị giết khi đến Campuchia tìm chồng, cha, sau ngày “Phnom Penh giải phóng”.

Pol Pot

Cuối tháng 7-1976, lần đầu tiên một đoàn nhà báo nước ngoài được phép đến Campuchia. Đoàn do ông Trần Thanh Xuân, phó tổng giám đốc Thông tấn xã Việt Nam, dẫn đầu. Tuy vẫn rất lịch lãm, thân thiện và tỏ rõ “tình hữu nghị giữa hai dân tộc”, nhưng trong suốt quá trình làm việc, Pol Pot vẫn giữ tư thế nguyên thủ quốc gia với ông Xuân. Không ai biết, trong thời gian học đại học ở Paris, cũng như nhiều người Khmer cộng sản khác, Pol Pot thường xuyên đến nhà ông Xuân, có khi chỉ là để lục cơm nguội. Ở Paris, nhà ông Xuân được những người Khmer coi như một cơ sở của Đông Dương Cộng sản Đảng. Cử chỉ riêng tư duy nhất mà ông ta thể hiện là trước khi chia tay đoàn nhà báo, Pol Pot ghé tai ông Xuân hỏi nhỏ: “Chị có khỏe không anh?”. Thời thơ ấu, Pol Pot được mô tả là một cậu bé nghiêm túc học hành thay vì tham gia các trò chơi với bạn bè cùng lứa. Cha mẹ Pol Pot, một phú nông ở vùng Kongpong Thom, “có sáu con trâu và chín hecta ruộng”. Pol Pot – đứa con út của họ, sinh ngày 19-5-1925 với tên gọi là Saloth Sar – thay vì làm ruộng ở quê nhà, đã được đưa đến Phnom Penh, nơi chị gái đang là một cung nữ và anh trai đang làm việc trong ban nghi lễ Hoàng cung thời vua Monivong.

Sau một năm sống trong môi trường khép kín của Hoàng gia, cậu bé Saloth Sar bắt đầu sáu năm trong một trường dòng quý tộc. Năm mười sáu tuổi, Saloth Sar quay lại Kongpong Thom học trung học. Lúc ấy, Phnom Penh đang náo động bởi các phong trào đòi độc lập của giới thanh niên học sinh. Thành phố lớn nhất mà Saloth Sar đặt chân tới là Sài Gòn, chặng nghỉ trước khi xuống tàu sang Pháp sau khi nhận được học bổng học ngành vô tuyến điện. Năm 1949, tới Paris, Saloth Sar bắt đầu hoạt động cho dù được người anh trai làm việc ở Hoàng cung khuyên là không nên dính dáng tới chính trị. Tại đây, Saloth Sar gặp Yeng Sary, một sinh viên người Khmer sinh ra ở Việt Nam.

Trong đám cưới của Yeng Sary với Khieu Thirith – một sinh viên đang học về văn chương Anh tại Sorbonne – Saloth Sar đã gặp và sau đó cưới Khieu Ponnary, chị gái Thirith. Họ cùng tham gia phái bộ Campuchia trong Đảng Cộng sản Pháp. Trong thời gian đó, chàng sinh viên Saloth Sar vẫn được coi là một con người lịch lãm, khiêm tốn. Bạn bè có cảm giác cậu ta không giết nổi ngay cả một con gà. Tháng 1-1953, Saloth Sar trở về Campuchia vì bị cắt học bổng sau ba năm liên tiếp thi rớt. Những ngày đó, Sihanouk vừa ra lệnh thiết quân luật, trấn áp phong trào đòi độc lập đã trở nên cực đoan ở Phnom Penh. Sar theo anh trai, Saloth Chhay, bắt liên lạc với tổ chức cộng sản tại Campuchia. Sau khi xác minh đúng Saloth Sar đang là đảng viên Đảng Cộng sản Pháp, Phạm Văn Ba – một đảng viên người Việt Nam – đồng ý cho anh ta sinh hoạt trong Đảng Nhân dân Cách mạng Khmer. Sau Đại hội lần thứ II – tháng 2-1951, Đảng Cộng sản Đông Dương đổi tên thành Đảng Lao động Việt Nam – những người cộng sản Lào, Khmer trong năm ấy đã được giúp đỡ để lập ra đảng riêng. Ngày 21-9-1951, Lê Đức Thọ và Nguyễn Thành Sơn triệu tập các đảng viên người Khmer có mặt ở Việt Bắc tổ chức Đại hội thành lập Đảng Nhân Dân Cách mạng Khmer; Anchar Mean, người được biết nhiều với cái tên Việt Nam là Sơn Ngọc Minh, được cử làm chủ tịch. Sơn Ngọc Minh là người sáng lập Phong trào Isarak năm 1948, một phong trào có ảnh hưởng trên địa bàn bốn tỉnh gần Việt Nam. Tuy nhiên, các tổ chức cộng sản trên đất Khmer lúc ấy vẫn được lãnh đạo bởi những đảng viên người Việt. Saloth Sar và một số đảng viên đã từng du học ở Pháp về được đưa vào sinh hoạt trong một chi bộ phần lớn là đảng viên Việt Nam và do một người Việt làm bí thư. Những người Khmer này thường chỉ được các đàn anh Việt Nam giao những công việc tạp vụ; điều này đã để lại cho họ nhiều ấn tượng không tốt. Người Pháp trao trả độc lập cho ông hoàng Sihanouk từ năm 1953. Chính phủ Hoàng gia đã ngăn cản việc Hiệp định Geneva dành cho những người Khmer Cộng sản có được một vùng “tập kết” như những người kháng chiến Issara của Lào. Hơn 1.000 đảng viên người Khmer được đưa ra miền Bắc Việt Nam vào năm 1954, trong đó có Sơn Ngọc Minh. Những đảng viên ở lại hoạt động bí mật dưới quyền của Sieu Heng và Tou Samouth, chịu sự truy lùng gắt gao của chính quyền Sihanouk. Năm 1959, Sieu Heng đầu hàng, nhiều cơ sở Đảng bị đàn áp. Tháng 9-1960, Đảng Nhân dân Cách mạng Khmer tổ chức đại hội bầu Tou Samouth, một người có quan hệ tốt với miền Bắc Việt Nam, làm bí thư. Nhưng, năm 1962, Tou Samouth đã “mất tích” khi vừa từ Hà Nội về; Pol Pot, khi ấy đang là phó bí thư, đương nhiên trở thành bí thư. Thế hệ những người Khmer Cộng sản gốc nông dân và các Phật tử ủng hộ những người cộng sản Việt Nam bắt đầu được thay thế bởi những người đã từng du học ở Paris, nuôi tinh thần chống Việt Nam, cho dù khi ấy Khmer Đỏ phải dạt về vùng rừng núi giáp Việt Nam và phải dựa vào những người Việt Nam Cộng sản.

Đi dây

Norodom Sihanouk được coi là một “ông hoàng đi dây”. Tuy nhiên, trong nửa cuối thế kỷ 20, không chỉ có ông – vị vua của một một quốc gia thờ thần bốn mặt – các bên dính líu đến cuộc chiến tranh Việt Nam đều có những mối quan hệ phức tạp với nhau. Trong khi trục lợi vai trò trung lập của Phnom Penh, tất cả đều để mặc cho Pol Pot phát triển nhanh phong trào Khmer Đỏ.

Kể từ khi người Việt mở mang bờ cõi xuống phía Nam, nhà Nguyễn bắt đầu nhìn thấy vị trí chiến lược của Lào và Campuchia đối với an ninh quốc gia. Hoàng đế Minh Mạng đã từng coi Campuchia là “phên dậu” trong thế chống lại quân Xiêm. Người Pháp cũng đã không dừng tham vọng thuộc địa của họ ở Việt Nam mà đưa quân ngược dòng Mekong, đến Lào, Campuchia, rồi gộp chung ba quốc gia khác biệt về văn hóa thành một xứ gọi là Đông Dương. Trong chiến tranh chống Pháp, Đại tướng Võ Nguyên Giáp coi “Đông Dương là một đơn vị chiến lược, là một chiến trường”. Khi miền Bắc xác định, “bạo lực” là “đường lối của cách mạng miền Nam”, một con đường men theo lãnh thổ Lào, Campuchia – thường được gọi là đường mòn Hồ Chí Minh – bắt đầu được thiết lập. Người Mỹ biết rất rõ miền Bắc Việt Nam sử dụng các căn cứ ở Hạ Lào và ở Campuchia như một bàn đạp cho các cuộc tấn công vào miền Nam Việt Nam. Khi chưa chính thức vào Nhà Trắng, Nixon đã yêu cầu “báo cáo chính xác về những gì kẻ địch có ở Campuchia”, đồng thời đặt ra mục tiêu “phá hủy các căn cứ được xây dựng ở đó”. Người Mỹ cũng biết khá chính xác việc miền Bắc sử dụng cảng Sihanoukville để nhận vũ khí từ Liên Xô. Trong thập niên 1960, Sihanouk đã khá thẳng tay với Cộng sản, Chính phủ Hoàng gia tuyên án tử hình vắng mặt Saloth Sar; năm 1967, ba bộ trưởng cánh tả – Khieu Samphan, Hou Youn, Hu Nim – đã phải bỏ vào rừng với Khmer Đỏ. Nhưng Sihanouk lại là “bạn thân” với Bắc Kinh và Hà Nội. Ông làm ngơ cho miền Bắc Việt Nam lập căn cứ trên lãnh thổ của mình. Mối quan hệ khăng khít của Sihanouk với Hà Nội, Bắc Kinh và các quốc gia trong Phong trào không liên kết đã gây lo ngại cho Việt Nam Cộng hòa. Tổng thống Ngô Đình Diệm được nói là đã ủng hộ lãnh tụ đối lập Sam Sary và giúp đỡ cuộc nổi loạn của Tướng Dap Chuon. Đại sứ Việt Nam Cộng hòa Ngô Trọng Hiếu từng bị cáo buộc đứng sau lưng một vụ mưu sát Sihanouk bằng bom. Tháng 8-1963, Sihanouk cắt quan hệ ngoại giao với miền Nam Việt Nam và sau đó từ chối viện trợ kinh tế, quân sự của Mỹ. Tháng 5-1965, Sihanouk cắt quan hệ với Mỹ và sang tháng 6-1965, ông công khai ủng hộ Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam. Miền Bắc Việt Nam đánh giá cao vai trò của Hoàng thân Sihanouk tới mức, cuối năm 1964, khi Pol Pot theo đường mòn Hồ Chí Minh ra Hà Nội, ông ta đã được đề nghị ủng hộ chính sách “chống ngoại bang” của ông Hoàng. Pol Pot đã ghi điều này vào “sổ đen” như một bằng chứng các đồng chí Việt Nam đã không hết lòng với ông ta. Mục tiêu của Pol Pot không phải là chống Mỹ mà là cầm quyền, nhưng làm sao có thể cầm quyền khi Chính phủ Hoàng gia vững mạnh. Từ Hà Nội, Pol Pot đến Bắc Kinh và ở lại đây năm tháng. Thời gian đó, Cách mạng Văn hóa đang ngự trị đất nước Trung Hoa. Pol Pot chia sẻ nhiều mục tiêu của cuộc cách mạng này và nhận ra sự khác biệt trong con đường cách mạng của Pol Pot và Hà Nội. Từ đầu năm 1968, Khmer Đỏ bắt đầu tiến hành những hoạt động du kích lẻ tẻ, bắt cóc, phục kích nhắm vào các quan chức trong Chính quyền Sihanouk. Một số cuộc nổi dậy do Pol Pot tổ chức ở nông thôn bị Sihanouk khủng bố tàn khốc. Du kích Khmer Đỏ xin Việt Nam vũ khí để tự vệ, nhưng phía Việt Nam không thể đáp ứng vì khi ấy miền Bắc đang cần Sihanouk. Sihanouk, tất nhiên, phức tạp hơn rất nhiều so với những gì mà các bên đánh giá. Một mặt, ông làm ngơ cho miền Bắc lập các căn cứ trên đất Campuchia; mặt khác, ngày 10-1-1968, khi gặp Chester Bowles, phái viên của Tổng thống Mỹ Johnson, Sihanouk nói: “Chúng tôi không muốn có người Việt Nam nào ở Campuchia. Chúng tôi sẽ rất vui mừng nếu các ngài có thể giải quyết được vấn đề này. Chúng tôi không phản đối việc truy tìm ráo riết ở những vùng bỏ hoang. Các ngài sẽ giải phóng chúng tôi khỏi Việt Cộng”229. Nhà Trắng đã “dịch” câu nói này theo nghĩa “Sihanouk mời Mỹ tấn công” vào những căn cứ ấy. Hai tháng sau đợt oanh kích bí mật của Mỹ, ngày 13-5-1969, trong một cuộc họp báo, Sihanouk nói: “Không có ai bị mất nhà cửa hay thiệt mạng trong đợt ném bom này, không có người Campuchia nào cả”230. Năm 1969, Sihanouk tìm cách nối lại quan hệ ngoại giao với Washington, nhưng trước khi việc thành, năm 1970, ông bị Lonnol đảo chính.

Ngày 7-1-1970, Sihanouk cùng bà hoàng Monique và tùy tùng gồm mười một người rời thủ đô Phnom Penh. Trong khi ông đang nằm “chữa bệnh béo phì, bệnh máu, và chứng tiểu tiện ra Anbumin” ở châu Âu, tại Phnom Penh, các tướng tá và chính trị gia – những người năm 1963 đã phản đối việc ông từ chối viện trợ kinh tế của Mỹ và sau đó, năm 1965, cắt đứt quan hệ ngoại giao – bắt đầu buộc tội ông bất lực khi để quân đội Bắc Việt Nam “tràn ngập ở vùng biên giới”. Ngày 8-3-1970, tại Svay Rieng, một cuộc biểu tình chống Việt Nam nổ ra. Ngày 11-3-1970, khoảng 20.000 thanh niên Campuchia đã cướp phá tòa đại sứ của Bắc Việt Nam tại Phnom Penh. Lẽ ra, ngày 13-3-1970, Sihanouk phải về Phnom Penh để kiểm soát tình hình, nhưng ông vẫn đến thủ đô Moscow (Liên Xô cũ) theo kế hoạch. Chủ tịch Xô-Viết Tối cao Nikolai Podgorny đã khuyên ông về nước ngay, nhưng Sihanouk đã ở lại đó năm ngày. Ngày 18-3-1970, Quốc hội Campuchia phế truất chức quốc trưởng của ông. Sihanouk choáng váng khi Thủ tướng Liên Xô Kosygin cho hay tin trên đường tiễn ông ra sân bay. Không ai trong đoàn tùy tùng dám cả gan báo tin này cho ông cả. Tất nhiên, miền Bắc Việt Nam có bị tổn thất sau cuộc đảo chính. Ông Nguyễn Nhật Hồng, người thanh toán các chi phí bí mật để vận chuyển vũ khí qua ngả Campuchia, xác nhận điều Kissinger viết trong cuốn Ending the Vietnam War: kể từ sau năm 1970, cảng Sihanoukville không còn được miền Bắc dùng để cung cấp vũ khí cho miền Nam nữa. Ông Hồng kể: “Khi Trung Quố c và Liên Xô xung đột với nhau, đó ng cử a biên giớ i, hàng hóa từ Liên Xô không thể chuyển bằng tàu liên vận qua biên giới Trung Quốc, miền Bắc phải thuê tàu viễn dương chở vũ khí viện trợ của Liên Xô về cảng Sihanoukville. Việc này được cả Sihanouk và Lonnol đồng ý”. Đổi lại, một khoản “lót tay” bằng 20% trị giá hàng nhập cảng sẽ được chi cho hai người. Phòng Thanh toán Đặc biệt B29 mở cho Sihanouk và Lonnol mỗi người một tài khoản bí mật ở Thụy Sỹ231. Trong những năm 1966-1969, lượng hàng hóa mà miền Bắc Việt Nam chuyển qua cảng Sihanoukville gồm: 20.478 tấn vũ khí, 1.284 tấ n quân trang, 731 tấ n thuố c men, 65.810 tấ n gaọ , 5.000 tấ n muố i, và 4.115 tấ n thực phẩ m hôp̣ và khô.

Theo ông Nguyễn Nhật Hồng: “Từ năm 1969, Lonnol yêu cầu khoản 10% của ông phải được trả bằng vũ khí. Tôi nghĩ, các nhà phân tích tình báo của ta có thể đoán biết được ý đồ đảo chính của Lonnol khi ông ta lấy súng thay vì lấy tiền”. Theo ông Hồng, “khoản thanh toán đặc biệt chi lót đường” này được bản “Báo cáo Tổng kết công tác ngoại hối đặc biệt” do ông Mai Hữu Ích ký ngày 25-11-1979, ghi là “chi phı́ vâṇ tải tuyệt mật”, với tổng số tiền lên tới 36.642.653 USD.

Lịch sử dường như đã xếp đặt để ông Hoàng Sihanouk kết thúc một chặng đường chính trị của mình tại Bắc Kinh, nơi vẫn tổ chức đón tiếp ông theo nghi thức của một ông hoàng đang trị vì. Thủ tướng Chu Ân Lai đã ra tận cầu thang máy bay ôm hôn, và phía sau ông, “gần như toàn bộ ngoại giao đoàn” ở Bắc Kinh có mặt. Sau khi lên chiếc xe cắm cờ cả của Campuchia và Trung Hoa, Chu Ân Lai nói với Sihanouk: “Đêm qua, tôi đã cho tất cả các trưởng đoàn ngoại giao biết rằng Chính phủ Trung Quốc vẫn coi ngài là quốc trưởng hợp pháp duy nhất của Campuchia. Tôi cũng cho họ biết là tôi rất mong muốn tất cả các đại sứ có mặt để đón ngài tại sân bay”232. Sự tinh tế của người Trung Hoa không dừng ở đấy. Chu Ân Lai đã tặng Sihanouk một dinh thự vào loại đẹp nhất Bắc Kinh. Đồng minh thân cận nhất của Bắc Kinh là Bắc Triều Tiên, cũng chỉ trong vài tháng, xây cho ông Hoàng lưu vong một dinh thự kiểu cung điện nhìn ra mặt hồ. Tại đây, Sihanouk vẫn là một ông vua. Đích thân Kim Nhật Thành thường xuyên mời Sihanouk và thân quyến thịt nướng, trứng cá và rượu vang Pháp. Những phim phương Tây mới nhất mà cha con ông Kim nhập về sau khi xem xong đều chuyển cho Sihanouk mượn. Năm 1991, Sihanouk đã đưa đội sỹ quan cận vệ người Bắc Triều Tiên do Kim Nhật Thành “tặng” về Phnom Penh sử dụng. Trong cuộc “hội đàm” ngày 19-3-1970, Chu chuyển lời của Mao Trạch Đông nhắn với Sihanouk: “Nếu Hoàng thân không chấp nhận việc đã rồi và quyết định lãnh đạo một phong trào kháng chiến chống Mỹ giải phóng Campuchia thì Trung Quốc sẽ ủng hộ và sẵn sàng trợ giúp những gì có thể”233. Tuy nhiên, cả Chu Ân Lai và Mao Trạch Đông khi ấy chưa ai nghĩ đến khả năng bắt tay giữa Pol Pot và Sihanouk. Ngày 21-3-1970, Thủ tướng Phạm Văn Đồng và Bí thư Trung ương Cục Phạm Hùng bí mật tới Bắc Kinh, cả hai thuyết phục Chu Ân Lai và Pol Pot cùng hợp tác. Hai hôm sau, ngày 23-3-1970, Sihanouk đưa ra “tuyên bố năm điểm”, bắt tay với Khmer Đỏ, những người đã từng bị chính ông ta “xử tử hình vắng mặt”. Sihanouk cũng tuyên bố sẽ thành lập “quân đội giải phóng” và “mặt trận thống nhất dân tộc”, ông đồng thời ca ngợi cuộc đấu tranh chống Mỹ của những người Cộng sản Việt Nam, Lào và Campuchia. Tại Bắc Kinh, “Chính phủ Sihanouk” được cung cấp vật chất và cá nhân ông được chăm sóc như một nguyên thủ quốc gia234. Ngày 24-4-1970, Sihanouk được đưa trở về vùng “ba biên giới” để tham gia Hội thảo Thượng đỉnh về các Dân tộc Đông Dương cùng với Thái tử Souvanouvon của Pathet Lào, Chủ tịch Nguyễn Hữu Thọ của Mặt trận Giải phóng Miền Nam, và Phạm Văn Đồng. Khi trở lại Bắc Kinh vào ngày 27-4-1970, Sihanouk ra một tuyên bố chung cam kết “hỗ trợ có đi có lại” trong “cuộc kháng chiến chống kẻ thù chung: Đế quốc Mỹ”. Trước đó, lực lượng miền Bắc Việt Nam tại Campuchia đã tổ chức rải truyền đơn và phát lời kêu gọi của Sihanouk, tổ chức tuyển dụng và huấn luyện giúp Sihanouk một lực lượng gọi là Khmer Rumdo.

Kissinger cáo buộc miền Bắc Việt Nam nuôi dưỡng Khmer Đỏ và giúp đỡ để Pol Pot chiếm được chính quyền. Kissinger cho rằng: “Nếu có người nào đó gây ra cuộc chiến tranh ở Campuchia và biến sự diệt chủng của Khmer Đỏ thành hiện thực thì đó chính là Hà Nội”235. Tuy nhiên, bom đạn Mỹ đã đóng một vai trò quan trọng236.

Bằng những chiến dịch tuyên truyền, vừa hù dọa, vừa kích động lòng căm thù Mỹ và chính quyền Lonnol, Khmer Đỏ đã tuyển được hàng trăm nghìn thanh niên tham gia lực lượng của họ237. Năm 1974, mọi thanh niên từ mười sáu tuổi trở lên bị buộc gia nhập lực lượng Khmer Đỏ, những người từ chối có thể bị Khmer Đỏ bắn chết. Những đứa trẻ bị buộc phải cầm súng trong giai đoạn này đã trở nên vô cùng hung hãn. Khi đàm phán Hiệp định Paris, Lê Đức Thọ đã đòi loại bỏ các cơ cấu phi cộng sản ở Campuchia. Khi ấy, ông Thọ và các đồng chí của ông ở Hà Nội không thể nào ngờ, chính “ông anh” Trung Cộng không hề mong muốn một chiến thắng về ý thức hệ ở Campuchia. Tháng 6-1972, Chu Ân Lai nói với Kissinger: “Trung Quốc muốn ở Lào và Campuchia có một kết cục trong đó ‘các nhân tố tư bản’ có thể tham gia trong chính phủ và giới cầm quyền truyền thống có thể là người đứng đầu quốc gia”238. Chu nói thẳng với Kissinger: “Chúng tôi có thể tin rằng Thái tử Sihanouk là người đứng đầu nhà nước ở Campuchia và người đứng đầu nhà nước ở Lào sẽ là nhà vua”239. Tháng 2-1973, khi Kissinger thăm Bắc Kinh sau chuyến đi tới Hà Nội, ông nhận ra: “Các lãnh đạo Bắc Kinh bắt đầu hiểu rằng việc Hà Nội chi phối Đông Dương có thể là một thắng lợi về ý thức hệ nhưng là một thất bại về địa chính trị đối với Trung Quốc”240. Campuchia càng ngày càng trở thành một ván bài phức tạp, có quá nhiều người chơi mà không ai tin tưởng ai. Trung Quốc biết Khmer Đỏ là lực lượng chính nhưng cũng sợ Khmer Đỏ mạnh tới mức làm hỏng con bài Sihanouk. Thật khó để định lượng trong chính sách thù địch với Việt Nam của Pol Pot có bao nhiêu lý do từ việc Hà Nội sốt sắng ủng hộ Hoàng thân Sihanouk. Tháng 4- 1970, khi Bí thư Thứ nhất Lê Duẩn đề nghị thiết lập một lực lượng quân sự phối hợp giữa Khmer Đỏ và lực lượng ủng hộ Hoàng gia, Pol Pot lúc ấy đang ghé qua Hà Nội, đã thẳng thừng từ chối. “Con bài” Sihanouk không chỉ làm mất lòng Pol Pot mà còn khiến cho những người Khmer tập kết chạnh lòng. Kể từ khi lưu vong, năm nào Sihanouk cũng sang Việt Nam ăn Tết. Để làm đẹp lòng ông Hoàng, những khi Sihanouk đến Hà Nội, những người Khmer Issarak, cựu thù của ông, sống ở Thủ đô đều được “mời” đi các tỉnh khác. Theo ông Ngô Điền: “Cố Thủ tướng Chăn Si, một cán bộ tập kết gắn bó với Việt Nam, khi tâm sự về điều này đã rơm rớm nước mắt, trách ta coi nhẹ những người cộng sản Campuchia mà đề cao quá mức vua chúa”241.

Năm 1973, Việt Nam đã đưa Sihanouk trở về “vùng giải phóng”, nơi về danh nghĩa ông là người đứng đầu nhưng trên thực tế đang do Khmer Đỏ nắm. Sihanouk đã nhiều lần đề nghị Chu Ân Lai thu xếp chuyến đi này nhưng Chu Ân Lai từ chối. Sau Hiệp định Paris, Sihanouk gặp trực tiếp Yeng Sary, đại diện của Khmer Đỏ tại Bắc Kinh, nhưng cũng bị Yeng Sary lảng tránh. Sau đó, Sihanouk đã cầu cứu Hà Nội và được Thủ tướng Phạm Văn Đồng sốt sắng nhận lời, ông đã nhờ Bắc Kinh tác động thêm để Pol Pot chấp nhận chuyến đi của Sihanouk242. Khmer Đỏ đã khai thác được triệt để uy tín của Sihanouk trong chuyến đi này để gây thanh thế đối ngoại, nhưng về đối nội, Pol Pot không cho phát bản tuyên bố của ông. Đặc biệt, Khmer Đỏ đã tranh thủ chuyến đi để nói xấu Việt Nam với Sihanouk243.

Khmer Đỏ và Campuchia dân chủ

Người Mỹ tin rằng miền Bắc Việt Nam đã trang bị pháo binh hạng nặng và trợ giúp công binh cho Khmer Đỏ trong chiến dịch cuối cùng tiến vào Phnom Penh. Tướng Giáp xác nhận: “Lúc này, quân và dân Campuchia đã từng bước phá vỡ sức đề kháng của quân đội Lonnol ở ngoại vi thủ đô Phnom Penh. Được ta trợ giúp đạn súng lớn, bạn đã nã pháo vào trung tâm thành phố. Ngày 12-4, Mỹ tổ chức cuộc hành quân mang tên Diều Hâu, di tản cố vấn và binh lính Mỹ ra khỏi thủ đô bằng đường không. Ngày 17-4, Phnom Penh được giải phóng”244. Đêm trước khi được Khmer Đỏ “giải phóng”, Phnom Penh gần như không ngủ, phần vì cả thành phố chìm trong tiếng súng, phần vì người dân chờ đợi một biến cố mới cho dù không ai lúc ấy có thể tưởng tượng được những điều mà Pol Pot sẽ làm.

Vào lúc 7 giờ 30 sáng 17-4-1975, Chính quyền Lonnol ra lệnh cho quân đội đầu hàng. Cờ trắng được nhìn thấy ở khắp nơi, trong khi hàng ngàn người dân, chủ yếu là thanh niên, học sinh, đã xuống đường chào đón Khmer Đỏ với niềm tin đã tới ngày hòa bình. Thoạt đầu, người dân tỏ ra yên tâm khi thấy những người lính Khmer Đỏ chỉ bắn chỉ thiên nhằm ngăn chặn nạn hôi của và vãn hồi trật tự. Khoảng 1 giờ trưa, khi lực lượng Khmer Đỏ từ Quân khu Bắc tiến về chiếm Đài Phát thanh Quốc gia, ra lệnh cho tất cả các bộ trưởng, tướng lĩnh, các viên chức cao cấp của Chính quyền Lonnol ra trình diện vào lúc 2 giờ chiều, sách báo “của bọn đế quốc” bắt đầu bị ném ra đường và đốt. Hoàng thân Sirik Matak và Thủ tướng Long Boret từ chối di tản theo đề nghị của Đại sứ Mỹ. Sirik Matak sau đó bị bắt khi tị nạn trong tòa Đại sứ Pháp còn Long Boret thì gọi điện thoại chỉ đường cho Khmer Đỏ tới tận nhà. Cả hai đều bị giết. Sáng sớm hôm sau, 18-4-1975, số phận của những người ra trình diện được định đoạt: các tướng lĩnh của Lonnol bị đưa đi hành quyết tại sân vận động Olympic, các quan chức dân sự bị giết ở Hội quán Thể thao. Hai anh em nhà Lonnol, Chủ tịch Quốc hội Ung Bun Hor, nhà sư Saundech Saugh, các tướng lĩnh và nhiều bộ trưởng cũng bị giết. Chính quyền ở các địa phương cũng bị đối xử tương tự. Ngày 23-4- 1975, ở Battambang, các sỹ quan được Khmer Đỏ đưa lên sáu chiếc xe nói là đi đón Sihanouk nhưng kết quả là họ đã bị hành quyết ở một nơi hoang vắng.

Nhưng phải đến khi Pol Pot trục xuất toàn bộ dân chúng ra khỏi tất cả các đô thị trên cả nước thì người dân mới biết rõ trong số các nạn nhân của chế độ gồm có cả mình. Nếu như trong ngày 18-4-1975, dân chúng ở Phnom Penh còn có thể hỏi han khi nghe lệnh sơ tán thì ngày hôm sau, họ phải đối diện với những tên lính mười bốn, mười lăm tuổi lăm lăm súng trong tay: hoặc ra khỏi nhà, hoặc ăn lựu đạn.

Không chỉ có cảnh cáo, những người phản đối đã bị bắn chết trước mắt người thân. Người dân chỉ kịp nhặt nhạnh vài thứ đồ đạc, nhà cửa bị buộc phải bỏ lại đằng sau. Chỉ vài ngày sau, họ sẽ nhận ra tài sản không đáng giá so với những gì sẽ mất. Nhiều gia đình phải li tán, vợ chồng, con cái bị xé, mỗi người bị đưa tới một nơi. Họ đã phải đi bộ nhiều ngày, có người phải đi bộ năm, sáu tuần liên tục, về các vùng mà Pol Pot dự định xây dựng các hợp tác xã bậc cao. Những người ốm yếu bị vất lại. Người dân bắt đầu nhìn thấy tương lai của mình qua những xác chết nằm la liệt trên đường. Khoảng 0,53% số dân Phnom Penh đã bị chết trên đường đi245. Tính cả số các quan chức bị hành quyết và người dân bị bắn do không chịu chấp hành, hơn hai mươi nghìn người đã bị giết trong những ngày đầu “Phnom Penh giải phóng”. Pol Pot nhận được “tin chiến thắng” khi đang ở Oudong với Khieu Samphan. Khieu Samphan nhớ lại: “Khi ấy, chúng tôi tránh thể hiện cảm xúc. Không có tiếng súng chào mừng hay điều gì tương tự. Tôi không chúc mừng ông ta (Pol Pot). Ông ta nói đơn giản đây là một chiến thắng vĩ đại mà nhân dân Campuchia tự giành được”246. Pol Pot lặng lẽ về Phnom Penh vào ngày 24-4-1975, sau khi ra lệnh đưa toàn bộ người dân thành phố về các vùng nông thôn. Ngày 17-4-1975, Yeng Sary đang ở Quảng Trị. Thay vì theo đường Hồ Chí Minh đi Rattanakiri, Yeng Sary bay ngược trở lại Bắc Kinh để ngày 24-4-1975, được đưa trở về Phnom Penh bằng một chiếc Boeing 707. Sau ba ngày đại hội đặc biệt toàn quốc, khi được giao phát ngôn cho Chính quyền, Khieu Samphan cho rằng chính “máu xương của nhân dân” đã viết nên “trang sử chói lòa của dân tộc”247. Pol Pot, với một gương mặt được mô tả là tử tế, nụ cười luôn thường trực trên môi và rất kiệm lời, bắt đầu ban hành chính sách tám điểm: di tản toàn bộ dân chúng ra khỏi tất cả các thành phố; thủ tiêu tất cả chợ búa; ngưng lưu hành tiền tệ; buộc các nhà sư phải lao động tại các nông trang; hành hình các nhà lãnh đạo Lonnol; thành lập các hợp tác xã cao cấp trên toàn quốc, áp dụng chế độ nhà ăn tập thể; trục xuất toàn bộ người Việt Nam; triển khai quân dọc biên giới, đặc biệt là biên giới Việt Nam248. Trong số ra tháng 8-1975, Tung Padevat, tờ báo nội bộ của Khmer Đỏ, giải thích việc đưa hết dân chúng ra khỏi Phnom Penh là nhằm xóa sở hữu tư, bắt tư sản phải lao động chân tay như những người nông dân. Bài báo viết: “Sự thật là, chúng ta mạnh hơn và có ảnh hưởng hơn khu vực tư nhân khi chúng ta ở vùng nông thôn”. Việc bãi bỏ sử dụng đồng tiền, theo bài báo này, không chỉ để đánh giai cấp tư sản, mà: “Tiền bạc sẽ dẫn đến sở hữu tư… Nếu chúng ta sử dụng tiền, nó sẽ rời vào tay tư nhân… Nếu đồng tiền rơi vào tay kẻ xấu hoặc kẻ thù, chúng sẽ dùng tiền để hối lộ, làm tha hóa cán bộ… Rồi, trong một năm, mười năm, hai mươi năm nữa, cái xã hội trong sáng của Campuchia sẽ trở thành Việt Nam”249. Khát vọng vượt các “đảng anh em” trong xây dựng chủ nghĩa cộng sản, tái lập đế chế Angkor, đã biến Pol Pot từ một kẻ trói gà không chặt trở thành một tên giết người điên rồ. Trong một tài liệu mật của Trung ương phát hành ngày 19-9-1975, nghĩa là sau vừa đúng năm tháng xây dựng chủ nghĩa xã hội, Khmer Đỏ khẳng định: “So sánh với cách mạng ở Trung Quốc, Bắc Hàn và Việt Nam, chúng ta đang đi trước họ ba mươi năm”250. Hàng triệu người bị buộc phải lao động nặng nhọc 12- 15 giờ mỗi ngày, trong khi ăn không đủ no vì gạo phải để dành cho chỉ tiêu xuất khẩu hai triệu tấn trong năm 1977.

Trong tuyên bố của Khieu Samphan đưa ra vào ngày 27-4-1975, ngay sau Đại hội Toàn quốc Đặc biệt, Sihanouk vẫn được coi là “một nhà yêu nước vĩ đại” và vẫn được giữ vị trí đứng đầu nhà nước. Trong thời gian ấy, Sihanouk đang ở Bình Nhưỡng, nơi Kim Il Sung xây cho ông một tòa lâu đài nhìn ra mặt hồ Chhang Sou On. Tháng 9-1975, Pol Pot gửi Phó Thủ tướng Khieu Samphan và Bộ trưởng Thông tin Yeng Thirith, vợ Yeng Sary, tới Bình Nhưỡng mời Sihanouk trở lại Phnom Penh. Khieu Samphan nói với ông: “Chúng ta đã có điều kiện để trở thành 100% cộng sản. Chúng ta có thể vượt qua thậm chí người anh Trung Hoa. Với bước đại nhảy vọt, chúng ta có thể tiến đến mục tiêu chủ nghĩa cộng sản bỏ qua giai đoạn chủ nghĩa xã hội”251. Họ cùng đi tàu trở lại Bắc Kinh, ở đó, Khieu Samphan tháp tùng Sihanouk và bà hoàng Monique đến thăm Mao Trạch Đông và Chu Ân Lai. Mao lúc ấy tám mươi hai tuổi “gần như trần truồng trên giường bệnh”252 nhưng có vẻ như ông vẫn hình dung được những gì học trò ông đang làm ở Campuchia. Mao chỉ thị cho đại diện Khmer Đỏ: “Đừng đưa Hoàng thân Sihanouk và bà Hoàng tới công xã”.

Những lời của Mao đã có giá trị cứu mạng Sihanouk. Chu Ân Lai, khi ấy cũng đang ở trên giường bệnh ung thư giai đoạn cuối, nói với Khieu Samphan và Yeng Thirith với giọng mà Sihanouk mô tả là khẩn nài: “Xin hãy đi từng bước lên chủ nghĩa cộng sản. Đừng đi theo mô hình đại nhảy vọt sai lầm của chúng tôi”. Sihanouk nhớ lại là cả Khieu Samphan và Thirith đều “cười ranh mãnh”. Khmer Đỏ không cho rằng họ có học tập ai đó, thậm chí cả Mao Trạch Đông; họ muốn xây dựng một xã hội chưa từng có trong lịch sử. Ngày 9-9-1975, Sihanouk rời Bắc Kinh trong cờ hoa, Đặng Tiểu Bình gọi đây là “sự trở về trong vinh quang”. Sự thật là Pol Pot chỉ cần uy tín của Sihanouk để lấy lại chiếc ghế của Campuchia tại Liên Hiệp Quốc. Ở Phnom Penh, khi ông Hoàng đề nghị Pol Pot cho gặp một người chú già và một người dì của ông bị đưa đi công xã từ hồi tháng 4-1975, ông đã bị từ chối. Đại diện Pol Pot nói với Sihanouk là ông sẽ được gặp họ sau chuyến đi đến Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc. Trong suốt chuyến đi New York, Yeng Sary luôn cập kè bên ông. Khi họ chuyển tiếp tại Paris, không ai trong số những người bạn cũ của Sihanouk có thể lọt vào nơi ở của ông để được gặp ông trực tiếp. Sihanouk thừa nhận là khi ấy ông đã nhận ra không khí chết chóc ở Campuchia, nhưng vì “trách nhiệm và niềm kiêu hãnh” cá nhân, tháng 12-1975, Sihanouk cùng bà hoàng Monique, mẹ vợ và hai mươi hai người con, cháu của ông đã trở lại Phnom Penh. Kết cục là trong hơn ba năm sống với Khmer Đỏ, Sihanouk đã trở thành một tù nhân; năm người con và mười ba người cháu của ông đã bị Angkar đưa đến các công xã để rồi không bao giờ nghe nhắc đến tên họ nữa. Sihanouk khi mới trở về vẫn là quốc trưởng của Chính phủ Hoàng gia được lập ra ở Phnom Penh, nhưng ông và Thủ tướng Pen Nouth, người trung thành của ông, chỉ có hư danh. Ngày 20-3-1976, Quốc hội Campuchia được bầu với thành phần chủ yếu là các bí thư quân khu và chi khu của Khmer Đỏ. Theo hiến pháp mới, Campuchia sẽ có một hội đồng chủ tịch nhà nước do Quốc hội bầu lên. Sihanouk phải đệ đơn từ chức để cho Khieu Samphan làm chủ tịch. Hai phó chủ tịch thứ nhất và thứ hai là hai vị tư lệnh quân khu: So Phim, Quân khu Đông và Nhim Ros, Quân khu Tây Bắc. Ngày 12-4-1976, Pol Pot bắt đầu xuất hiện công khai với vai trò thủ tướng, Yeng Sary làm bộ trưởng Ngoại giao, Son Sen làm bộ trưởng Quốc phòng. Ngày 22-7-1975, trước 3000 đại biểu của các đơn vị quân đội, Pol Pot nói: “Trên toàn thế giới, trong lịch sử đấu tranh cách mạng và kể từ khi nước Mỹ ra đời, không ai, không có quốc gia nào, lại có thể đánh đuổi đế quốc đến tên cuối cùng và giành thắng lợi hoàn toàn”253 như Khmer Đỏ; còn Pol Pot cho rằng: “Đây là một thắng lợi mẫu mực cho nhân dân thế giới”.

“Kẻ Thù Lịch Sử”

Từ ảo tưởng này, tại lớp chính trị tổ chức cho 700 cán bộ chủ chốt của Đảng trong hai tháng cuối năm 1975, Nuon Chea cho rằng Campuchia bấy giờ vừa là công trường lao động, vừa là chiến trường chống Việt Nam. Chính sách thù địch với Việt Nam mà Khmer Đỏ tiến hành không chỉ bằng định kiến lịch sử được dồn nén qua nhiều thế kỷ, mà còn bằng cả mối quan hệ ngắn ngủi giữa những người cộng sản khi cùng sinh hoạt trong Đảng Cộng sản Đông Dương. Năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam được Trần Phú, theo lệnh Quốc tế Cộng sản, thay bằng một đảng của ba nước Việt Nam, Lào, Campuchia. Tuy là Đảng Cộng sản Đông Dương, nhưng ngay cả những phái bộ ở Lào hay Campuchia đều có lượng đảng viên người Việt Nam chiếm số đông. Từ năm 1935, “Liên bang Đông Dương” bắt đầu được những người theo đường lối Quốc tế Cộng sản cực đoan tính tới. Tháng 7-1946, Hồ Chí Minh tới Fonteinebleau. Khi những người Việt Nam trong Đảng Cộng sản Pháp giới thiệu những đảng viên người Khmer với phái đoàn Việt Nam và đề nghị họ “đi gặp Bác Hồ”, Thiounn, người về sau là một bộ trưởng của Pol Pot, nói: “Chúng tôi trả lời, ông ta không phải là bác của chúng tôi. Họ lại bảo, chúng ta là anh em, các bạn nên thể hiện sự tôn trọng, nhưng chúng tôi cũng từ chối” 254. Từ năm 1970, nhiều đơn vị Việt Nam đóng quân tại các căn cứ nằm dọc theo biên giới Campuchia đã bị tấn công mà thủ phạm về sau được xác định là lực lượng của Khmer Đỏ. Không chỉ hướng sự thù địch vào người Việt, từ năm 1973, Khmer Đỏ bắt đầu chống lại cả Khmer Rumdo, lực lượng ôn hòa, ủng hộ Sihanouk và từng được Việt Nam huấn luyện. Ngày 4-11-1973, sau khi bắt cóc ba nhóm Khmer Rumdo, lực lượng Khmer Đỏ thuộc Khu 25 ở Kandal, gặp những người Khmer Rumdo ở Prey Veng, yêu cầu Khmer Rumdo hủy bỏ chủ trương hợp tác với các lực lượng miền Bắc Việt Nam. Những người Khmer Rumdo từ chối. Cuộc tranh cãi đã dẫn đến một cuộc đọ súng và với sự tham gia của các đơn vị Việt Nam, Khmer Rumdo đã tiêu diệt bốn mươi hai lính Khmer Đỏ, đẩy lui phần còn lại. Từ đó, các cuộc đụng độ giữa hai lực lượng gần như thường xuyên xảy ra. Mấy tháng trước đó, khi di chuyển từ Khu IX lên Trung ương Cục, ông Võ Hồng Thắm, thư ký riêng của ông Kiệt, đã bị Khmer Đỏ giết khi vừa chạy xuồng qua biên giới Campuchia đoạn tiếp giáp với Hồng Ngự, Đồng Tháp. Cái chết của ông Thắm không phải là cá biệt. Đầu thập niên 1970, các đơn vị nhỏ lẻ của quân Giải phóng miền Nam Việt Nam vẫn thường bị tập kích. Chỉ sau khi các đơn vị miền Bắc Việt Nam tấn công trừng phạt, Khmer Đỏ mới tạm hạn chế quấy rối. Năm 1970, hơn 800 cán bộ người Khmer tập kết ra miền Bắc Việt Nam được đưa trở lại Campuchia đã bị Khmer Đỏ dần dần thủ tiêu vì coi họ là những “người Khmer, đầu Việt”. Một số chạy thoát sang Việt Nam, nhưng theo ông Võ Văn Kiệt: “Thoạt đầu, Trung ương Cục chủ trương trả lại cho Khmer Đỏ, kết quả là tất cả họ khi về tới cứ của Pol Pot đều bị giết. Về sau, Trung ương Cục thống nhất với Pol Pot, phía Việt Nam chỉ trao trả những cán bộ nào chấp nhận trở lại hàng ngũ Khmer Đỏ”. Sau ngày 30-4-1975, Việt Nam cũng đang say sưa với chiến thắng, những chiến dịch gây hấn biên giới của Pol Pot đã không được đánh giá đúng mức và các nhà lãnh đạo, trong các chuyến đi tới Campuchia, cũng đã không đủ nhạy cảm để nhận ra Khmer Đỏ là ai, và đã không có ấn tượng đầy đủ trước không khí chết chóc đang bao trùm quốc gia chùa tháp. Ngày 2-6-1975, Phó Bí thư Trung ương Cục Nguyễn Văn Linh theo đường bộ từ Thành phố Hồ Chí Minh đến Phnom Penh gặp Pol Pot để giải quyết các vụ đụng độ ở các đảo Phú Quốc và Poulo Wai. Đường dài gần 200km qua ba tỉnh trước khi tiến đến thủ đô, nhưng ông đã không nhận thấy dấu hiệu khác thường gì. Đúng hai tháng sau, Bí thư Thứ nhất Lê Duẩn lại dẫn đầu đoàn đại biểu Đảng Lao động Việt Nam đến Campuchia trong một chuyến thăm đáp trả chuyến đi ngày 12-6-1975 của Pol Pot, Nuon Chea và Yeng Sary. Một thành phố Phnom Penh vắng tanh đã không trở thành mối băn khoăn của ông và tùy tùng. Đúng một năm sau đó, Pol Pot cho phép một đoàn nhà báo Việt Nam đi đến nhiều nơi ở Campuchia, các nhà báo có nhận ra sự “vắng vẻ lạ thường” ở Phnom Penh nhưng rồi đã choáng ngợp khi Pol Pot trình diễn “tình anh em giữa hai đảng và hai dân tộc”255. Theo một thành viên của đoàn, nhà báo Tô Quyên, Chính phủ Pol Pot- Yeng Sary đã tái hiện “tình đoàn kết chiến đấu và hữu nghị tươi đẹp ấy” bằng một đêm trình diễn văn nghệ tại nhà hát lớn thủ đô Phnom Penh. Còn Thủ tướng Pol Pot thì tiếp đãi đoàn vô cùng nồng thắm256.

Chỉ mấy tuần sau khi đoàn nhà báo Việt Nam rời Phnom Penh, cuộc thanh trừng những nhân vật Khmer Đỏ có dính líu tới Việt Nam bắt đầu được Pol Pot tiến hành. Năm ấy, một số nhà lãnh đạo Khmer Đỏ vốn là đảng viên từ thời Đảng Cộng sản Đông Dương như Keo Meas đề nghị tổ chức kỷ niệm lần thứ 25 ngày thành lập Đảng Campuchia, tính theo ngày 30-9-1951, ngày mà tại Việt Bắc, lãnh tụ Sơn Ngọc Minh tuyên bố thành lập Đảng Campuchia. Tuy nhiên, đó là một quá khứ mà Pol Pot không muốn dính líu. Mười ngày trước sinh nhật Đảng, Pol Pot ra lệnh đình chỉ việc chuẩn bị lễ kỷ niệm, đồng thời ra lệnh bắt Keo Meas và Nay Sarang, một nhà lãnh đạo cao cấp khác. Họ bị đưa đến nhà ngục nổi tiếng, Tuol Sleng, bị tra tấn cho đến khi “nhận tội” rồi bị giết chết. Pol Pot đã viết lại lịch sử bằng cách ra một văn bản, xác định thời điểm thành lập Đảng không phải là năm 1951 mà là 1960, năm Đảng Campuchia tổ chức đại hội và, sau đó, bầu ông ta làm phó bí thư. Pol Pot giải thích: “Chúng ta cần đặt lịch sử Đảng vào trong những gì trong sạch và hoàn hảo, vạch ra đường lối độc lập và tự chủ cho chúng ta”257. Sihanouk nhận ra thái độ của Khmer Đỏ với Việt Nam từ trước khi ông trở về Phnom Penh. Theo Nayan Chanda: Nhân dịp Quốc khánh Việt nam, 2-9-1975, Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã mời Sihanouk và Khiêu Samphan, khi ấy đang là khách của Việt Nam, dự “tiệc gia đình”. Thành phần tham gia gồm Hà Nội, Chính phủ Lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam, các nhà lãnh đạo Lào, và Khmer Đỏ. Khieu Samphan đã làm Sihanouk “mất tinh thần và ngạc nhiên” khi “lạnh lùng từ chối” và nói rằng Campuchia muốn một bữa tiệc song phương. Sau đó, Khieu Samphan giải thích với Sihanouk: “Chúng ta không bao giờ để rơi vào cái bẫy của người Việt Nam, kẻ đang muốn thống trị và nuốt chửng Campuchia bằng cách lôi kéo vào liên bang Đông Dương của họ”258. Tháng 12-1976, khi Việt Nam tổ chức Đại hội Đảng lần thứ IV, đại hội như một đại lễ mừng chiến thắng, Khmer Đỏ chỉ gửi điện mừng thay vì cử đại biểu đến Hà Nội như hai mươi chín “đảng anh em” khác259. Nhưng đến tận lúc ấy, Việt Nam vẫn coi biên giới Tây Nam là nơi tiếp giáp với một “người anh em”. Trên toàn tuyến biên giới dài hơn 1.000km ấy, Việt Nam chỉ bố trí bốn mươi hai đồn biên phòng; trong khi đó, bốn sư đoàn Khmer Đỏ gấp rút hoàn thành tuyến công sự dày đặc kéo dài từ bờ Vịnh Thái Lan đến vùng Sông Bé.

Thất bại trong tấn công ngăn chặn (Pre-emptive War)

Ngày 14-1-1977, gần một trung đoàn Pol Pot tấn công các đồn, chốt Việt Nam ở khu vực Buprang, gây cho phía Việt Nam những thiệt hại nghiêm trọng. Dân tình lo lắng, cán bộ các cấp cũng bắt đầu hết sức băn khoăn. Chiến tranh bắt đầu leo thang trong năm 1977: 30-4-1977, Pol Pot cho quân tấn công trên tuyến biên giới thuộc địa bàn Quân khu IX; tháng 8-1977, tấn công trên địa bàn Quân khu VII; tháng 10-1977, tấn công trên địa bàn Quân khu V. Ở Quân khu IX lúc ấy, chỉ một sư đoàn bộ binh được giữ ở trạng thái thường trực, trong khi hai sư đoàn bộ binh còn lại chuyển sang làm kinh tế – Sư 4 ở tứ giác Long Xuyên, Sư 8 ở Đồng Tháp Mười, chủ yếu đào kinh260. Tinh thần của bộ đội, vì thế, cũng có những “diễn biến khá phức tạp”. Theo Tướng Trà: “Sau bao nhiêu năm chiến đấu liên tục, gian khổ, ác liệt, chính sách hậu phương quân đội chưa được giải quyết thỏa đáng; yêu cầu được nghỉ phép, phục viên của anh em chưa được giải quyết, nhất là số anh em quê miền Bắc, hàng năm, bảy năm, thậm chí cả chục năm biền biệt xa nhà; rồi tư tưởng ‘xả hơi’, nghỉ ngơi, bộ đội đang từ thành phố, thị xã… nay lên vùng biên khai hoang, làm kinh tế, trần mình suốt ngày với cỏ dại, cây hoang, sình lầy, chua phèn; thiếu thốn cơ cực đủ bề”261.

Toàn biên giới Tây Nam cũng hầu như không có bộ binh thường trực, nên khi Pol Pot tấn công thì ở vào thế bị động, đối phó lúng túng và chịu tổn thất lớn. Tướng Lê Đức Anh thừa nhận: “Các tỉnh, các quân khu phía Nam thiếu sẵn sàng chiến đấu, biên giới bỏ ngỏ; chỉ huy tác chiến nặng về đánh theo lối chính quy hiệp đồng binh chủng nên tiêu hao đạn dược thì lớn mà hiệu suất chiến đấu rất thấp. Tháng 9- 1977, Thường vụ Quân ủy Trung ương họp đề nghị Bộ Chính trị có chủ trương giải quyết tình hình biên giới Tây Nam”. Đêm 30-4-1977, Khmer Đỏ đưa quân đánh lấn suốt một dải biên giới từ Tây Ninh đến Hà Tiên, Kiên Giang. Tang tóc lại bao trùm không chỉ ở nơi xảy ra chiến sự. Trên tuyến biên giới do Quân khu IX đảm trách, từ huyện Mộc Hóa, Long An đến Hà Tiên, Kiên Giang, Pol Pot dùng bảy tiểu đoàn quân chính quy cùng với lực lượng địa phương thuộc quân khu Tây Nam đánh thẳng vào khu vực Bảy Núi, Tịnh Biên-An Giang. Hàng trăm dân thường dân bị tàn sát, hàng trăm ngôi nhà bị đốt. Các đơn vị đứng chân gần biên giới của Quân khu IX tuy đã nỗ lực tác chiến, nhưng theo ông Phạm Văn Trà: “Hầu hết đang làm nhiệm vụ sản xuất xây dựng kinh tế, chưa chuẩn bị đối phó với địch, nên có phần bất ngờ, bị động, lúng túng, thậm chí bị tổn thất”. Ngay đêm 30-4-1977, Tướng Lê Đức Anh ra lệnh cho Sư đoàn 330 chuyển sang trạng thái sẵn sàng cơ động lên tuyến biên giới đánh địch, đồng thời, theo ông Trà, Quân khu cũng được trên đồng ý cho thành lập thêm Sư đoàn 339 làm nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu. Bắt đầu từ đây, chiến sự không còn xảy ra trên đường biên. Một tháng rưỡi sau, Tư lệnh Quân khu IX Lê Đức Anh quyết định đưa một lực lượng gồm hai trung đoàn bộ binh có xe bọc thép M113, một trung đoàn tăng thiết giáp, hai phi đội máy bay tiêm kích, đánh hiệp đồng binh chủng ở quy mô sư đoàn từ hướng Kiên Giang, thọc sâu vào đất Campuchia, vòng về tiêu diệt phần lớn lực lượng Khmer Đỏ đang chiếm giữ Đầm Chích, xã Vĩnh Điện. Nhưng, theo Tướng Phạm Văn Trà, khi Sư đoàn 4 đang khôi phục tuyến biên giới Hà Tiên thì Khmer Đỏ tràn qua cửa khẩu Vịnh Bà, đánh sâu vào lãnh thổ tỉnh Đồng Tháp, chiếm một số khu vực, trong đó có khu vực tăng gia sản xuất tập trung của Sư đoàn 8. Tướng Lê Đức Anh lại phải lệnh: “Đưa ngay một trung đoàn lên Đồng Tháp”262. Sau khi Trung đoàn 1, Sư 330, bị điều lên lên Đồng Tháp theo lệnh của Tướng Anh, một hướng quan trọng là Tịnh Biên và Thất Sơn bị bỏ trống. Vừa lấy lại phần địa bàn của Sư 8 bị Khmer Đỏ chiếm giữ thì Ba Chúc, Tịnh Biên của An Giang lại bị Khmer Đỏ tập trung một lực lượng lớn đánh vào. Sư đoàn 4 buộc phải lùi về phía sau, Khmer Đỏ mặc sức tàn sát người dân vùng Ba Chúc. Tướng Lê Đức Anh lại phải điều Trung đoàn 1, sư 330, trở về giải vây rồi đẩy quân Pol Pot lùi qua bên kia kênh Vĩnh Tế. Không lâu sau, khi Trung đoàn 1 vừa rút đi, quân Pol Pot lại quay lại đánh Ba Chúc với quy mô cấp sư đoàn, lực lượng của Tỉnh đội An Giang không giữ được. Trung tuần tháng 12-1977, Quân khu IX đã thi hành phương thức phòng thủ mà Tướng Trà gọi là học theo kế “tiên phát chế nhân” của Lý Thường Kiệt thời chống Tống. Sư đoàn 330, gồm ba trung đoàn bộ binh chính quy, cùng hai tiểu đoàn địa phương quân An Giang, được trang bị một số xe M-113, đánh thẳng vào khu vực cố thủ của Khmer Đỏ ở núi Tham Đưng và núi Som sâu trong đất Campuchia từ hai mươi đến ba mươi cây số. Toàn tuyến phòng thủ của Pol Pot từ Ki Ri Vông đến quận lỵ Rề Minh thuộc tỉnh Tà Keo bị chọc thủng không mấy khó khăn. Thật trớ trêu khi người dân Campuchia đã vui mừng khi thấy quân đội nước ngoài đánh tới263. Các lực lượng của Quân khu IX đã ở lại trên đất Campuchia tổng cộng hai mươi ngày. Chưa đầy hai tuần sau khi quân Việt Nam rút về, giữa tháng 1-1978, quân Pol Pot tiến đánh ồ ạt vào các xã Nhơn Hội, Khánh Bình, thuộc huyện Châu Đốc, An Giang. Đặc biệt, ngày 15-1-1978, bảy tiểu đoàn của Trung đoàn 14 cùng với Trung đoàn 15 thuộc Sư đoàn 2 của Pol Pot đánh chiếm Ba Chúc và núi Phú Cường thuộc huyện Tịnh Biên. Sư đoàn 4 và lực lượng địa phương của An Giang lại một lần nữa không giữ được địa bàn, để quân Khmer Đỏ tiến sâu vào lãnh thổ Việt Nam trên năm cây số, phá sập hai cây cầu trên trục đường từ thị trấn Nhà Bàng đi Ba Chúc, Chi Lăng. Đi tới đâu, lính Khmer Đỏ xả súng bắn giết tới đó, chúng bắt cả trẻ em, người già và ngang nhiên đập phá chùa chiền, tượng Phật. Sở chỉ huy tiền phương của Sư đoàn 330 đóng trên núi Trà Sư bị bao vây ba bề. Lính Khmer Đỏ lại mặc sức sát hại người dân Ba Chúc. Lính Khmer Đỏ không chỉ ném lựu đạn, xả súng bắn chết hàng nghìn thường dân ở hai ngôi chùa, nhiều thường dân khác còn bị giải ra đồng, xả súng bắn chết264. Theo ông Trà: “Xác chết chất thành đống trong xóm ấp và ngoài đồng. Không khí chết chóc bao trùm; quạ đen bay đầy trời”. Theo Tướng Phạm Văn Trà, sau khi đánh tan lực lượng Khmer Đỏ ở Phú Cường và Ba Chúc, bãi chiến trường được giữ lại gần một tuần lễ để các nhà báo trong nước và quốc tế đến quay phim. Chiến tranh biên giới với Campuchia bắt đầu được công bố265.

“Nhất Biên Đảo”

Hơn hai năm trước đó, trong lễ mừng chiến thắng, tổ chức vào ngày 15-5-1975 tại Hà Nội, Bí thư Thứ nhất Lê Duẩn đã làm cho hàng triệu con tim “sởn gai ốc” khi, với giọng Quảng Trị trầm ấm, ông tuyên bố: “Chào mừng tổ quốc vinh quang của chúng ta từ nay vĩnh viễn thoát khỏi ách nô dịch của nước ngoài, vĩnh viễn thoát khỏi họa chia cắt, chào mừng non sông gấm vóc Việt Nam liền một dải từ Lạng Sơn đến mũi Cà Mau, từ nay hoàn toàn độc lập, tự do và vĩnh viễn độc lập tự do”266. Bí thư Lê Duẩn nói tiếp: “Trong 4.000 năm lịch sử của dân tộc ta thì hơn 100 năm lại đây là chặng đường đấu tranh chống ngoại xâm gay go nhất, quyết liệt nhất, nhưng cũng thắng lợi vẻ vang nhất”. Tại buổi lễ long trọng này, ông Lê Duẩn bày tỏ niềm tin: “Một dân tộc đã làm nên những chiến công hiển hách ấy xứng được hưởng hòa bình, tự do và hạnh phúc. Dân tộc ấy cũng nhất định có đủ tinh thần và nghị lực, sức mạnh và tài năng để vươn lên những đỉnh cao của thời đại, biến đất nước nghèo nàn lạc hậu, bị chiến tranh tàn phá nặng nề và trên đó, đế quốc Mỹ đã gieo biết bao tội ác, thành một nước văn minh, giàu mạnh, thành trì bất khả xâm phạm của độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội ở Đông Dương và Đông Nam Á”267. Ngay sau đó, Bộ Quốc phòng cho giải thể hàng loạt các đơn vị chiến đấu. Tháng 10-1976, Bộ Chính trị ra nghị quyết “về vấn đề quân đội làm kinh tế”, xác định: “Cách mạng nước ta đã chuyển sang giai đoạn mới, giai đoạn làm cách mạng xã hội chủ nghĩa”. Khẩu hiệu “Tất cả cho tiền tuyến” từ lúc ấy cũng bắt đầu được thay bằng khẩu hiệu: “Tất cả cho sản xuất, tất cả để xây dựng chủ nghĩa xã hội”. Hà Nội gần như không có phản ứng chính thức ngay cả khi Pol Pot đã cho đánh tới quy mô cấp sư đoàn268. Áp lực từ các đơn vị quân đội và các địa phương tăng dần lên. Ông Nguyễn Thành Thơ kể: Cuối năm 1977, trong một lần đưa Tổng Bí thư Lê Duẩn thăm Cần Giờ bằng tàu quân sự, đến Văn phòng Huyện ủy đã khoảng 12 giờ, anh Ba nói, “Mệt quá cho tôi nghỉ một lát”. Anh nghỉ một lúc rồi nói: “Các anh có gì hỏi, tôi giải đáp”. Anh em chúng tôi có khoảng ba mươi người, phấn khởi rộ lên: “Xin hỏi K nó quấy rối biên giới ta, tàn sát cướp phá rất dã man, sao ta đối phó rất lôi thôi, chúng tôi khó hiểu”. Anh Lê Duẩn trả lời: “Các đồng chí hỏi đúng vào một tình hình cả nước đang quan tâm. Chúng tôi đau đầu lắm, ngủ không được. Không phải là vấn đề Khmer Đỏ, vấn đề Pol Pot mà là vấn đề ai ở đằng sau Khmer Đỏ, đằng sau Pol Pot. Ta đã đưa đại quân đâu, bọn nó làm sao chống ta nổi, nhưng ta đánh nó, Trung Quốc đánh ta thôi. Nếu ta không chiếm K, Trung Quốc cũng không chiếm ta”. Cuối năm 1977, khi đánh sâu vào đất Campuchia, theo ông Trần Phương, quân đội Việt Nam phát hiện nhiều tài liệu cho thấy Trung Quốc đứng sau lưng Pol Pot. Tháng 1-1979, khi tiến vào Phnom Penh, Quân đội Việt Nam còn thu được văn bản hiệp định viện trợ quân sự không hoàn lại mà Tướng Wang Shangrong, phó Tổng Tham mưu trưởng Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc, ký với Son Sen tại Phnom Penh ngày 10-2-1976. Trong các năm 1977, 1978, Trung Quốc cung cấp cho Khmer Đỏ pháo binh, pháo phòng không, thuyền tuần tiễu… Đặc biệt, 500 chuyên gia quân sự Trung Quốc đã được gửi sang để huấn luyện Khmer Đỏ sử dụng những vũ khí, khí tài quân sự ấy. Cố vấn Trung Quốc thậm chí còn gặp cả người của lực lượng Fulro đang hoạt động chống Chính quyền Việt Nam ở vùng Tây Nguyên269. Làn sóng người Khmer tị nạn, nhất là những người tị nạn qua ngả Thái Lan, đã giúp thế giới biết được phần nào nội tình Campuchia. Trung Quốc sẽ không dám bất chấp dư luận quốc tế để ủng hộ một chế độ diệt chủng, nhất là ủng hộ những hành vi chiến tranh, nếu Việt Nam không để cơ hội bình thường hóa quan hệ với Mỹ rơi vào tay Trung Quốc. Sau ngày “chiến thắng đế quốc Mỹ”, theo ông Đậu Ngọc Xuân: “Cuba nhiều lần thiết tha mời anh Ba Lê Duẩn sang thăm. Fidel cứ giục mãi, nhiều đồng chí nhắc, anh Ba mắng: ‘Các chú muốn dân đói à?’. Rồi, anh Ba nói với Bộ Ngoại Giao: ‘Đúng là Fidel sang ta mấy lần, nhưng ta mới thắng Mỹ, sang Cuba không tuyên bố chống Mỹ thì Cuba không chịu, tuyên bố chống Mỹ thì, các chú thấy, sang cạnh nhà nó chửi nó, nó cấm vận mình suốt đời thì mình chết. Vì lợi ích quốc gia, tôi chưa thể đi được’. Rồi anh Ba cử Lê Đức Thọ đi, anh dặn: ‘Nên nói với đồng chí Fidel, tôi rất muốn sang, nhưng sức khoẻ có vấn đề, bác sĩ không cho đi máy bay xa, đồng chí Fidel thông cảm”.

Theo ông Đậu Ngọc Xuân, lúc ấy, nhiều người đã bất ngờ trước tư duy mềm dẻo này của ông Lê Duẩn. Cũng thời điểm ấy, theo ông Xuân: “Khi Bộ Chính trị bàn về vấn đề ‘ta có thừa kế cổ phần IMF mà chính quyền Sài Gòn cũ có tham gia không?’, có người nói: ‘Ta mà kế thừa Nguỵ à?’, có người lưu ý: ‘IMF là tư bản đấy!’, anh Ba quát: tại sao không!”. Đặng Tiểu Bình đã đánh trúng mối lo của Lê Duẩn khi về sau sẽ ví Việt Nam là Cuba ở phương Đông trong bối cảnh Việt Nam đang có những nỗ lực bất thành nối lại bang giao với Mỹ. Ông Trần Quang Cơ, năm ấy là vụ trưởng Vụ Bắc Mỹ, kể, chỉ hơn một tháng sau khi làm chủ Sài Gòn, Việt Nam có nhờ Liên Xô chuyển cho Mỹ một thông điệp miệng270. Tiếp đó, Thủ tướng Phạm Văn Đồng nói trước Quốc hội: “Việt Nam mời gọi Hoa Kỳ bình thường hóa và yêu cầu chính quyền Mỹ chi tiền tái thiết như đã hứa”. Các đại diện của hai ngân hàng Mỹ, Bank of America và First National City Bank, được mời họp về khả năng có thể giao thương, và các công ty Mỹ được thông báo rằng họ có thể ký kết tìm dầu ở thềm lục địa Việt Nam. Đáp lại những tín hiệu này, ngày 7-5-1976, Tổng thống Gerald R. Ford đề nghị Quốc hội Mỹ tạm ngưng cấm vận Việt Nam trong sáu tháng để tạo điều kiện cho việc đối thoại giữa hai nước. Ngày 8-5-1976, Ngoại trưởng Kissinger gửi công hàm cho Quốc Vụ khanh Bộ Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch, đề nghị thảo luận vấn đề “bình thường hóa”. Ngày 6-1-1977, Bộ Ngoại giao Mỹ đưa ra lộ trình ba bước bình thường hóa quan hệ với Việt Nam và trước mắt có thể đặt quan hệ ngoại giao ở cấp đại sứ. Tuy vậy, Tổng thống Mỹ Geral R. Ford có vẻ như vẫn chưa sẵn sàng khi đưa ra điều kiện để nối lại bang giao: Việt Nam phải làm đầy đủ hồ sơ về lính Mỹ mất tích (MIA), trong đó có việc trao trả hài cốt Mỹ. Phía Việt Nam cũng đòi bằng được Mỹ phải bồi thường chiến tranh, trong khi Mỹ cho rằng Việt Nam đã vi phạm Hiệp định Paris nên không thể bàn đến khoản tiền thỏa thuận trước khi ký Hiệp định Paris được. Theo ông Đậu Ngọc Xuân, sau những diễn tiến này, ông Lê Duẩn nói: “Bình thường hóa là thua trận lần thứ hai, họ không chịu đâu”. Năm 1977, khi Jimmy Carter nhậm chức tổng thống, ông đã giảm điều kiện “làm đầy đủ hồ sơ lính Mỹ mất tích” xuống còn “làm đầy đủ trong khả năng có thể”. Tháng 3-1977, Carter gửi một phái đoàn sang Hà nội để bàn về việc nối lại bang giao. Ngày 17-3-1977, tại Hà Nội, Phó Thủ tướng Nguyễn Duy Trinh đã tiếp Đặc phái viên của Tổng thống Mỹ Leonard Woodcock. Cùng ngày, Woodcock đến chào Thủ tướng Phạm Văn Đồng. Những nỗ lực bình thường hoá dưới thời Carter là có thật. Chỉ ba mươi phút sau khi tuyên thệ nhậm chức, Tổng thống Jimmy Carter rời lễ đài đi vào bên trong tòa nhà Quốc hội, và trước khi sang Nhà Trắng, ông ký lệnh ân xá cho những người Mỹ đã từng chạy sang Canada trốn lính nhằm tránh cuộc chiến tranh Việt Nam. Ông Carter thừa nhận đó là “một quyết định khó khăn” và ông đã phải nhận những lời chỉ trích. Nhưng Tổng thống Carter nói: “Tôi nghĩ đó là một bước cần thiết để khởi đầu việc hàn gắn và đưa chúng ta ra khỏi nỗi ám ảnh Việt Nam để đi tới một kỷ nguyên mới tốt đẹp hơn”271. Ngày 4-5-1977, chính quyền của ông Carter đồng ý để Việt Nam vào Liên Hiệp Quốc. Sau chuyến đi của ông Leonard Woodcock, Mỹ chủ trương bình thường hóa vô điều kiện. Ngày 3-5-1977, phiên đàm phán đầu tiên giữa hai phái đoàn Việt-Mỹ đã diễn ra tại Đại sứ quán Việt Nam ở Paris. Ông Trần Quang Cơ272, người tham gia cuộc đoàn đàm phán này, nhớ lại: “Một trong những điều ngáng trở tiến trình đàm phán là do chúng ta cứ khăng khăng đòi Mỹ phải chi 3,2 tỷ đô-la bồi thường chiến tranh”. Số tiền viện trợ 3,2 tỷ đô-la được coi như là một “thành công kép” mà Cố vấn Lê Đức Thọ mang về từ những cuộc hội đàm ở Paris273. Khoản tiền này đã từng được những nhà hoạch định kế hoạch kinh tế hậu chiến của Việt Nam tính toán như một nguồn quan trọng để thực thi kế hoạch. Trước khi đoàn lên đường sang Paris đàm phán bình thường quan hệ Việt-Mỹ, theo ông Trần Quang Cơ, ông Lê Đức Thọ, theo cung cách xin viện trợ của Liên Xô, đã cung cấp cho đoàn cả một danh sách dài bao nhiêu máy cày, bao nhiêu máy kéo để đòi Washington phải trả. Ông Trần Quang Cơ nhớ lại: “Holbrook nói thẳng với ông Phan Hiền: thôi thì cứ đặt ‘phòng quyền lợi’ đi, cứ bình thường hóa cái đã rồi khoản tiền 3,2 tỷ chúng tôi sẽ tìm cách viện trợ sau. Trưởng đoàn lúc ấy là ông Phan Hiền lập tức bay về Hà Nội báo với ông Nguyễn Cơ Thạch, ông Thạch thuyết phục Bộ Chính trị nhưng không được”. Khi Biên giới Tây Nam gần như được đặt trong tình huống chiến tranh và Trung Quốc đã được Ban Chấp hành Trung ương coi là “kẻ thù”, Việt Nam bắt đầu nhận thấy vai trò của việc quan hệ bình thường với một siêu cường như Mỹ. Đầu năm 1978, ở Tokyo (Nhật), Thứ trưởng Ngoại giao Việt Nam Phan Hiền tuyên bố: “Việt Nam sẵn sàng bình thường hóa vô điều kiện với Mỹ”. Lúc này, Jimmy Carter gần như đã nghiêng về chủ trương “chơi lá bài Trung Quốc để ngăn chặn Liên Xô” theo đề nghị của Cố vấn An ninh Quốc gia Z. Brzezinski. Tổng thống Jimy Carter thừa nhận: “Yêu cầu lúc đầu của phía Việt Nam là chúng ta phải bồi thường chiến tranh theo một số cách thức. Nhưng cuối cùng, tôi nhớ là năm 1978, họ rút lại đòi hỏi này. Điều phức tạp là cũng năm đó, tôi phải dồn tâm trí và đích thân đàm phán bình thường hoá với Trung Quốc. Những cuộc hội đàm giữa Israel và Ai Cập lúc ấy cũng đang diễn ra tại trại David. Tôi phải nói rằng, năm 1978, vấn đề Việt Nam không còn là ưu tiên hàng đầu của tôi nữa”274. Cùng thời gian này, FBI tung ra vụ “gián điệp” liên quan đến đại sứ Việt Nam tại Liên Hiệp Quốc, ông Đinh Bá Thi. Ronald Humphrey, nhân viên của Cơ quan thông tin Hoa Kỳ, cùng David Truong, người của Hội Việt-Mỹ, bị bắt vì lấy cắp mấy bức điện tín được coi là không quan trọng lắm của Mỹ. Đại sứ Đinh Bá Thi bị trục xuất. 19-5-1978, một ngày trước khi Brzezinski tới Bắc Kinh, Đặng Tiểu Bình tuyên bố: Trung Quốc là NATO phương Đông; đồng thời Đặng ví Việt Nam với Cuba, một “tiền đồn của Liên Xô” ở bên cạnh Mỹ. Ngày 23-8-78, Bộ trưởng Ngoại giao Mỹ, Cyrus Vance đi thăm Bắc Kinh. Ngày 21-8-78, bảy hạ nghị sĩ thuộc cả hai đảng Dân chủ và Cộng hòa do Hạ nghị sĩ Dân chủ G.V.Montgomery, chủ tịch Ủy ban POW/MIA, dẫn đầu vẫn đến Hà Nội. Việt Nam đã cố bày tỏ thiện chí bằng cách trao trả cho Mỹ một số bộ hài cốt và cử ông Trần Quang Cơ đích thân dẫn đoàn vào miền Nam, thăm thánh thất Cao Đài và một trại người Campuchia tị nạn chiến tranh ở biên giới Tây Ninh. Đoàn của Hạ nghị sỹ Montgomery là đoàn người Mỹ đầu tiên được phép thăm Sài Gòn kể từ sau 30-4-1975. Nhưng, theo ông Trần Quang Cơ, quyết định chấp nhận công thức do phía Mỹ đưa ra “bình thường hóa vô điều kiện” vào lúc ấy đã là quá muộn. Cuối tháng 9-1978, Thứ trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch tới Mỹ sau một thời gian ông nằm ở Đà Nẵng dự thảo Hiệp định Hợp tác Toàn diện với Liên Xô. Cuộc đàm phán giữa ông Thạch và Holbrooke diễn ra lạnh nhạt. Theo ông Trần Quang Cơ, người có mặt trong cuộc đàm phán này, Holbrooke nói: “Mỹ coi trọng châu Á, Mỹ cần bình thường hóa quan hệ giữa hai nước nhưng lo ngại Liên Xô đặt căn cứ ở Cam Ranh”. Lúc đó, theo dự đoán của người Mỹ, có khoảng từ 3.500-4000 cố vấn Liên Xô đang có mặt ở Việt Nam275. Những ngày sau khi kết thúc chiến tranh, Lê Duẩn đã khá thận trọng trong mối quan hệ với Liên Xô và Trung Quốc, nhưng độc lập luôn bị thách thức trong mối quan hệ với những người “anh em cộng sản”. Cả Liên Xô lẫn Trung Quốc đều đặt Việt Nam vào thế phải đứng hẳn về một bên. Ngày 31-8-1975, trên đường đi dự Quốc khánh Việt Nam, Tướng Trần Tích Liên, ủy viên Bộ Chính trị, tư lệnh Quân khu Bắc Kinh, đã không đi thẳng tới Hà Nội mà dừng chân tại Khu Gang Thép Thái Nguyên. Tại Nhà máy đang được xây dựng bởi Trung Quốc này, Tướng Liên đọc một diễn văn kêu gọi “chống bá quyền” mà ai cũng biết là chống Liên Xô. Hà Nội đã khá mềm dẻo khi Thủ tướng Phạm Văn Đồng vẫn “ôm hôn thắm thiết” Trần Tích Liên, nhưng các báo xuất bản tại Việt Nam không nói gì tới bài diễn văn “chống bá quyền” của Trung Quốc.

Cuối tháng 9-1975, khi Lê Duẩn tới Bắc Kinh, Đặng Tiểu Bình, người mới được phục chức phó thủ tướng sau khi bị “bè lũ bốn tên” đưa ra khỏi Trung Nam Hải, nêu vấn đề “chống bá quyền” và ngầm khuyên nhủ Việt Nam liên kết với Bắc Kinh chống lại Moscow. Khi đáp từ, Lê Duẩn đã tránh đề cập tới “bá quyền” đồng thời “cám ơn sự giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa anh em” tất nhiên là bao gồm Liên Xô. Sự né tránh đứng hẳn về phía Trung Hoa và vấn đề Hoàng Sa đã khiến cho chuyến đi của Lê Duẩn hoàn toàn thất bại: Trung Quốc từ chối viện trợ; Lê Duẩn từ chối thảo luận thông cáo chung; tiệc liên hoan bị hủy bỏ. Trung Quốc càng ngờ vực Việt Nam hơn khi một tháng sau đó, trong chuyến đi tới Moscow, Lê Duẩn có một “Thông cáo chung”, theo đó, Việt Nam nhất trí với Liên Xô trong đường lối đối ngoại. Đây là một thay đổi lớn. Tháng 3-1976, khi tham dự Đại hội XXV của Đảng Cộng sản Liên Xô, Lê Duẩn nhấn mạnh: Mỗi đảng cộng sản có thể theo đuổi một đường lối riêng, phù hợp với điều kiện của mỗi nước276. Liên Xô đã từng bất ngờ khi Việt Nam từ chối gia nhập khối Comecon277 trong khi xin gia nhập IMF. Tháng 12-1976, khi đến Hà Nội dự Đại hội Đảng lần thứ IV, Suslov được mô tả là đã giận dữ khi lần thứ hai thất bại trong việc thuyết phục Việt Nam vào Comecon278. Nhưng để “tiến nhanh lên xã hội chủ nghĩa”, Việt Nam lại rất cần tiền bạc. Trong khi đó, Trung Quốc cắt viện trợ, Liên Xô từ chối giúp đỡ, hy vọng vào 3,2 tỷ đô la “bồi thường chiến tranh” của Washington tiêu tan. Phạm Văn Đồng bị các nước lớn như Anh, Đức cự tuyệt và người Pháp thì lạnh nhạt. Ở trong nước, từ năm 1977, chính sách “sản xuất lớn” áp dụng vội vàng lại gây ra đói kém, mất mùa. Ngày 2-6-1977, trên đường từ Đông Âu trở về, Đại tướng Võ Nguyên Giáp ghé qua Bắc Kinh, nhưng người đối đẳng với ông là Bộ trưởng Quốc phòng Diệp Kiếm Anh đã không ra sân bay đón. Tướng Giáp gần như đã bị làm nhục trong suốt chuyến đi này279. Một tuần sau, khi Thủ tướng Phạm Văn Đồng dừng chân ở Bắc Kinh, Phó Thủ tướng Trung Quốc Lý Tiên Niệm chính thức cáo buộc Hà Nội “lật lọng đối với Công hàm 1958”. Sau những sự cố ngoại giao đó, Việt Nam càng cảnh giác cao với Bắc Kinh. Ngày 2-5-1978, Ủy ban Thường Vụ Quốc hội ra Quyết định đổi một đồng tiền dùng chung cho hai miền. Theo đó, một đồng ngân hàng miền Bắc được đổi bằng một đồng tiền mới; 0,80 đồng tiền miền Nam “ăn” được một đồng. Không có biến động đáng kể vì lần đổi tiền này không nhằm “cải tạo tư sản” dù được đưa ra ngay sau “cải tạo tư sản”. Lý do công khai là “để thống nhất tiền tệ trong cả nước”. Nhưng, theo ông Nguyễn Nhật Hồng, đồng tiền Chính phủ Lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam phát hành tại miền Nam từ ngày 22-9-1975 là tiền thuộc lô “Hàng 65” được Trung Quốc giúp in. Tuy nhiên, sau khi in, bản kẽm bị “bạn” giữ lại, Việt Nam xin lại mấy lần không được. Năm 1978, nhằm tránh Trung Quốc sử dụng bản kẽm mà họ đang giữ để in tiền tung ra phá hoại, Chính quyền cho đổi “Hàng 65” bằng một loại tiền mới được in từ Tiệp Khắc. Sự căng thẳng giữa Trung Quốc-Việt Nam càng thêm kịch tính sau cái chết của nữ nghệ sỹ Thanh Nga. Đêm 26-11-1978, vào lúc 23 giờ 30, xe của nghệ sỹ Thanh Nga rời rạp hát về đến trước nhà riêng ở số 114 Ngô Tùng Châu, Quận 1, thì bị một kẻ lạ mặt dùng súng khống chế người bảo vệ và chồng của nghệ sỹ Thanh Nga, luật sư Phạm Duy Lân. Cùng lúc, kẻ lạ mặt thứ hai dựng xe honda, nhảy vào bắt con của Nghệ sỹ Thanh Nga là bé Cúc Cu đang ngồi ghế sau với mẹ. Nghệ sỹ Thanh Nga chống trả quyết liệt, Luật sư Lân từ ghế lái xe quay lại hỗ trợ vợ, lập tức bị kẻ lạ mặt nổ súng bắn chết. Thanh Nga hét lên và đến lượt chị cũng bị bắn. Hai kẻ lạ mặt tẩu thoát. Cái chết của vợ chồng nghệ sỹ Thanh Nga làm rúng động cả nước vì khi bị bắn, chị chưa kịp thay bộ đồ “Thái hậu Dương Vân Nga”, một vai diễn hừng hực lửa chống “kẻ thù phương Bắc”. Trước đó, Thanh Nga cũng đã nhận được một số thư từ đe dọa khi chị diễn vai Trưng Trắc trong Tiếng Trống Mê Linh và đã từng bị ném lựu đạn khi đang diễn trên sân khấu Lux. Vụ án Thanh Nga vì thế lúc đầu được coi như là một chuyên án chính trị. Quan tài hai vợ chồng quàn tại 81 Trần Quốc Thảo thu hút hàng vạn người Sài Gòn280. Sự cự tuyệt của Trung Quốc và Mỹ cuối cùng đã đặt Việt Nam vào thế “nhất biên đảo”. Từ tháng 7-1977, các phái đoàn quân sự của Liên Xô bắt đầu đến các căn cứ quân sự cũ của Mỹ ở miền Nam. Tháng 10-1977, chuyến thăm Việt Nam của phái đoàn quân sự Liên Xô được công khai trên các phương tiện truyền thông. Cùng lúc, Trung Quốc tăng cường viện trợ quân sự cho Pol Pot. Giữa tháng 10-1978, ở New York, Nguyễn Cơ Thạch hối thúc các nhà đàm phán Hoa Kỳ ký thỏa thuận bình thường hóa. Có lẽ ông Thạch cũng muốn có một nỗ lực cuối cùng. Nhưng Hoa Kỳ đã từ chối vì ba “trở ngại” mới: sự thù địch của Việt Nam với Campuchia, mối quan hệ với Liên Xô, và tình trạng gia tăng thuyền nhân Việt Nam. Sau một tháng trời chờ đợi, Nguyễn Cơ Thạch phải rời New York tay không, ông chuyển tiếp ở Paris, rồi từ đó qua thẳng Moscow. Trước đó, sáng 30-10-1978, Lê Duẩn, Phạm Văn Đồng đã rời Hà Nội trên một chiếc Ilyyushin-62 bay tới Liên Xô. Ngày 3-11-1978, Hiệp ước Hợp tác Toàn diện với Liên Xô trong vòng hai mươi lăm năm, bao gồm điều khoản cho Liên Xô sử dụng cảng Cam Ranh như một căn cứ quân sự, đã được ký kết. Hiệp ước đã như một “món quà” đối với Đặng Tiểu Bình. Hai ngày sau, ông ta đến Thái Lan, bắt đầu chuyến công du ASEAN, thuyết phục các quốc gia ở đây coi Việt Nam và Liên Xô, thay vì Trung Quốc, là mối đe dọa chính. Trong khi đó, vững tin vào mối quan hệ với “siêu cường”, Việt Nam bắt đầu xử lý mối bận tâm ở phía Tây Nam đất nước.

“Áo lính lại khoác vào ngay”281

Từ tháng 6 đến tháng 12-1978, Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức bốn hội nghị Bộ Chính trị, Quân ủy và Ban Chấp hành Trung ương để bàn về vấn đề Campuchia. Tính từ tháng 12-1977 đến ngày 14-6-1978, có 6.902 bộ đội Việt Nam bị hy sinh, 23.742 bị thương; ngoài ra, có 4.100 thường dân bị thương và bị giết. Trung ương xác định phải giải quyết cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam càng nhanh càng tốt. Ngày 13-12-1978, 10/19 sư đoàn của Pol Pot tấn công Việt Nam trên toàn tuyến biên giới. Ba sư đoàn đã đánh vào Bến Sỏi hòng chiếm Tây Ninh. Hai sư đoàn đánh vào Hồng Ngự, Đồng Tháp. Hai sư đoàn đánh vào Bảy Núi, An Giang. Hai sư đoàn đánh vào Hà Tiên. Một sư đoàn đánh vào Trà Phô, Trà Tiến, Kiên Giang. Ngày 23-12-1978, Lực lượng quân Việt Nam với nòng cốt là ba quân đoàn chủ lực cùng với lực lượng của các Quân khu V, VII, IX, dưới sự chỉ huy của Tướng Lê Trọng Tấn, bắt đầu tấn công trên toàn mặt trận, đẩy Khmer Đỏ lùi dần về phía Tây. Khmer Đỏ không bất ngờ trước những phản ứng này. Nhưng thay vì tập hợp lực lượng để đối phó với Việt Nam, Pol Pot đã tranh thủ thanh lọc quân đội, đảng và cả nhân dân, để có những “người Khmer thuần khiết” nhằm “bảo vệ đất đai và nòi giống”282. Những cuộc thanh trừng của Pol Pot đã đẩy hàng loạt sỹ quan của Khu Đông phải chạy vào rừng như Ouk Bun Xươn, Heng Somrin, Chea Sim, Hun Sen. Những người này về sau đã tới Việt Nam. Trong thời gian đó, ông Lê Đức Thọ bay vào Nam để chuẩn bị cho một giải pháp chính trị. Một nhóm lãnh đạo gồm bảy người do Lê Đức Thọ lựa chọn từ số những người Khmer tập kết còn sót lại và số vừa chạy sang từ Khu 203. Lê Đức Thọ cũng dựng lên một “Ủy ban Trung ương Mặt trận Đoàn kết Cứu nước” gồm mười bốn người rồi đưa về Campuchia tổ chức lễ ra mắt tại Mimot vào ngày 2-12-1978. Một lực lượng đặc công cũng được giao nhiệm vụ đột nhập Hoàng cung để tìm Hoàng thân Sihanouk nhưng thất bại. Lá bài Sihanouk lần nào cũng được Trung Quốc khai thác hữu hiệu hơn Việt Nam. Ngày 5-1-1979, Pol Pot đã nghe lời khuyên của Bắc Kinh, đề nghị Sihanouk đến Liên Hiệp Quốc lên án “hành động xâm lược của Việt Nam”. Ngày 6-1-1979, ông Hoàng đã lên chiếc Boeing 707 của Bắc Kinh bay sang BangKok. Ngày 7-1-1979, Quân đội Việt Nam vượt phà Neak Lương tới Phnom Penh nhanh tới mức lực lượng Khmer Đỏ chỉ kịp rời thành phố trước khi đại quân tới khoảng một giờ. Ngày 11-1-1979, Yeng Sary mới chạy đến biên giới Thái Lan và được quân đội Thái đưa về BangKok để đi tiếp tới Bắc Kinh. Ngày 13-1-1979, Yeng Sary bị Đặng Tiểu Bình trách mắng. Trong khi đó, ở Liên Hiệp Quốc, Sihanouk đọc diễn văn lên án “hành động xâm lăng của Việt Nam” đồng thời tố cáo chế độ bạo tàn của Pol Pot. Theo đề nghị của Sihanouk, Liên Hiệp Quốc đã đưa ra thảo luận nghị quyết buộc Việt Nam rút quân khỏi Campuchia. Tuy nhiên, nghị quyết này đã bị Liên Xô dùng quyền lực Thường trực Hội đồng Bảo an phủ quyết. Từ phiên họp của Liên Hiệp Quốc, Sihanouk bí mật tìm gặp Đại sứ Mỹ Andrew Young, nhưng nước Mỹ đã đẩy Sihanouk trở lại tay của Đặng Tiểu Bình khi từ chối yêu cầu của ông xin tị nạn.

Chỉ hai ngày sau khi Việt Nam đưa quân vào Phnom Penh, 9-1-1979, Ngoại trưởng Mỹ Cyrus Vance tuyên bố với ông Trần Quang Cơ: “Các cuộc nói chuyện Mỹ- Việt về bình thường hóa đã tan vỡ do cuộc xâm lược Campuchia của Việt Nam”283. Ngày 15-12-78, Mỹ và Trung Quốc ra thông cáo chung, chính thức công nhận nhau và tuyên bố thiết lập quan hệ ngoại giao từ ngày 1-1-79. Ngày 29-1-1979, Jimmy Carter đón Đặng Tiểu Bình tại Washington bằng hai mươi phát đại bác. Đặng Tiểu Bình biết ảnh hưởng quốc tế của cuộc chiến tranh xâm lược Việt nam nên đã thông báo với Tổng thống Carter mức độ “giới hạn” của cuộc tấn công. Tuy khuyên Đặng “không nên có hành động xâm lược”, nhưng trong cuộc họp riêng giữa hai người, Carter không cho Đặng thấy là cuộc tấn công sẽ ảnh hưởng đến bang giao của hai nước. Vào lúc 5 giờ 25 sáng ngày 17-2-1979, Trung Quốc nổ súng trên toàn tuyến biên giới Việt Nam, đánh chiếm từ cực Tây Bắc (Phong Thổ, Lai Châu) đến cực Đông Bắc (địa đầu Móng Cái). Tiếng pháo chát chúa ở hướng Đồng Đăng và phía dốc Chóp Chài, Lạng Sơn đã dựng người dân dậy khi mờ sáng. Vào thời điểm ấy, Trung Quốc tập trung sát biên giới khoảng 450 nghìn quân284 và sử dụng 200 nghìn quân trong ngày đầu xâm lược285. Việt Nam bị bất ngờ hoàn toàn286. Các lực lượng tự vệ ở khu vực Hữu Nghị Quan hầu hết bị quân Trung Quốc giết chết ngay từ những phút đầu tiên. Phụ nữ, trẻ em chỉ kịp chạy về phía sau hốt hoảng. Ở hướng Trà Lĩnh, Cao Bằng, hàng trăm người dân đã phải chạy vào hang núi tránh pháo và sáng ra, họ nhìn thấy quân Trung Quốc í ới gọi nhau ngay sát dưới chân.

Tháng 2-1979, ở biên giới, Trung Quốc có tới sáu mươi sư đoàn tinh nhuệ, trong khi ở phía Bắc, theo Tướng Lê Phi Long, cục phó Cục Tác chiến, lực lượng vũ trang Việt Nam tổng cộng chỉ còn khoảng mười một sư đoàn. Đội quân chủ yếu làm kinh tế ấy đã phải phản công trong điều kiện hết sức bất ngờ. Chỉ huy các đơn vị đóng tại Lạng Sơn, ngày 15-2-1979, còn được triệu tập để nghe nhận định: “Địch sẽ đánh ở cấp sư đoàn vào ngày 22-2”287. Ở Cao Bằng, sáng 16-2, tất cả các đồn trưởng biên phòng đều được triệu tập về thị xã Cao Bằng nhận lệnh. Sáng hôm sau, khi họ cố tìm về đơn vị thì Trung Quốc đã tràn sang. Sáng 17-2, Đại đội 22 của thị xã Cao Bằng mới được trang bị thêm mười bảy khẩu súng chống tăng B41. Nhiều nơi, chỉ khi nhìn thấy chữ “Bát Nhất” trên xe tăng Trung Quốc, người dân mới hay đất nước lại chiến tranh. Chỉ riêng ở Cao Bằng trong ngày 17-2, Trung Quốc đã sử dụng tới sáu sư đoàn, ở Lạng Sơn ba sư đoàn và Lào Cai ba sư đoàn. Hôm sau, 18-2, Trung Quốc tăng cường cho hướng Cao Bằng một sư đoàn và bốn mươi tăng; Lạng Sơn, một sư đoàn và bốn mươi tăng; Lào Cai, hai trung đoàn và bốn mươi tăng. Lực lượng Trung Quốc

áp sát biên giới vào ngày 17-2 lên tới chín quân đoàn chủ lực288. Ngày 17-2, Trung quốc tiến vào Bát Xát, Lao Cai; chiều 23-2, Trung Quốc chiếm Đồng Đăng; 24-2, Trung Quốc chiếm thị xã Cao Bằng; ngày 27-2, ở Lạng Sơn, Trung Quốc đánh vào thị xã. Tại Lào Cai, khu mỏ Apatit bị đập nát từ các nhà máy cho đến các thiết bị, máy móc; hai nhà ga gần nhất là Gốc Đa và Làng Pèng bị phá tan hoang; chiếc cầu nối đường sắt qua con suối chảy ra từ làng Cóc cũng bị lính Trung Quốc đánh sập. Sapa chỉ còn là một đống gạch vụn. Đồng Đăng, Lạng Sơn cũng bị tàn phá. Tại Cao Bằng, quân Trung Quốc lần lượt đập nát từng ngôi nhà, từng công trình và trước khi rút lui đã ốp mìn cho nổ tung từng cột điện. Ở Bát Xát, Lào Cai, hàng trăm phụ nữ trẻ em bị hãm hiếp, bị giết một cách dã man ngay trong ngày đầu tiên quân Trung Quốc tiến sang. Tại thôn Tổng Chúp, xã Hưng Đạo, huyện Hòa An, Cao Bằng, trong ngày 9-3, trước khi rút quân, lính Trung Quốc đã giết bốn mươi ba người, gồm hai mươi mốt phụ nữ, hai mươi trẻ em, trong đó có bảy phụ nữ đang mang thai. Tất cả đều bị giết bằng dao như Pol Pot. Mười người bị ném xuống giếng, hơn ba mươi người khác, bị chặt ra nhiều khúc, thây vứt hai bên bờ suối. Bằng một lực lượng nhỏ hơn rất nhiều, các đơn vị biên giới đã nhanh chóng tổ chức chiến đấu. Con đường tiến vào thị xã Cao Bằng đã được quân Trung Quốc gọi là những “khe núi đẫm máu”289. Đặc biệt, Tiểu đoàn Đặc công 45, được điều lên sau ngày 17-2, chỉ cần đánh trận đầu ở kilomet số 3, đường từ Cao Bằng đi về xuôi qua đèo Tài Hồ Sìn, cũng đã khiến cho quân Trung Quốc khiếp vía. Mãi tới ba tuần sau quân Trung Quốc mới chiếm được thị xã Lạng Sơn, trong khi đây là nơi mà Đặng muốn chiếm được ngay trong tuần đầu tiên hòng gửi một thông điệp đe dọa tới Hà Nội. Khoảng 25.000 lính Trung Quốc bị chết, 37.000 quân khác bị thương. Tổn phí chiến tranh hết khoảng 5.5 tỷ Nhân dân tệ trên tổng chi tiêu ngân sách năm 1979 của Trung Quốc là 22,3 tỷ. Cuộc chiến mà Đặng Tiểu Bình nói là để “dạy cho Việt Nam một bài học”, theo các nhà phân tích quân sự phương Tây, “chính Việt Nam mới là người đã dạy cho Trung Quốc bài học” 290. Những người dân Biên giới cho đến hôm nay vẫn nhớ mãi hình ảnh “biển người” quân Trung Quốc bị những cánh quân Việt Nam cơ động liên tục, đánh cho tan tác. Đầu tháng 3-1979, trong khi hai sư đoàn 346, Cao Bằng và 338, Lạng Sơn, thọc sâu đánh những đòn vu hồi, quân đội Trung Quốc đã bộc lộ là một đội quân đã quá lâu không ở trong tình trạng sẵn sàng tác chiến. Ngày 2-3-1979, như để giải thích cho việc “án binh bất động” khi đồng minh của mình bị tấn công, tại Moscow, Tổng Bí thư Brezenev tuyên bố: “Đừng ai nghi ngờ việc Liên Xô trung thành với Hiệp ước Hữu nghị và hợp tác gắn bó Liên Xô với Việt Nam”. Cùng ngày 2-3-1979, hãng thông tấn xã Tass của Liên Xô phát đi một tuyên bố: “Quân đội Trung Quốc phải rút ngay khỏi lãnh thổ Việt Nam… Những tên xâm lược Trung Quốc cần biết rằng chúng càng gây nhiều tội ác bao nhiêu, thì sẽ càng bị trừng phạt nghiêm khắc bấy nhiêu” 291. Ngày 4-3-1979, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam ra lời kêu gọi “toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đoàn kết một lòng, anh dũng tiến lên”. Lời kêu gọi cho rằng, “ngày nay, chúng ta có sức mạnh vĩ đại hơn bao giờ hết, sức mạnh tổng hợp của cả dân tộc và của ba dòng thác cách mạng của thời đại”. Ngày 5-3-1979, Hội đồng Chính phủ ra Nghị định số 83-CP, “quân sự hóa toàn dân, vũ trang toàn dân” nhằm “đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của bọn phản động theo chủ nghĩa bành trướng Trung Quốc”. Cùng ngày, Chủ tịch nước ra lệnh “Tổng động viên”. Trên báo Nhân Dân, Hoàng Tùng xã luận: “Cả nước đánh giặc, toàn dân là lính”. Cùng thời điểm đó, hai quân đoàn tinh nhuệ nhất của Việt Nam, sau khi đuổi Pol Pot khỏi Phnom Penh, được vận chuyển bằng máy bay ra phía Bắc: Quân đoàn II lên Đồng Mỏ, Lạng Sơn; Quân Đoàn III tới Na Rì, Bắc Kạn. Ngày 6-3-1979, Trung Quốc tuyên bố “chiến thắng” rồi bắt đầu rút quân.

Huy Đức

Bên thắng cuộc – Chương IV: Nạn Kiều



Chương IV: Nạn Kiều

Năm 1978, Hà Nội phát hiện Bắc Kinh hậu thuẫn cho Pol Pot quấy phá biên giới Tây Nam. Hơn một triệu người Hoa ở Việt Nam đã trở thành mối lo “con ngựa thành Troy” cho một cuộc chiến tranh khi ấy được tin là không tránh khỏi. Ba “phương án” đưa người Hoa ra khỏi Việt Nam đã được triển khai. Bắc Kinh tố cáo Việt Nam gây ra vụ “nạn Kiều”. Việt Nam tố cáo Bắc Kinh “kích động”. Ở giữa “hai làn đạn”, cộng đồng người Hoa ở Việt Nam đã phải trải qua cơn biến động không kể hết đau thương.

Đội quân thứ năm

Đầu năm 1978, ông Lê Duẩn đưa Đỗ Mười vào miền Nam thay thế Nguyễn Văn Linh chỉ huy công cuộc “Cải tạo công thương nghiệp tư nhân”. Sau năm 1986, sự kiện này đã được nêu lên như là một bằng chứng để nói ông Nguyễn Văn Linh là người chống lại cải tạo tư sản. Tuy nhiên, theo ông Trần Phương, người có sáu tháng làm phó cho ông Nguyễn Văn Linh ở Ban Cải tạo công thương nghiệp Trung ương: “Trong vấn đề cải tạo, Mười Cúc chỉ khác Đỗ Mười ở cách làm chứ không khác ở quan điểm cải tạo hay không cải tạo. Ở thời điểm ấy, Lê Duẩn chọn Đỗ Mười và đứng sau lưng Đỗ Mười vì ông muốn giải quyết vấn đề người Hoa gấp. Điều mà Lê Duẩn không tin là Mười Cúc làm được”.

Ông Trần Quốc Hương, khi ấy là phó bí thư Thành ủy, kể lại: Vào Thành phố Hồ Chí Minh, Tổng Bí thư Lê Duẩn mời ông đến T78, hỏi về tình hình người Hoa. Cả nước khi ấy có khoảng một triệu hai trăm ngàn người Hoa. Ở miền Nam chiếm một triệu và riêng Thành phố Hồ Chí Minh có khoảng hơn nửa triệu. Ông Mười Hương báo cáo: “Người Hoa ở Thành phố hoạt động trên nhiều mặt, nhưng mạnh nhất là về kinh tế. Từ sau khi ta chủ trương đánh tư sản mại bản, hoạt động kinh tế của người Hoa có bị giảm sút, nhưng họ vẫn có vai trò. Giá cả vàng và ngoại tệ cứ mỗi sáng sớm lại được quyết định bởi người Hoa ở một số nơi trong Chợ Lớn”. Ông Lê Duẩn nói: “Không thể thế được. Ngô Đình Diệm cấm người Hoa không được kinh doanh mười một ngành nghề, theo tôi chỉ cần một thôi là cấm người Hoa không được kinh doanh buôn bán. Nhân có nhiều người đang di tản, thành phố nên có cách đưa người Hoa ra đi”.

“Người Hoa không được kinh doanh buôn bán” được ngầm hiểu như một tư tưởng chỉ đạo của chiến dịch “cải tạo công thương nghiệp tư doanh”. Giữa tháng 3- 1978, ông Đỗ Mười nhanh chóng tập kết lực lượng tại các biệt thự trong khu Thảo Điền, Thủ Đức. Trưởng Ban Hoa vận Thành ủy, ông Nghị Đoàn, kể: “Ông Đỗ Mười vào là kêu tôi lên báo cáo ngay, ông nói cho tôi biết, Chợ Lớn là trọng điểm của đợt cải tạo”.

Chợ Lớn là trung tâm buôn bán lớn nhất của người Hoa ở Việt Nam. Theo ông Phạm Văn Hùng, thường gọi là Ba Hùng, Thư ký riêng của ông Võ Văn Kiệt: “Trung ương cho rằng thật bất lợi khi giữ 500.000 người Hoa trong thành phố. Họ sẽ nắm kinh tế và rồi họ sẽ trở thành đội quân thứ năm. Trung ương chủ trương đưa bớt người Hoa ra khỏi thành phố”. Ông Hùng nói: “Cả anh Võ Văn Kiệt, Mai Chí Thọ và Trần Quốc Hương đều không đồng ý, nhưng Trung ương giữ ý kiến, Trung ương muốn ‘xé’ người Hoa ra, đưa về các tỉnh”. Ông Võ Văn Kiệt thừa nhận: “Cải tạo công thương nghiệp tư doanh, về mặt chính sách, chủ yếu nhắm vào giới buôn bán, nhưng trên thực tế buôn bán lại là sở trường của người Hoa, do đó, mặc nhiên họ trở thành số đông trong đối tượng dính vào cải tạo. Cũng có lúc có chủ trương đưa bớt người Hoa ra khỏi Thành phố, bố trí người Hoa sống xen với người Việt theo kiểu ‘xôi đậu’, không để họ tập trung. Việc này được làm mạnh tay hơn do căng thẳng của mình và Trung Quốc”.

Theo thống kê đến tháng 3-1979 của Thành phố Hồ Chí Minh: Trước ngày 30-4- 1975 có 200 nhà tư sản lớn người Hoa bỏ chạy khỏi Sài Gòn – Chợ Lớn; chín mươi tám tư sản người Hoa trong số 161 tư sản mại bản còn lại ở Sài Gòn đã bị “đánh” trong khoảng từ tháng 9-1975 đến năm 1977. Hơn 4.000 hộ tư sản người Hoa khác đã bị cải tạo trong khoảng hai tuần đầu sau khi ông Đỗ Mười bắt đầu chiến dịch. Trong số 28.787 hộ bị quy là tư sản thương nghiệp và bị cải tạo, ngoài 2.500 hộ “có công với Cách mạng” hoặc là “cơ sở Cách mạng” được “ở lại thành phố theo diện chính sách”, một số chuyển sang sản xuất tại chỗ, một số “được bố trí vào mạng lưới phân phối xã hội chủ nghĩa”, 3.494 hộ bị đưa đi các tỉnh dưới danh nghĩa “đăng ký đi kinh tế mới”.

Cũng có một số thương nhân dự tính “chuyển sang sản xuất” thật. Nhưng khi đến Lâm Đồng hay xuống Đồng Tháp Mười, nhìn những căn lán vách lá tuềnh toàng, bên trong nền nhà, cỏ cây mô đất không kịp cắt dọn, các nhà tư sản hiểu ra mục tiêu của chính quyền. Nhà văn Nguyễn Nhật Ánh, khi ấy đang là một thanh niên xung phong, kể: “Chúng tôi được giao nhiệm vụ xây dựng các làng kinh tế mới để đón đồng bào. Cũng là những thanh niên mới từ thành phố xuống, chúng tôi chặt cây, cắt tranh dựng cấp tốc hàng loạt… Nhưng, làm xong nhìn lại, thấy đến thanh niên xung phong cũng khó lòng mà ở trong những túp lều như thế”. Nhiều người trở lại thành phố ngay, nhiều người tạm dừng lại ít bữa để nghe ngóng. Ít lâu sau, các nhà tư sản, đặc biệt là tư sản người Hoa, được móc nối, kêu nộp vàng để được ra đi “bán hợp pháp”.

Ông Trần Quốc Hương nói tiếp: “Lần thứ hai, Tổng Bí thư Lê Duẩn cho gọi tôi đến T78. Lần này ông không nói gì nhiều, chỉ nhắc, tình hình giữa ta và Trung Quốc thêm xấu đi, Thành phố cần khẩn trương đưa người Hoa ra đi”. Sau buổi làm việc đó với Tổng Bí thư Lê Duẩn, ông Trần Quốc Hương nói ông đã có “nhiều đêm không ngủ”. Trong những năm 1938-1940, các nhà lãnh đạo Đảng như Lê Hồng Phong, Nguyễn Thị Minh Khai, khi từ Trung Quốc về Sài Gòn, nhiều lúc đã phải dựa vào người Hoa Chợ Lớn. Trước khi ra Bắc, ông Lê Duẩn có rất ít những liên hệ cá nhân với các nhà lãnh đạo Trung Hoa Cộng sản. Nhưng người cận vệ vào sinh ra tử nhất mực trung thành của ông là một người Việt gốc Hoa, ông Năm Hoành. Người lái chiếc xe Ford bốn chỗ chở ông Lê Duẩn từ Sài Gòn theo đường công khai sang Phnom Penh cũng là một nhà tư sản người Hoa, ông Lai Thanh. Người được phái từ Hà Nội vào Phnom Penh chuyển lá thư của ông Phạm Hùng gửi cho ông Lê Duẩn cũng là người Việt gốc Hoa, nữ tình báo Hồ Anh. Người nhận lá thư này từ Hồ Anh, ông Q.M., lại là một cán bộ thuộc Hoa Kiều vụ của Đảng Cộng sản Trung Quốc hoạt động tại miền Nam Việt Nam.

Năm 1949, Q.M. đã gặp ông Lê Duẩn ở Đồng Tháp Mười. Từ Phnom Penh, Q.M. trong vai một người cháu dẫn “ông cậu” Lê Duẩn “chui” xuống một hầm tàu chật chội và nóng bức, trong suốt năm ngày, xuôi dòng Mekong ra biển rồi đi tới Hongkong. Từ Hongkong, cán bộ lễ tân của Đảng Cộng sản Trung Quốc đã chờ sẵn, dẫn “hai cậu cháu” ông Lê Duẩn đi làm giấy tờ nhập cảnh theo diện “kiều dân Trung Hoa về nước”. Ngày 23-5-1957, phái viên Trung Quốc đã cùng với Hồ Anh đưa ông Lê Duẩn về Tỉnh ủy Quảng Châu. Theo bà Hồ Anh, các nhà lãnh đạo Trung Quốc đã đón tiếp ông Lê Duẩn rất trọng thị. Trên đường bay trở lại Việt Nam, những đồng chí Trung Hoa tinh tế đã lấy lý do “thời tiết xấu”, cho dừng máy bay chở ông Lê Duẩn ở Nam Ninh. Tại đó, các “đồng chí Trung Quốc” sắp xếp để ông Lê Duẩn có cuộc đoàn tụ cảm động với Lê Tuyết Hồng, người con gái được sinh ra khi ông Lê Duẩn đang ở trong tù. Tuyết Hồng khi đó đang được Trung Quốc nuôi ăn học ở ký túc xá Quế Lâm.

Hiệp định Geneva

Thủ tướng Phạm Văn Đồng ngồi vào bàn đàm phán Hội nghị Geneva một ngày sau khi Tướng Giáp bắt sống Tướng De Castries cùng với 16.000 quân Pháp ở Điện Biên Phủ. Những người Việt Nam Cộng sản lúc ấy tin rằng họ sẽ giành được cả nước nếu tiếp tục chiến đấu.

Ở Nam bộ, Hiệp định Geneva được coi là “xên non”. Ông Võ Văn Kiệt nhớ lại: “Tướng Đồng Văn Cống đánh một đêm giải phóng hàng chục đồn; Tây, Ngụy hoang mang tột độ, cứ hù là chạy. Chỉ cần giữ thêm một tháng nữa là mình sẽ làm chủ hết vùng nông thôn Nam bộ”. Ông Kiệt nói: “Tụi tôi tiếc không thể tưởng tượng được”. Khi thay mặt Trung ương triển khai Nghị quyết thi hành Hiệp định Geneve ở miền Nam, ông Lê Duẩn nói: “Ta không tán thành, đây là do Trung Quốc và Liên Xô ép”.

Hành động của Chu Ân Lai tối 22-7-1954 cũng khiến cho nhiều nhà ngoại giao miền Bắc Việt Nam “để bụng”. Hôm ấy, sau khi ký Hiệp định Geneva, Chu tổ chức một dạ tiệc chia tay, mời cả Ngô Đình Luyện, người của phía Việt Nam Quốc gia. Trong bữa tiệc, Chu còn đề nghị chính quyền Sài Gòn mở cơ quan đại diện ngoại giao ở Bắc Kinh: “Tất nhiên, về mặt ý thức hệ thì Phạm Văn Đồng gần gũi chúng tôi hơn, nhưng điều đó không loại bỏ việc có đại diện từ miền Nam. Suy cho cùng, chẳng phải tất cả các đồng chí đều là người Việt Nam, và chẳng phải tất cả chúng ta đều là người châu Á hay sao?”.

Trong hồi ký được công bố chính thức trên báo Nhân Dân184, thư ký kiêm phụ trách báo chí của đoàn Việt Nam trong Hội nghị Geneva, ông Nguyễn Thành Lê, gọi sự kiện Chu Ân Lai mời Ngô Đình Luyện mở tòa lãnh sự tại Bắc Kinh là “câu kết với Pháp và tay sai”. Ông Lê cho rằng “Bắc Kinh đã ép buộc Hồ Chí Minh phải chia đôi Việt Nam theo Vĩ tuyến 17”. Theo ông Hoàng Tùng, ngày 3-7-1954, sau khi đạt
được thỏa thuận với Mỹ và Pháp, Chu rời Geneva về gặp Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp tại Liễu Châu, thông báo với Hồ Chí Minh ý kiến của Molotov và của ông ta, dự định chia cắt Việt Nam thành hai miền ở Vĩ tuyến 17.

Võ Nguyên Giáp và Hồ Chí Minh nhất quyết đòi, dẫu có lùi cũng chỉ Vĩ tuyến 15 hoặc tối thiểu là 16. Một mặt, Chu Ân Lai “dọa”, Hoa Kỳ có thể nhảy vào vòng chiến và khi đó, Liên Xô và Trung Quốc sẽ không thể hỗ trợ cho Hồ Chí Minh. Một mặt, ông ta mềm dẻo: “Ghi nhớ lời dặn của Hồ Chủ tịch, nhưng xin phép, tướng ngoài biên ải được căn cứ vào tình hình thực tế mà quyết định”. Theo ông Việt Phương, một thư ký trong Đoàn đàm phán Hiệp định Geneva của Việt Nam: “Về sau Phạm Văn Đồng thừa nhận, khi Chu Ân Lai nói sông Bến Hải sẽ được lấy làm giới tuyến, ông Phạm Văn Đồng không biết là Việt Nam có con sông ấy. Họ đã nghiên cứu kỹ đến như vậy để ép chúng ta”.

Trung Quốc, Liên Xô rõ ràng đã không làm hết sức mình cho Việt Nam trên “tinh thần quốc tế vô sản”, nhưng Việt Nam không thể nào độc lập khi không chỉ lệ thuộc “hai ông anh lớn” về vũ khí để đánh nhau với người Pháp ở Điện Biên Phủ mà còn lệ thuộc cả phương tiện đàm phán trong Hội nghị Geneva. Theo ông Việt Phương, lúc đó đoàn đàm phán không có điều kiện để trao đổi với Đảng và Chính phủ. Tất cả mọi thông tin liên lạc đều phải nhờ qua Trung Quốc. Từng cuộc họp một, Phạm Văn Đồng báo cáo về cho Hồ Chí Minh đều phải sử dụng điện đài và mật mã của Đoàn Trung Quốc. Trong thời gian nghỉ, Chu Ân Lai lại bay về gặp Võ Nguyên Giáp và Hồ Chí Minh. Mọi tính toán của Đoàn và chỉ đạo ở nhà đều ở trong tay Trung Quốc.

Ý thức hệ đã từng tạo ra sự gần gũi giữa Hà Nội với Bắc Kinh. Nhưng mối quan hệ quá tin cậy lẫn nhau đôi khi lại rất dễ gây nghi kỵ. Trung Quốc, Liên Xô khi xử lý vấn đề Việt Nam, và ngay cả Việt Nam trong mối quan hệ với người Khmer cũng phải ưu tiên lợi ích quốc gia. Trong khi đó, những nhà lãnh đạo các đảng “đàn em” lại chờ đợi các “ông anh” bảo bọc trong tinh thần vô sản. Chính ý thức hệ đã làm cho những người cộng sản ở nước nhỏ tự huyễn hoặc về sứ mệnh “tiền đồn”185 đi đến chỗ bị hụt hẫng khi bị đem ra mặc cả cho quyền lợi của các siêu cường khác. “Chổi ngắn không quét xa”

Nếu như khi ở miền Nam, ông Lê Duẩn chỉ nghĩ đến người Mỹ và kẻ thù trực tiếp của ông, “chính quyền tay sai” Ngô Đình Diệm, thì khi ra tới Hà Nội, theo ông Đậu Ngọc Xuân: “Anh Ba đánh giá, muốn đánh Mỹ thì trước tiên phải có ba cái không sợ: không sợ Mỹ, không sợ Liên Xô, không sợ Trung Quốc. Ông Hoàng Văn Hoan nghe, tròn mắt: sao nói không sợ Trung Quốc?”. Ông Hoàng Tùng xác nhận: “Cụ Hồ lúc ấy cũng ở trong tình trạng ‘ngoảnh mặt sang Tề e Sở giận, quay đầu sang Sở, sợ Tề ghen’”. Ông Đậu Ngọc Xuân kể tiếp: “Trước khi họp Bộ Chính trị bàn về cách mạng miền Nam, anh Ba mất ba đêm không ngủ để suy nghĩ về thái độ của Liên Xô, Trung Quốc; họ giúp mình nhưng có chi phối đường lối chiến tranh của mình không? Đó là cái gay gắt nhất”.

Theo bà Nguyễn Thụy Nga – vợ thứ hai của ông Lê Duẩn, người mà từ năm 1957-1962, khi đang học ở Bắc Kinh, thường tháp tùng Lê Duẩn vào Trung Nam Hải và được Mao Trạch Đông gọi là “Lý Phu nhân” – năm 1973, từ Khu IX ra Hà Nội, bà được ông Lê Duẩn tâm sự: “Khi ta chủ trương giải phóng miền Nam, hai ông bạn lớn đã làm anh rất đau đầu. Liên Xô sợ mình đánh sẽ nổ ra chiến tranh thế giới thứ III; Trung Quốc muốn mình trường kỳ mai phục ‘chờ Trung Quốc mạnh sẽ đẩy Mỹ xuống Biển Đông’. Anh không để mất lòng ai nhưng lúc nào cũng phải giữ cho đúng tính chất độc lập, tự chủ của dân tộc Việt Nam”186. Trên thực tế, lập trường của Trung Quốc đối với cuộc chiến tranh ở miền Nam Việt Nam đã thay đổi vào giữa thập niên 1960.

Cuối thập niên 1950, khi ông Lê Đức Anh cùng Tổng Tham mưu trưởng Văn Tiến Dũng đến Trung Quốc, xin súng trung liên, đại liên và ĐKZ để đưa vào Nam, Trung Quốc chỉ cho “toàn súng trường K44 bắn phát một, họ bảo để trang bị cho dân quân du kích miền Nam phòng chống càn”187. Nhưng, cuối năm 1966, khi tháp tùng Thủ tướng Phạm Văn Đồng sang Trung Quốc, ông Lê Đức Anh thấy Đoàn đã được đón tiếp bởi Mao Trạch Đông cùng đại diện Bộ Quốc phòng, Bộ Ngoại thương.

Theo ông Lê Đức Anh: “Khi Mao hỏi: ‘Quân Mỹ vào miền Nam Việt Nam đông, tư tưởng của người dân và chiến sĩ thế nào? Hiện nay cách mạng ở Miền Nam của các đồng chí có khó khăn gì?’, Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã đề nghị để ông Lê Đức Anh trả lời. Tướng Lê Đức Anh nói: ‘Mỹ vào đông vậy chứ đông hơn nữa thì bộ đội và nhân dân miền Nam cũng quyết đánh. Hiện nay, xe tăng và máy bay của Mỹ rất nhiều nhưng Việt Nam thiếu vũ khí chống tăng, bắn máy bay và bắn tàu thủy, thiếu đô la để mua gạo, vì từ trước đến nay cách mạng Miền Nam Việt Nam vẫn mua gạo ở Campuchia và Thái Lan là chủ yếu, mà mua bên đó phải mua bằng đô la’. Nghe báo cáo vậy, ông Mao liền chỉ tay vào các quan chức, những người dưới quyền ông đang có mặt tại đó: Hãy giải quyết cho các đồng chí Việt Nam”188.

Trên thực tế, mỗi khi miền Bắc điều chỉnh đường lối “cách mạng miền Nam” đều phải sang bàn với Trung Quốc. Theo ông Hoàng Tùng: “Không bàn thì họ không viện trợ”. Ông Nguyễn Nhật Hồng xác nhận: “Trung Quốc giao ngoại tệ viện trợ theo phương thức rải đều từng tháng, từng quý. Nhu cầu viện trợ được B29 lên kế hoạch trình ông Phạm Hùng và Lê Thanh Nghị duyệt. Tuy nhiên, kế hoạch thường bị Trung Quốc thay đổi theo ý định của họ”. Trong những năm chiến tranh, ngoài vũ khí, trang bị kỹ thuật189, Trung Quốc còn viện trợ rất lớn về tiền mặt. Theo Báo cáo ngày 25-11-1979 của B29, cơ quan đặc trách chi viện cho miền Nam, phần tiền mặt do Trung Quốc trực tiếp viện trợ từ năm 1964-1975 chiếm tới 626.042.653 USD. Năm 1973, khi ông Võ Văn Kiệt ra Bắc gặp ông Lê Duẩn, Lê Duẩn hỏi: “Có tiền mua súng đánh được không?”. Ông Kiệt mừng rỡ: “Mua được súng Mỹ mà đánh Mỹ thì quá đã”. Ông Lê Duẩ n hỏ i Phó Thủ tướng Lê Thanh Nghi: “Có tiề n đưa Sá u Dân không?”. Theo yêu cầu của Lê Thanh Nghị, ông Nguyễn Nhật Hồng kiểm tra quỹ thấ y cò n trên hai triêụ USD tiề n măṭ . Ông Hồng nói với ông Nghị: “Muố n nhiều hơn thı̀ cầ n thờ i gian để xin”. Lê Thanh Nghi nó i: “Hai triêụ là anh Sá u mừng lắ m rồi”. Số tiền trên được giao cho thư ký mới của ông Võ Văn Kiệt là ông Phạm Văn Hùng. Lần đầu tiên cầm hai triệu USD tiền mặt, ông Ba Hùng nói: “Thôi khỏi đếm”. Trong sổ của B29 chỉ lưu lại chữ của ông Phạm Văn Hùng ghi: “Nhận đủ 2 tấn A”.

Quỹ tiền mặt đặc biệt này được Trung Quốc chi khá hào phóng. Nhiều khi, ông Nguyễn Nhật Hồng chỉ cần đến một ngân hàng do Trung Quốc chỉ định, vào phòng giám đốc là được giao luôn cả một va-li tiền. Một lần khi ông Hồng cầm chiếc va-li có một triệu USD đi tàu từ Quảng Châu về Hà Nội, khi tới Thẩm Dương cả con tàu bị Hồng Vệ Binh bắt giữ. Ông Hồng bị giữ lại đấy một tuần mới liên lạc được với Hà Nội để can thiệp Bắc Kinh giải thoát. Mặc dù đã chi khá hào phóng cho các nhu cầu chiến tranh, năm 1975, quỹ tiền mặt nằm tại két của B29 vẫn còn năm mươi triệu triệu USD; của Chiến trường B2 và Khu V vẫn còn năm mươi ba triệu190.

Sự hào phóng đó của Trung Quốc không làm cho ông Lê Duẩn lơ là cảnh giác, có lẽ đó là phản xạ của một người đã sống nhiều năm bị truy lùng gắt gao. Ông Hoàng Tùng cũng xác nhận, mỗi lần Quân ủy bàn chủ trương đều họp trong Bộ Tổng Tham mưu, những ủy viên Bộ Chính trị có mối liên hệ mà ông Lê Duẩn cho rằng là “quá thân với Trung Quốc”, hoặc có giai đoạn là “quá thân với Liên Xô”, đều được biết rất ít đến các kế hoạch chiến tranh.

Theo một trợ lý của Bí thư Lê Duẩn, ông Đậu Ngọc Xuân, gần như các cuộc họp quan trọng, anh Ba đều triệu tập khi ông Hoàng Văn Hoan đang công tác hoặc nghỉ mát ở nước ngoài. Thỉnh thoảng, ông Hoan lại thắc mắc với ông Vũ Tuân, chánh Văn phòng Trung ương: “Răng Bộ Chính trị không bàn chuyện quân sự hè?”. Ông Vũ Tuân nói: “Anh sang Bác mà hỏi”. Theo ông Trần Phương: “Biết Hoan như vậy
mà phải sau khi giải phóng miền Nam, ở Đại hội IV, Lê Duẩn mới dám đưa Hoan ra khỏi Bộ Chính trị”.

Trong chỗ riêng tư, vợ Lê Duẩn, bà Nguyễn Thụy Nga kể: “Anh (Lê Duẩn) nói: ‘Lần Việt Nam xin đạn pháo để chuẩn bị giải phóng miền Nam, Trung Quốc nói không có, nhưng Việt Nam đã dự trữ từ lâu đủ đạn để đánh. Khi xin 2.000 chiếc xe vận tải Giải phóng thì Trung Quốc ra điều kiện ‘phải cho 500 lái xe Trung Quốc theo’. Anh nói: ‘Một thằng tôi cũng không cho, nếu không có xe thì chúng tôi vác
bộ, thồ bằng xe đạp’. Các anh khác bảo: ‘Anh làm gì mà căng thế?’. Anh nói: ‘Trung Quốc nói làm đường cho Lào sau đó họ lập làng Trung Quốc trên đất Lào. Bây giờ họ muốn thăm dò ta về đường Trường Sơn thì nay mai họ sẽ chiếm Trường Sơn. Về chiến lược, ai đứng chân trên đỉnh Trường Sơn người đó sẽ khống chế cả Đông Dương, cho nên mình phải tính”191.

Những người thân của Tổng Bí thư Lê Duẩn thường có khuynh hướng mô tả ông như là một người cảnh giác với các âm mưu của Trung Quốc ngay cả khi đang xin viện trợ. Tuy nhiên, theo ông Hoàng Tùng, phải sau năm 1972 thái độ của Lê Duẩn đối với Trung Quốc mới bắt đầu thay đổi192. Theo ông Trần Phương: “Năm 1972, khi Trung Quốc tiếp Nixon, Lê Duẩn nói, chúng ta đã bị bán rẻ cho Mỹ để người Trung Quốc thay Đài Loan ngồi vào chiếc ghế ở Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc. Năm 1954, Liên Xô có lợi ích khi hòa hoãn với Mỹ còn Trung Quốc thì muốn Việt Nam bị chia cắt để vĩnh viễn ở thế chư hầu”.

Cũng năm 1973, ông Lê Duẩn kể với bà vợ Nguyễn Thụy Nga: “Khi Nixon thương lượng với Trung Quốc, nó ra điều kiện nếu Trung Quốc để cho Mỹ ném bom B52 ra miền Bắc thì Mỹ sẽ nhường hòn đảo Hoàng Sa cho Trung Quốc. Trước kia Trung Quốc có hứa nếu Mỹ đánh miền Bắc thì Trung Quốc sẽ can thiệp, nhưng sau chuyến đi của Nixon, Trung Quốc tuyên bố ‘mi không đụng đến ta, ta không đụng đến mi’. Do đó, Mỹ cho máy bay bắn phá liên tục mười hai ngày đêm ở Hà Nội, Hải Phòng, đánh các đê điều ở miền Bắc, với ý đồ đưa miền Bắc vào thời kỳ đồ đá. Mỹ dùng B52, dùng F111A, hai loại máy bay hiện đại nhất. Sau đó, Chu Ân Lai sang gặp anh ở Hồ Tây. Ông đi dưới bậc thang lên đưa tay, anh không bắt. Anh nói: ‘Các đồng chí đã bán đứng chúng tôi. Các đồng chí lấy xương máu của dân tộc Việt Nam để trả giá với Mỹ. Chúng tôi biết nhưng chúng tôi không sợ, chúng tôi sẽ đánh đến cùng và nhất định chúng tôi sẽ thắng’ ”193.

Sau cuộc gặp này với Lê Duẩn, Chu Ân Lai tới nhà khách Lê Thạch để gặp Hoàng thân Sihanouk, khi ấy cũng đang ở Hà Nội. Theo Sihanouk: “Chu trông mệt mỏi và có vẻ bị kích động bởi cuộc thảo luận mà ông vừa tiến hành với các đồng chí Bắc Việt Nam của ông. Hình như ông đang cáu”194. Theo Sihanouk thì đây là chuyến đi mà Chu Ân Lai muốn giải thích chính sách mới của Trung Quốc với người Mỹ. Chu đã nói với các nhà lãnh đạo Bắc Việt Nam “gay gắt và cứng rắn” rằng mối quan hệ mới đó sẽ dẫn tới hòa bình ở Đông Dương.
Không chỉ phản ứng trong hội đàm, khi đưa tiễn Chu Ân Lai, thay vì đi cùng thầy trò Chu ra tận chân cầu thang máy bay, Lê Duẩn đã dừng lại ngay cửa nhà ga sân bay Gia Lâm. Các quan chức Việt Nam tất nhiên cũng phải đứng lại. Chu Ân Lai và người phiên dịch, Lương Phong, gần như phải lủi thủi bước lên máy bay đi về. Lương Phong cho rằng hành động đó của ông Lê Duẩn là rất phản cảm195. Sau chuyến đi này của Chu, Trung Quốc bắt đầu “kiếm chuyện” trên vùng biên giới.

Ngày 05-06-1973, Chu Ân Lai lại đến Hà Nội khuyên ông Lê Duẩn nên thư giãn và xây dựng lực lượng, trong khoảng năm đến mười năm tới nên để miền Nam Việt Nam, Lào, và Campuchia hòa bình, độc lập, và trung lập. Trong số các nhà lãnh đạo Bắc Kinh thời bấy giờ, Chu Ân Lai được đánh giá là khá chân thành. Nhưng theo ông Trần Phương, về sau, khi kết nối các sự kiện, “anh Ba cay lắm vì Trung Quốc khuyên Việt Nam làm theo những gì mà họ đã thỏa thuận với Mỹ”196.

Phó Thủ tướng Trần Phương nói tiếp: “Năm 1972, khi Mao Trạch Đông nói với Phạm Văn Đồng: Chổi ngắn không quét được xa, Lê Duẩn đã bắt đầu hiểu lòng dạ của người Trung Quốc. Họ chỉ muốn cung cấp vũ khí để Việt Nam chiến đấu giữ chân người Mỹ ở miền Nam thay vì có thể tiến gần họ. Năm 1973, khi Chu Ân Lai khuyên giữ trung lập miền Nam, Lê Duẩn biết, nếu cứ giải phóng miền Nam thì không thể nào tránh làm cho Bắc Kinh tức giận”.

Hoàng Sa

Câu chuyện mặc cả giữa Mỹ và Trung Quốc về “phạm vi mười hai hải lý” được ông Lê Duẩn nói với vợ từ năm 1973, chứng tỏ tin tức tình báo mà Hà Nội nắm được là khá tốt.

Ngày 4-4-1972, khi quân đội miền Bắc đang tấn công dữ dội vào Quảng Trị, người Mỹ cần một áp lực từ phía Bắc Kinh với Hà Nội, Kissinger đã phái Winston Lord tới New York gặp Hoàng Hoa, đại sứ Trung Quốc tại Liên Hiệp Quốc, để trao một “bức điện miệng” nhắn Trung Quốc: “Hải quân Mỹ sẽ được lệnh ở lại tại khoảng cách mười hai dặm kể từ quần đảo Hoàng Sa”197.

Hoàng Sa và Trường Sa là hai quần đảo mà các Chúa Nguyễn đã đưa người ra khai thác từ thế kỷ XVII. Năm 1816, vua Gia Long chính thức thiết lập chủ quyền của Việt Nam trên quần đảo này. Đại Nam Nhất Thống Toàn Đồ, bản vẽ năm 1838 của Nhà Nguyễn đã thể hiện hai quần đảo với tên gọi là Hoàng Sa và Vạn Lý Trường Sa.

Năm 1920, Chính quyền Pháp, với tư cách là nhà nước bảo hộ ở Đông Dương, đã tuyên bố chủ quyền và hiện diện liên tục trên cả Hoàng Sa và Trường Sa. Tháng 4- 1946, quân Pháp đưa quân đội ra kiểm soát cụm phía Tây Hoàng Sa. Tháng 11- 1946, quân Tưởng Giới Thạch đổ bộ lên đảo Phú Lâm thuộc Hoàng Sa, và tháng 12- 1946 đổ bộ lên Itu Aba thuộc Trường Sa. Năm 1950, quân Tưởng rút khỏi hai quần đảo này. Một năm sau Chính quyền Mao Trạch Đông mới tuyên bố “bảo lưu chủ quyền của Trung Quốc”.

Năm 1954, theo Hiệp định Geneva, Hoàng Sa ở phía Nam Vĩ tuyến 17 sẽ thuộc về chính quyền miền Nam Việt Nam. Nhưng đến tháng 4-1956, khi lực lượng Hải quân Việt Nam Cộng Hòa ra tiếp quản, hai đảo lớn nhất đã bị “quân giải phóng Trung Quốc” thừa cơ chiếm mất. Chính quyền Việt Nam Cộng Hòa trên thực tế cai quản liên tục bốn đảo chính: Pattle (Hoàng Sa), Robert (Cam Tuyền), Duncan (Quang Hòa Đông) và Drummond (Duy Mộng). Riêng trên đảo Pattle, Việt Nam còn có một đài khí tượng thuộc hệ thống quốc tế. Từ năm 1956, việc tranh chấp phần bị Trung Quốc chiếm đóng vẫn tiếp tục diễn ra giữa Việt Nam Cộng Hòa và Trung Quốc.

Sáng 16-1-1974, Hải quân Việt Nam Cộng Hòa phát hiện tàu cá Trung Quốc xuất hiện trong vùng đảo chủ quyền Việt Nam. Khi người nhái của hải quân Việt Nam đổ bộ lên đảo Duncan và Drummond thì ở đó đã có một toán quân nhân Trung Quốc. Hôm ấy, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đang “kinh lý miền Trung”. Trong bữa cơm tối tại một căn cứ của quân đội ở Mỹ Khê, Tổng thống được Đề đốc Hồ Văn Kỳ Thoại trình bày sơ bộ “biến cố Hoàng Sa”. Theo Tướng Hồ Văn Kỳ Thoại: “Nghe xong, Tổng thống quyết định sáng hôm sau sẽ đến Vùng Một Duyên hải để xem xét tình hình”.

Sáng 17-1-1974, Hạm đội HQ16 báo cáo tiếp: “Hai tàu đánh cá Trung Quốc không tuân lịnh ra khỏi lãnh hải. Ngoài ra, hai tàu khác chở quân Trung Cộng đang đến gần đảo và trên bờ có cắm nhiều cờ Trung Cộng”. Hạm trưởng HQ16, Trung tá Lê Văn Thự, cho một toán đổ bộ lên đảo, nhổ cờ Trung Quốc thay bằng cờ Việt Nam Cộng Hòa. Toán đổ bộ gặp nhiều người Trung Quốc nhưng đôi bên đều kềm chế.

Bộ Tư lệnh Hải quân ở Sài Gòn sau khi nghe Tướng Thoại cập nhật tình hình đã phái Khu trục hạm Trần Khánh Dư của Trung tá Vũ Hữu San ra tăng cường. Toàn bộ tình hình được trình Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu lúc 8 giờ sáng cùng ngày khi ông trực tiếp tới Bộ Tư lệnh Vùng Một. Nghe xong, Tổng thống ngồi xuống lấy giấy bút trực tiếp viết “Chỉ thị cho Tư lệnh Hải quân Vùng Một: Tìm cách ôn hòa mời các chiến hạm Trung Quốc ra khỏi lãnh hải Việt Nam. Nếu họ không thi hành thì được nổ súng cảnh cáo trước mũi các chiến hạm này. Nếu họ ngoan cố thì toàn quyền sử dụng vũ khí để bảo vệ sự vẹn toàn lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa”.

Ngày 18-1-1974, theo ủy nhiệm của Đề đốc Hồ Văn Kỳ Thoại, Đại tá Hà Văn Ngạc lên tuần dương hạm Trần Bình Trọng của Trung tá Phạm Trọng Quỳnh, trực chỉ Hoàng Sa. Vì là sỹ quan có cấp bậc cao nhất trong vùng chiến sự lúc đó, Đại tá Ngạc trở thành người chỉ huy cuộc chiến bảo vệ Hoàng Sa. Cùng đi có Hộ tống hạm Nhật Tảo của Thiếu tá Ngụy Văn Thà. Khi hải đội của Đại tá Ngạc đến Hoàng Sa, có ít nhất bốn chiến hạm của Trung Quốc có mặt. Trước thái độ khiêu khích của các tàu Trung Quốc, Đại tá Ngạc báo với Tướng Thoại qua bộ đàm, “việc chạm súng chắc là không sao tránh khỏi”. Sáng 19-1-1974, các chiến hạm của đôi bên đều gây áp lực nặng nề lên nhau. Đại tá Ngạc đồng ý với Tướng Thoại “khi tình hình căng thẳng quá thì sẽ khai hỏa trước để giảm thiểu thiệt hại”.

Khoảng 10 giờ 30 phút sáng 19-1-1974, Đại tá Ngạc báo cáo: “Bắt đầu khai hỏa”. Máy vô tuyến vẫn để “on”, Tướng Hồ Văn Kỳ Thoại nghe rõ những tiếng nổ chát chúa của cuộc chiến đấu. Khi chứng kiến tàu Trung Quốc bốc cháy, “toán đổ bộ thuộc tàu HQ16 đang ngồi trên xuồng cao su đã cùng cất vang bài hát “Việt Nam, Việt Nam”.

Trận đánh bất cân sức ấy diễn ra chỉ trong vòng ba mươi phút. Phía Trung Quốc: hai hộ tống hạm bị bắn chìm, hai trục lôi hạm bị bắn hỏng, một đô đốc, sáu đại tá và hàng chục sỹ quan cấp tá, cấp úy khác tử trận. Phía Hải Quân Việt Nam: hộ tống hạm Nhật Tảo bị chìm, Thiếu tá Ngụy Văn Thà cùng với hai mươi bốn chiến sỹ khác hy sinh, hai mươi sáu chiến sỹ mất tích; khu trục hạm Trần Khánh Dư bị hư hại, hai chiến sỹ hy sinh; tuần dương hạm Trần Bình Trọng bị hư hại, hai chiến sỹ hy sinh cùng với hai nhân viên người nhái; tuần dương hạm Lý Thường Kiệt bị trúng đạn, nghiêng một bên; mất liên lạc với toán đổ bộ gồm mười lăm thủy thủ (về sau, chiếc xuồng chở mười lăm thủy thủ này trôi dạt nhiều ngày về Quy Nhơn, được thuyền đánh cá cứu vớt, một người chết vì kiệt sức); hai mươi ba thủy thủ khác cũng trôi dạt trên biển, may mắn được tàu Skopionella của hãng Shell (Mỹ) cứu vớt.

Ngày hôm sau, 20-1-1974, mười chiến hạm Trung Quốc bắt đầu đổ quân lên hai hòn đảo Cam Tuyền và Hoàng Sa, bắt đi bốn mươi ba người, gồm hai mươi tám quân nhân và các nhân viên khí tượng. Một người Mỹ, Gerald Kosh, tình cờ theo tàu Lý Thường Kiệt ra Hoàng Sa chơi hôm 15-1-1974, cũng bị bắt. Trong thời điểm ấy, theo Tướng Thoại: “Các chiến hạm thuộc Đệ Thất Hạm Đội của Hoa Kỳ ở rất gần các vị trí chiến hạm Việt Nam”. Trước khi trận chiến xảy ra, Bộ Tư lệnh Hải quân nói với Đề đốc Thoại là “yên tâm”; nhưng trong suốt cả quá trình sau đó, Hạm đội Bảy của Mỹ đã không làm gì kể cứu vớt các đồng minh lâm nạn. Hoàng Sa của Việt Nam bị Bắc Kinh chiếm đóng kể từ ngày 19-1-1974. Còn miền Bắc Việt Nam, khi ấy đang dựa vào Trung Quốc như một đồng minh để tiến hành cuộc chiến tranh ở miền Nam, cũng gần như im lặng.

Tướng Giáp nói rằng ông nhận được tin mất Hoàng Sa khi đang điều trị bệnh sỏi mật ở Liên Xô. Ngày 25-3-1975, sau “chiến thắng Buôn Ma Thuột”, Tướng Giáp với tư cách là bí thư Quân ủy Trung ương kiến nghị Bộ Chính trị “tiến hành giải phóng các đảo và quần đảo quân ngụy đang chiếm giữ”198. Ngày 2-4-1975, Tướng Giáp trực tiếp chỉ thị cho Tướng Lê Trọng Tấn lúc bấy giờ đang ở Đà Nẵng: tổ chức tiến công giải phóng các đảo, đặc biệt là quần đảo Trường Sa. Trước đó, ngày 30-3, Quân ủy cũng điện cho Võ Chí Công và Chu Huy Mân yêu cầu chỉ đạo thực hiện. Chiều 4-4-1975, Quân ủy điện tiếp cho Quân khu V: “Kịp thời đánh chiếm các hòn đảo vùng Nam Hải, đặc biệt là các đảo Nam Sa. Việc này phải chuẩn bị gấp và bí mật, chỉ để cán bộ có trách nhiệm biết”199.

Ngày 9-4-1975, Cục Quân báo có tin quân đội Sài Gòn rút khỏi các đảo, Quân ủy gửi điện “tối khẩn” cho Võ Chí Công, Chu Huy Mân và Phó Tư lệnh Hải quân Hoàng Hữu Thái: “Các anh cho kiểm tra và hành động kịp thời… Nếu để chậm, có thể quân nước ngoài chiếm trước, vì hiện nay một số nước ngoài đang có ý đồ xâm chiếm”200. Ngày 13-4-1975, Tướng Giáp nhắc thêm: “Chỉ đánh các đảo quân ngụy miền Nam chiếm đóng”201. Từ ngày 14-4-1975 đến ngày 28-4-1975, Quân đội Nhân dân Việt Nam lấy xong những hòn đảo do quân đội Sài Gòn chiếm giữ, nhưng tránh đụng tới các đảo ở Hoàng Sa đang ở tay Trung Quốc.

Tháng 9-1975, trong chuyến đi đầu tiên đến Bắc Kinh, sau khi giành thắng lợi ở miền Nam, Bí thư Thứ nhất Lê Duẩn tới Trung Nam Hải. Ông Duẩn đã đến tận giường bệnh của Mao Trạch Đông để nói lời cám ơn với Mao Trạch Đông: “Nước chúng tôi chưa có bao giờ vui như hôm nay. Nếu chúng tôi không có Trung Quốc là hậu phương lớn bao la, không có đường lối của Mao Chủ tịch, không có sự viện trợ của các đồng chí cung cấp, chúng tôi không thể thành công được”202. “Với nụ cười khó nhọc trên gương mặt người mang bệnh, Mao Trạch Đông hơi vẫy tay, tỏ ra hiền hòa thân thiết… Người đã dùng những câu nói không được mạch lạc lắm để nói với Lê Duẩn: Nhân dân Việt Nam thắng lợi rồi, Nam Bắc đã thống nhất rồi, tôi rất phấn khởi, rất phấn khởi”.

Chắc hẳn là Lê Duẩn đã không chỉ xử sự theo phép tắc ngoại giao khi đến tận giường bệnh của Mao Trạch Đông để xác nhận: “Không có viện trợ của Trung Quốc, chúng tôi không thể thành công”. Không mấy người dân Việt Nam là không biết đến súng AK, nón cối, lương khô, gạo sấy, thịt hộp… được cung cấp từ Trung Quốc. Bộ đội miền Bắc thời chiến tranh có thể nói là đã được Trung Quốc trang bị đến từng “cái kim, sợi chỉ”. Nhưng ngoài chuyện ân nghĩa với đồng minh, ông Lê Duẩn còn phải chịu trách nhiệm trước quốc gia mà ông lãnh đạo. Trong chuyến đi Trung Quốc ấy, ngày 24-9-1975, khi gặp Đặng Tiểu Bình, ông Lê Duẩn đã yêu cầu Phó Thủ tướng Đặng Tiểu Bình đàm phán vấn đề Hoàng Sa nhưng đã bị Đặng Tiểu Bình từ chối. Bộ máy tuyên truyền của Bắc Kinh đã làm cho người dân Trung Quốc nghĩ rằng Hoàng Sa đã thuộc về Trung Quốc.

Ngày 5-5-1975, khi nghe Đài Tiếng nói Việt Nam công bố, “Ngày 11-4-1975, Hải quân Việt Nam đã giải phóng quần đảo Trường Sa”, một phóng viên Tân Hoa Xã tên là Lăng Đức Quyền (Ling Dequan) – khi ấy đang chuẩn bị rời Hà Nội vào miền Nam – đã cảm thấy “như một cú sốc”. Quyền giải thích với nhà báo Mỹ Nayan Chanda: “Vì trước đó họ đã công nhận chủ quyền của Trung Quốc trên những hòn đảo ấy”.
Người Trung Quốc cho rằng: “Từ năm 1958, Thủ tướng Việt Nam Phạm Văn Đồng đã thông báo cho Thủ tướng Chu Ân Lai rõ ràng xác nhận hai quần đảo Tây Sa và Nam Sa thuộc lãnh thổ Trung Quốc. Nhưng hiện nay họ tiền hậu bất nhất ngang nhiên tuyên truyền đây là lãnh thổ của họ, sửa đổi bản đồ vẽ hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa vào bản đồ Việt Nam”203. Năm 1958, Thủ tướng Việt Nam Phạm Văn Đồng, trong vai trò đồng minh, có công hàm ủng hộ Tuyên bố của Chu Ân Lai về “hải phận mười hai hải lý kể từ đất liền của Hoa Lục”204. Tuyên bố này được đưa ra trong tình trạng chiến tranh với Mỹ bắt đầu leo thang, Hạm đội 7 của Mỹ hoạt động trên eo biển Đài Loan có dấu hiệu vi phạm vùng biển chủ quyền Trung Quốc.

Đây là một giai đoạn mà mối quan hệ quốc tế vô sản với Bắc Kinh được tin cậy hơn mối quan hệ giữa những người Việt Nam với nhau mà không có cùng ý thức hệ. Theo ông Dương Danh Di205: “Hai năm trước đó, Trung Quốc đã chủ động trả lại cho Việt Nam đảo Bạch Long Vĩ mà họ giữ giúp từ năm 1954 khi được trao trả từ tay người Pháp. Lúc đầu, Việt Nam chưa nhận vì than phiền là không có phương tiện ra đảo. Thế là Trung Quốc tặng luôn hai chiếc ca-nô. Niềm tin vào sự vô tư của Trung Quốc tăng lên, tâm lý để bạn giữ (đảo) cho còn hơn để trong tay ‘Ngụy’ không phải là không xuất hiện”.

Ông Trần Việt Phương, người có hai mươi lăm năm làm thư ký riêng cho Phạm Văn Đồng, thừa nhận: “Lúc bấy giờ quan hệ Việt-Trung đang rất tốt. Việt Nam đang có quan niệm ngây thơ về chủ nghĩa quốc tế vô sản, quan niệm ngây thơ từ người cao nhất của ta chứ không phải ở cấp độ vừa206. Trung Quốc hiểu ra sự ngây thơ đó và đã có ý đồ không tốt. Tuy nhiên, dân tộc Việt Nam có trong máu hàng nghìn năm kinh nghiệm với Trung Quốc, cho dù có sự ‘ngây thơ quốc tế vô sản’ cũng không đến mức có thể dẫn tới sự nhầm lẫn hoàn toàn. Việt Nam đã có kinh nghiệm về sự lợi dụng của Trung Quốc trong Hiệp định Geneva. Nhưng ở thời điểm ấy, Việt Nam đang cần họ”. Cũng theo Việt Phương, trước khi ký công hàm này, Phạm Văn Đồng có bàn bạc với Hồ Chí Minh và vấn đề còn được đưa ra bàn ở “cấp cao nhất”.

Về thực chất, không thể coi những tài liệu ấy có đủ giá trị pháp lý để công nhận chủ quyền của Trung Quốc trên hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa. Trước ngày 30-4-1975, miền Bắc không có thẩm quyền để nói về Hoàng Sa và Trường Sa, bấy giờ đang là phần lãnh thổ hợp pháp của Việt Nam Cộng Hòa, một quốc gia đang hiện diện ở Liên Hiệp Quốc.

Sợ “con ngựa thành Troy”

Trước ngày 30-4-1975, tại khu vực Sài Gòn-Chợ Lớn có một số đảng viên Đảng Cộng sản Trung Quốc hoạt động. Theo nguyên tắc của Quốc tế Cộng sản, đảng viên cộng sản bất cứ là người nước nào, đang sống ở đâu thì phải tham gia hoạt động với đảng nơi nước mình đang ở. Kể từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, đã có một số đảng viên cộng sản Trung Quốc ở Nam Kỳ hoạt động dưới quyền của Xứ ủy Nam Bộ.
Từ năm 1959, theo đề nghị của Bắc Kinh, những đảng viên thuộc Đảng Cộng sản Trung Quốc ở Sài Gòn như Lâm Lập, Trịnh Nam, sẽ chịu trách nhiệm xây dựng cơ sở trong giới “người Hoa lớp trên”, còn đảng viên người Hoa thuộc quyền lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam thì xây dựng cơ sở trong giới “người Hoa là công nhân, lao động”. Theo ông Nghị Đoàn, trưởng Ban Công Tác Người Hoa: “Nhóm Lâm Lập, Trịnh Nam, Trầm Nhan… từ Trung Quốc chạy sang Việt Nam hồi cuối thập niên 1940 sau khi bị Quốc Dân Đảng khủng bố”. Ngay trong ngày 30-4-1975, Lâm Lập đã cho một lực lượng có vũ trang tới chiếm tòa Đại sứ Đài Loan nằm trên đường Hai Bà Trưng207. Thành ủy phải thuyết phục rất khó khăn, Lâm Lập mới chấp nhận giải giới. Ông Phạm Văn Hùng kể: “Họ có lực lượng, có những đảng viên của Lâm Lập có chân trong các quận ủy”.

Khi ấy, những cơ sở đảng người Hoa thuộc Đảng Cộng sản Việt Nam như Ngô Liên, Nghị Đoàn, cũng phải đấu tranh với Lâm Lập. Lâm Lập không muốn bàn giao các cơ sở của mình cho Đảng Cộng sản Việt Nam mà muốn duy trì các hoạt động tại Sài Gòn-Chợ Lớn với tư cách là những cơ sở đảng nhận lệnh từ Trung Quốc. Đòi hỏi đó không được Việt Nam chấp nhận. Khi Lâm Lập đến 41 Tú Xương để gặp ông Võ Văn Kiệt, ông Kiệt giao thư ký Phạm Văn Hùng tiếp, với nhiệm vụ là làm sao phải truyền được thông điệp cho Lâm Lập: “Hết nhiệm vụ, mời các đồng chí về”. Đến cuối năm 1976, nhóm Lâm Lập mới chấp nhận trở về Trung Quốc.

Những tổ chức cộng sản vẫn còn chân rết tại Sài Gòn là một trong những nguyên nhân khiến cho Hà Nội luôn trì hoãn việc cho phép Bắc Kinh mở lãnh sự quán tại Thành phố Hồ Chí Minh cho dù Trung Quốc đã cho Việt Nam lập ở nước họ tới ba tòa lãnh sự.
Mãi tới ngày 15-6-1978, khi sự kiện người Việt-gốc-Hoa nổ ra, Bộ ngoại giao Việt Nam mới gửi công hàm thông báo cho phía Trung Quốc biết: Chính phủ Việt Nam đồng ý để Trung Quốc đặt tổng lãnh sự quán tại Sài Gòn vào đầu quý 4-1978. Thông báo này chỉ còn giá trị lưu trữ. Ngay ngày hôm sau, 16-6-1978, Bộ Ngoại giao Trung Quốc gởi công hàm cho biết quyết định của Chính phủ Trung Quốc: “Đóng cửa ba tổng lãnh sự quán Việt Nam ở Quảng Châu, Côn Minh, Nam Ninh và yêu cầu toàn bộ cán bộ nhân viên Việt Nam ở ba tổng lãnh sự quán này rút về nước trong thời gian ngắn nhất”.

Theo ông Trần Phương, với mức độ cảnh giác quá cao đối với cán bộ gốc Hoa, năm 1978, Ban Bí thư có Chỉ thị 53, theo đó: “Những vị trí quan trọng không giao cho người gốc Hoa”208. Việc thi hành Chỉ thị 53 đã tạo ra một không khí chính trị vô cùng ngột ngạt, tổ chức đã rất mạnh tay với những cán bộ có cha ông đến từ Trung Quốc.

Ông Trần Phương, năm ấy là bộ trưởng, phó chủ nhiệm Ủy ban Kế hoạch, kể: “Phó Văn phòng Ủy ban là con ông Hoàng Mậu, bí thư Thành ủy Hải Phòng, nhưng bố Hoàng Mậu lại là người Hoa, dù ông cũng có tham gia cách mạng. Cậu ấy cùng ông Chánh Văn phòng đến gặp tôi nói: ‘Em xin anh, cho em chuyển về một vụ không quan trọng’. Tôi lấy chỉ thị ra nói: ‘Cậu cứ ngồi đấy, cậu là ai, bố cậu là ai tôi biết’. Nhưng, cậu ấy vẫn khăng khăng: ‘Thôi, anh cứ cho em đi, em ngồi đây nhỡ có người nghi ngờ gì thì chết em’. Về sau tôi chuyển cậu ấy sang Vụ Văn xã. Nhiều địa phương, nhiều cơ quan làm rất rốt ráo. Ở trường con tôi học có một ông giáo gốc Hoa, mình khuyên ông ở lại nhưng ông vẫn đi Canada, ông nói: ‘Em thấy, em đi thì nhẹ nhàng hơn là ở lại’”.

Thành phố Hồ Chí Minh đã làm nhẹ Chỉ thị 53 bằng cách giữ hầu hết cán bộ người Hoa ở cương vị cũ, trừ người đứng đầu các cơ quan nội chính. Tuy nhiên, lý lịch của hầu hết cán bộ đã bị lục tung, trong đó có cả lý lịch của ông Tư Kết, cựu thư ký của ông Mai Chí Thọ. Tư Kết ngay lập tức bị buộc thôi chức trưởng Phòng An ninh Bảo vệ Nội bộ PA 25 về công tác ở Sở Văn hóa Thông tin Thành phố. Nghe tin thư ký cũ của mình là người Hoa, chính ông Mai Chí Thọ cũng phải kêu lên: “Tao có thấy thằng Tư Kết Hoa chút nào đâu!”. Bản thân ông Tư Kết cũng chỉ biết rõ gốc gác của mình khi Chỉ thị 53 được thi hành. Ngày xưa, do nhà nghèo, bà ngoại đã phải gả mẹ ông, một cô gái hai mươi tuổi, cho ông La Đức, một tiểu chủ người Hoa chuyên luyện thuốc phiện, năm ấy đã sáu mươi tuổi, để giúp những người con trai khác của bà ngoại có việc làm. Ông La Đức mất khi Tư Kết hãy còn trong bụng mẹ.

Không có một chỉ thị thành văn nào nói rõ phải trục xuất người Hoa. Nhưng theo nhà nghiên cứu Dương Danh Di, các cấp ủy được triển khai: “Để người Hoa ở lại, đảng bộ phải chịu trách nhiệm về mọi hậu quả an ninh chính trị”. Sự sợ hãi của những cán bộ gốc Hoa trong thời gian ấy lớn tới mức một trí thức cách mạng từng làm bộ trưởng Bộ Công Nghiệp Nhẹ như ông Kha Vạng Cân mà năm 1979, khi con trai ông sinh cháu, ông Cân đã khuyên con nên cho cháu mang họ Việt của mẹ để về sau nó không còn bị kỳ thị209.

Chỉ thị 53 không chỉ ảnh hưởng tới người Hoa. Ông Hoàng Chính, người vào Đảng Cộng sản Đông Dương từ năm 1937, đã bị bắt năm 1978 khi đang công tác ở Văn phòng Chính phủ. Lý do theo ông Vũ Cẩm, phó chủ tịch Quảng Ninh: “Khi làm bí thư tỉnh Hải Ninh, ông Hoàng Chính đã chủ trương để Hải Ninh kết nghĩa với một tỉnh của Trung Quốc và có quan hệ với Triệu Tử Dương, thời ấy đang là bí thư tỉnh Tứ Xuyên”.

“Nạn Kiều”

Tháng 8-1978 tại Ga Hàng Cỏ, và sau đó ở Lạng Sơn, đã nổ ra hai cuộc biểu tình của người Hoa. Chính quyền nhanh chóng dập tắt, tuy nhiên, chuyện “gián điệp Trung Quốc” được nói đến gần như vào mỗi tối thứ Bảy hàng tuần trong tiết mục “Kể chuyện cảnh giác” của Đài Tiếng nói Việt Nam.

Tướng Nguyễn Trọng Vĩnh thừa nhận: “Ban đầu phía Trung Quốc gây ra việc dụ dỗ ép buộc người Hoa ở Việt Nam về nước để tìm cớ xa lánh Việt Nam, bắt tay với Mỹ… Nhưng nói cho khách quan, phía lãnh đạo của ta cũng thành kiến và nghi ngờ người Hoa sẽ là đội quân thứ năm của Trung Quốc nên cũng muốn tống người Hoa đi cho rảnh”. Ở một số địa phương, vấn đề người Hoa đã ngấm ngầm xảy ra từ trước đó.

Năm 1955, sau khi tiếp quản Quảng Ninh và Hải Phòng, Ban Hoa vận đã vận động người Hoa bỏ chữ “kiều” trong tên gọi các cộng đồng ngoại kiều khác để trở thành một dân tộc trong cộng đồng Việt Nam. Họ đã phải “bình đẳng” chịu “cải tạo” trong chiến dịch cải tạo công thương nghiệp tiến hành ở miền Bắc cuối thập niên 1950 và bắt đầu chịu áp lực nhiều hơn kể từ sau ngày Bắc-Nam thống nhất.

Từ cuối năm 1976, người Hoa ở Hải Phòng, Quảng Ninh, đã không được làm những nghề “có thể làm gián điệp” như thợ cắt tóc, thợ điện gia dụng, không được
quan hệ với người nước ngoài… Ông Trịnh Văn Trọng có vợ, nhà thơ Dư Thị Hoàn, là người Hoa ở Hải Phòng. Ông Trọng kể khi chiến dịch “nạn Kiều” bắt đầu, người Hoa ở Quảng Ninh, Hải Phòng, ra đường thì bị kêu là “thằng Hán gian”, về nhà thì gặp cán bộ phường tới phân tích: “Tình hình Việt Nam-Trung Quốc rất căng, nếu ở lại không biết điều gì sẽ xảy ra. Đảng và Nhà nước tạo điều kiện cho người Hoa trở về Tổ quốc”.

Các chính sách áp dụng ở Quảng Ninh còn cứng rắn hơn bởi bàn tay của Bí thư Tỉnh ủy Nguyễn Đức Tâm. Giữa thập niên 1970, Quảng Ninh có hơn mười sáu vạn người Hoa nói các thứ tiếng khác nhau, mỗi dân tộc có một trường riêng để dạy con em họ. Người Hoa sống thành từng cộng đồng riêng biệt. Ông Vũ Cẩm, khi ấy là trưởng Ty Giáo dục Quảng Ninh, nói: “Tôi xuống các trường cũng phải cần phiên dịch”. Năm 1976, theo ông Vũ Cẩm, Bí thư Tỉnh ủy Nguyễn Đức Tâm gọi ông lên yêu cầu: “Anh phải xóa hết trường Hán, tiếng Hán”. Ông Cẩm đề nghị ông Tâm xem lại vì các trường sở này hình thành ở đây đã từ lâu đời, nhưng ông Tâm không chịu.

Ông Vũ Cẩm nói: “Tôi không rõ ông Tâm nhận chủ trương này từ ai nhưng ông nói như ra lệnh bằng một chỉ thị mồm chứ bản thân ông cũng không dám ra nghị
quyết. Tôi nghĩ mãi và cuối cùng do ông Tâm thúc ép đành phải thảo một văn bản, không nói là giải tán các trường của người Hoa mà nói là thống nhất hệ thống giáo dục, một xã chỉ có duy nhất một trường phổ thông dạy bằng tiếng Việt. Soạn rồi, tôi không dám ký, giao cho các phó Ty, các phó của tôi cũng không anh nào chịu ký. Tôi lên báo cáo Bộ Giáo dục, Bộ bảo tùy địa phương nhưng cũng không dám ra văn bản. Cuối cùng, tôi phải ký. Tuy nhiên, để đảm bảo cuộc sống cho đội ngũ giáo viên người Hoa, tôi quy định: các giáo viên người Hoa được hưởng nguyên lương để đi học tiếng Việt”.

Nhưng chỉ ít lâu sau, cũng như mười sáu vạn người Hoa khác, điều đe dọa đối với những giáo viên này không còn là vấn đề việc làm. Năm 1978, theo ông Vũ Cẩm: “Ông Nguyễn Đức Tâm gặp các tỉnh ủy viên người Việt nói, thái độ Trung Quốc đối với Việt Nam không tốt, chúng ta không nên bầu người gốc Hoa vào cấp ủy. Khi đó, trong tỉnh ủy Quảng Ninh vẫn còn hơn mười người gốc Hoa, có những người rất có công như anh Lý Bạch Luân đã từng là phó bí thư tỉnh Hải Ninh, sau khi nhập tỉnh, anh Luân làm phó chủ tịch tỉnh mới – tỉnh Quảng Ninh”. Khi Trung Quốc rút các kỹ thuật viên giúp Việt Nam khai thác mỏ, họ vận động anh hùng lao động Voòng Nải Hoài, một kỹ thuật viên giỏi, bỏ Việt Nam về Trung Quốc. Theo ông Vũ Cẩm: “Nhân đấy, ông Nguyễn Đức Tâm có sáng kiến, anh rút về thì tôi cho người Hoa về hết luôn”210.

Trong lịch sử di dân của loài người, cuộc di dân cưỡng bức của người Hoa năm 1978 ở Quảng Ninh có lẽ là một trong những chương bi thương nhất. Nhiều người Hoa đã đến đây từ nhiều đời, đã chọn Việt Nam làm quê hương; nhiều người không nói tiếng Hoa, không hề nhớ gốc gác mình từ đâu. Tất cả đều bị khép vào thành phần phải trở về Trung Quốc.

Bị ép quá, một phó chủ tịch Mặt trận Tổ quốc Tỉnh, ông Voong Hổi, đã tự sát bằng cách tự mổ bụng. Theo ông Vũ Cẩm, ông Hổi sau đó được cứu sống, tuy không còn bị đuổi đi nữa nhưng phải chịu kỷ luật khai trừ Đảng. Ông Vũ Cẩm kể: “Một cán bộ của tôi, anh Lâm Anh Văn, đang là trưởng Phòng Giáo dục huyện
Quảng Hà, cũng bị công an bắt phải trở về Trung Quốc. Anh ta gặp tôi nói, buộc đi thì đi chứ anh sẽ không sang Trung Quốc đâu”.

Ở xã Hà An, huyện Yên Hưng, có một gia đình, chồng là Trần Vĩnh Ngọc, hiệu trưởng một trường phổ thông, vợ là Chu Thị Họa. Chị Họa quê ở Thái Bình, là người Việt Nam. Anh Ngọc sinh ở Việt Nam, có mẹ là người Việt, cha là người Hoa, nhưng ông chết từ khi anh còn nhỏ. Trần Vĩnh Ngọc được xếp vào diện người Hoa. Theo ông Vũ Cẩm: “Bị công an yêu cầu phải trở về Trung Quốc, Ngọc tới gặp tôi xin ở lại vì nó có biết quê quán ở đâu đâu, tiếng Hoa cũng không biết. Tôi gặp Bí thư Tỉnh ủy Nguyễn Đức Tâm báo cáo. Ông Tâm lạnh lùng bảo tôi đừng can thiệp vào, để cho công an người ta làm. Bế tắc, Ngọc về bắt ba đứa con quàng khăn đỏ đội viên thiếu niên tiền phong Hồ Chí Minh, buộc nằm lên giường rồi lấy chăn bông đè lên cho tới chết. Xong, anh ta lấy búa đập vỡ đầu vợ rồi lấy dao tự đâm vào tim mình. Nghe tin, tôi chạy xuống thì cả gia đình đều đã chết. Tôi bảo cậu Trưởng Phòng Giáo dục phải làm tang lễ tử tế rồi đi báo Nguyễn Đức Tâm. Tưởng Tâm sẽ phải suy nghĩ ai dè ông ta sắt đá nói ‘kệ’, gương mặt gần như vô cảm”.

Ông Võ Văn Kiệt kể: “Năm 1978, tôi ra Quảng Ninh khi anh Nguyễn Đức Tâm đang ở Móng Cái trực tiếp chỉ đạo vấn đề người Hoa. Tôi có cảm giác như ở đây
cũng có không khí ‘cải tạo’, rất nhiều người Hoa đã sống lâu đời ở Việt Nam bị đưa về Trung Quốc. Quảng Ninh, Móng Cái vắng ngắt”. Theo cuốn Địa chí Quảng Ninh Tập 1, người Hoa vốn sống tập trung ở chín huyện trong tỉnh, nhưng sau năm 1978 chỉ còn lại 5.000 người; 160.000 người Hoa ở Quảng Ninh đã phải ra đi trong vụ “nạn kiều”. Những anh hùng lao động một thời được báo chí ca ngợi tưng bừng như Voòng Nải Hoài, Mừu Nhịp Mùi cũng phải về Trung Quốc.

Người dân Quảng Ninh vẫn nhớ, ngay cả khi Trung Quốc đã đóng cửa khẩu, xe công an vẫn chở người Hoa đi về biên giới. Theo ông Vũ Cẩm, mỗi làng mỗi xã như vậy may ra chỉ còn sót lại một hai gia đình người Hoa. Khi vụ người Hoa xảy ra, ông Nguyễn Việt Lân, nguyên bí thư Tỉnh đoàn Hải Ninh211, nguyên phó bí thư Móng Cái, tuy không bị đuổi nhưng bị buộc phải vào sâu bên trong. Ông Vũ Cẩm kể: “Cậu ấy vào Hạ Long làm nghề cán mì sợi. Tôi muốn giúp nên thỉnh thoảng lại mang bột mì đến cho cậu ấy gia công. Cậu ấy hỏi: ‘Ông không sợ tôi bỏ thuốc độc à?’. Tôi biết cậu ấy bị o ép lắm. Công an rình rập kín, hở suốt ngày. Một đêm cậu ấy mở ti-vi oang oang trong nhà, bật đèn sáng để đánh lừa công an rồi đưa cả nhà xuống tàu vượt biên sang Úc”.

Hải Phòng là địa phương tiếp theo áp dụng chính sách khá thẳng tay với người Hoa. Ông Đoàn Duy Thành, năm 1978 là phó chủ tịch Thành phố Hải Phòng, thừa nhận: Hơn ba mươi nghìn trong số ba mươi bảy nghìn người Hoa ở thành phố này đã phải ra đi. Đặc biệt, ở Cát Bà, trước có gần mười nghìn người Hoa, năm 1978 chỉ còn vài chục người ở lại. Nhà thơ Dư Thị Hoàn viết về cảnh ra đi ở Hải Phòng: “Tết thanh minh năm ấy, không ngờ lại là bữa tiệc cuối của sum họp đại gia đình, hình ảnh má và các em các cháu tôi chen lấn trong dòng người lũ lượt ra ga, leo lên tàu hỏa. Thê thảm nhất là đàn bà con trẻ, họ lếch thếch, hỗn loạn, và yếu ớt, họ giao phó nỗi hốt hoảng cho bất kỳ ai có mặt hôm đó, giao phó cho đoàn tàu chở họ tới một đất nước được gọi là tổ quốc trong muôn vàn bất trắc và mong manh? Họ trở về quê hương và không hiểu tại sao, vì lẽ gì? Chị chồng tôi ra tận nhà ga ôm lấy ba mẹ con tôi đang gào khóc nhìn đoàn tàu mất hút trong đêm tối”.

Ở Sài Gòn, theo Phó Bí thư Thường trực Thành ủy Trần Quốc Hương: “Chúng tôi không đuổi mà thông báo ai muốn rời Việt Nam thì đăng ký, hơn 90% người Hoa ở Thành phố đã đăng ký ra đi”. Luật sư Nguyễn Đăng Trừng, năm ấy là phó Phòng chống phản động bành trướng bá quyền Công an Thành phố Hồ Chí Minh, thừa nhận: “Công an cũng đã mạnh tay cô lập những đối tượng tình nghi là còn quan hệ với Trung Quốc”. Một trong những “đối tượng” mà ông Nguyễn Đăng Trừng trực tiếp thụ lý lúc ấy là ông Lý Ban.

Ông Lý Ban thuộc một trong số các đảng viên Việt Nam chạy sang Diên An sau cuộc khủng bố của Pháp năm 1930-1931. Sau Cách mạng tháng Tám, từ căn cứ của những người cộng sản Trung Quốc, Lý Ban cùng các đồng chí Việt Nam khác của ông ở Diên An trở về trong đợt đầu như Nguyễn Khánh Toàn, Nguyễn Sơn, Trương Ái Dân, Cao Tử Kiến. Ông đã từng là ủy viên dự khuyết Trung ương Đảng, thứ trưởng Bộ Ngoại thương.

Năm 1978, nhiều thông tin nói rằng ông Lý Ban có những mối liên hệ chặt chẽ với Trung Quốc. “Tinh thần chỉ đạo” là phải có “biện pháp đặc biệt, không để các đối tượng ở trong điểm nóng, khi tình hình xấu diễn ra thì phát huy tác dụng”. Ông Lý Ban bị bắt. Sau một thời gian cách ly để điều tra, ông Trừng thừa nhận: “Té ra ông Lý Ban là một người rất trung thành với Đảng”. Nhạc sỹ Lâm Âm đang là biên chế ở Sở Văn hóa Thông tin cũng bị bắt dù sau đó không tìm thấy bất cứ bằng chứng “phản động” nào. Một thời gian sau, Phòng chống phản động bành trướng bá quyền yêu cầu Sở Văn Hóa Thông tin “bảo lãnh”, ông Lâm Âm được tha. Nhưng, theo ông Tư Kết: “Vừa có lệnh thả ra thì nhạc sỹ Lâm Âm bị tai biến và chết”.

“Những tháng đầu năm 1978, thành phố phá năm mươi hai vụ nhen nhóm chính trị, phản động, bắt 1.106 tên (gấp ba lần năm 1977); số trốn đi nước ngoài cũng
tăng gấp ba lần (2.130 vụ với 8.139 người)”212. Trong số 8.139 người bị bắt đầu năm 1978 có ông Lý Tích Chương, cha của Lý Mỹ – “tấm gương điển hình” trong chiến dịch “Cải tạo công thương nghiệp tư doanh”.

Khi ông Lý Tích Chương bị bắt, Lý Mỹ đang được “Đảng và Nhà nước đưa đi Cuba” tham gia Liên hoan Thanh niên Thế giới. Theo Lý Mỹ: “Khi tôi ở Cuba, ba tôi ốm phải vào bệnh viện Saint Paul. Một chiều cô em út của tôi lúc ấy mới chín tuổi mang cơm cho ba, vào tới nơi, gọi tên không thấy, nhân viên bệnh viện nói, trong phòng của ổng giờ toàn công an, hôm ấy họ vào và bắt đi nhiều bệnh nhân người Hoa đang điều trị trong bệnh viện”. Sau một tháng ở Cuba, khi Lý Mỹ về, ông Mai Chí Thọ đưa xe đến Thành đoàn đón, nói là cho đi thăm ba nhưng vào trại giam thì ông Lý Tích Chương được thả. Ở tù ra, sức khỏe ông Chương suy sụp, gia đình quyết định “đi”.

Trên các phương tiện truyền thông, Bắc Kinh gọi người Việt-gốc-Hoa là “nạn kiều”; Hà Nội nói Bắc Kinh “bịa đặt”. Báo Tuổi Trẻ ngày 30-6-1978 viết: “Bị tác
động bởi chiến dịch cưỡng ép di cư của phía Trung Quốc [người Hoa] đã kéo nhau hàng loạt đi Trung Quốc một cách bất hợp pháp”. Cũng theo bài báo này: “Ta đã bắt quả tang một số tên thực hiện chiến dịch này dưới sự chỉ đạo của Đại sứ quán Trung Quốc tại Hà Nội như Lý Nghiệp Phu, Trần Hoạt, Tô Minh Nguyên, Ôn Thịnh Nàm, Lã Giang Đông, Quan Gia Nghĩa, Lý Đào Lê”. Cũng theo Báo Tuổi Trẻ: “Ngày 30-4, chủ nhiệm Văn phòng công việc Hoa kiều thuộc Quốc vụ viện Trung Quốc, ông Liêu Thừa Chí, công khai lên tiếng, gián tiếp đổ trách nhiệm cho Việt Nam”. Ngày 4-5-1978, Bộ Trưởng Ngoại giao Xuân Thủy tuyên bố: “Đảng và Chính phủ Việt Nam trước sau như một, vẫn đối xử với bà con người Hoa như bát nước đầy. Có một số bà con người Hoa trốn đi Trung Quốc, đó là do bọn xấu tác động”. Ngày 24-5-1978, người phát ngôn Văn phòng công việc Hoa kiều Quốc vụ viện Trung Quốc ra tuyên bố chính thức phản đối Việt Nam “bài xích, khủng bố, xua đuổi Hoa kiều”. Ngày 28-5-1978, Bộ Ngoại giao Việt Nam gửi công hàm cho Bộ ngoại giao Trung Quốc yêu cầu chấm dứt tuyên truyền kích động; đại diện hai nước gặp nhau càng sớm càng tốt, có thể vào đầu tháng 6-1978, để cùng nhau bàn bạc, giải quyết những bất đồng về vấn đề người Hoa ở Việt Nam, và bàn cả đề nghị của Trung Quốc đưa tàu sang Việt Nam đón người Hoa về Trung Quốc. Ngày 2-6, Bộ ngoại Trung Quốc gởi công hàm cho Bộ ngoại giao Việt Nam khước từ các đề nghị nói trên của Việt Nam, đồng thời tuyên bố Trung Quốc “đã quyết định” đưa tàu sang thành phố Hải Phòng và thành phố Hồ Chí Minh vào ngày 8-6-1978 để đón người Hoa về nước. Bộ ngoại giao Việt Nam “phê phán thái độ ngang ngược nói trên của nhà đương cục Trung Quốc”. Ngày 5-6, Bộ Ngoại giao Việt Nam một mặt “kêu gọi bà con người Hoa hãy yên tâm ở lại Việt Nam làm ăn bình thường”, mặt khác đưa ra cam kết: “Bà con nào muốn rời khỏi Việt Nam đi Trung Quốc thì sẽ được chính quyền Việt Nam giúp làm các thủ tục xuất cảnh để ra đi thuận tiện”.

Trước tháng Giêng năm 1979, có khoảng 30.000 người Hoa chạy sang Việt Nam, chủ yếu là từ Campuchia. Ngoài ra còn có hơn 4.000 người Khmer khác. Số người Hoa về nước trên hai con tàu của Trung Quốc chỉ mang tính tượng trưng, theo ông Mai Chí Thọ, trong chuyến đầu họ chỉ chở được 2.400 người. Một dòng người khác đã phải gồng gánh về phía bên kia theo đường bộ213.

Tại cuộc họp báo ngày 15-6-1978, Chủ tịch Thành phố Hồ Chí Minh Mai Chí Thọ nói: “Chúng ta tự hỏi, nếu họ thực tâm muốn chăm lo cho Hoa kiều, tại sao họ lại không lên tiếng đối với việc Hoa kiều bị bọn cầm quyền phản động Campuchia xua đuổi tàn ác, ngược đãi… Đáng lý những Hoa kiều họ cần phải rước trước hết là người Hoa đang sống đau khổ, tủi nhục dưới chế độ tàn bạo của bọn cầm quyền phản động Campuchia. Thái độ trái ngược của phía Trung Quốc không khỏi làm cho mọi người nghi ngờ việc họ tổ chức rước Hoa kiều về nước chẳng qua là nhằm thực hiện một ý đồ khác. Thực tế họ chỉ muốn gây khó khăn cho Việt Nam mà thôi”214. Câu chuyện của Tằng Dục Hính, đăng trên báo Tuổi Trẻ số ra ngày 23-6-1978, cho thấy tương lai trở về “tổ quốc” của người Hoa cũng khá tối tăm: “Chúng tôi đáp xe lửa Hà Nội đi Lào Cai, từ ga Lào Cai đến Cầu Kiều chúng tôi phải qua một trạm công an Việt Nam. Tại đây họ thu lại tất cả những giấy tờ mà chính phủ Việt Nam cấp cho người Hoa chúng tôi từ trước đến nay… Nhìn về phía Trung Quốc tôi nghe được rất rõ tiếng loa, tiếng nhạc quen thuộc của Đài Phát thanh Bắc Kinh và nhìn thấy rất đông người đang chờ đón tiếp… Ngày thứ ba ở trên đất Trung Quốc, 3-6- 1978. Buổi chiều, sau khi nộp xong bản khai lý lịch, chúng tôi được một ông cán bộ người Trung Quốc nói giọng Bắc tiếng Việt Nam rất rành cho biết chúng tôi phải đăng ký đi nông trường trồng cao su Mông Xi, nếu ai chậm trễ thì phải đi Tây Tạng!”.

Theo Tằng Dục Hính, vì sợ đi Tây Tạng, anh và người bạn Chí Tiền Thành cùng hai thanh niên Hải Phòng nữa đã lội qua sông Hồng ngay trước khi nước chảy rất xiết để trốn về Việt Nam vào ngày 7-6-1978, và được “các đồng chí công an Việt Nam giúp đỡ” cho về thành phố. Tằng Dục Hính nói tiếp: “Ở Hà Khẩu, tôi biết là có 80 đến 90% bà con muốn trở về lại Việt Nam nhưng không dám”215.

“Phương án II”

Cũng trong những ngày ấy, ở miền Nam, công an bắt đầu triển khai “Phương án II”. Theo ông Nguyễn Đăng Trừng, phó Phòng chống phản động bành trướng bá
quyền, Phương án II cũng là một trong những biện pháp “nghiệp vụ” nhằm đưa “đối tượng ra khỏi điểm nóng” – vấn đề là đối tượng của phương án này là cả triệu người Hoa đang sống ở Việt Nam.

Chỉ rất ít người được biết đến Phương án II. Tuy là phó bí thư thường trực Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh, ông Trần Quốc Hương cũng chỉ được nghe giám đốc Sở Công an thành phố cho biết, Phương án II là một kế hoạch được “phổ biến miệng để giữ bí mật”, theo đó: Người di tản được đóng vàng để công an mua thuyền hoặc đóng thuyền cho đi mà không sợ bị bắt hay gây khó khăn. Việc thực hiện Phương án II chỉ do ba người là bí thư, chủ tịch và giám đốc công an tỉnh quyết định. Công an được giao làm nhiệm vụ đứng ra thu vàng và tổ chức cho người di tản.

Ngày 19-11-1978, ông Lý Tích Chương đưa gia đình rời Việt Nam theo Phương án II. Cuộc đấu tranh đi – ở bắt đầu diễn ra trong nhà Lý Mỹ khi cô đang học năm thứ nhất, khoa Lý, tại Đại học Sư phạm. Theo Lý Mỹ thì một trong những lý do cô không vượt biên cùng gia đình là vì khi sang Cuba và Liên Xô cô cảm thấy “nước ngoài” rất xa lạ với những gì mà cô đang sống. Nhưng Lý Mỹ cũng không phủ nhận một lý do quan trọng khác là khi ấy “Thành đoàn cũng tập trung giành giật cô”.

Bí thư Thành đoàn Phạm Chánh Trực và các “đồng chí” khác trong Thường vụ đã trực tiếp động viên; bạn trai khi ấy của cô cũng là một mẫu người cộng sản lý tưởng. Đích thân Chủ tịch Thành phố Mai Chí Thọ nhiều hôm cũng đưa Lý Mỹ về nhà ăn cơm. Bên cạnh Lý Mỹ lúc ấy còn có những bạn bè người Hoa không vượt biên cùng gia đình như Lai Kim, Đỗ Long. Họ cũng được ông Mai Chí Thọ quan tâm, ông nói: “Mấy chú cũng rất đau lòng khi tụi bây phải lựa chọn như vầy, nhưng, vì tổ quốc, vì tình thế”. Khi ấy, nếu những người như Lý Mỹ mà vượt biên thì cái thần tượng mà Thành đoàn dựng lên sẽ sụp đổ. Thành đoàn đã thắng, Lý Mỹ ở lại.

Đó là những ngày tháng mà Lý Mỹ nói là “nên quên đi trong cuộc đời”, nhưng những gì đã xảy ra cũng chưa phải là cay đắng nhất. Gia đình vừa đi được mấy hôm thì một tối, khi Lý Mỹ đi học về đến nhà, thấy khóa cửa bị đập, trong nhà có khá đông người. Lý Mỹ hỏi thì được nói họ có quyết định vào “chốt” căn nhà của Mỹ. Nếu việc ông Lý Tích Chương bị bắt có thể vì lọt vào trong một chiến dịch “đại trà” thì “tịch thu nhà” lại là điều ít ai nghĩ Cách mạng sẽ làm với một “điển hình” như Lý Mỹ. Nó xảy ra trắng trợn và quá mau lẹ. Lý Mỹ cắn răng đi tìm đồ đạc thì thấy hầu như trong nhà không còn gì quý giá. Căn nhà 531A Cách Mạng Tháng Tám của gia đình Mỹ vốn là một cửa hàng bách hóa lớn và sang trọng, giờ ấy tan hoang. Cô báo Thành đoàn, báo ông Mai Chí Thọ. Những người đã từng ở bên Lý Mỹ khi cô nhiệt tâm “cải tạo” gia đình đến giờ đấy bỗng dưng im lặng.

Lý Mỹ đã mất nhiều năm để xin lại căn nhà của cha mẹ mình mà không kết quả. Năm 1985, Thành phố cấp một căn nhà khác cho cô ở Quận 5. Trường hợp của Lý Mỹ là rất đặc biệt, trong khi hàng ngàn người vượt biên theo Phương án II đã không đi được mà còn mất cả vàng lẫn nhà. Ông Nguyễn Thành Đệ, ngụ tại 21-23 Tô Hiến Thành, Quận 10 là một ví dụ.

Ngày 29-4-1975, khi người em rể – sỹ quan Việt Nam Cộng Hòa – kêu di tản, ông Đệ đã không đi. Ông nói: “Thôi, Cộng sản dù gì cũng là người Việt, qua bển toàn Mỹ”. Cũng như nhiều người khác, ông Đệ đã trả giá đắt cho quyết định xuất phát từ quan niệm đồng bào. Cho dù không phải là người Hoa, nhưng năm 1979, ông Đệ vẫn được móc nối đăng ký “xuất cảnh bán chính thức”. Gia đình ông chín người, phải đóng cho chủ “tàu 224” tổng cộng 200 lượng vàng thay vì chỉ đóng tám lượng một người theo quy định.

Ngày 17-6-1979, gia đình ông Đệ xuống Minh Hải để chuẩn bị lên tàu, nhưng không may cho ông, vừa xuống tới nơi thì có lệnh tạm ngưng thực hiện Phương án II. Nghĩ mình ra đi theo hướng dẫn của nhà nước hẳn hoi, gia đình ông cùng nhiều người khác ráng nán lại để đòi lại số vàng đã nộp. Nhưng, “bắc thang lên hỏi ông giời”.

Sau gần hai tháng chờ vàng, gia đình ông quay lại Sài Gòn, mới biết ngày 23-6- 1979, tức là chỉ sau sáu ngày ông Đệ về Minh Hải, căn nhà 21-23 Tô Hiến Thành đã bị Quận 10 “quản lý”. Gia đình ông được “xét sử dụng tầng trệt nhà 23” và được “chiếu cố” không phải trả tiền thuê nhà… mình. Chính quyền Quận 10 “quản lý” căn nhà 21-23 là chiểu theo Chỉ thị 14 ngày 2-4-1977của Thành phố, theo đó: “Xử lý tạm thời tài sản của những người trốn đi nước ngoài bị bắt”.

Tuy nhiên, gia đình ông Đệ không phải “trốn đi nước ngoài” cũng như chưa hề “bị bắt”. Nhà ông cũng chưa thuộc diện “nhà vắng chủ” theo Thông tri số 201-BXD/ NĐ, ngày 23-6-1978 của Bộ Xây dựng. Ngày 4-8-1980, ông Đệ quay lại Minh Hải làm đơn xin xác nhận là ông “xuất cảnh đàng hoàng”. Tính tổ chức của Phương án II được địa phương xác nhận rõ ràng bằng mực đen, giấy trắng216.

Theo Báo cáo kiểm tra việc thực hiện Phương án II của Ban 69 thì ở thời điểm ấy, số người có hoàn cảnh như ông Nguyễn Thành Đệ ở các tỉnh miền Nam, tức là đã “làm nghĩa vụ” nộp tiền và vàng mà không đi được vì lệnh ngừng, lên tới 18.435 người. Từ cuối năm 1979, ông Nguyễn Thành Đệ bắt đầu hành trình đòi lại nhà và cũng kể từ năm đó, gia đình ông gồm mười hai người phải sống ở tầng trệt nhà 23 Tô Hiến Thành với diện tích tổng cộng 35m2.

“Ban 69”

Theo ông Trần Quốc Hương, khi Bộ Chính trị quyết định thành lập Ban 69, ông Trần Văn Sớm (Hai Sớm), ủy viên Trung ương Đảng, thành viên Ban 69 cho biết
Ban đã có buổi làm việc với Chủ tịch Nước Trường Chinh để báo cáo tình hình cụ thể những địa phương “thu vàng nhiều và nộp lên trên ít”. Chủ tịch Trường Chinh cho Ban biết: “Chủ trương này chưa bao giờ được đưa ra Bộ Chính trị để bàn và quyết định, cho nên khi vào Thành phố Hồ Chí Minh nghe được thông tin về Phương án II, Chủ tịch đã đề nghị họp Bộ Chính trị cho ngưng ngay và thành lập Ban Kiểm tra xem xét việc thi hành”.
Ban 69 được Ban Bí thư quyết định thành lập ngày 20-3-1981 nhằm “kiểm tra các tỉnh Miền Nam” với ba nội dung: “Việc cho người Hoa đi nước ngoài (gọi tắt là Phương án II – PA2); việc buôn bán lậu với tàu nước ngoài của một số tỉnh; việc bắt giữ vượt biên trái phép”. Tuy nhiên, Ban 69 chủ yếu xem xét việc thực hiện Phương án II.

Báo cáo ngày 20-10-1981 của Ban 69 phân tích: “Cay cú trước thắng lợi vĩ đại của sự nghiệp cách mạng giải phóng Miền Nam, thống nhất tổ quốc của nhân dân ta, bọn bành trướng Bắc Kinh sử dụng bọn Pôn-pốt đánh phá ta từ phía Tây nam, đồng thời âm mưu dùng đội quân thứ năm để gây bạo loạn lật đổ từ bên trong phối hợp với hành động chiến tranh từ bên ngoài, gây ra vụ ‘nạn kiều’ tạo nguyên cớ cho cuộc chiến tranh xâm lược ở biên giới phía Bắc. Phối hợp với các thế lực đế quốc, phản động quốc tế, chúng mở chiến dịch tuyên truyền nói xấu ta; vừa kích động người Hoa chạy về Trung Quốc với cái chúng gọi là ‘nạn kiều’. Để phá tan một nguy cơ có thể gây ra tình hình phức tạp về chính trị, Trung ương chủ trương giải quyết đối với người Hoa với ba phương án: cho họ ra nước ngoài theo con đường Liên Hợp Quốc HCR (gọi tắt là PA1); cho họ ra nước ngoài làm ăn (gọi tắt là PA2); cho họ đi các địa phương sản xuất theo khả năng của họ (gọi tắt là PA3). Nhưng họ chọn con đường đi làm ăn ở nước ngoài, Trung ương giao cho Bộ Nội vụ trực tiếp tổ chức thực hiện PA2 này”.

Theo Ban 69: “Có địa phương lúc đầu thấy thực hiện có nhiều khó khăn, dẫn đến do dự, lừng chừng, nhưng sau đều quyết tâm thực hiện. Theo chỉ đạo của Bộ Nội vụ thì các tỉnh được phép tổ chức thực hiện PA2 ngay từ đầu gồm có: Quảng Nam-Đà Nẵng, Nghĩa Bình, Phú Khánh, Thuận Hải, Đồng Nai, Bến Tre, Kiên Giang, TP. Hồ Chí Minh, Tiền Giang, Minh Hải; các tỉnh không được phép làm nhưng sau đó xin làm: Sông Bé, An Giang, Hậu Giang, Cửu Long, Long An”. Cũng theo Báo cáo của Ban 69: “Sau 1 đợt ta tổ chức cho người Hoa đi có xảy ra tai nạn, bọn đế quốc và phản động quốc tế mở chiến dịch tuyên truyền nói xấu ta. Để tạo thuận lợi cho công tác chính trị ngoại giao đối với thế giới, Thủ tướng Chính Phủ đã có mệnh lệnh vào tháng 12-1978 ngưng việc cho người Hoa đi nước ngoài. Vì còn một số người và tàu đã đăng ký đóng nghĩa vụ bị kẹt lại chưa đi được gây ra những khó khăn phức tạp cho địa phương. Tháng 4-79 Thủ tướng cho phép tiếp tục đi đến hết tháng 5-79 phải chấm dứt. Một số nơi có xin phép cấp trên cho đi 13.000 người nhưng thực đi 7-8 vạn người mà vẫn còn đọng lại hàng vạn người và hàng trăm tàu thuyền”.

Báo cáo của Ban 69 thừa nhận: “Là một công việc hệ trọng có quan hệ đến chính sách đối nội, đối ngoại của Đảng và Nhà nước, nhưng Ban Bí thư trung ương Đảng không có một văn bản nào về lãnh đạo và chỉ đạo các cấp ủy Đảng lãnh đạo và thực hiện PA2 này, các cấp ủy Đảng ở địa phương rất lúng túng. Bộ Nội vụ có kế hoạch 244 nhắc các giám đốc sở, trưởng ty công an các tỉnh, thành báo cáo ban thường vụ tỉnh ủy, thành ủy để xin ý kiến lãnh đạo, nhưng khi phổ biến trực tiếp thêm câu nói do yêu cầu bí mật nên công tác này chỉ có bí thư, chủ tịch và trưởng ty công an biết. Vì vậy, việc thực hiện PA2 này, hầu hết ban thường vụ tỉnh ủy, thành ủy đều không biết. Tỉnh ủy, thành ủy lại càng không biết, chỉ có ba đồng chí bí thư, chủ tịch, trưởng ty công an biết thôi”.

Thư ký riêng của ông Võ Văn Kiệt thời điểm đó, ông Phạm Văn Hùng, nói: “Cũng như ông Mười Hương, ông Kiệt không đồng ý với nhận định của Trung ương, coi người Hoa ở Chợ Lớn là ‘đạo quân thứ năm’, nhưng khi chính sách cải tạo đẩy đến chỗ người Hoa phải vượt biên thì ông Kiệt thấy rằng để họ ra đi có tổ chức vẫn tốt hơn là ra đi hoàn toàn bất hợp pháp, nên ông tán thành Phương án II”.

=Theo ông Võ Văn Kiệt, Thành phố cũng chỉ tổ chức rất hạn chế. Ông nói: “Tôi báo cáo là Thành phố không có khả năng đóng tàu, để các tỉnh thực hiện Phương án II thì tốt hơn”. Báo cáo của Ban 69 cho biết: “Đồng chí Võ Văn Kiệt, ủy viên dự khuyết Bộ Chính trị, bí thư Thành ủy Thành Phố Hồ Chí Minh, có lần mời các bí thư tỉnh ủy lên chỉ thị về việc tổ chức cho người Hoa ở Thành Phố Hồ Chí Minh đi nước ngoài”. Chính vì cách làm này mà tuy con số người Hoa ở Thành Phố Hồ Chí Minh ra đi chỉ “phối kiểm” được trên 10.000 người, nhưng theo Ban 69, thực tế đi được “khoảng 70.000 người”.

Kết quả kiểm tra của Ban 69 cho thấy có một sự khác biệt rất lớn giữa báo cáo của Bộ Nội vụ và thực tế thực hiện Phương án II. Báo cáo của Bộ nội vụ nói rằng: “Từ tháng 8-78 đến 6-79, mười lăm tỉnh, thành đã cho người Hoa đi nước ngoài bằng tàu, thuyền gồm 156 chuyến với số người là 59.329 người, đã thu 5.612 kg vàng, năm triệu đồng Việt Nam, năm mươi bảy ngàn đô la Mỹ, 235 ô tô, 1.749 nhà và gian nhà”. Nhưng, số liệu sau khi Ban 69 kiểm tra cho thấy: “Số tàu đã cho đi: 533; Số người đã đi: 134.322; Thu vàng: 16.181kg; Ngoại tệ: 164.505 đô la; Tiền ngân hàng VN: 34.548.138 đồng; Một số tài sản khác: 538 ô tô, xe du lịch; 4.145 nhà và gian nhà”217.

Báo cáo của Ban 69 nhận xét: “Tuy đối tượng cần đưa đi ở các tỉnh trước hết là Thành phố Hồ Chí Minh chưa giải quyết hết yêu cầu, việc phối hợp đưa 70 ngàn người Hoa ở Thành Phố Hồ Chí Minh trong tổng số gần 140 ngàn người Hoa đã đi là một thành tích lớn. Việc thu vàng và tài sản của PA2 cũng là một thành tích rất lớn”. Tuy nhiên, qua kiểm tra, Ban 69 “đã rút ra được một số kinh nghiệp về nguyên tắc lãnh đạo, nguyên tắc tập trung dân chủ trong sinh hoạt nội bộ Đảng cũng như trong tổ chức thực hiện và công tác quản lý của chính quyền”. Theo đó, “khuyết điểm bao trùm” gồm: “Về chính trị nhiều nơi xét duyệt danh sách không thẩm tra xác định để lọt người Việt, người không đối tượng cho đi mà kẻ địch đang tìm mọi cách tổ chức, sử dụng để thực hiện âm mưu lâu dài là đánh phá trở lại chúng ta. Các địa phương phối kiểm chưa chặt số người Hoa ở tỉnh khác đến đăng ký đi ở tỉnh mình”.

Đặc biệt, theo Báo cáo của Ban 69: “Nhiều tỉnh vận động cho người đi nước ngoài, khi họ xuống tàu rồi tổ chức bắt thu tài sản (Bến Tre, Quảng Nam-Đà Nẵng). Nhiều tỉnh cho đi sau khi có lệnh cấm tháng 5-79 (Minh Hải, Đồng Nai, Bến Tre, Cửu Long, Nghĩa Bình, Phú Khánh, Long An, Sông Bé) do nặng vì lợi ích chính trị và kinh tế của địa phương… Về khách quan do địch tích cực phá hoại mua chuộc.

Nhưng về chủ quan do ta quản lý không chặt chẽ về tư tưởng và do cán bộ hư hỏng. Một số cán bộ công an, cán bộ các ngành có liên quan đến PA2 có sai phạm. Trong lực lượng vũ trang ở mười bốn tỉnh đã có 105 sĩ quan từ thượng tá đến chuẩn úy vi phạm (kể cả chống bắt vượt biên)”.

Theo Ban 69 thì Bộ Nội vụ “quy định chế độ, nguyên tắc, quyền hạn không chặt chẽ, làm cho một số cán bộ tham ô, hối lộ, xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa, làm quỹ riêng địa phương, buôn bán với nước ngoài, gây thất thoát lớn”. Báo cáo của Ban 69 cho biết: “Sau khi Bộ Nội vụ tổ chức rút kinh nghiệm và hướng dẫn mức đóng nghĩa vụ thống nhất vào ngày 20-11-1978, nhiều địa phương không chấp hành đúng. Người ra đi có khả năng đóng góp mà ta chưa tích cực thu cùng một quy định của Bộ Nội vụ, có địa phương thu đủ, có địa phương thu không đủ. Bọn trung gian, đầu mối, thu của người đi nhiều nhưng nộp cho ta ít. Tính hết các khoản trên đây thì chỉ số thất thoát cũng gần bằng số thu được. Con số thất thoát lớn chưa từng thấy… Là công cụ sắc bén của Đảng, của lực lượng chuyên chính vô sản, nhưng tính tổ chức kỷ luật của cán bộ công an làm Phương án II rất yếu: quá trình thực hiện PA2 cấp dưới không báo cáo đầy đủ lên cấp trên; không sơ tổng kết; báo cáo gian dối… Một số cán bộ chủ chốt ở các ty công an sai phạm, cán bộ và lực lượng ngành một số hư hỏng, thoái hóa, tham ô tập thể khá rõ, có nhiều dư luận xấu, nội bộ nghi ngờ nhau. Kẻ địch, phần tử xấu đả kích lực lượng chính quyền vô sản”.

Một số “vấn đề nổi lên” khi thực hiện Phương án II, được Ban 69 chỉ ra trong Báo cáo: “Đối tượng cần đưa đi chưa đưa đi hết. Để lọt người Việt trốn đi, một số nơi đã kiểm tra cho thấy: Bến Tre có 81 người Việt; Phú Khánh có 466 người Việt; Thuận Hải, 29 người Việt; Nghĩa Bình có 32 người (mới kiểm tra ở hai phường); Quảng Nam-Đà Nẵng, 2; An Giang, 8; Cửu Long, 43; Sông Bé, 30. Thả can phạm đang bị giam để cho đi, không trao đổi để có sự nhất trí với các cơ quan tòa án và viện kiểm soát nhân dân cùng cấp: Hậu Giang, 17; Phú Khánh, 22; Đồng Nai, 63; Minh Hải, 80; Bến Tre, 11; Quảng Nam-Đà Nẵng, 40. Danh sách không được thẩm tra kỹ, chủ yếu dựa vào tự khai của chủ tàu. Số ở TP Hồ Chí Minh đăng ký đi ở các tỉnh, các tỉnh không phối hợp thẩm tra: 70.000 người Hoa ở TP Hồ Chí Minh đã đi mới phát hiện được 10.000 người”.

Đặc biệt, theo Ban 69, “nguy hiểm ở chỗ không xét duyệt kỹ để lọt đối tượng ra đi rồi trở lại hoạt động (ở Minh Hải, tháng 6-79 có 60 người xuất cảnh sang Mã Lai, sau 20 ngày lại trở về) cho đại diện móc tàu nước ngoài không quản lý hết để nó móc nối tổ chức đường dây đưa người vào, người ra (TPHCM), để lọt hộ của Hồ Thị Út có quan hệ đến chỉ đạo của bọn ở Hong Kong (Bến Tre). Việc miễn giảm không được tập thể Ban chỉ đạo PA2 thông qua, hầu hết các nơi đều miễn giảm cho trẻ em từ 4 tuổi đến 12 tuổi có nơi còn giảm cho người 15 tuổi. Sửa tuổi để miễn giảm đóng nghĩa vụ: Hậu Giang, 179 trường hợp; Bến Tre 102; Cửu Long 20… Công an đốt xé, sửa đổi sách vì gian dối số tàu, người, vàng, tiền: Hậu Giang, Kiên Giang, Ninh Hải, Bến Tre, Nghĩa Bình, Đồng Nai, Phú Khánh, Thuận Hải, Quảng Nam-Đà Nẵng. Dùng nghiệp vụ để đối phó với kiểm tra: bắt một số người để bịt đầu mối như Kiên Giang, Minh Hải”.

Có nhiều trường hợp “giữ tiền Phương án II làm của riêng. Nghiêm trọng hơn, phòng bảo vệ chính trị Ty Công an tỉnh An Giang đã cấp biển xe, chứng nhận họ là
nhân viên nhà nước, làm giấy ký hợp đồng với họ về việc tổ chức để cho người Hoa đi lại hoạt động. Cấp bao nhiêu giấy chưa rõ, hậu quả của nó chưa lường hết được”. Theo Ban 69, “một số nơi có nhận văn bản 244, có được phổ biến nhưng không thu đúng quy định của Bộ Nội vụ gây thất thu như: Hậu Giang, 4.866 lượng; Minh Hải, 48.195 lượng; Bến Tre, 3.789 lượng; Cửu Long, 27.000 lượng; Nghĩa Bình, 27.000 lượng; Phú Khánh, 10.987 lượng; Thuận Hải, 1.220 lượng; An Giang, 1.445 lượng”. Theo Báo cáo của Ban 69, Ban đã phát hiện ra một số cơ quan cấp tỉnh lập quỹ đen trái phép218.

Vụ Cát Lái

Đặc biệt, báo cáo của Ban 69 cho biết: “Do kiểm tra không chặt chẽ về công tác bảo đảm an toàn, đã có chín tàu bị tai nạn chết 902 người: Đồng Nai, một tàu; Bến Tre, một tàu, chết năm mươi bốn người; Sông Bé, một tàu hư, tàu Liên Xô kéo vào; Tiền Giang, ba tàu, chết 504 người; Long An, một tàu, chết ba mươi tám người; Thành phố Hồ Chí Minh, một tàu, chết 227 người; Nghĩa Bình, một tàu, chết bảy mươi tám người”.

Vụ chìm tàu Phương án II chết hàng trăm người ở Thành phố xảy ra vào giữa năm 1979, gần bến phà Cát Lái, Thủ Đức, nhưng gần như rất ít người sống ở Sài Gòn vào thời bấy giờ nghe nói tới câu chuyện đau lòng này. Đại tá Phạm Ngọc Thế, khi ấy là phó Phòng Hậu cần Công an Thành phố, người đảm trách việc tìm xác và chôn cất các nạn nhân, kể: Hôm ấy là ngày thứ 7, đúng giờ G, chủ tàu bắc loa kêu những người đã có danh sách ra đi xuống tàu. Đêm hôm trước họ đã bí mật tập kết ở xung quanh đó, công an canh phòng cẩn mật cho họ ở vòng ngoài. Vì ai cũng sốt ruột chờ đón giây phút ấy nên hàng trăm người tranh nhau xuống tàu rất nhanh.

Tàu có ba tầng, những người mua chỗ ở tầng dưới, rẻ hơn, khi tàu chưa chạy thấy ngột ngạt quá leo lên, ngồi cả trên mui, khiến cho con tàu chòng chành. Càng
chòng chành, họ lại càng chạy qua, chạy lại, khiến cho tàu nghiêng hẳn và nhanh chóng bị chìm. Ông Thế nói, nếu con tàu ấy không chìm tại bến thì khi ra khơi nó cũng sẽ không chịu nổi vì nó vốn chỉ là một chiếc tàu kéo.

Trên thực tế, nói Phương án II là do công an tổ chức, nhưng gần như mọi việc từ thu tiền, mua tàu đều khoán hết cho “Ban liên lạc những người ra đi bán hợp pháp”. Theo Đại tá Thế, họ nghĩ một con tàu có thể kéo được hàng chục chiếc ghe thì cũng có thể chở được hàng trăm người, nên họ mua và thiết kế lại trong ba tháng. Con tàu dài khoảng 30m, rộng 10m, khoang chứa đá giữ cân bằng được sửa lại để trữ nước, thay máy, thay cấu trúc các khoang. Đóng xong, nhìn con tàu có vẻ rất ngon, nhưng nó cứ như là một cái hột vịt. Khi chìm, tàu chúi xuống, cắm mũi xuống bùn, những người đã chui vô khoang không có cách nào để ra. Phần lớn những người đi trên chuyến tàu này, kể cả trưởng tàu, đều là người Hoa làm nghề buôn bán, không hề có chút kinh nghiệm sông nước gì.

Theo Đại tá Phạm Ngọc Thế thì khi ấy Thành ủy phải điều hai cần cẩu sáu mươi tấn từ Vũng Tàu vô để “kéo rị rị từng chút”. Cũng phải tới ngày thứ ba thì mới đưa tàu lên được. Con số người chết theo báo cáo của Ban 69 là 227 người. Theo Đại tá Phạm Ngọc Thế: “Có khoảng hơn bốn mươi người sống sót. Cứ mỗi cái xác được đưa ra, chúng tôi chỉ dám để hai mươi phút để bộ phận nghiệp vụ lấy dấu tay rồi chuyển qua ngay cho bộ phận mai táng, vì đã bắt đầu nặng mùi. Cứ hàng chục xác một được xếp lên xe, phủ bạt, rồi chạy từ Cát Lái về mai táng ở khu đất cách đấy chừng ba cây số”.

Đại tá Phạm Ngọc Thế kể: “Chúng tôi vét sạch hòm ở các quận. Khâm liệm xong vẫn còn dư mấy cái vì có bốn trường hợp phải chôn đôi bởi các bà mẹ trước khi chết ôm chặt lấy con mà chúng tôi thì không nỡ tháo khớp tay họ ra để chia lìa tình mẫu tử”. Ông Thế nói: “Thành ủy ra lệnh cho chúng tôi chôn cất họ rất chu đáo ở một khu vực cách cầu Giồng Ông Tố, Thạnh Mỹ Lợi, khoảng 500m”. Theo ông Thế thì những người sống sót cũng cứ như mất hồn vì chứng kiến xác người thân của mình đang trương lên, phải khó khăn lắm mới đưa ra được khỏi con tàu đã chìm ba, bốn ngày dưới nước.

Tuy gây ra những hậu quả như vậy nhưng Phương án II vẫn “là một chủ trương lớn của bộ chính trị, nhiệm vụ mới mẻ, phức tạp, có quan hệ đối nội, đối ngoại, tiến hành trong thời điểm có chiến tranh biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc. Thù trong giặc ngoài, bọn phản động quốc tế tìm mọi cách đánh phá ta trên mọi lĩnh vực, do tính chất bí mật, không phổ biến rộng, chỉ giao phó Bộ Nội vụ tổ chức thực hiện”. Vì thế, Ban 69 đề nghị “thành công và thiếu sót đều phải được đánh giá trong điều kiện lịch sử đó”. Ban 69 cũng lưu ý: “Việc thực hiện PA2 hầu hết đều thuộc các Đảng bộ Miền Nam. Nếu cứ có sai phạm là kỷ luật thì các đồng chí lãnh đạo chủ chốt, các cấp ủy ở Miền Nam phải chịu. Nếu việc xử lí kỷ luật nhiều cấp ủy, nhiều đồng chí chủ chốt ở các Đảng bộ Miền Nam thì trong lịch sử Đảng ta sẽ để lại một ấn tượng cho thế hệ mai sau. Vì vậy việc xử lý kỷ luật trong thực hiện PA2 cần được cân nhắc theo tính chất đặc biệt của nó”.

Huy Đức