Thứ Sáu, 8 tháng 10, 2010

Trích Nhật ký Cải cách Ruộng đất TRẦN HUY LIỆU

http://www.surfert.nl/index.php5?q=aHR0cDovL25oa2llbjYxLndvcmRwcmVzcy5jb20vMjAxMC8wOS8yNy90cmljaC1uaCVlMSViYSVhZHQta3ktYyVlMSViYSVhM2ktY2FjaC1ydSVlMSViYiU5OW5nLWQlZTElYmElYTV0Lw%3D%3D

Trích Nhật ký Cải cách Ruộng đất

TRẦN HUY LIỆU

Thứ Tư, 1 tháng 9, 2010

BẠCH TUYẾT nghệ sĩ cải lương

Kỳ Nam - Xốc cờ

Kỳ Nam

Vừa ngay sau 1975, trên thềm một ga xe lửa, trong những người lính miền nam sống sót trở về, có anh trút ba lô ra, dưới đáy là lá cờ vàng nhạt màu với ba vằn đỏ. Anh nói đùa: - Cứ giữ làm kỷ niệm, biết đâu có lúc lại dùng, y như đánh bài 52 lá thôi, xốc một hồi, biết đâu lá cuối lại có cơ trồi lên mặt.

Mấy ngày gần đây, qua thông tin trong nước, được biết một nghệ sĩ muốn chuyển thể cải lương tập thơ “Nhật Ký Trong Tù” thành Trường Ca Hồ Chí Minh.

Bỗng dưng chúng tôi nhớ lại người lính thất trận năm nào và khái niệm “xốc cờ”.

Trong giới sân khấu thường gọi nghệ sĩ đó bằng biệt danh Chị Ba, có lẽ những ghi ghép này cũng kêu nhân vật chính bằng hai chữ đó cho tiện.

Theo bài phỏng vấn trên, Chị Ba cho biết đang cố làm kịp để chào mừng Đại lễ 1.000 năm Thăng Long-Hà Nội.

Mừng cái Đại Lễ đó, khá nhiều người mừng với nhiều mục đích khác nhau, ngoài những thành tâm yêu Hà Nội thật sự, không hiếm những người mừng Đại Lễ này vì danh, vì tiền.

Trường hợp của Chị Ba là một ẩn số, chúng tôi không muốn gán ghép tùy tiện, nhưng đoán gì thì đoán, bản thân cuộc đời Chị Ba đã gắn với một sự kiện khó ai quên được đó là hình ảnh của Chị Ba đã từng được chưng trong khu nhà được gắn tên Bảo tàng Tội Ác Mỹ-Ngụy (sau này đổi là Bảo tàng Chứng Tích Chiến Tranh). Ở tuổi đang xuân, Chị Ba ra tiền đồn hát cho lính Cộng Hòa nghe, hưng phấn sao đó chị đã làm một việc không ai ép buộc, mà có thể nói trước và sau Chị Ba không ai dám làm là tự chụp cái nón sắt mang lên đầu có dòng chữ yêu cầu hãy dội bom xuống vùng Bắc Việt.

Vào những năm 2000, Chị Ba sang Mỹ biểu diễn cho cộng đồng xem ở những khu casino giải trí, bị nhiều người chống đối, có bầu show lỗ đến độ phải bán nhà. Chị Ba bước lên sân khấu trong giai đọan đó bao giờ cũng chắp tay quỳ lạy khán giả như cám ơn đã cho Chị Ba được diễn. Chiếc nón có chữ “Bomb Bac Viet!” của Chị Ba được mang ra kể lại như một thành tích. Cộng đồng chống cộng nghe Chị Ba than: “Ngày 30 tháng 4, các anh chạy nhanh quá, BT theo không kịp, trận mưa bom ngày nào BT đòi thả trên đất Bắc đã dội xuống đời BT, BT lãnh đủ mọi hậu quả trù dập sau đó, bị cấm hát một thời gian”. Nghe thương như vậy, ai còn nỡ chống.

Suốt những năm sau, Chị Ba đi qua đi lại tung hoành hai bên, “xốc cờ” với tốc độ chóng mặt với thoắt vàng, thoắt đỏ. Chị Ba không biết những câu nói tưởng là vu vơ của Chị Ba để được lòng cả hai phía đều còn được ghi nhớ trong lòng những người khán giả vô danh. Với người trẻ tiếp xúc vì mê nghệ thuật dân tộc, Chị Ba cho nghe những ý tưởng báng bổ về cái xác nằm ở Ba Đình của du học sinh; với những nhạc công muốn về quê nhà cống hiến cuối đời, Chị Ba can sao dại vậy, đang ở xứ tự do, bao người thèm đi không được, nay sao lại chui đầu vào rọ; với những đồng nghiệp, Chị Ba chê họ thiếu lòng tự trọng khi không thuộc tuồng và hát nhép trong khi bản thân mình, tuổi lớn, hơi hụt, vẫn muốn duy trì danh tiếng ngày xưa, Chị Ba gian lận thường phải cầu viện máy hát thay mình. Nhiều khán giả Việt kiều về nước, cố tìm xem Chị Ba hát Tết lấy hên đầu năm, phải bỏ về nửa chừng vì Chị Ba cẩu thả buông tay cầm micro xuống trong lúc máy phát ra tiếng Chị Ba vẫn lồng lộng trên cao. Chiếu theo luật pháp trong nước hiện hành, hát kiểu đó bị coi là phạm pháp. Nhưng ai khác kia mới bị, Chị Ba thoải mái nhép miệng, cho băng phát lời thâu sẵn, vẫn không ai dám đụng tới Chị Ba.

Có lẽ một phần, Chị Ba đã là một biểu tượng văn hóa của một thời trước 1975 qua danh xưng Cải Lương Chi Bảo. Tài liệu về Sài Gòn trước 1975 có mặt Chị Ba chưng to gần với Hùng Cường.

Chính cái kiểu chưng hai tấm Chị Ba và Hùng Cường to gấp mấy người thật trong hai bộ đồ sexy trước rạp Quốc Thanh mà sau này nhà hát Cải Lương Trần Hữu Trang cũng cho chưng hai tấm hình Chị Ba và Ngọc Giàu trong trang phục Thái Hậu Dương Vân Nga như vậy để dễ bề bán vé.

Người tình họ Hoàng-Đức, VIP của VNCH không biết trôi giạt nơi đâu nhưng người tình “Hai mươi bốn giờ phép” của Chị Ba vẫn còn đây.

Sau 1975, với khách tới lui nhà chị toàn tướng tá công an và trí thức các lọai. Chính quyền mới cũng trân trọng Chị Ba lắm khi phong cho Chị Ba 4 chữ Nghệ Sĩ Ưu Tú và thường rước Chị Ba vào các ban giám khảo. Chuyện học hành của Chị Ba, nhiều sinh viên than phiền trong lúc họ làm luận án tốt nghiệp trầy trật, Chị Ba tuy chưa xong trung học trước 75, ì ạch té qua những đợt khảo hạch Anh Văn vẫn hiên ngang được mấy giáo sư đến tận nhà dạy và nhắm mắt làm ngơ lướt qua cho Chị Ba báo cáo tốt nghiệp. Có lần báo Tuổi Trẻ Cười kể chuyện vui có thật về Snow White và 7 chú lùn giáo sư bạc đầu đã cung kính đi thăm học trò Chị Ba trong ngày nhà giáo (thay vì trò phải đến thăm thầy), sau đó báo cũng được vỗ vai khuyên không nên đụng tới Chị Ba. Riêng Ban Việt ngữ của đài BBC, sau những thắc mắc của thính giả về cái bằng PhD của Chị Ba, dù đã có đủ hồ sơ về cái bằng này đã có được như thế nào, Chị Ba đã có mặt mấy ngày, dự lớp mấy giờ ở Viện Hòang Gia Kịch Nghệ trên đất Anh, vẫn chưa công bố sự thật này vì lý do nào thì thính giả chưa rõ lắm.

Giờ thì sau khi xuất hiện với tần suất dày đặc trước những lúc cần kinh doanh mình trên các phương tiện truyền thông trong ngoài nước (Cộng lẫn chống Cộng), lúc tuyên bố chuyển Chinh Phụ Ngâm, Cung Oán, lúc được vinh danh như một kỷ lục gia chuyển kinh Phật, lấy danh nghĩa đi du lịch rồi đi hát có trên mấy mươi xuất ở các quán ăn, hí trường sòng bài mà các poster chưng hình còn đó, lấy cớ đem tiền về VN làm từ thiện để không đóng thuế cho Mỹ, đã có trong tay đất, nhà và mấy kiểng chùa trên hai đất Mỹ, Việt; chuyển sang giai đọan kinh tế khó khăn, các bầu show không săn đón những danh tiếng trước đây nay hết hơi phải dùng máy hát nhép nữa, Chị Ba lại cố xốc thêm một lần cờ nữa, để thất vọng thêm bao người từng yêu mến Chị Ba tài sắc một thời, lòng thiện giúp đời ít nhiều cũng có nhưng phải chăng vì coi cái ngã của mình lớn quá, mà hiện tại giống một nhân vật trong chuyện Kim Dung là Âu Dương Phong, phải đi chỏng ngược, đầu lộn dưới chân, nhiều khi nói mà cũng không hiểu mình nói gì, tác hại ra sao với chung quanh và cả chính mình.

Cũng là một trong những siêu sao vướng bệnh quên, từng đóng Kiều rồi, xin chị nhớ giùm câu:

Mai sau dù đến thế nào
Kìa gương nhật nguyệt, nọ đao quỷ thần.

Xưa không ai ép chị đội chiếc nón ấy, giờ cũng đừng nên đổ thừa có tham khảo các VIP đương thời. Nhắc chị thêm một chuyện nữa thôi, gần bẩy bó rồi, có xốc nhiều nước cờ xin chớ quên, cờ nào cũng có ít nhiều vết đỏ, đó là máu của dân lành vô danh vô tội sau các cuộc can qua, dội bom, thảm sát, bị hiếp đáp thác oan, hãy uốn lưỡi, uốn tay nhiều lần trước khi nói, viết và trước khi tự chụp các lọai nón lên đầu.

KỲ NAM

Thứ Ba, 17 tháng 8, 2010

Bai nay chac sap bi go xuong roi !!!Bài học lịch sử về sự sụp đổ của Đảng Cộng sản Liên Xô

Brezhnev trong một kỳ nghỉ ở Krym.

Báo Thời Nay - một ấn phẩm của báo Nhân Dân - mới đây đăng loạt bài viết về những bài học trong sự sụp đổ của Đảng Cộng sản Liên Xô. Bài dưới đây nói về tầng lớp đặc quyền gồm các cán bộ đảng viên cấp cao của nước này.

Vào một ngày mùa thu năm 1988, đột nhiên có hàng trăm, hàng nghìn nguời tụ tập bên ngoài của một cửa hàng ở thủ đô Matxcơva. Nguyên nhân gì đã khiến cho cửa hàng không phải là lớn này trở thành tâm điểm của dư luận?

Đây là một cửa hàng đặc biệt, chuyên phục vụ một số khách hàng đặc biệt, và hôm đó là ngày cuối cùng trước khi cửa hàng tuyên bố bị đóng cửa. Người dân Liên Xô gọi các khách hàng đặc biệt của cửa hàng đặc biệt này là những người thuộc tầng lớp đặc quyền. Tầng lớp đặc quyền này từng bước hình thành dưới thời Brezhnev và tiếp tục phát triển dưới thời Gorbachev; và đó là một chất xúc tác gây nên sự tan rã từ bên trong Đảng CS Liên Xô, là cũng một trong các nhân tố quan trọng thúc đẩy biến cố Liên Xô.

Sau Cách mạng Tháng Mười, chiến tranh và nạn đói đe dọa nghiêm trọng đối với chính quyền Xô Viết còn non trẻ. “Rồi sẽ có bánh mì và sẽ có tất cả”, câu nói đầy ấn tượng của Vasili trong bộ phim Lenin trong Tháng Mười đã trở thành câu nói thịnh hành một thời ở Liên Xô.

Ngày nay, người ta khó có thể tin rằng những người làm việc gần gũi với Lenin từng nhường nhịn, chia sẻ cho nhau chỉ một mẩu bánh mì, nhưng đây là sự thật của lịch sử. Nhà làm phim đã dựa vào một câu chuyện có thật hồi ấy để dựng nên tình tiết này trong phim. Năm 1918, chính quyền Xô Viết gặp phải một cuộc khủng hoảng lương thực. Tại một cuộc họp của UBND, Churuva lúc đó đang là Ủy viên nhân dân phụ trách vấn đề lương thực, bất ngờ bị ngất xỉu. Người ta phải khẩn cấp điều bác sĩ đến khám. Khám xong, bác sĩ kết luận, Churuva bị ngất xỉu do đói!

Là quan chức cao nhất phụ trách vấn đề lương thực của chính quyền Xô Viết, Churuva nắm trong tay quyền điều động hàng triệu, thậm chí hàng chục triệu tấn lương thực, nhưng lại không giữ cho riêng mình số thực phẩm đủ để no bụng. Ngay sau đó, Lenin kiến nghị xây dựng nhà ăn điều dưỡng để bảo đảm cho những đồng chí đang ngày đêm lo lắng cho nhân dân được no. Điều này hoàn toàn đúng và không có gì phải bàn cãi.

Nhà ăn điều dưỡng do Lenin khởi xướng năm ấy dần dần mở rộng thành cửa hàng cấp đặc biệt, rồi dần dần quy mô và số lượng của nó đã có sự thay đổi căn bản. Sau nửa thế kỷ, chỉ có những cán bộ đặc biệt cao cấp của Liên Xô mới có thể ra vào tòa nhà không hề có biển hiệu này. Đây là cửa hàng cung cấp đặc biệt lớn nhất Matxcơva.

Vào dịp cuối tuần, những chiếc xe hơi lũ lượt kéo đỗ trước của tòa nhà, chật kín cả dãy phố. Ở đây có đủ các loại hàng hóa xa xỉ của nước ngoài, như rượu brandy của Pháp, whisky của Scotland, thuốc lá thơm Mỹ, chocolate Thụy Sĩ, coffee của Italia, giầy da của Áo, len dạ Anh, máy thu thanh Đức, máy ghi âm Nhật Bản,... có cả các mặt hàng khan hiếm ở Liên Xô.

Báo chí đã nói công khai rằng, đối với những nhân vật thuộc tầng lớp trên thì chủ nghĩa Cộng sản đã được xây xong từ lâu! Chỉ riêng Matxcơva đã có hơn 100 cửa hàng như vậy.

Tầng lớp đặc quyền trong điện Kremlin có quy tắc riêng của mình, chức vụ càng cao đặc quyền càng lớn thì sự chênh lệch về đãi ngộ vật chất mà họ được hưởng so với dân thường càng lớn. Đương nhiên những người được hưởng đặc quyền này chỉ là một bộ phận rất nhỏ trong đội ngũ cán bộ Đảng CS Liên Xô. Thế nhưng thứ đặc quyền này phải chăng là căn nguyên đầu tiên của sự bất mãn xã hội mà tầng lớp này đã gây ra?

Thời kỳ Liên Xô vừa bắt đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội, mọi người phấn đấu gian khổ hướng tới một cuộc sống mới. Khi đang phải phấn đấu vất vả để thực hiện lý tưởng chung, xã hội không chấp nhận những hàng vi dành chiếm độc quyền, mưu lợi cá nhân. Vào lúc nhà nước, dân tộc đứng trước nguy cơ tồn vong, nếu nói cán bộ lãnh đạo Đảng CS Liên Xô có đặc quyền gì đó thì đó chính là xung phong ra trận, xả thân chiến đấu, tắm máu sa trường, lãnh đạo nhân dân đánh đuổi quân xâm lược trong tiếng réo hờn căm của Kachiusa.

Thời Stalin, yêu cầu của Đảng với cán bộ nhìn chung rất nghiêm khắc. Khi đó Liên Xô cũng đang phải đương đầu với môi trường chiến tranh tàn khốc và cả sóng to gió lớn của cuộc đấu tranh chính trị. Từng đoàn cán bộ, đảng viên đi ra tiền tuyến. Sự thay đổi cán bộ lãnh đạo diễn ra thường xuyên, tầng lớp đặc quyền không có cơ hội hình thành.

Sau khi lên nắm quyền, Khrushchev đã thực hiện chính sách “cán bộ đặc biệt” theo quy định tại Điều 25 - Điều lệ Đảng CS được Đại hội 22 của Đảng CS Liên Xô thông qua. Cán bộ đảng viên cần thay đổi thường xuyên. Tại các buổi bầu cử diễn ra tại tổ chức đảng cơ sở hàng năm đều có hàng loạt bí thư bị thay thế sau khi kết thúc nhiệm kỳ. Tỷ lệ thay đổi cán bộ lãnh đạo lên tới 60%. Bởi vậy, trong thời kỳ này Liên Xô vẫn chưa hình thành tầng lớp người thật sự được hưởng đặc quyền trong Đảng. Tầng lớp đặc quyền trong Đảng CS Liên Xô chỉ từng bước hình thành sau khi Brezhnev nắm quyền, nhất là vào giai đoạn cuối thời Brezhnev.

Tháng 4-1966, Đảng CS Liên Xô tổ chức Đại hội 23. Đây là Đại hội Đảng đầu tiên diễn ra sau khi Brezhnev nắm quyền điều hành công tác của Ban chấp hành trung ương. Đại hội đã sửa đổi Điều 25 trong Điều lệ Đảng. Brezhnev đặc biệt tâm đắc câu nói của một người có thời gian dài phụ trách công tác ý thức hệ trong Đảng rằng: “Sự ổn định của đội ngũ cán bộ là sự bảo đảm cho thành công”.

Brezhnev theo đuổi sự ổn định của đội ngũ cán bộ một cách phiến diện sau đó phát triển thành chế độ chức vụ. Thực chất là chế độ chức vụ suốt đời, áp dụng với cán bộ lãnh đạo. Các cán bộ cao cấp của Liên Xô như Brezhnev, Suslov đều qua đời khi còn đương chức. Chính sách cán bộ của Brezhnev đã khiến cho các thành viên trong tầng lớp lãnh đạo của Đảng CS Liên Xô gần như không có biến động trong suốt một thời gian dài. Tại Đại hội 23 của Đảng CS Liên Xô, số ủy viên tái đắc cử và liên nhiệm đạt tỷ lệ 79,4%. Tại Đại hội 25, không tính số ủy viên trung ương đã qua đời thì tỷ lệ Ủy viên trung ương liên nhiệm cao tới 90%.

Trong hai nhiệm kỳ Đại hội Đảng cấp tỉnh từ năm 1978 đến năm 1981, chỉ có năm trong số 156 vị trí bí thư tỉnh ủy có sự thay đổi về nhân sự. Đến mùa xuân năm 1978, độ tuổi bình quân của 58 vị phó chủ tịch hội đồng bộ trưởng và bộ trưởng là 70. Thực tế này đã tạo ra một đội ngũ lãnh đạo già nua, đương chức suốt đời.

Hậu quả của chế độ cán bộ này là vừa khiến cho tầng lớp lãnh đạo thiếu đi sức sống vừa dễ hình thành một lực lượng hạt nhân trong tầng lớp đặc quyền. Xét về khách quan, chế độ cán bộ lãnh đạo suốt đời làm cho đội ngũ, tầng lớp đặc quyền không ngừng mở rộng, kéo theo sự không ngừng tăng lên cơ quan hành chính được lập ra để bố trí ngày càng nhiều cán bộ lãnh đạo.

Cuối những năm 70 của thế kỷ trước, số cơ quan cấp ban, bộ trực thuộc T.Ư Đảng CS Liên Xô lên tới 20. Trong đó, đại bộ phận trùng lặp với các cơ quan của chính phủ. Thậm chí tên gọi của những ban, bộ này cũng giống hệt nhau. Như Ban Nông nghiệp, Ban Công nghiệp quốc phòng, Ban Công nghiệp nặng và năng lượng, Ban Chế tạo cơ khí, Ban Văn hóa... Dưới thời Brezhnev, Đảng CS Liên Xô đã tạo đất cho tầng lớp đặc quyền sinh sôi, nảy nở. Nhiều cán bộ cấp cao không khỏi sửng sốt trước chế độ đãi ngộ đặc biệt mà họ được hưởng ngay sau khi được đề bạt.

Ligachev kể lại trong hồi ký rằng: Năm 1983, khi được bổ nhiệm làm Trưởng ban Tổ chức T.Ư Đảng CS Liên Xô, ngay ngày hôm sau ông đã được cấp một chiếc xe ôtô cao cấp. Khi ông yêu cầu thay cho mình một chiếc xe đẳng cấp thấp hơn một chút, không ngờ ông bị Chánh văn phòng T.Ư Đảng phê bình lại rằng: đồng chí làm như thế là một sự đòi hỏi đặc biệt, làm mất phong độ của cơ quan. Nếu không ở trong cuộc, người ta không thể tưởng tượng được những hưởng thụ do đặc quyền mang lại.

Dưới thời Brezhnev, con cái tầng lớp đặc quyền chỉ cần dựa vào địa vị đặc quyền của bố mẹ là có thể dễ dàng được vào học tại những trường đại học tốt nhất. Sau khi tốt nghiệp lại được nhận vào các ban, ngành ưu việt nhất, đồng thời nhanh chóng được nắm giữ những cương vị quyền lực quan trọng. Thậm chí, đặc quyền còn có thể trở thành “lá bùa hộ mệnh” để cán bộ lãnh đạo mặc sức tham nhũng mà không bị cản trở.

Rubanov, con rể của Brezhnev, đã dựa vào quyền thế của bố vợ, quan lộ phất như “diều gặp gió”. Chỉ trong vòng 10 năm, ông ta đã từ một sĩ quan cấp thấp trở thành thượng tướng, sau đó được bổ nhiệm làm Thứ trưởng thứ nhất Bộ Nội vụ. Trong thời gian này, ông ta đã tham ô, nhận hối lộ 650 nghìn rúp, gây ra vụ án “phò mã” chấn động cả nước. Còn Yuri, con trai Brezhnev thì được bổ nhiệm làm Thứ trưởng thứ nhất Bộ Ngoại thương Liên Xô khi còn rất trẻ.

Tháng 1/1982, tại sân bay Matxcơva, một công dân Liên Xô chuẩn bị lên máy bay ra nước ngoài du lịch, nhân viên hải quan đã tìm thấy một lượng lớn kim cương cất giấu trong chiếc túi bí mật trên người. Kết quả điều tra cho thấy, đây là sưu tập cá nhân của nữ huấn luyện viên dạy sư tử ở Rạp xiếc Trung ương. Sau đó không lâu, chuyên gia mỹ thuật và giám đốc của rạp xiếc bị bắt giữ. Người ta còn tìm thấy số kim cương trị giá khoảng 1 triệu USD và nhiều đồ vật quý giá khác tại nhà riêng của chuyên gia mỹ thuật và khoảng 500 nghìn bảng Anh cùng nhiều đồ trang sức, tác phẩm hội họa đắt tiền tại nhà riêng của giám đốc. Đáng nói là, những thứ này đều thuộc sở hữu của Galina - con gái Brezhnev.

Câu chuyện chưa dừng lại ở đó, vụ buôn lậu đồ trang sức, kim cương còn liên quan Thứ trưởng thứ nhất Bộ Ngoại thương Yuri. Vụ việc này lẽ ra thuộc thẩm quyền của Bộ Nội vụ xử lý, nhưng sau đó lại được chuyển sang cho Ủy ban An ninh quốc gia (KGB). Trong khi Phó Chủ tịch thứ nhất của KGB là Svigun, người trực tiếp chỉ đạo vụ án này lại là anh em cọc chèo với Brezhnev. Kết quả là, câu chuyện kết thúc ở đó. Con trai Brezhnev là Yuri và con gái của ông ta là Galina vẫn nhởn nhơ ngoài vòng pháp luật.

Trong 17 năm giữ chức Bộ trưởng Bộ Nội vụ, Selokhov đã lợi dụng chức quyền, biến của công thành của tư. Ông ta không chỉ chiếm khu biệt thự cấp nhà nước lớn nhất của Bộ Nội vụ và nhà khách Bộ Nội vụ làm của riêng mà còn chiếm một tòa chung cư rất lớn ở số 24, phố Hensen. Một lượng lớn tài sản cá nhân của Selokhov và người nhà ông ta được cất giữ trong khu biệt thự cấp nhà nước và tòa chung cư này. Tại một khu biệt thự, chỉ tính thảm trải nhà đã xếp tới bảy tầng, dưới gầm giường nhét đầy những bức tranh sơn dầu của các danh họa Nga.

Thứ Sáu, 13 tháng 8, 2010

Nhân giống thành công khoai tây trong không khí : nguoi Viet gioi that

http://www.tienphong.vn/Thoi-Su/509617/Nhan-giong-thanh-cong-khoai-tay-trong-khong-khi.html

02:12
| 13/08/2010

Nhân giống thành công khoai tây trong không khí

TP - Sau hơn một năm tiến hành thử nghiệm, kỹ sư (KS) sinh học Lê Văn Cường (phường 8, TP Đà Lạt) đã nhân giống khoai tây thành công trong môi trường không khí (khí canh) chứ không trồng dưới đất theo cách thông thường.

Cây khoai tây tạo củ trong không khí
Cây khoai tây tạo củ trong không khí.

Đến nay KS Cường đã thử nghiệm nhân giống 3 vụ khoai tây theo công nghệ khí canh trên diện tích 500m² tại khu vực Đất Mới (TP Đà Lạt). Cây không trực tiếp trồng vào đất (địa canh) hoặc nhúng vào môi trường dung dịch (thủy canh) mà được đặt cố định trên một giá đỡ và rễ cây phát lộ hoàn toàn trong không khí. Nhờ bộ rễ lộ ra ngoài nên hoàn toàn chủ động điều khiển quá trình hình thành tia củ, nếu tia nhiều thì số lượng củ sẽ nhiều. Tuy nhiên để đủ độ tối cho cây phát triển củ, có thể che bộ rễ bằng thùng xốp và phủ bạt ni lông đen.

Định kỳ, KS Cường cho phun nước dưới dạng sương để kích thích rễ phát triển. Phân bón và chất dinh dưỡng được hòa tan trong nước và cũng tưới theo kiểu phun sương cho rễ cây hấp thụ. Toàn bộ quy trình chăm sóc cây đều thực hiện bởi hệ thống thiết bị máy móc hiện đại (máy bơm, bể chứa dinh dưỡng, các đường ống dẫn dinh dưỡng…) và được lập trình chi tiết trong máy tính.

Từ 5 đến 15 phút hệ thống tưới sẽ tự động phun mấy mươi giây; thời gian phun và số lần phun trong ngày được điều chỉnh hợp lý tùy theo độ tuổi, tình trạng sinh lý của cây và nhiệt độ môi trường bên ngoài. Nếu cây không hấp thụ hết dung dịch phun, có thể thu hồi, lọc, bổ sung để sử dụng cho lần sau. Nhờ vậy, trồng khoai tây bằng khí canh có thể giảm trên 90% chi phí về nước, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật.

Được đặt trong môi trường thoáng khí, bộ rễ dễ hô hấp, hấp thụ dinh dưỡng nên sinh trưởng nhanh hơn khi trồng dưới đất: Một gốc khoai tây trồng theo phương pháp này cho tới 20 - 25 củ giống, trong khi trồng trong đất trung bình chỉ từ 4 - 5 củ. Hệ số cây giống cũng được nhân nhanh và rẻ hơn nhiều so với phương pháp nhân cấy invitro:

Trong vòng một tháng, 1 cây khoai tây sẽ nhân ra từ 8 - 11 cây con và chỉ trên diện tích 1m² có thể tạo ra cả nghìn cây giống sạch bệnh khắc phục tình trạng khan hiếm cây giống mùa khoai tây chính vụ; chi phí sản xuất cây giống thấp hơn nhiều nhờ đầu tư ban đầu nhỏ hơn. Ngoài ra, công nghệ khí canh không sử dụng đất nên môi trường có độ sạch cao, cây ít bị nhiễm bệnh và cho ra sản phẩm củ giống sạch đúng chuẩn, có độ kháng bệnh cao.

Tuy nhiên, KS Cường cho biết vẫn đang tìm cách nâng cao năng suất bởi người chuyển giao công nghệ khí canh trong nhân giống khoai tây cho ông là GS.TS Nguyễn Quang Thạch (Chủ tịch Hội đồng khoa học Viện Sinh học Nông nghiệp, Trường ĐH Nông nghiệp Hà Nội) đã đạt từ 40 đến 70 củ giống/gốc khi triển khai đề tài nghiên cứu cấp nhà nước trong lĩnh vực này.

GS Thạch cùng các cộng sự đã dày công nghiên cứu công nghệ khí canh trong điều kiện Việt Nam suốt nhiều năm ròng. Ông đã chuyển giao công nghệ cho những người giàu kinh nghiệm trồng rau, củ sạch ở những vùng trọng điểm khoai tây của nước ta (Hà Nội và Lâm Đồng) như KS Cường để tiến hành thử nghiệm nhằm hoàn thiện quy trình trước khi ứng dụng rộng rãi ngoài thực tế sản xuất.

Từ những kết quả nghiên cứu và thử nghiệm khả quan nói trên, có thể hy vọng công nghệ khí canh tạo nên sự đột phá trong việc tạo củ giống gốc trong ngành khoai tây: Hạ giá thành, nhân giống với số lượng lớn; thúc đẩy sự phát triển nông nghiệp công nghệ cao mới với năng suất cao, chất lượng tốt, sản phẩm sạch…

Kim Anh

Thứ Hai, 9 tháng 8, 2010

Na Uy sửa sách giáo khoa chiến tranh Việt Nam

Na Uy sửa sách giáo khoa chiến tranh Việt Nam

http://luongtamconggiao.wordpress.com/2010/08/10/na-uy-s%e1%bb%ada-sach-giao-khoa-chi%e1%ba%bfn-tranh-vi%e1%bb%87t-nam/
10.08.2010

Vũ Quí Hạo Nhiên/Người Việt

Một bức hình nạn nhân cuộc thảm sát Mậu Thân nay đã được ghi chú chính xác lại, sau nhiều năm bị sách giáo khoa ở Na Uy gán cho vụ Mỹ Lai. Ðó là một thay đổi nhỏ, trong nhiều thay đổi, mà một bác sĩ gốc Việt cho là “cần chấn chỉnh trong sách giáo khoa” nước này.

Ðó là một bức hình khá quen thuộc. Người phụ nữ gầy gò, nắm chặt chiếc nón lá, vật vã khóc thương bên xác thân nhân mình. Ðây là bức hình quen thuộc mà rất nhiều người nhận ra là cảnh sau Tết Mậu Thân, tại cố đô Huế, khi người ta khám phá ra những nấm mồ tập thể chôn hàng ngàn nạn nhân bị Cộng Sản giết chỉ trong vài ngày chiếm đóng cố đô.

Nhưng, trên một cuốn sách giáo khoa của nhà xuất bản Cappelen, được sử dụng rất nhiều tại Na Uy, tấm hình này lại bị ghi chú khiến người đọc có cảm tưởng đây là nạn nhân vụ Mỹ Lai. Lỗi lầm quá rõ rệt này khiến hai người Na Uy gốc Việt lên tiếng, không phải chỉ vì bức hình đó, mà vì nhiều dấu hiệu thiên vị khác trong sách giáo khoa Na Uy.

Hai người này là ông Tạ Văn Thông và Bác Sĩ Nguyễn Ngọc Khang. Trên một bài tham luận đăng trên báo Aftenposten ngày 21 tháng 4, 2010, hai tác giả phân tích cả một nền giáo dục Na Uy, trong đó cuộc chiến Việt Nam được dạy mà không có một chút bóng dáng nào của người dân miền Nam Việt Nam.

Cuốn sách mà hai tác giả này chú trọng vào, là sách của nhà xuất bản Cappelen. Giống như ở Mỹ, ở Na Uy nhà nước không ép buộc dùng sách giáo khoa nào, mà tùy các trường quyết định, và Cappelen là một trong hai nhà xuất bản sách giáo khoa lớn nhất Na Uy.

“Thật là sai trái, theo chúng tôi, khi mà sách giáo khoa Na Uy lại trình bày chiến tranh Việt Nam như một cuộc chiến tranh Mỹ,” hai tác giả Tạ Văn Thông và Nguyễn Ngọc Khang viết. “Tình hình là như vậy, sách sử của nhà Cappelen in năm 2008 dùng cho trường trung học, với Kennedy, Johnson, Nixon và Martin Luther King. Về năm mà Mỹ mang quân tới Việt Nam và năm họ rút ra. Về số người Mỹ thiệt mạng tại đó.”

Chiến tranh Việt Nam không có Việt Nam

“Học sinh, vì vậy, được học hình ảnh người lính Mỹ và phóng viên Mỹ tiến về phía trước. Tại sao người miền Nam Việt Nam lại vắng mặt ngay trên đất nước của họ, mặc dù họ từng chiến đấu trong cuộc chiến ngày xưa đó, đánh nhiều trận đánh và hy sinh 250,000 người lính, so với 58,000 lính Mỹ?” – hai tác giả bài báo này viết.

Trong một cuộc phỏng vấn tại tòa soạn nhật báo Người Việt, Bác Sĩ Khang nói thêm về những điều không công bằng trong sách giáo khoa Na Uy: “Những trang viết về chiến tranh Việt Nam thì họ nói chẳng hạn chế độ Việt Nam Cộng Hòa tham nhũng, độc tài, không có gì tốt hơn, xong họ còn viết mấy hàng về cuộc thảm sát Mỹ Lai của Mỹ, xong rồi dường như để minh họa phần đó, họ in hình của người đàn bà này và họ ghi đây là người đàn bà đang khóc chồng sau một vụ thảm sát. Tuy họ không nói thẳng, cách họ làm khiến người đọc có cảm tưởng đây là hình từ vụ Mỹ Lai.”

Chiến tranh Việt Nam


Bác Sĩ Khang có một giả thiết về lý do tại sao người Mỹ xem nhẹ công lao của miền Nam Việt Nam trong cuộc chiến đã qua. Giả thiết của ông dựa trên một lý thuyết của giới trí thức cấp tiến ở Mỹ, thuyết “Orientalism.”

Theo thuyết “Orientalism,” người phương Tây có cái nhìn lệch lạc về người phương Ðông, trong đó “họ không cho người phương Ðông là con người bình thường, có suy nghĩ, có hành động của một cá nhân như người phương Tây. Mặc khác, họ có hai cách nhìn nhận, một là thần thoại hóa con người phương Ðông, hai là hạ cấp hóa con người phương Ðông.”

Về thần thoại hóa, Bác Sĩ Khang cho rằng “họ thần thoại hóa phe Cộng Sản Việt Nam,” còn hạ cấp hóa, thì, theo ông, “họ hạ cấp hóa kẻ thù, họ nói bỏ bom vào thời kỳ đồ đá thì họ hạ cấp hóa kẻ thù Cộng Sản,” và hơn thế nữa, “họ hạ cấp hóa chính đồng minh của họ.”

Bác Sĩ Khang trích dẫn Giáo Sư Renny Christopher, Ðại Học Cal State Channel Island, và trong chuyến đi du lịch qua Mỹ, ông đã bỏ công ra lái xe lên Channel Island để phỏng vấn giáo sư này.

Chỉnh sửa tấm hình

Ngay sau khi viết bài tham luận, hai tác giả gởi bài viết tới nhà xuất bản Cappelen, và ngạc nhiên đạt được kết quả gần như ngay lập tức. Bác Sĩ Khang kể lại với Người Việt: “Chúng tôi gởi email tới nhà xuất bản… hỏi xin cho biết ý kiến về bài báo của chúng tôi. Ngày hôm sau nhà xuất bản trả lời.”

Bức hình nạn nhân vụ thảm sát Tết Mậu Thân, bị sách giáo khoa Na Uy gán cho Mỹ Lai, nay được đính chính nhờ sự can thiệp của hai tác giả Tạ Văn Thông và Nguyễn Ngọc Khang.


Nhà xuất bản cho biết: “Sau bài này, chúng tôi phải đi hỏi lại cơ quan cho chúng tôi hình và chúng tôi công nhận rằng lời của chúng tôi là sai.”

Họ sửa lại lời chú thích, và mới bắt đầu sửa trên Internet. Tuy nhiên, nhà Cappelen cũng báo với Bác Sĩ Khang, rằng “trong kỳ tái bản sắp tới chúng tôi sẽ sửa lại.”

Trong hàng chữ mới, ghi trên Internet, theo Bác Sĩ Khang: “Tôi có thấy họ nói là năm 1968, Cộng Sản tấn công Việt Nam Cộng Hòa và phía bên Mỹ lúc chiếm lại được Cố đô Huế họ thấy Cộng Sản giết mấy ngàn người dân sự bị cho là cộng tác với phía địch.”

Vui mừng với kết quả đạt được, hai tác giả tiếp tục viết cho nhà xuất bản khác. “Họ nói là chúng tôi sẵn sàng nghe ý kiến của các anh, các anh cứ viết một danh sách cho biết sử liệu nào chúng tôi viết có phần sai, chúng tôi sẽ đưa cho tác giả để tác giả xem xét ý kiến đó,” Bác Sĩ Khang kể lại.

Hai tác giả Tạ Văn Thông và Nguyễn Ngọc Khang cùng làm việc với hội người Việt tị nạn tại Na-Uy để tiếp tục thay đổi những điều chênh lệch trong sách giáo khoa Na Uy. Bác Sĩ Khang cho biết, khi thấy sách viết sai về Việt Nam: “Nhiều người nói thấy vậy cũng tức, cũng nói cho con biết cái nào đúng, cái nào sai, nhưng tôi chưa thấy người nào viết lên báo, phản đối về những điều viết sai trong sách giáo khoa. Hoặc có thể họ làm rồi nhưng tôi chưa biết tới.”

Chủ Nhật, 1 tháng 8, 2010

Tô Hải - Phấn đấu ký số 8: Tuyên giáo, cái ngành nghề gì vậy?

Tô Hải

Entry trước, tớ lấy hình tượng con ”kỳ đà bị cái đuôi của nó thọc vào họng" nhằm nói đến sự bất lực của các cơ quan lãnh đạo cao nhất, đặc trách văn hoá tư tưởng càng ngày càng bị cái đuôi văn hoá - văn nghệ của các vị ấy, đã coi các lời tuyên và giáo của các vị cao nhất nghành tuyên giáo chẳng có một ly ông cụ giá trị gì(!) bằng các hành động cụ thể trong sáng tác, biểu diễn, xuất bản (công khai và “chui”), bằng những lý lẽ bác bỏ công khai các lý luận kiên trì Mác-Lê đầy tội lỗi của các vị Mác-Lê-Mao tiền nhiệm và đương nhiệm! v.v...

Tưởng mình đã khá là… ”bạo phổi” Vậy mà... chỉ một tuần sau,đọc trên các trang web, blog... của các nhà văn (hầu hết đều có thẻ Đảng) trước thềm Đại Hội Nhà Văn lần VIII mới thấy các nhà văn trẻ (với tớ) ngày nay hơn hẳn lũ chúng tớ một vài cái đầu. Họ dám nói dám viết ra những điều mà cách đây 40 năm thì chỉ có mà... ”Cả nhà xuống hố”. Trước khi đọc entry mới của tớ, hãy vào những đường link sau đây để thêm tin tưởng vào chuyện "cái đuôi đang chẳng chịu cái đầu" là có thật đi đi các bạn.

http://anonymouse.org/cgi-bin/anon-www.cgi/http://nguyentrongtao.org/tr%E1%BA%A7n-m%E1%BA%A1nh-h%E1%BA%A3o-ch%E1%BB%89-co-s%E1%BB%B1-th%E1%BA%ADt.xml

http://anonymouse.org/cgi-bin/anon-www.cgi/http://nguyentrongtao.org/bui-minh-qu%E1%BB%91c-t%E1%BB%95-qu%E1%BB%91c-va-t%E1%BB%B1-do.xml

http://anonymouse.org/cgi-bin/anon-www.cgi/http://nguyentrongtao.org/nhin-l%E1%BA%A1i-d%E1%BA%A1i-h%E1%BB%99i-vii-h%E1%BB%99i-nha-van-vi%E1%BB%87t-nam.xml

http://anonymouse.org/cgi-bin/anon-www.cgi/http://nguyentrongtao.org/h%E1%BB%99i-nha-van-keu-g%E1%BB%8Di-doan-k%E1%BA%BFt.xml

http://anonymouse.org/cgi-bin/anon-www.cgi/http://trangha.wordpress.com/2010/07/29/em-khong-phai-nha-van/

Sau đây, là chuyện về cái đầu:

TUYÊN GIÁO: CÁI "NGÀNH NGHỀ" GÌ DZẬY?

Ngày hôm nay, 1/8/2010, người ta kỉ niệm rình rang 80 năm (?) "truyền thống ngành tuyên giáo VN", một ngành mà có lẽ trên thế giới rất khó ai dịch nổi ra là ngành nghề gì nếu không hiểu nổi nội dung của 2 chữ Tuyên và Giáo của chủ nghĩa Mác-Lê! Nó không chỉ đơn thuần là Tuyên truyền (propagande) và Giáo Dục (éducation) như ở mọi xã hội không cộng sản.

Riêng tớ, gần cả cuộc đời, nằm trong cái cơ cấu văn nghệ, cái đuôi của "Con tắc kè tuyên giáo", tớ có đầy đủ kinh nghiệm xương máu và dẫn chứng không thể chối cãi là: con tắc kè tuyên giáo này, từ khi ra đời đã có truyền thống "xúi giục" mọi người dân Việt Nam đói khổ đứng lên để tiêu diệt đồng loại mình bằng khẩu hiệu "Trí, phú , địa, hào - đào tận gốc, trốc tận rễ". Bài "Ngày quốc tế đỏ" (1/8/1930) nếu đúng là bài tuyên và huấn đầu tiên như các ngài Huấn Tuyên đương đại thì không thật chính xác. Nó phải mở đầu bằng chính cái đường lối "Đào" và "Trốc" này mới thật là chính xác! Những Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Vĩnh và sau này là Phan Khôi, Nguyễn Mạnh Tường, Trần Đức Thảo cùng một loạt văn nghệ sĩ "phản động", "phản đảng", "phản bội tổ quốc" thuộc nhóm "nhân văn", "xét lại" là đường lối và hành động cụ thể mà tớ dám đoan chắc không một cán bộ tuyên giáo đương chức nào dám lưu lại trong "Viện Bảo Tàng Tuyên Giáo" mới mở cửa. Chẳng lẽ lại trương ra những hình ảnh, những văn bản, những cá nhân đã tuyên truyền, đã xúi dại con đấu cha, vợ đấu chồng, bạn bè, đồng chí đấu nhau, đưa nhau ra xử án và bắn bỏ hay sao? Tất cả đều có bàn tay của cái của cái con tắc kè Tuyên và Giáo cả đấy! Ông Tô Huy Rứa mới hôm qua còn khẳng định là "Ngành tuyên giáo luôn giữ vị trí quan trọng hàng đầu trong toàn bộ hoạt động lãnh đạo của Đảng". Không những thế, ông còn tuyên bố phải: "Kiên định những nguyên tắc cơ bản là nhân tố quyết định bảo đảm công tác tuyên giáo đúng hướng... Đồng thời kiên định phải đi liền với sáng tạo và phát triển" (???). Phải chăng ông nói: "Ôm chặt lấy chủ nghĩa Mác Lê để khi cần phải tiến thì tiến, khi cần sang trái, sang phải, tiến lên hoặc tháo lui thì ta sẵn sàng... thay đổi sắc màu... một cách... không buông rời... Đảng tính?". Nói tóm lại: Tuyên Giáo là một cái nghề sẵn sàng bẻ cong giọng lưỡi và ngòi bút để tuyên truyền và giáo dục một cách cưỡng bức cả triệu triệu con người phải nghĩ và làm theo những ý đồ và mục đích chính trị của một nhóm người, thậm chí của một cá nhân nào đó! Ai có ý nghĩ hành động khác với những gì Tuyên Giáo đã đề ra thì đều bị coi là "phản động", "phản tổ quốc". Những người cúi đầu, chịu đựng, giả vờ nghe theo, làm theo một cách cưỡng bức thì được coi là "tiến bộ" thậm chí được kết nạp vào đảng, được "đại diện ưu tú của giai cấp công nhân", được làm "đỉnh cao trí tuệ của nhân loại"! Cũng chẳng khó giải thích gì cái chuyện khi con tắc kè Tuyên Giáo đẩy mạnh phổ biến lá cờ búa liềm và hát hò lên những câu nửa Tây, nửa Ta: "Lành-té-na-xiò-na-à-a-a-lớ" sẽ là xà hôi tương lai", rồi động viên cả triêu người sắp chết đói bằng những câu "đấu tranh này là trận cuối cùng"... để.... "Bao nhiêu lợi quyền ắt qua tay mình..." đã làm cho hàng triệu cái bộ xương người phá kho thóc, "lập quyền dân" rồi xung phong đi Vệ Quốc để "phanh thây uống máu quân thù!" mà.. "lòng có mong chi đâu ngày trở về", dù có "Da ngựa bọc thây lòng này vẫn vui" !

Trong "cải cách ruộng đất", trong "sửa sai" cái đuôi văn nghệ của con Tắc kè T-G còn "lá mặt lá trái" hơn gấp ngàn lần. Những ai đã vì sợ, vì hèn, đã phải "rặn" ra những "sáng tác" đứng hẳn về phía nông dân", "đánh xập uy thế chính trị của bọn địa chủ" làm sao có thể huỷ đi những "tội ác văn nghệ", những "tên tuổi đồng phạm" đang còn được lưu trữ bằng giấy trắng mực đen trên khắp thế giới ở cái thời đại Internet này?

Thế rồi, cũng chính cái con tắc kè đó lại bắt cái đuôi của nó phải ngoe nguẩy, phải đem các thành quả của cải cách ruộng đất vào hợp tác xã và cuối cùng là tài sản của toàn dân để rồi dần dần vào tay các "tập đoàn lợi ích" trong nước và nước ngoài. Không gì trâng tráo hơn là một kẻ đập phá cả ngôi nhà của mình đi, để rồi xây lại một ngôi nhà khác nghiêng ngả, lở loét, chẳng ra kiểu Tây lẫn kiểu Tàu, rồi lại tự mình vỗ ngực là "nhờ có tao phá nó đi nên bây giờ mày mới có cái nhà mới"! (lời của ông tổng Mười kể công đổi mới của Đảng.)

Những chuyện tréo ngoe nói láo, nói bậy, nói dối thường xuyên, liên tục ngày một công khai, trắng trợn hơn đã làm cái đuôi văn hoá văn nghệ từ im lặng, hoặc chịu đựng ngoe nguẩy theo hoặc nằm im cho đến cái ngày quê hương của chủ nghĩa Mác Lê đổ cái rụp. Lên gân, ú ớ, nguỵ biện, bịt tai, bịt mắt, nắm chắc tất cả các cơ quan ngôn luận, kiểm soát thông tin truyền thông không còn tác dụng khi internet ra đời! Cùng với chuyện Tổng Mạnh ôm hôn ông Medvedev và tuyên bố "đoàn kết hữu nghị truyền thống hợp tác" thì trên internet không thiếu gì những hình ảnh và lời tuyên bố của cái người ông Mạnh vưa ôm hôn là rằng: "Stalin là kẻ sát nhân," rằng: "tội ác của chủ nghĩa cộng sản là phải hồi tố không thời hạn" rồi ông ta cho quẳng nốt mấy cái tượng Lê nin còn xót lại vào sọt rác. Trí thức nào, văn nghệ sĩ nào có cái đầu và lương tâm mà chẳng... cười mỉm, cười ruồi, cười khểnh? Không thiếu người còn làm văn, làm thơ, viết trên blog về những lời nói và hành động "chửi bố nhau" giữa hai cảnh kỉ niệm ông Mác, ông Lê ở xứ Việt Nam với cảnh TBT NĐM ôm hôn người đã góp phần vào việc lật đổ hai thần tượng này chính ở trong nước của họ. Phải chăng đây là biểu hiện của sự "kiên trì" và "phát triển" mà ông trưởng ban Tuyên Giáo vừa đọc "đít cua" ngày 29/7 vừa qua, khi ngành của ông nhận bức "trướng" từ tay tiến sĩ lí luận Mác Lê nin Nguyễn Phú Trọng?

Riêng tớ ngồi xem 2 buổi truyền hình tại chỗ nhất là thấy mấy cảnh lia qua các "thành tích" trong Viện bảo tàng của ngành tuyên giáo, tớ bỗng thấy vô cùng xấu hổ vì cái quãng đời quá dài, gần 60 năm, làm cái đuôi của con tắc kè Tuyên Giáo nói trên.

QUÁ TRÌNH NHẬP VÀO CÁI ĐUÔI TẮC KÈ CỦA TỚ

Đây là những gì ở cái tuổi "sắp 84" này của tớ đang còn nhớ được:

- Từ 1949-1950: Đây là thời kì bắt đầu của "số mệnh khốn lịn" ,đưa đẩy tớ từ một anh sĩ quan tốt nghiệp chính quy trường Lục quân Trần Quốc Tuấn trở thành 1 anh lãnh đạo văn nghệ: "Nhạc sĩ, đảng viên, cấp uỷ, trưởng đoàn văn công!" Và từ đó muốn hay không muốn tớ đã trở thành một cái vẩy trong cái đuôi của Bộ máy tuyên huấn cơ sở. Nghĩa là bắt đầu chấp nhận làm một "kĩ sư tâm hồn vô sản" đi reo rắc tất cả những điều gì, bất kể đúng sai, mà cái đầu của con tắc kè đã chỉ đạo.

Chỉ đạo trực tiếp tớ lúc này là hai vị tớ còn nhớ rành rành có tên là Trần Sơn Hùng và Nguyễn Hải Hùng. Đến khoá 6 thì có thêm Vũ Kì Lân. Ba ông này, nếu còn sống, hãy tha thứ cho tôi nếu hôm nay tôi phải nói thật ra điều này: Cái đuôi văn nghệ bắt đầu sặc mùi Tàu khi chuyên gia Vu Bội Huyết sang nắm toàn bộ nhà trường để cải tổ từ đường lối tổ chức đến nội dung huấn luyện. Đặc biệt là việc xoá bỏ cái tên Trần Quốc Tuấn có từ khoá I, ở Tông (Sơn Tây) mà chỉ gọi là Lục quân II, có lẽ là việc mà cả ba ông Tuyên Giáo kể cả văn nghệ chúng tôi phải đắng cay, ngậm ngùi mà xoá nó đi trong lòng cũng như trên những tác phẩm cụ thể. Sau đó là việc khai tử hàng loạt những tiết mục, những tác phẩm mang màu sắc "tiểu tư sản". Toàn tập "Trường lục quân đang cần lính đánh Tây", "Tiếng kèn báo động" của tớ, hàng loạt vở kịch của Lộng Chương, Đinh Ánh... và còn nhiều thứ cải tổ nữa để đi tới cái cải tổ sau cùng là: Giải tán toàn bộ nhà trường và cái đoàn văn công bất trị của tớ.

- 1950- 1954: Tớ được điều động về một đoàn văn công đã nổi tiếng "Tàu hoá" sớm hơn tất cả. các đơn vị khác. (xin đọc entry "Một mùa xuân long trời lở đất") Ở đây cái "đuôi" còn "trung thành và kiên định" với cái đầu qua các cuộc đấu tranh, chỉnh huấn, chỉnh Đảng dữ dội hơn bất cứ nơi nào khác qua sự quản lý rất "lạp xường vô sản" của hai ông Tính và Hoạt. (Cả hai ông này tớ đều quên mất họ Nguyễn, họ Trần gì đó) Nhưng tớ còn nhớ như in hình dáng hai ông rất trí thức nhưng đã "đầu hàng giai cấp vô sản" một cách... đáng ngờ! Cả hai ông đều đeo kính cận, đều đọc sách Tây nhưng miệng nói ra chỉ toàn chính sách Tàu. Chỉ đạo cái đuôi văn nghệ, lúc tớ mới đến có các ông Đình Quang, Thanh Tịnh, Phùng Quán, Xuân Bình, Nguyễn Phiên, Đặng Văn Khoáng... dàn dựng toàn tiết mục Tàu. Kịch thì "Trúng tủ", múa thì "Ương Ca", "Bà Chu cho trứng". Hát thì ngợi ca "Thắm thiết tình Việt, Trung, Xô".... và tiếp tục sau này thì cái đuôi đó đã phát ra những tiếng "Hu ra!" ngợi ca "Cải cách ruộng đất muôn năm!" mãnh liệt, liều lĩnh và bố láo nhất để đến nỗi sau này, khi bị ại nhắc tới "những tác phẩm đẻ lấy được" trong giai đoạn này, thì... chính những người đẻ ra nó cũng phải thấy xấu hổ vì đã góp phần thúc đẩy cuộc "cách mạng long trời lở đất", giết người, cướp của chưa từng có trong lịch sử của loài người văn minh.

- Sau 1954: Đoàn văn công Bộ tư lệnh 4 tiến lên thành Văn công Quân khu 4 với sự cộng lại 4, 5 đoàn văn công sư đoàn mà tất cả đều là nghiệp dư loại 2, loại 3! Nhưng đúng thời điểm này ngoài Quân Đội đang xảy ra vụ "chống bọn phản động Nhân Văn". Thế là, cũng từ Trên, Tuyên Huấn Quân Đội do ông Võ Hồng Cương (Cục Tuyên Huấn) và Tổng Cục Trưởng CT Lê Quang Đạo đã phát động một phong trào "Chống chuyên môn thuần tuý", đồng thời học tập kinh nghiệm của bác Mao bên Tầu, bác Kim bên Triều xé lẻ các tổ chức văn nghệ quân đội thành những nhóm nhỏ, "hạ phóng ba cùng", lấy đại đội làm cơ sở, lấy ca múa và gây dựng phong trào văn nghệ làm chinh"! Tới tay ông tướng Hoàng Minh Thi, người có thành tích bỏ cả nhà n/s Phạm Duy vào chuồng trâu (PD thoát vì đi họp ở Việt Bắc) thì... Tan tành tất cả mọi tổ chức văn công văn nghệ quân đội đang có cấp lãnh đạo thì muốn tiến lên chính quy và hiện đại, nhưng có nhiều kẻ (đa số) như tướng Thi lại... kiên trì với phương châm "văn nghệ mãi mãi phải là văn nghệ công nông binh"! phải đại chúng "không hát bè bối, không kỹ thuật ba-lê, ba-lết, không tiến lên hợp xướng-giao hưởng nhiều bè nhiều bối nghe ồn ào như chợ vỡ... chẳng ai hiểu gì xất!!" Kết quả của đường lối này là: phá banh hết tất cả các đoàn nghệ thuật đang muốn tiến lên "chính quy và hiện đại"! Cho tới bây giờ, nhiều người cũ còn sót lại vẫn tiếc nuối mãi cái thời hoàng kim không bao giờ trở lại đó nữa! Cái đuôi lại bị cái đầu cắn cho tan nát, máu me đầm đìa!

- Thời kì năm 1960 cho tới khi về vườn: Tớ chuyển từ "văn nghê lính tráng" sang "văn nghệ dân sự" thì ôi thôi! Cả đám lông, đám vẩy trong cái đuôi văn nghệ cánh tớ đã trắng mắt ra vì thấy cái đầu nó chỉ đạo cái đuôi lung tung thiên địa quá. Vừa hôm qua, một vở kịch như "Câu chuyện iếc-cút", như "Lưu Bình, Dương Lễ" được ông X khen hết lời được quần chúng xếp hàng cả đêm để mua vé vào xem thì hôm sau được ông Y phán cho vài câu. Thế là... dẹp tiệm! Chỉ vì ông Y là bộ chính trị còn ông X chỉ mới là Trưởng ban Tuyên Giáo. Chẳng phải nói thì ai cũng rõ. Ông Y là ông Nguyễn Chí Thanh ông X chính là ông Lành tức Tố Hữu, Trưởng Ban Tuyên Huấn T.Ư đấy! Thời kỳ sau Nhân văn này, "tham mưu" cho ông Lành còn có cả một Vụ Văn Nghệ, quyền lực còn to hơn cả cái Bộ Văn Hoá gồm đủ các giới văn nghệ như Văn: có Hoàng Trung Thông kiêm vụ trưởng, Nhạc: có Tú Ngọc tốt nghiệp ný nuận ở Liên Sô về (sau còn được phong Tiến Sỹ), Sân khấu: có Đoàn Đức, Điện Ảnh: có Vũ Trọng v.v... và v v... Vậy mà cái đuôi văn nghệ nó vẫn làm cái đầu chẳng biết nên đổi mầu gì? Lý do với tớ rất đơn giản nhưng những con tắc kè thì lúng túng vì chưa tìm ra nổi đường đi nào cho phải để đổi mầu! Đài Mat-x-cơ-va, đài Bắc kinh vẫn được tiếp âm, báo Moscow news, Nhân dân nhật báo Bắc Kinh, tác phẩm của Soljelnysine, Tchoukrai, Kalatozov,... vẫn có ở cửa hàng ngoại văn Tràng Tiền! Bên cạnh những tranh in rẻ tiền "100 người như một mắt bi ve" là hàng loạt tranh đủ loại trường phái của Ba-Lan,các dàn nhạc, đĩa hát pop-rock của Đức, Bun, Ru, Tiệp, nhập vào gần như không mất tiền đã làm cho cái đuôi (thậm chí một bộ phận của cái đầu) gần như sáng ra một điều lâu nay cứ làm như... không biết. Đó là lùa tất cả giới trí thức - văn nghệ sỹ vào một cái đuôi không phải là chuyện đơn giản. Nhất là: Khi cái đầu càng ngày càng thấy thua cái đuôi về mọi mặt, chưa kể những mâu thuẫn cười ra nước mắt luôn xảy ra trong cái đầu! như một bộ phim, một cuốn tiểu thuyết được đề cao ở Trung Ương nhưng về đến địa phương thì tuyên huấn nơi đó cấm tiệt không được bén mảng (truờng hợp "Đi bước nữa" của Thế Phương, Thơ của Phạm Tiến Duật, và gần đây "Trăng Nghẹn" của Hoàng tường Phong). Cứ thế, cái đuôi dần dần bị quăng quật, bị bắt ngoe nguẩy lung tung, bị thương tật qúa nhiều, nên nó không chịu đươc nữa,... dẫn tới ngày nó nằm ỳ ra, trơ như đá, hoặc dữ dội quậy phá ngay giữa lòng con tắc kè!

- Riêng cái thời kỳ vào miền Nam,nằm trong cái đuôi Tuyên Huấn Trung Ương Cục và sau là Tuyên Huấn Thành uỷ, thì đã có quá nhiều entries, đặc biệt từ những entry viết về "Đi thăm giầu hỏi sướng" trở đi, kể chuyện về những "Sự thật Thật" mà tớ đã tham gia và chứng kiến... Xét thấy không cần thiết nói lại, nói dài làm gì. Hơn nữa, tớ cũng mong nhân dịp này các friends trẻ mới biết tớ, hãy bớt chút thì giờ đọc những dòng tâm huyết của tớ qua suốt 3 năm thiếu 20 ngày đã qua..

Tớ là người đã quyết tâm không nằm trong cái đuôi đó nữa nên tớ đành về hưu trước thời hạn một năm để ngẫm xem cái đuôi của nó ngoe nguẩy đến mức nào. Phải đợi đến cái tuổi sắp xuống lỗ tớ mới dám nói toạc móng heo ra rằng: cái đuôi nó đã thọc sâu vào miệng của cái đầu rồi đó. Không ai nói thẳng ra thì tớ xin mạn phép kết luận như sau: NGÀNH TUYÊN GIÁO LÀ MỘT CÁI NGÀNH CHẲNG CÓ NGHỀ NGHIỆP GÌ NGOÀI NÓI LƯƠN NÓI LẸO, NÓI DỐI, NÓI ĐÚNG THÀNH SAI, NÓI SAI THÀNH ĐÚNG, NÓI TRẮNG THÀNH ĐEN, NÓI ĐEN THÀNH TRẮNG, NÓI LẤY ĐƯỢC ĐỂ XÚI DẠI NGƯỜI TA ĐẤU TRANH GIAI CẤP, ĐI VÀO CHỖ CHẾT NHƯ ĐI TRẨY HỘI MÙA XUÂN... MÀ VĂN NGHỆ LÀ CÁI ĐUÔI, VŨ KHÍ ĐÁU TRANH GIAI CẤP ĐẮC LỰC NHẤT. CHO ĐẾN HÔM NAY, CÁI ĐUÔI ĐÓ NÓ KHÔNG CÒN NGHOE NGUẨY THEO CÁI ĐẦU NỮA RỒI.

Và đây, cuộc đối thoại của 2 nhà văn mới được đưa lên mạng lúc 7h38 phút ngày 31 tháng 7, của blog Nguyễn Trọng Tạo: "Các nhà lãnh đạo đất nước (phải) thấy nhà văn mở ra cho họ con đường phát triển, chấn hưng đất nước, chứ không phải xin họ tiền, xin họ làm cái đuôi chính trị." Nhà thơ Hữu Thỉnh (chủ tịch hội nhà văn): "Đúng! Đúng!"

Cảm ơn nhà văn-thơ-nhạc sỹ NTT đã giúp tôi chấm hết entry này!

Nguyễn Hưng Quốc - Tâm lý độc tài

Nguyễn Hưng Quốc

Tôi nghe, không phải một lần, mà là khá nhiều lần; từ không phải một người, mà là khá nhiều người, chủ yếu là những Việt kiều, vì thiện chí, về Việt Nam làm việc và có cơ hội tiếp xúc với nhiều người trong giới lãnh đạo, than thở: “Nói chuyện với giới lãnh đạo Việt Nam khó lắm. Khen thì mấy ổng cười toe toét. Nhưng chê, dù là chê những chuyện có vẻ hiển nhiên và với giọng điệu nhẹ nhàng nhất, mấy ổng cũng sa sầm mặt xuống ngay tức khắc. Sau đó muốn gặp lại cũng khó. Khó lắm!

Khi tôi kể lại những lời than thở trên cho một số bạn bè từ Việt Nam sang; mọi người - tất cả đều thuộc giới trí thức khá cao cấp, có người còn nắm giữ những chức vụ khá cao trong guồng máy hành chính - đều xác nhận. Họ thừa nhận, là, họ, chính họ, các trí thức và cán bộ trong nước, cũng không thể nói thẳng và nói thực với cấp trên: Không ai muốn nghe cả. Không những không muốn nghe, người ta còn giận. Nghĩ là mình lập trường không vững hay có ý đồ gì không tốt.

Nhưng, tôi để ý là, sau khi than thở hoặc thừa nhận như thế, tất cả, từ Việt kiều đến những người trong nước, đều cố biện minh: “Cũng tại mấy ổng già quá rồi. Người già thường khó tính.

Tôi không tin và cũng không thích những lời biện hộ kiểu đó. Tôi cho đó chỉ là một nguỵ biện. Lại là thứ nguỵ biện nguy hiểm. Nguỵ biện: Không phải người già nào cũng không thích nghe sự thực. Vả lại, phần lớn giới lãnh đạo Việt Nam hiện nay cũng không thực quá già. Trên thế giới có vô số nhà lãnh đạo lớn tuổi mà vẫn thoải mái tiếp nhận những sự phê phán từ người khác. Nguy hiểm: Chính những sự nguỵ biện kiểu như thế đã dung dưỡng cho thái độ nhắm mắt và bịt tai của những người đang cần được nghe nói thực nhất.

Tôi muốn gọi đúng tên cái chứng không thích nghe về cái xấu, cái dở ấy: độc tài.

Lâu nay, nói đến độc tài (authorianism), chuyên chế (dictatorship) hay toàn trị (totalitarism), chúng ta thường nghĩ ngay đến cơ chế (mechanism), đến bộ máy khép kín và nặng nề của đảng và nhà nước. Đành là đúng. Độc tài (hay những thứ cùng loại đã kể), trước hết, là một cơ cấu quyền lực chỉ cho phép một người, hoặc một nhóm nhỏ, được quyền quyết định tất cả. Không có đối lập. Thậm chí, không có gì được độc lập, kể cả hai thành phần cần được độc lập nhất: tư pháp và truyền thông.

Tuy nhiên, độc tài không phải chỉ là vấn đề cơ chế.

Độc tài còn là vấn đề tâm lý. Tâm lý độc tài là tâm lý chỉ tin vào chính mình, chỉ muốn sử dụng quyền lực để bảo vệ niềm tin của mình, và từ chối nghe bất cứ một ý kiến gì khác với mình. Người độc tài, như thế, ở một trạng thái khá mâu thuẫn: một mặt, họ tự tôn, cho mình, chỉ có một mình mình, là đúng; nhưng mặt khác, lại thiếu tự tin: họ sợ những thách thức đến từ người khác; họ tránh đương đầu; họ không muốn hoặc không dám sử dụng lý trí để thuyết phục người khác và bênh vực cho quan điểm của mình.

Người độc tài, do đó, không phải là những người mạnh mẽ. Và họ cũng biết họ không mạnh mẽ. Biết, nên họ thích sử dụng những biện pháp phi-lý trí để áp đặt và cưỡng chế người khác bằng cách xây dựng những cơ chế bảo vệ cái quyền không dùng lý trí của mình. Cái cơ chế ấy không cần lý lẽ, hơn nữa, nhằm loại trừ mọi lý lẽ. Trong cơ chế ấy, chỉ có một nguyên tắc được vận hành: bạo lực.

Tâm lý độc tài, do đó, là tâm lý sùng bái bạo lực. Tâm lý độc tài nào cũng tìm kiếm và cố duy trì một cơ chế độc tài: với người chồng hoặc người bố có tâm lý độc tài, cơ chế ấy là quyền gia trưởng; với người lãnh đạo một quốc gia, đó là tính chất độc quyền. Cơ chế thuộc chính trị. Tâm lý thuộc văn hoá. Thay đổi cơ chế độc tài cần có những vận động chính trị mạnh mẽ và quyết liệt. Thay đổi tâm lý độc tài cần những cuộc vận động lâu dài và sâu sắc nhằm thay đổi cách nhìn và cách nghĩ. Trong cái gọi là cách nhìn và cách nghĩ ấy, có hai điều quan trọng nhất: chấp nhận sự khác biệt và chấp nhận đối thoại.

Đối thoại chứ không phải độc thoại.

Thang máy Phó Thủ tướng

Trương Duy Nhất

Năm ngoái, khoảng 10 khách mời và diễn giả không thể đáp máy bay tham dự hội nghị khoa học tại Phú Quốc dù đã mua vé cả tháng trước vì Vietnam Airlines đột ngột lấy chỗ của những hành khách này để dành/giành cho ông Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải và tùy tùng. Một số nhà khoa học khác may mắn đến được Phú Quốc thì bị “mời” đi khách sạn khác vì cái khách sạn mà họ đã đặt phòng, cũng cả tháng trước, phải dành/giành cho ông Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải và tùy tùng (http://tuanvannguyen.blogspot.com/2009/08/su-quan-lieu-cua-quan-chuc-cao-cap.html). Và bây giờ là Phó Thủ tướng Nguyễn Sinh Hùng! Nhà báo Trương Duy Nhất thắc mắc: “Phó Thủ tướng chứ có phải vua đâu mà vào ngủ khách sạn cũng phải chặn một thang máy làm “chuyên khoang”, không dám đi chung với khách thường?”. Thưa nhà báo, quả thật Phó Thủ tướng không phải là vua (danh hiệu đó nên dành cho Thủ tướng chăng?) nhưng cũng là quan lớn dù có là quan lớn bị thịt đi nữa. Xưa cụ Hồ gay gắt và nhiều lần phê phán bệnh “quan cách mạng”. Than ôi, sau cuộc vận động rầm rộ “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” tốn bạc tỉ tiền thuế, mà tình hình vẫn thế ư? Hay cuộc vận động đó chỉ nhằm vào cán bộ cấp thấp và đám dân đen, chứ quan lớn thì dĩ nhiên không cần “học tập và làm theo” tấm gương đạo đức của Cụ?

Bauxite Việt Nam

Phó Thủ tướng chứ có phải vua đâu mà vào ngủ khách sạn cũng phải chặn một thang máy làm “chuyên khoang”, không dám đi chung với khách thường?

Phó Thủ tướng chứ có phải vua đâu mà vào ngủ khách sạn cũng phải chặn một thang máy làm “chuyên khoang”, không dám đi chung với khách thường?

11 giờ trưa 27-7-2010. Khách sạn Phương Đông, thành phố Vinh. Cửa vào thang máy có 3 khoang. Khoang chính giữa mở nhưng bị một tay bảo vệ mặc sắc phục vàng đứng ngáng giữa chặn lại. Vài người bước vào liền bị bảo vệ lôi ra. Tất cả khách muốn lên xuống phòng đều được hướng dẫn đứng xếp hàng chờ hai cửa khoang thang máy hai bên.

Tôi ngạc nhiên:

- Sao khoang giữa mở mà không cho ai vào?

Tay bảo vệ thật thà:

- Đây là chuyên khoang dành chờ Phó Thủ tướng Nguyễn Sinh Hùng.

Cánh cửa khoang giữa mở sẵn kia bị chặn lại làm “chuyên khoang” gần một tiếng, từ 11 giờ đến gần 12 giờ trưa.

Bất ngờ.

Phó Thủ tướng chứ có phải vua đâu mà vào ngủ khách sạn cũng phải chặn một thang máy làm “chuyên khoang”, không dám đi chung với khách thường ?

Bảo vệ đứng gác chặn hướng dẫn khách lên xuống phòng bằng hai cửa bên. Khoang giữa mở sẵn nhưng làm “chuyên khoang” chờ dành cho Phó Thủ tướng Nguyễn Sinh Hùng lên phòng ngủ.

Bảo vệ đứng gác chặn hướng dẫn khách lên xuống phòng bằng hai cửa bên. Khoang giữa mở sẵn nhưng làm “chuyên khoang” chờ dành cho Phó Thủ tướng Nguyễn Sinh Hùng lên phòng ngủ.

Bảo vệ đứng gác chặn hướng dẫn khách lên xuống phòng bằng hai cửa bên. Khoang giữa mở sẵn nhưng làm “chuyên khoang” chờ dành cho Phó Thủ tướng Nguyễn Sinh Hùng lên phòng ngủ.

Bảo vệ đứng gác chặn hướng dẫn khách lên xuống phòng bằng hai cửa bên. Khoang giữa mở sẵn nhưng làm “chuyên khoang” chờ dành cho Phó Thủ tướng Nguyễn Sinh Hùng lên phòng ngủ.

T. D. N.

Nguồn: http://truongduynhat.vnweblogs.com/post/1545/245263

Chỉ có sự thật mới giải phóng con người, giải phóng văn học và đất nước

http://anonymouse.org/cgi-bin/anon-www.cgi/http:/www.boxitvn.net/bai/8560

Trần Mạnh Hảo

(Tham luận của Trần Mạnh Hảo trong Đại hội Nhà văn Việt Nam lần thứ VIII, soạn theo thư “mời viết tham luận” của nhà thơ Hữu Thỉnh, Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam, nhờ nhà thơ Trần Đăng Khoa đọc giùm – cám ơn!).

Lần Đại hội [nhà văn] nào nhà thơ Trần Mạnh Hảo cũng gây sốc bởi tham luận. Lần này với tham luận gần 9000 chữ, chắc không đủ thời gian để đọc nên anh đã nhờ các trang web “đọc” giúp. Nhưng thật khó nuốt vì nó quá dài và dễ hóc… Ai muốn biết nhà thơ Trần Mạnh Hảo phát gì trong Đại hội [sắp tới], xin chịu khó xem nhé.

Nguyễn Trọng Tạo

Trần Mạnh Hảo
Trần Mạnh Hảo

“Sự thật là tiêu chuẩn của chân lý”

K. Marx

Kính thưa quý đồng nghiệp cầm bút,

Thưa quý vị quan khách và quý vị lãnh đạo,

Thói thường, con người sợ món gì nhất? Sợ ma quỷ ư? Không! Sợ vợ ư? Không! Sợ công an ư? Không! Sợ kẻ cầm quyền ư? Không! Sợ chết ư? Không!

Theo chúng tôi, con người trên mặt đất này sợ nhất sự thật! Vì vậy, ngạn ngữ Việt Nam từng nói: “Thuốc đắng dã tật, sự thật mất lòng”. Người Trung Hoa từ thượng cổ đã nói: “Trung ngôn nghịch nhĩ”. Người Ba Tư cổ khuyên: “Nếu nói ra sự thật, anh sẽ chết”. Người Ai Cập xưa cảnh cáo: “Khi sự thật bị bỏ quên quá lâu, một hôm nó thức dậy thành ngày tận thế”. Ngạn ngữ Tây Tạng tiền Phật giáo khuyên: “Mày chỉ được phép nói ra sự thật, nếu mày làm vua”. Thổ dân Úc bảo: “Ai nhìn thẳng vào sự thật sẽ bị mù mắt”. Lịch sử nhân loại đã ghi nhận hàng triệu con người từng dám cả gan nói lên sự thật mà bị mất mạng, bị tù tội hay bị quản thúc tại gia.

Đã có bao nhiêu lý thuyết chính trị thề bồi giải phóng con người, bao nhiêu cuộc lật đổ, cuộc cách mạng tuyên thệ giải phóng con người, giúp con người hoàn toàn tự do, sau khi đã giết hàng triệu triệu sinh mạng. Rút cuộc, con người hình như vẫn chưa được hoàn toàn giải phóng, chưa hoàn toàn được tự do, con người vẫn còn sợ hãi vì bị sự dối trá thống trị? Một số đất nước, một số dân tộc trên hành tinh vẫn còn bị nhốt trong nhà ngục có tên là dối trá. Cần phải làm một cuộc cách mạng của sự thật mới mong giải thoát cho nhân dân khỏi ngục tù kia.

Chìa khóa cuối cùng giúp con người được giải phóng, được hoàn toàn tự do, chính là sự thật, một sự thật không còn bị giấu như loài mèo giấu của quý. Karl Marx đã tôn vinh sự thật lên tột cùng của nhận thức luận và phương pháp luận: “Sự thật là tiêu chuẩn của chân lý” – không có sự thật đi kèm, mọi kết luận, mọi lý thuyết, mọi khế ước, mọi hội kín, mọi cuộc cách mạng đều chỉ là ngụy lý, ngụy tạo, là lừa bịp. Cố Tổng thống Ba Lan Lech Kaczynski (1949-2010) người vừa bị tử nạn trong vụ rơi máy bay trên đường bay đến rừng Katyn tham dự lễ kỷ niệm 22.440 người con ưu tú của dân tộc Ba Lan bị Hồng quân Liên Xô chôn sống hồi đầu Chiến tranh thế giới thứ Hai, trong bài diễn văn viết sẵn mà ông không còn cơ hội để đọc, có đoạn viết như sau: “Sự thật, kể cả sự thật đau đớn nhất luôn luôn giải phóng cho con người. Sự thật gắn kết. Sự thật mang lại sự công bằng. Sự thật chỉ ra con đường hòa hợp”.

Lấy ý tưởng từ câu cách ngôn kinh điển của K. Marx và lời trăn trối thiêng liêng thống thiết lớn lao của ngài cố Tổng thống Ba Lan trên, chúng tôi viết bản tham luận theo yêu cầu của Hội Nhà văn Việt Nam này.

Dostoyevsky, nhà văn vĩ đại nhất của chủ nghĩa hiện thực Nga và thế giới, từng tuyên ngôn rất hoa mỹ, rằng: “Cái đẹp sẽ cứu chuộc thế giới”. Chúng tôi thêm: “Sự thật sẽ cứu chuộc thế giới”. Sự thật sẽ cứu chuộc nền văn học của chúng ta, cứu chuộc Tổ quốc ta, nếu chúng ta cả gan một lần cùng nhau “Gọi sự vật bằng tên của nó” theo cách ngôn của phương Tây.

Nếu Đảng Cộng sản và Nhà nước Việt Nam thử một lần hợp tác với đất nước, với dân tộc Việt Nam mở HỘI NGHỊ DIÊN HỒNG CHỐNG GIẶC NÓI DỐI để tìm ra con đường cứu nguy dân tộc đang trên đà suy vong, thì công này của quý vị rất lớn. Ông cha chúng ta đã đánh thắng giặc Hán, Đường, Tống, Nguyên, Minh, Thanh… để bảo tồn đất nước. Tất cả các thứ giặc trên cộng lại cũng không ghê gớm bằng giặc nói dối đang tàn phá Tổ quốc ta, giống nòi ta. Lần này, nếu nhân dân ta không vùng lên đánh tan BỌN GIẶC CÓ TÊN LÀ DỐI TRÁ, chắc chắn đất nước ta sẽ bị kẻ thù phương Bắc nuốt chửng, như mấy nghìn năm trước chúng đã nuốt chửng toàn bộ các dân tộc Bách Việt từng định cư lâu dài phía Nam sông Dương Tử.

Chúng tôi viết bản tham luận này cũng để nhằm hưởng ứng cuộc hội thảo “Văn học nghệ thuật phản ánh hiện thực đất nước hôm nay” do Ban Tuyên giáo Trung ương vừa tổ chức tại Đà Lạt trong hai ngày 12-13/7/2010 với hơn hai trăm văn nghệ sĩ và các nhà lý luận phê bình hàng đầu Việt Nam tham dự. Cuộc hội thảo dũng cảm kêu gọi văn nghệ sĩ từ trên mây tỉnh giấc, quay về với hiện tình đất nước, do GS TS Phùng Hữu Phú (Ủy viên Trung ương Đảng, Phó trưởng ban thường trực Ban Tuyên giáo Trung ương, Chủ tịch Hội đồng Lý luận Phê bình Trung ương) chỉ đạo. Theo Đại từ điển tiếng Việt trang 803, từ “hiện thực” có nghĩa như sau: “Cái có thật, tồn tại trong thực tế” (Bộ Giáo dục & Đào tạo – Trung tâm Ngôn ngữ và Văn hóa Việt Nam, Nxb. Văn hóa Thông tin xuất bản 1998). Như vậy, khái niệm “hiện thực” chính là sự thật đã và đang xảy ra trong thực tại trên đất nước ta. Cuộc hội thảo của Ban Tuyên giáo Trung ương vừa qua có thể được gọi bằng một cách khác: “Văn học nghệ thuật phản ánh sự thật của đất nước hôm nay”. Muốn phản ánh được sự thật của đất nước hôm nay, việc trước tiên của chúng ta là phải nhìn ra sự thật, gọi đúng tên sự vật, không phải sự thật tô hồng hay sự thật bôi đen, mà sự thật đúng như nó đang tồn tại khách quan quanh ta.

Lâu nay, vẫn nghe dân gian xì xào nửa hư nửa thực rằng: “Các thế lực thù địch (xin lỗi, tiên sư nó) nói cái gì hình như cũng đung sắc đúng, Ban Tuyên giáo Trung ương (xin lỗi) nói cái gì hình như cũng sờ ai sai…” thì quả là chưa chắc; bằng chứng là trong hoàn cảnh đất nước mà sự thật trốn biệt như hôm nay, thì việc Ban Tuyên giáo Trung ương kêu gọi nhà văn chúng ta hãy mở mắt, từ bỏ giấc nam kha vô tích sự quá dài để nhìn vào sự thật, nói lên sự thật đất nước, là một việc làm quá đúng.

Tất nhiên, sự thật mà Ban Tuyên giáo Trung ương kêu gọi nhà văn nhìn nhận được nhìn bằng mắt thường, chứ không phải sự thật bịt mắt bắt dê, hay sự thật được nhìn bằng mắt kẻ khác, nhìn bằng những thấu kính ảo, kính lồi, kính lõm, hay chiếc gương chiếu yêu, chiếu bóng… Thâm ý của Ban Tuyên giáo Trung ương hình như muốn chúng ta tìm lại phong trào “Nói thẳng, nói thật” thời kỳ Đổi mới năm 1986 -1987 do Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh phát động?

Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh, trong cuộc gặp mặt văn nghệ sĩ năm 1987, đã làm gương nói thẳng nói thật, khi ông đặt vấn đề rốt ráo cho văn học nghệ thuật là nhà nghệ sĩ phải có tự do sáng tác; ông nói: “Cởi trói như thế nào, cởi trói nói ở đây trước hết là Đảng phải cởi trói cho các đồng chí… Tôi cho rằng khi những sợi dây ràng buộc được cắt đi, sẽ làm cho văn học nghệ thuật như con chim tung cánh bay lên trời xanh…”.

Rõ ràng, qua lời Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh, Đảng đã thừa nhận từng trói văn nghệ sĩ và trí thức rất nhiều năm. Lần này, Ban Tuyên giáo Trung ương, thông qua cuộc hội thảo cấp nhà nước “Văn học nghệ thuật hướng vào sự thật của đất nước” đã khuyến khích kẻ hèn này là chúng tôi nói lên sự thật, toàn là những sự thật chết người, sự thật mà chính quyền cố tình giấu diếm vì món lợi của quyền lực, với sự ngụy biện chống lại lẽ phải, chống lại chân lý: “Nói ra sự thật lúc này không có lợi”. Chả lẽ vì cái lợi, vì miếng ăn mà chúng ta đành phải nói dối hết đời ông đến đời cha, hết đời con đến đời cháu hay sao? Vậy chừng nào Nhà nước Việt Nam mới cho người dân chúng tôi công khai nói ra sự thật đây? Chúng tôi đành lấy lời dạy của K. Marx làm bùa hộ mệnh: “Sự thật là tiêu chuẩn của chân lý” để một lần cuối cùng nói ra sự thật của đất nước chúng ta, dẫu có bị bị làm phiền, thậm chí bị tù đày cũng mặc. Một kẻ nói dối, một dân tộc nói dối “lộng giả thành chân”, là một kẻ, một dân tộc không có tự do, không có độc lập, không có dân chủ, không có chân lý và lẽ phải… Khi một kẻ, một dân tộc phải núp vào sự dối trá để tồn tại, kẻ đó, dân tộc đó là một kẻ yếu, một dân tộc yếu đang trên đường suy vong. Chỉ có kẻ mạnh, kẻ tự tin, kẻ có liêm sỉ, có đạo đức mới không sợ sự thật, dù là sự thật đau đớn nhất, khủng khiếp nhất mà thôi.

Được lời như cởi tấm lòng, chúng tôi xin kể ra SỰ THẬT ĐẤT NƯỚC qua mắt mình, cái mà nền văn học của chúng ta lâu nay lảng tránh, làm ngơ, mặc “quốc gia hưng vong”, “thất phu” thay vì “hữu trách” thì hầu như cánh “thất phu” nhà văn thảy đều “tắc trách”… Chúng tôi mong 700 tờ báo của lề phải, tức báo của Đảng và Nhà nước, hãy hạ cố chỉ ra những sự thật mà chúng tôi gọi tên trong bài tham luận này đúng hay sai. Còn nếu quý vị dùng công an hay nhà tù để đối thoại với chúng tôi thì quý vị đã mặc nhiên thừa nhận chúng tôi nói đúng; chỉ vì đuối lý mà quý vị mới phải dùng hạ sách là làm phiền chúng tôi, đe dọa chúng tôi thì quý vị đã không chính danh quân tử, dùng nền chính trị bá đạo ứng xử với người dân, khi người dân dám nói lên sự thật để hy vọng trên đất nước đau thương và cam chịu này le lói một nền chính trị vương đạo, dựa vào sự thật, lương tri và lẽ phải. Trong hàng trăm sự thật nhãn tiền của đất nước, chúng tôi chỉ xin kể ra ba sự thật mà thôi.

SỰ THẬT MỘT

Chưa bao giờ số phận dân tộc ta, đất nước ta có nguy cơ tiêu vong như hôm nay: nước nhà đang bị giặc ngoại bang xâm lấn bằng cuộc chiến tranh ngọt ngào, chiến tranh ôm hôn thắm thiết và tặng hoa, tặng quà anh anh chú chú, bằng cách chiếm dần hai quần đảo chiến lược Hoàng Sa và Trường Sa, lấn chiếm dần dần biên giới đất liền và hải đảo, khiến nguồn lợi biển vô cùng tận của ta rồi sẽ mất hết, dân tộc ta không còn đường ra đại dương, coi như tiêu! Ngoại bang dùng chiêu bài “ý thức hệ” và “16 chữ vàng” làm dây trói vô hình, trói buộc Đảng cầm quyền và Nhà nước Việt Nam phải nhân nhượng kẻ xâm lược hết điều này đến điều khác. Trên đất liền, ngoại bang dùng con bài khai thác bauxite, mua đất thời hạn 50 năm của 18 tỉnh lấy cớ trồng rừng, thực chất là công cuộc chiếm đất di dân theo kiểu vết dầu loang, theo kiểu “nở hoa trong lòng địch”. Đến nỗi, khi giặc chiếm Hoàng Sa rồi đặt tên quận huyện cho quần đảo này, sinh viên thanh niên biểu tình chống giặc lại bị Nhà nước Việt Nam bắt. Vậy, Nhà nước chúng ta hiện nay đứng về phía ngoại bang xâm lược hay đứng về phía nhân dân ta? Cũng chưa bao giờ như hôm nay, thiên nhiên và môi trường sống trên nước ta lại bị phá hoại khủng khiếp như thế: rừng bị triệt phá gần hết, sông ngòi đồng ruộng cạn kiệt nguồn nước, lụt lội kinh hoàng, khí trời bị ô nhiễm tới mức cuối cùng, nước mặn xâm hại phá hủy các đồng bằng. Chỉ cần một trận mưa lớn là Hà Nội, Sài Gòn biến thành sông do quy hoạch xây dựng phản khoa học. Hạt lúa, củ khoai, mớ rau, tôm cá, thịt gia súc, gia cầm cũng đang bị các chất hóa học độc hại chứa trong thức ăn, các chất tăng trưởng, chất bảo quản độc hại ám sát, khiến sinh tồn của giống nòi có cơ biến dạng…

Đạo đức xã hội tha hóa tới mức cuối cùng, con người hầu như không còn biết tới liêm sỉ và lẽ phải… Một ông Chủ tịch tỉnh Nguyễn Trường Tô và rất nhiều quan chức cao cấp trong tỉnh Hà Giang chơi gái vị thành niên do ông Hiệu trưởng Sầm Đức Xương bắt các cháu nữ sinh trong trường làm điếm, nhằm cống nạp cho các quan đầu tỉnh. Nghe nói ông Nguyễn Trường Tô, ông Sầm Đức Xương từng là những người nhiều năm liền được bằng khen vì thành tích học tập và làm theo đạo đức Hồ Chí Minh. Một sinh viên Nguyễn Đức Nghĩa từng là Đoàn viên Thanh niên Cộng sản ưu tú, đã ra tay giết và cướp của chính người yêu cũ của mình một cách man rợ, không phải là cá biệt trong một xã hội con giết cha, vợ giết chồng, anh em giết nhau được đưa tin đầy tràn trên các trang báo lề phải. Lối sống vô đạo đức, hành vi vô luân, con người ứng xử với con người man rợ hơn dã thú đang là vấn nạn quốc gia, có thể đưa một dân tộc vốn có văn hóa, văn hiến bốn nghìn năm tới chỗ diệt vong… Không nhìn ra những nguy cơ chết người này, liệu 100 năm nữa Tổ quốc Việt Nam chúng ta còn tồn tại không? Dòng giống con Lạc cháu Hồng còn tồn tại không?

Nền giáo dục Việt Nam hôm nay là một nền giáo dục thiếu trung thực, đúng như ý kiến của ông Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân đã công nhận. Đạo đức trong giáo dục Việt Nam hôm nay đồng nghĩa với dối trá: thầy dối trá thầy, trò dối trá trò, quản lý giáo dục báo cáo láo cốt lấy thành tích, nạn mua bán bằng, bán đề thi, mua quan bán tước đang là đại họa của nền giáo dục. Hầu hết sách giáo trình, sách giáo khoa… là sách đạo văn. Cán bộ có chức có quyền đua nhau làm Thạc sĩ, Tiến sĩ… lấy bằng thật nhưng học giả. Nạn dùng tiền mua bằng cấp, mua học hàm học vị đang diễn ra công khai trong cái chợ trời giáo dục Việt Nam. Việc Hà Nội vừa qua đưa chỉ tiêu “xóa mù tiến sĩ” cho cán bộ công nhân viên nhà nước đã nói lên học vị Tiến sĩ chẳng còn giá trị gì cả! Có lẽ trong vài năm tới, sau việc Bộ Giáo dục ra chỉ tiêu đào tạo thêm 23.000 Tiến sĩ, sẽ dẫn tới chiến dịch xóa mù Tiến sĩ trên phạm vi toàn dân. Nhiều ông cán bộ cấp cao có học vị Tiến sĩ nhưng chưa có bằng tốt nghiệp đại học, thậm chí có vị chưa có bằng tốt nghiệp cấp 2 vẫn lấy được học vị Tiến sĩ. Việc chính trị hóa môn văn, môn lịch sử, môn triết học, chính trị hóa nền giáo dục… đã tạo cơ sở cho sự dối trá làm bá chủ đất nước. Giáo dục như thế sao có thể đào tạo ra những công dân chân chính? Đây là dấu hiệu suy vong lớn nhất của dân tộc do nền giáo dục thiếu tính nhân văn, thiếu tính chân thật gây ra. Những quả bom B52 tinh thần là nền giáo dục đi chệch hướng chân thiện mỹ đang rải thảm lên tinh thần dân tộc, thì ai là người phải chịu trách nhiệm trước lịch sử đây?

Than ôi, sau những quả bom tinh thần có tên là giáo dục mà chế độ tự ném vào mình, chỉ cần ngoại bang ném bồi thêm mấy quả bom thật vào hai đập thủy điện Sơn La và Hòa Bình là đồng bằng Bắc Bộ và cả Hà Nội sẽ biến mất, dân tộc sẽ biến mất… Hai đập thủy điện khổng lồ trên nghe đâu lại nằm trên vết nứt động đất… mới hãi hùng làm sao? Đầu nguồn sông Hồng, đầu nguồn sông Mê Kông, Trung Quốc đã và đang xây hàng trăm đập thủy điện, khiến hai con sông chính của đất nước khô cạn dần, không còn đủ nguồn nước tưới cho hai đồng bằng chính nuôi sống dân tộc. Cách Móng Cái 60 km, tại Phòng Thành, Trung Quốc đang xây nhà máy điện hạt nhân rất lớn; nếu có sự cố kiểu Chernobyl vào mùa gió bấc, Hà Nội và dân đồng bằng Bắc Bộ có thể sẽ chết hết vì nhiễm phóng xạ hạt nhân…

SỰ THẬT HAI

Chưa bao giờ như hôm nay, trên đất nước ta, giặc nội xâm có tên là tham nhũng lại hoành hành ngang nhiên, kinh hãi như dịch hạch đến thế. Dân có tham nhũng không? Không! Thế thì ai là giặc nội xâm, là giặc tham nhũng? Thưa, Chính quyền! Chỉ kẻ có chức có quyền mới tham nhũng được mà thôi! Vụ tham nhũng mới nhất như một đòn hiểm ác đánh một cú chí tử vào đất nước là tập đoàn Vinashin – một nắm đấm thép của Chính phủ – đã cướp đi của nhân dân số tiền khổng lồ là 80.000 tỷ đồng. Cứ thử làm tròn dân số nước ta là 90 triệu người (thực ra dân số Việt Nam mới chỉ trên 85 triệu dân), vị chi mỗi người dân vừa bị Tập đoàn quốc doanh Vinashin cướp đi gần 9.000.000 đ. Chín triệu đồng với người nông dân là một nguồn vốn lớn: một gia đình nông dân có bốn nhân khẩu chẳng hạn, đã vừa bị Vinashin cướp đi nhãn tiền 36.000.000 đ (*). Đã có bao nhiêu Tập đoàn Vinashin cướp hết tiền của nhân dân trong quá khứ, trong hiện tại chưa bị phát hiện? Những nắm đấm thép của Chính phủ như các tập đoàn kinh tế: Tập đoàn Than, Tập đoàn Điện, Tập đoàn Khoáng sản… đã và đang đấm chí tử vào hầu bao dân nghèo Việt Nam! Theo Kiểm toán Nhà nước, năm 2008, các tập đoàn kinh tế – nắm đấm thép – đã làm thất thoát 10 tỷ đô la. Năm 2009, số thất thoát (đổ tội cho lỗ vốn) cũng không nhỏ hơn số 10 tỷ đô la năm trước. Các tập đoàn kinh tế quốc doanh, các công ty quốc doanh đang là đại họa cho quốc gia; chứng tỏ thành phần kinh tế rường cột của mô hình xã hội chủ nghĩa này đã hoàn toàn thất bại. Về quốc nạn tham nhũng, bà Phạm Chi Lan, chuyên viên kinh tế cao cấp của Chính phủ đã phải cay đắng thừa nhận “bọn nắm đấm thép – chúng nó ăn hết tiền của dân rồi” như sau: “Một khi vẫn còn các ông lớn chủ đạo ngốn hết nguồn lực của đất nước và thâu tóm hết quyền thiết kế chính sách có lợi cho mình, thì làm sao thằng nhỏ động lực kinh tế tăng tốc được” (Tuần Việt Nam 22/07/2010)?

Tại sao nhà nước ta hiện nay vốn có hai chính quyền cồng kềnh, chồng chéo nhau, giẫm đạp lên nhau: một chính quyền theo hệ Đảng và một chính quyền theo hệ Nhà nước với hàng vạn ban thanh tra, hàng vạn chi bộ bốn năm sáu tốt, với hầu hết mấy triệu đảng viên gương mẫu đều đã học tập tốt đạo đức Bác Hồ, mà giặc tham nhũng lại ngang nhiên hoành hành trắng trợn từ vi mô đến vĩ mô đến như vậy? Quan tham nhìn từ xã trở lên không thấy lao động chân tay, không thấy lao động trí óc, chỉ sử dụng một thứ lao động có tên là LAO ĐỘNG LÃNH ĐẠO mà ai ai cũng giàu có hơn dân thường hàng trăm, hàng nghìn, hàng vạn, hàng triệu, hàng tỷ lần là sao? Chung quy lại, có phải là do thể chế sai, mô hình chính trị sai: VỪA ĐÁ BÓNG VỪA THỔI CÒI, VỪA ĐI THI, CHẤM GIẢI VỪA PHÁT GIẢI VỪA ĐƯỢC LÃNH GIẢI. NHÀ NƯỚC – ĐẢNG MỘT MÌNH MỘT CHỢ: VỪA THAM NHŨNG VỪA CHỐNG THAM NHŨNG? Xin hỏi: tay phải tham nhũng, liệu tay trái có dám cầm dao chặt được tay phải hay không?

Linh hồn triết học duy vật biện chứng của chủ nghĩa Marx nằm ở câu kinh mà Đảng viên cộng sản nào cũng phải thuộc làu làu: “Mọi sự vật đều được cấu thành bởi các mặt đối lập thống nhất”. Chỉ trừ nền chính trị của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam không hề nằm trong quy luật vận động này của Marx, vì nó triệt tiêu đối lập chính trị!

Nền chính trị độc đảng, độc quyền của nước ta hôm nay đang chống lại biện chứng pháp của chủ nghĩa Marx. Trong phép biện chứng do Hegel sáng tạo, Marx tiếp thu, có ba nhịp như sau: xuất đề, phản đề và tổng đề. Phản đề hay đối lập chính là linh hồn của biện chứng pháp của chủ nghĩa Marx. Chối bỏ đối lập, triệt để cấm phản đề, cấm đối lập chính trị, nền chính trị của nước ta ngày nay đang chống lại chính cái lý thuyết chủ nghĩa cộng sản mà nó thề nguyền đi theo, thành ra một nền chính trị thoái bộ, rất giống với các nền chính trị thần quyền thời Trung cổ bên Châu Âu.

Hãy xem khẩu hiệu rất duy tâm, hoàn toàn chống lại thuyết Marxist của Đảng cầm quyền: “Đảng Cộng sản Việt Nam quang vinh MUÔN NĂM”. Marx từng giải thích tại sao loài người thống khổ: vì loài người còn phân chia giai cấp. Mục đích của Marx là làm cho nhân loại tiến đến đại đồng, tức tiến đến thiên đường cộng sản. Muốn đến thế giới cộng sản, phải xóa bỏ các giai cấp: xóa bỏ giai cấp tư sản, xóa bỏ giai cấp vô sản, xóa bỏ nhà nước, xóa bỏ công an, quân đội, tất nhiên phải xóa bỏ cả Đảng Cộng sản, vì Đảng Cộng sản là đảng của giai cấp vô sản. Mà khi xóa bỏ giai cấp, thì đảng của giai cấp cũng không còn. Hô “Đảng Cộng sản Việt Nam MUÔN NĂM” cầm bằng như hô: “Xã hội loài người có giai cấp muôn năm”! Rõ ràng hô như vậy là treo cổ chủ nghĩa Marx, là không chính danh, là tự xóa bỏ tính mục đích của Đảng Cộng sản.

SỰ THẬT THỨ BA: NÓI MỘT ĐÀNG, LÀM MỘT NẺO, HAY LÀ DANH KHÔNG CHÍNH THÌ NGÔN KHÔNG THUẬN

Đảng, Nhà nước Việt Nam nói thì rất hay, nhưng làm thường ngược lại. Những nguyên tắc, nguyên lý, luật pháp, chính sách, đường lối của Đảng cầm quyền và Nhà nước Việt Nam hiện nay hầu hết đều không chính danh.

Xin chứng minh

Trong Hiến pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam người dân được hưởng tất cả các quyền: quyền sống, quyền làm người, quyền hoạt động chính trị, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do lập hội, lập đảng phái, quyền biểu tình, tự do tôn giáo, tự do cư trú, tự do đi lại, tự do đủ thứ…

Chính sách hộ khẩu đã cấm tự do cư trú.

Quyền được biểu tình của dân bị cấm chỉ bởi một Nghị định (do Thủ tướng Phan Văn Khải ký): cấm từ năm người trở lên tụ tập hay đi hàng dọc ngoài đường, ngoài phố. Anh bạn chúng tôi có 5 đứa con, cộng hai vợ chồng là 7 người, mỗi sáng Chủ nhật anh chị dẫn bầy con đi tập thể dục tại công viên cách nhà hơn cây số. Đoàn rồng rắn tí hon của anh chị không thể đi thành một hàng, mà phải bí mật xé lẻ thành hai tốp, anh dẫn 3 đứa con, chị dẫn 2 đứa con giả vờ không quen biết nhau, đi vào hai lề đường khác nhau, sợ đi chung sẽ bị công an bắt…(**). Ra Quốc lộ số 1, qua một số đường phố ở các thành phố nhỏ, thấy trâu bò được ung dung đi thành bầy đàn hàng mấy chục con trên đường mà không bị công an bắt. Sao kiếp người ở Việt Nam lại tủi hổ hơn kiếp bò: con bò còn được tự do tụ tập, tự do nghênh ngang rồng rắn trên đường, được Đảng và Nhà nước đối xử tử tế hơn hẳn con người… là sao hở các ông trời con?

Tự do tôn giáo bị cái rọ tôn giáo quốc doanh cấm cản. Hàng trăm sư sãi, chùa chiền vốn theo một hệ phái Phật giáo riêng từ trước năm 1975 tại miền Nam Việt Nam đã bị cấm hoạt động, bắt phải vào Phật giáo quốc doanh, nếu không chịu quốc doanh hóa Phật giáo sẽ bị bắt. Công giáo cũng phải thành Công giáo quốc doanh. Cao Đài, Hòa Hảo, Tin Lành… cũng phải vào quốc doanh thì sao gọi là tự do tôn giáo? Ở một đất nước không có TÔN GIÁO TƯ NHÂN, chỉ có TÔN GIÁO QUỐC DOANH mà cứ xưng xưng toe toét: Việt Nam có tự do tôn giáo!

Điều 4 trong Hiến pháp cho phép chỉ một mình Đảng Cộng sản được nắm quyền lãnh đạo mãi mãi, đã cấm mọi công dân tự do hoạt động chính trị, trong khi quyền người dân được tự do hoạt động chính trị ghi rõ ràng trong Hiến pháp. Điều 4 của Hiến pháp là điều không chính danh.

Đảng và Nhà nước có trên 700 tờ báo giấy báo viết báo hình. Xã hội tự xưng là “nhân dân làm chủ: của dân, do dân, vì dân”, “cán bộ là đầy tớ nhân dân”. Tai ngược thay, chính anh đầy tớ này được độc quyền ra báo, lại cấm ông chủ ra báo là sao? Marx – sinh thời từng ca ngợi nền tự do báo chí của chủ nghĩa tư bản. Marx lên án cay độc nhà vua Phổ kiểm duyệt báo chí theo kiểu Nhà nước Việt Nam hôm nay lùa tất cả nền báo chí nước nhà vào cái rọ lề phải, đánh sập hơn ba trăm blog và website cá nhân trên Internet như lời khoe khoang của ông Tổng Cục phó Tổng cục An ninh Bộ Công an, Trung tướng Vũ Hải Triều… Không có nền tự do báo chí tư sản, nền xuất bản tự do tư sản, không thể xuất hiện chủ nghĩa Marx. Nếu Karl Marx tái sinh xuất hiện giữa lòng Hà Nội hay Sài Gòn hôm nay, chắc chắn cha đẻ của chủ nghĩa cộng sản sẽ bị lính của ông Vũ Hải Triều bắt ngay tắp lự!

Khi người dân không có quyền ra báo tư, lập nhà xuất bản tư… cũng có nghĩa người dân Việt Nam hiện nay không có quyền tự do ngôn luận.

Khi Hiến pháp đã cho công dân cái quyền thì người dân không phải đi xin. Hiến pháp bảo công dân có quyền sống, quyền làm người, vậy chả lẽ khi sống là phải thở, phải ăn, phải mặc, phải yêu vợ… thì cứ mỗi lần thở, mỗi lần ăn, mỗi lần mặc, mỗi lần yêu vợ… lại phải làm đơn xin phép công an?

Hiến pháp của các nước dân chủ văn minh sinh ra để bảo vệ người dân, đảm bảo nhân quyền, dân quyền và mọi quyền tự do của dân, cốt yếu để ràng buộc kẻ cầm quyền. Hiến pháp nước ta hiện nay sinh ra hầu như để chỉ trói buộc người dân và tạo hàng nghìn kẽ hở cỡ lỗ thủng con voi chui lọt cho kẻ cầm quyền tự do đánh tráo Hiến pháp, tự tung tự tác, làm ngược lại Hiến pháp mà không bị luật pháp ràng buộc là sao?

Quốc hiệu nước ta hiện nay xưng là: Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực ra có đúng không? Thưa không! Vì nền kinh tế nước ta từ năm 1986 đến nay là nền kinh tế thị trường, tức nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, một chủ nghĩa tư bản hoang dã. Vậy quốc hiệu nước ta muốn sát với “sự thật của đất nước” như gợi ý của Ban Tuyên giáo, phải đặt lại là: “Cộng hòa tư bản chủ nghĩa Việt Nam” mới chính danh.

Chủ nghĩa xã hội nói cho cùng là một mô hình ảo, hoàn toàn không có thật. Hồi chúng tôi theo học tại Học viện Gorky bên Liên Xô năm 1988, thường nghe dân Liên Xô định nghĩa về chủ nghĩa xã hội theo mô hình Lenin-Stalin như sau: “Chủ nghĩa xã hội là con đường vòng vèo nhất, đầy máu và nước mắt nhất, khốn nạn nhất để đi lên tư bản chủ nghĩa”. Liên Xô, với mô hình xã hội chủ nghĩa trại lính (hay trại tập trung) đã phải mất 74 năm đi vòng vèo trong máu xương, ngục tù, trong đày đọa của những trại Gulag hắc ám, man rợ… để năm 1991 mới tới được nền kinh tế tự do tư bản chủ nghĩa. Quốc hiệu của nước ta như vậy là không chính danh.

Cái đuôi “Định hướng xã hội chủ nghĩa” được gắn vào đít khái niệm kinh tế thị trường của Nhà nước ta hiện nay là một cái đuôi giả, một cái đuôi nhựa chạy bằng cục pin sắp thối của Trung Quốc. Theo nghĩa từ điển: “định hướng” có nghĩa là xác định phương hướng, mà điểm tới đã được xác định cụ thể. Ví dụ ông A hẹn ông B qua điện thoại, rằng mai ta gặp nhau ở Hồ Con Rùa, tập kết tại đó ăn sáng, uống café, định hướng Buôn Ma Thuột mà tới Plây-ku nhé! “Xã hội chủ nghĩa” là khái niệm ảo trên giấy, chưa có thật trên đời và sẽ không thể có thật vì nó dựa trên những nguyên lý ảo tưởng, bịa đặt, phi khoa học.

Đưa đất nước đi vào chỗ không có thật, định hướng tới cõi không có thật mà đến thì than ôi, thà giết đất nước đi còn hơn! Nên khẩu hiệu “Vì Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội” in trên đầu tờ Văn nghệ của Hội Nhà văn Việt Nam, nếu theo tiêu chí “hướng về sự thật” của Ban Tuyên giáo chỉ dẫn, phải đặt tên lại cho đúng với thực chất ngữ nghĩa của từ điển là: “Vì Tổ quốc, vì chủ nghĩa không có thật” mới đúng. Không có sự thật đi kèm, mọi lý thuyết, mọi mô hình xã hội, mọi lời hứa đều là sai trái, ảo tưởng, hứa hão, đúng như K. Marx đã nói.

Đồng nghĩa Đảng Cộng sản là đất nước, đồng nghĩa chủ nghĩa xã hội là Tổ quốc là không chính danh. Đảng Cộng sản mới chỉ có 5 triệu đảng viên, còn nhân dân Việt Nam ngoài Đảng chiếm đa số tới hơn 80 triệu dân, có phù phép kiểu gì, Đảng Cộng sản cũng không thể biến thành đất nước Việt Nam được. Đảng nghĩa là phe phái, là một nhóm người. Một nhóm người sao có thể biến thành tất cả được? Nên danh từ ĐẢNG TA dùng để gọi Đảng Cộng sản là không chính danh. Liên Xô đã bỏ ra 74 năm để tìm mà không thấy chủ nghĩa xã hội đâu, chỉ thấy trại tập trung, thấy nhà tù nhiều hơn trường học. Lenin, Stalin, Mao… đã biến nhân dân các nước Nga, Tàu, Cuba, Bắc Triều Tiên, Việt Nam, Campuchia, hàng chục nước Đông Âu… thành hàng tỷ con chuột bạch cho cuộc thí nghiệm máu cộng sản chủ nghĩa bằng bạo lực, bằng cải tạo áp đặt, bằng thuyết đấu tranh giai cấp tàn bạo nhưng đã thất bại hoàn toàn. Liên Xô, Trung Quốc, Việt Nam, Đông Âu giờ đã đi theo tư bản chủ nghĩa. Chủ nghĩa xã hội là một khái niệm ảo, nên khẩu hiện “Yêu nước là yêu chủ nghĩa xã hội” là rất buồn cười, giống như nói “Yêu nước là yêu cái không có thật” vậy…

Quốc hội nước CHXHCN VN được Đảng Cộng sản và Nhà nước phong cho là cơ quan lập pháp cao nhất của nhân dân Việt Nam là không chính danh. Vì thực tế, Quốc hội này chỉ là cơ quan ngoại vi của Đảng, do Đảng lãnh đạo; Quốc hội mà 98% dân biểu là đảng viên của một đảng duy nhất thì việc gọi Quốc hội này của dân là một trò hề, là không chính danh; Quốc hội này của Đảng, dân nào có quyền bính gì trong Quốc hội giả hiệu này?

Việc một nhóm người không ai khiến, tự nhiên nhảy phóc ra đấu trường xã hội ngót trăm năm nay, hung hãn cầm mác cầm lê cầm búa cầm liềm cấm cản những nhóm người khác lập phe đảng là không chính danh, không logic, không công bằng, không có luật hay chỉ là luật rừng?

Đảng Cộng sản Việt Nam không do nhân dân Việt Nam bầu ra, nên sự tồn tại của Đảng để tuyệt đối cầm quyền là không chính danh. Đúng như Mao nói rằng chế độ chuyên chính vô sản của ông ta là do súng đẻ ra: “Súng đẻ ra chính quyền”, tức là SÚNG BẦU RA CHÍNH QUYỀN… Mấy chục năm nay, người ta đã cố tình gọi nhầm SÚNG là DÂN: “súng bầu lên chính quyền thì lại nói dối là dân bầu”… Cũng giống như (giả dụ thôi, hy vọng đừng biến thành sự thật!) sau bài viết này, công an gọi tên Trần Mạnh Hảo lên… dọa bắn; Hảo ta vốn là một con cáy 64 tuổi biết cầm bút, thấy súng há mồm sắp đối thoại với mình, sợ vãi đái, nghĩ mình miệng hùm gan sứa, sức đâu cãi lại miệng súng, đành phải ký vào giấy cung khai rằng: báo cáo các anh, em đã nói sai, đã nói dối, vì Đảng ta và Nhà nước ta từ xưa tới nay thật thà hơn đếm, có biết nói dối là gì đâu. Thế rồi báo An ninh hôm sau hí hửng: trước lý lẽ sắc bén và thực tế sáng ngời chính nghĩa của nhân dân, tên Hảo đã không đủ lý lẽ đối thoại, đã ăn năn hối lỗi vì dám vu cáo cho Đảng ta nói dối…

Việc Đảng Cộng sản Đông Dương ra đời năm 1930 theo thuyết Marxist là không chính danh.

Marx bảo: chủ nghĩa tư bản xuất hiện với đại công nghiệp. Marx lại bảo phương thức kinh tế châu Á không nằm trong chủ nghĩa Marx. Marx phán: giai cấp vô sản là hệ quả của giai cấp tư bản. Nghĩa là tư bản đẻ ra vô sản. Trung Hoa, Việt Nam và cả châu Á, thế giới Ả rập, Ấn Độ, Mỹ Latinh, Phi Châu… trong thế kỷ thứ XIX, đầu thế kỷ thứ XX chưa hề có chủ nghĩa tư bản. Năm 1930, Việt Nam chưa có ông bố tư bản, sao lại có đứa con tên là vô sản ra đời? Bịa ra một giai cấp vô sản ảo để thành lập ra đảng của giai cấp vô sản là Đảng Cộng sản Đông Dương là không chính danh, là trái với thuyết Marxist, là xây nhà trước, xây nền nhà sau.

Sau khi ra đời, Đảng Cộng sản Đông Dương nêu khẩu hiệu “Trí, Phú, Địa, Hào đào tận gốc trốc tận rễ” là không chính danh. Diệt trí thức là diệt đi hai ông đại trí thức Marx-Engels ư? Trí thức là linh hồn của xã hội, diệt trí thức cũng có nghĩa là diệt luôn xã hội loài người.

Năm 1958 – 1960 Bắc Việt Nam (năm 1975 là cả nước) tuyên bố tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội với “mo cơm và quả cà”, không thông qua con đường tư bản chủ nghĩa theo sự xúi dại của Lenin là không chính danh. Theo Marx, linh hồn của xã hội chủ nghĩa là đại công nghiệp; chỉ có nền nông nghiệp lạc hậu mà dám thí mạng cùi tiến lên xã hội chủ nghĩa là tiến lên toàn dân cùng chết đói, hay tiến lên công xã kiểu diệt chủng như Khmer Đỏ, tiến lên “đại nhảy vọt” kiểu Mao khiến mấy chục triệu người chết đói, dân chúng phải ăn thịt cả con mình như cuốn Mao Trạch Đông ngàn năm công tội do Thông tấn xã Việt Nam vừa phát hành đã kể.

Năm 1986, theo gương Trung Quốc, Đảng Cộng sản Việt Nam thay vì chôn chủ nghĩa tư bản (như Marx-Engels dạy) đã quay ngược lại chôn chính học thuyết cộng sản, bằng cách xây dựng nền kinh tế tự do đa thành phần tư bản chủ nghĩa, đưa nhân dân Việt Nam thoát khỏi chết đói. Theo Marx dạy: kinh tế nào, chính trị ấy, hạ tầng cơ sở kinh tế quyết định thượng tầng kiến trúc chính trị. Nay, kinh tế Việt Nam là tư bản tự do mà chính trị vẫn giữ nền chính trị độc tài xã hội chủ nghĩa là sai quy luật, là không chính danh, là đầu chuột đuôi voi, là ông nói gà bà nói thóc lép, là hồn Trương Ba, da hàng thịt…

Marx–Engels từng công khai tuyên bố trong trước tác của mình: “Chúng tôi không có ý định đoán định tương lai một cách giáo điều mà mong muốn dùng phương pháp phê phán thế giới cũ để tìm được một thế giới mới… Việc kiến tạo và tuyên bố một lần và mãi mãi những giải đáp cho các vấn đề của mai sau không phải là việc của chúng tôi…”. Rõ ràng, chính Marx và Engels đã coi học thuyết của mình chỉ là những giả thuyết, những phép thử, những phỏng định về tương lai, tuyệt nhiên không giáo điều cho lý thuyết của mình là chân lý vĩnh hằng. Những ai đã, đang coi học thuyết Marx là chân lý bất biến là đang chống Marx, là muốn dùng Marx giả, Marx dỏm bịt mắt trí thức và nhân dân để quyết câu giờ giữ quyền lực là không chính danh.

Theo định đề: “Sự thật là tiêu chuẩn của chân lý” của Marx, chúng ta thấy thực tế đã không chấp nhận cuộc thí nghiệm XÓA TƯ HỮU hãi hùng nhất trong lịch sử loài người của Marx-Engels-Lenin với tham vọng “XÓA TƯ HỮU, XÓA CÁ NHÂN, XÓA NHÀ NƯỚC, XÓA MÂU THUẪN, XÓA ĐẢNG CỘNG SẢN, XÓA CÁC GIAI CẤP VÀ ĐẢNG CỦA NÓ, XÓA CHÍNH BIỆN CHỨNG PHÁP ĐỂ XÂY DỰNG MỘT XÃ HỘI CỘNG SẢN ÁO TƯỞNG PHI BIỆN CHỨNG – NƠI KHÔNG CÓ CÁI DỐI TRÁ, KHÔNG CÓ CÁI ÁC ĐỘC VÀ CÁI XẤU XA, NƠI TUYỆT ĐỐI TỰ GIÁC, TUYỆT ĐỐI TỰ DO, TUYỆT ĐỐI GIÀU CÓ, TUYỆT ĐỐI KHÔNG CÓ NGOẠI TÌNH, KHÔNG CÒN HÔN NHÂN, KHÔNG CÒN GIA ĐÌNH KIỂU CŨ, KHÔNG CÒN NGÂN HÀNG, KHÔNG CÒN TIỀN TỆ…”. Đó là một xã hội bịa đặt không có thật: vì không có cái ác thì cái thiện cũng bị triệt tiêu, không có cái ngụy thì cái chân cũng biến mất, không có cái xấu thì cái đẹp cũng chẳng còn…

Một trăm sáu mươi hai năm từ khi “Tuyên ngôn Đảng Cộng sản” của Marx–Engels ra đời đến nay, hàng trăm triệu sinh mạng đã bị giết, hàng tỷ người bị tù đày, bị ngược đãi để “các vị lãnh tụ kính yêu” làm cuộc thí nghiệm đẫm máu cải tạo thế giới từ TƯ HỮU sang CÔNG HỮU, từ TƯ BẢN sang VÔ SẢN, từ CÁ NHÂN sang TẬP THỂ, XÓA QUỐC GIA chỉ còn QUỐC TẾ, XÓA HOÀN TOÀN THẾ GIỚI CŨ, NHÂN LOẠI CŨ chỉ còn MỘT THẾ GIỚI MỚI TINH, NHÂN LOẠI MỚI TINH KHÔNG CÒN TRUYỀN THỐNG, KHÔNG CÒN LỊCH SỬ, KHÔNG CÒN QUÁ KHỨ, KHÔNG CÒN TÔN GIÁO… Chao ôi, khi một con người không còn quá khứ, một dân tộc không còn lịch sử, con người ấy, dân tộc ấy sẽ biến thành tinh tinh, xã hội tinh tinh hay thành những cục bột biết ca hát?… Rút cục, cuộc thí nghiệm cộng sản kinh hồn trên phạm vi toàn thế giới đã hoàn toàn thất bại. Những nước cộng sản cứng đầu nhất như Bắc Triều Tiên, Cuba hiện nay cũng đang rục rịch thí nghiệm mô hình kinh tế tư bản chủ nghĩa, tập tọe học lại những bước đi làm giàu vỡ lòng nhân loại đã có từ trước khi Marx ra đời. Đây là sự thật không thể nào chối cãi, dù cãi cối cãi chày bằng còng số tám hay nhà tù, họng súng v.v.

Cám ơn Marx, đã cho chúng tôi đề bài “Sự thật là tiêu chuẩn của chân lý” để làm một bài tập làm văn về sự thật này. Cám ơn ngài cố Tổng thống nước Ba Lan tự do Lech Kaczynski đã cho chúng tôi ý tưởng rất hay: chỉ có sự thật mới giải phóng con người, làm chủ đề bài tham luận. Chúng tôi cũng xin cám ơn tiêu đề của cuộc hội thảo “Văn học nghệ thuật hướng về sự thật đất nước” của Ban Tuyên giáo Trung ương đã gợi ý, khích lệ chúng tôi dám liều mạng nói lên những sự thật cay đắng nhất, khủng khiếp nhất của đất nước chúng ta hiện nay, những sự thật chết người, ai ai cũng biết mà vì sợ tù tội nên không ai dám nói ra.

Viết đến đây, chúng tôi chợt nhớ đến truyện “Bộ long bào của vị Hoàng đế” của văn hào Andersen. Thằng bé trong thiên truyện đã liều mạng xé toang bộ long bào hoang tưởng của vị Hoàng đế kia bằng cách hét thật to: ông vua cởi truồng! Tiếng kêu thất thanh của chân lý ấy có làm đám đông đang bị quyền lực hôn mê, luôn miệng tung hô vị Hoàng đế mặc bộ long bào đẹp nhất tỉnh ra hay không? Nhưng hình như ngay sau khi gọi sự vật bằng tên của nó, thằng bé do sự thật, do tự do phái đến đã biến mất. Do đó, mới còn biết bao nhiêu ông vua triết học cởi truồng, vua chính trị cởi truồng, vua cách mạng cởi truồng, vua chủ nghĩa cởi truồng… đang đi nhông nhông ngoài xã hội, ngoài phố xá, đã và đang được những đám đông giả vờ cuồng tín hòng trục lợi xúm vào vạn tuế, ca ngợi các ngài khoác những bộ long bào tuyệt vời của trần gian…

Sự thật giản dị nhường ấy, sao bị cả đám đông lờ đi? Mới hay sự cám dỗ của dối trá có bùa ngải quỷ sứ, mê hoặc con người trong bóng tối, trong đe dọa, trong hấp lực của củ cà rốt treo trước miệng con lừa… Sự thật chỉ có thể tồn tại công khai dưới ánh sáng mặt trời. Xã hội của những hội kín vây bủa con người trong lừa mị, trong sợ hãi u u minh minh, luôn xua đuổi và cầm tù sự thật. Chối bỏ sự thật, những xã hội do băng đảng hội kín cầm quyền hầu như không bao giờ đi cùng đường với lẽ phải và công lý.

Chúng tôi không dám làm thằng bé trong thiên truyện kia của Andersen; làm vị thiên sứ của sự thật này, coi chừng khả năng biến mất là điều có thể xảy ra. Hãi quá!

Chúng tôi chỉ xin kể ra ba vị nhà văn Việt Nam hình như cũng đang thử đóng vai trò của thằng bé ấy, vai trò thiên sứ của sự thật, của tự do.

Đây là lời của nhà văn Đỗ Chu bùi ngùi, chua xót, khi ông nói về sự lãnh đạo của Đảng với nhà văn; sao nhà văn giống chú cún con ve vẩy đuôi theo ông chủ trong sân nhà thế: “Tớ yêu Đảng như yêu vợ. Vợ còn sống thì tớ nghe vợ. Vợ chết thì tớ lập bàn thờ khấn vái cho đến chết. Đảng cũng là vợ của tớ. Đảng bẩn thì tớ mua xà phòng cho Đảng tắm. Mua nước hoa cho Đảng thơm. Đảng nói thì không được cãi. Đảng bảo ăn là ăn. Đảng bảo uống là uống. Đảng bảo nằm là nằm. Đảng bảo lên giường là lên giường. Đảng bảo ra đường là ra đường…” (Trích bài “Nhà văn Đỗ Chu yêu Đảng như yêu vợ” của Nguyễn Trọng Tạo ngày 13/7/2010). Về việc này, mới thấy Nguyễn Vĩ xưa thánh thật, khi ông viết: “nhà văn An Nam khổ như chó!”.

Đây là mấy câu thơ của nhà văn, nhà thơ Nguyễn Đình Chính (con trai cố nhà văn Nguyễn Đình Thi, người rất nhiều năm trước và sau 1975 từng làm Tổng Thư ký – ngày nay gọi là Chủ tịch – Hội Nhà văn Việt Nam): “Mấy thằng bạn văn nghệ chửi đổng hát hay / Cổ họng rắn hổ mang trơn tuột liếm mồi trong các HỘI ĐOÀN / hót hít chính trị như chó hít hóng cứt…” (Trích trong bài thơ “Đêm Sài Gòn” in trong tập thơ Chẹc chẹc của Nguyễn Đình Chính, do Tân Hình Thức Publishing Club ấn hành trên mạng 2010).

Đây là nhà văn Đại tá Công an Mai Vũ, trước Đại hội Nhà văn Việt Nam lần thứ VIII, đã lên tiếng đòi tự do sáng tác, mặc dù từ năm 1987, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh đã cởi trói cho các nhà văn:

“Đây là vấn đề nhạy cảm mà không phải ai cũng có dũng khí dám nói thật. Nhằm thiết lập một trật tự xã hội tư duy đồng chiều, chúng ta đã chính trị hóa mọi đời sống xã hội. Điều đó thật tai hại, nó làm khô héo tinh thần dân tộc. Chính trị hóa khoa học đã dẫn đến phủ nhận chân lý khách quan, làm méo mó khoa học. Trong lịch sử Xô Viết trước kia, đã có thời người làm vườn Lưxenkô – Mitsurin được tôn vinh như những nhà cải cách vĩ đại, còn Moocgăng, Menđen là những kẻ phục vụ chủ nghĩa tư bản vì thuyết gen di truyền. Kết quả, nhà di truyền học thiên tài Vavilôp đã phải tự sát, còn nền di truyền học nước Nga thì lụn bại, để lại một vết nhơ đau đớn trong đời sống khoa học xã hội Xô Viết. Đó là vụ ngụy khoa học lớn nhất trong lịch sử nhân loại. Chính trị hóa giáo dục cũng chỉ đẻ ra những chiến binh đánh bom tự sát, chứ không đẻ ra những công dân xây dựng tương lai.
Hội Nhà văn không phải là dàn hợp xướng để hát theo cái gậy chỉ huy của người nhạc trưởng. Nó là lãnh địa của những tư duy và sáng tạo cá nhân, nó là một tổ chức xã hội nghề nghiệp tự nguyện của các nhà văn lấy sứ mạng phục vụ Tổ quốc và nhân dân trên hết.
Nhà văn viết theo mệnh lệnh của trái tim, mà trái tim nhà văn thuộc về Tổ quốc và nhân dân. Anh ta là tội đồ và đáng nguyền rủa nếu thóa mạ Tổ quốc và dân tộc. Còn khuynh hướng chính trị tùy thuộc quyền lựa chọn của mỗi nhà văn. Hãy để con ngựa Văn tung vó trên cánh đồng bát ngát của tự do” (“Về Hội nhà văn của chúng ta” của Mai Vũ, in trên website Trần Nhương ngày 11-7-2010).

Tiếp nối ba nhà văn trên, chúng tôi xin mời quý vị đọc lại bài thơ “Bài ca sự thật” của chúng tôi (Trần Mạnh Hảo) đã in trên báo Tuổi trẻ số Tất niên ngày 24- 01-1987.

BÀI CA SỰ THẬT

Sự thật của tôi
Sự thật của anh
Sự thật của chúng ta
Sự thật của mọi người?

Nhân loại có bao thời
Sự dối trá làm quan tòa phán xử
Bru-nô ơi trái đất vẫn tròn
Mà chân lý nghìn sau còn trả giá

Nhưng đất nước vẫn đi tìm sự thật
Trong câu hát có mồ hôi nước mắt
Có con nghê đá đầu đình cười cợt các triều vua
Có thằng Bờm chẳng tin lời hứa hão
Cái quạt mo không để phú ông lừa
Vua Hùng ơi Người đi tìm sự thật
Bằng cách ngày đầu năm xuống ruộng cày bừa

Bao triều đại xưa đổ vì ưa nói dối
“Muốn nói gian làm quan mà nói”
Sự thật giấu trong nhà dân đen
Sự thật từng vật vờ đi như ăn mày đầu đường xó chợ
Sự thật làm anh hề, chú mõ
Sự thật như nàng Thị Kính oan khiên
Sự thật trốn vào ngụ ngôn, ngạn ngữ sấm truyền
Sự thật có khi mượn Xúy Vân mà giả dại
Sự thật chiếc lá đa bay qua bao thời đại
Bay về đây trời nổi can qua
Con vua thất thế quét chùa sãi ơi!

Vĩnh biệt chú Cuội
Vĩnh biệt thành tích ma, báo cáo láo thành thần
Bệnh hình thức gọi sai tên sự vật
Người đói phải nói lời no
Vị đắng sao lại kêu là mật?
Ngục tù mang nhãn hiệu tự do!

Vĩnh biệt khái niệm quét vôi và từ ngữ nước sơn
Đạo đức dính trên đầu môi chót lưỡi
Vĩnh biệt những bóng ma cơ hội
Những cái đầu già cỗi tự bên trong
Những con mắt nhìn người bằng bóng tối
Có nhận ra tia nắng mới trong lòng?

Tôi là người tập yêu sự thật
Tập nghe nên có lúc ù tai
Tập nhìn nên chói mắt
Đất nước đổi thay
Cơn đau đẻ những dòng sông quằn quại!

Hạt thóc và hạt máu có bao giờ nói dối?
Bốn nghìn năm dân tộc tôi
Đi từ bờ bên kia
Đến bờ bên này của sự thật
Để mỗi con người hôm nay trên mặt đất
Được cầm trong tay một tia nắng mặt trời…

Sài Gòn ngày 15-1-1987
Trần Mạnh Hảo

_____________

Để kết thúc bản tham luận, xin kính mời quý vị cùng chúng tôi hô 3 khẩu hiệu sau:

Khẩu hiệu một:

KHÔNG CÓ SỰ THẬT, KHÔNG CÓ LẼ PHẢI VÀ CHÂN LÝ
(xin hô ba lần: không có, không có, không có)

Khẩu hiệu hai:

CHỈ CÓ SỰ THẬT MỚI GIẢI PHÓNG CON NGƯỜI

(xin hô ba lần: chỉ có, chỉ có, chỉ có)

Khẩu hiệu thứ ba:

SỰ THẬT LÀ TIÊU CHUẨN CỦA CHÂN LÝ

(xin hô ba lần: tiêu chuẩn, tiêu chuẩn, tiêu chuẩn)

Xin cám ơn quý vị.

Viết tại Sài Gòn 26-07-2010

TMH

Nguồn: http://nguyentrongtao.org/tr%E1%BA%A7n-m%E1%BA%A1nh-h%E1%BA%A3o-ch%E1%BB%89-co-s%E1%BB%B1-th%E1%BA%ADt.xml

(*) Chỗ này TMH tính nhầm: với dân số Việt Nam mới chỉ trên 85 triệu dân, vị chi mỗi người dân vừa bị Tập đoàn quốc doanh Vinashin cướp đi gần 1.000.000 đ. Một gia đình nông dân có bốn nhân khẩu chẳng hạn, bị Vinashin cướp đi 4.000.000 đ (BVN chú thích).

(**) Có lẽ là chuyện vui (BVN chú thích).