Thứ Sáu, 27 tháng 9, 2013

Chuyện kì lạ về những “hồn ma của người đang sống”


Doppelganger là thuật ngữ dùng để chỉ "con ma của một người vẫn đang còn sống". Dù nhiều người cho rằng đó chỉ là ảo giác, lịch sử đã ghi lại một số câu chuyện đáng sợ về các Doppelganger này...
Truyền thuyết kể lại rằng, doppelganger là một bản sao huyền bí của một người vẫn đang còn sống. Những hồn ma này có thể xuất hiện dưới nhiều hình thức: Bạn có thể thấy chúng hiện ra trước mắt, gặp chúng trên một con đường hiu quạnh nào đó, hoặc đáng sợ hơn là đôi lúc bạn có thể bắt gặp những hồn ma này đang đứng phía sau mình khi nhìn vào gương. Đôi lúc một người không thể thấy được doppelganger của chính mình, nhưng những người khác có thể thấy được nó tại một địa điểm hoàn toàn khác.
Có khá nhiều cách giải thích cho hiện tượng hồn ma của một người đang sống này. Câu chuyện xuyên suốt mọi thời đại đều cho rằng doppelganger là những thực thể siêu nhiên, bản sao linh hồn của một người, hoặc là anh/chị/em song sinh ma quỷ của người đó. Mặt khác, theo các nhà khoa học, những hồn ma này đơn thuần chỉ là do một số trục trặc trong điện não, hoặc là bệnh thần kinh như bệnh tâm thần phân liệt. Tuy nhiên, dù được giải thích theo cách nào đi chăng nữa, có hai điều có thể chắc chắn về doppelganger: (1) chúng thường mang đến điềm xấu, (2) rất nhiều nhân vật tiếng tăm trong lịch sử đều đã bị chính doppelganger của mình ám ảnh.

Johann Wolfgang von Goethe

Chuyện kì lạ về những “hồn ma của người đang sống”
Johann Wolfgang von Goethe (1749-1832) là một đại thi hào văn học, và là chính trị gia nổi tiếng của Đức
Một ngày nọ, sau khi chia tay với một cô gái có tên Frederika, Goethe buồn bã cưỡi ngựa đi trên một con đường đi bộ. Bất chợt ông nhìn thấy một người bí ẩn đang cưỡi ngựa tiến về phía mình. Người đó không ai khác chính là Goethe nhưng lại mang trang phục hoàn toàn khác. Hình ảnh này biến mất ngay sau đó và Goethe nhanh chóng quên về nó.
8 năm sau, Goethe lại cưỡi ngựa trên con đường đi bộ năm xưa theo hướng ngược lại (cũng để gặp lại Frederika). Và đó cũng là lúc ông nhận ra rằng mình đang mang trang phục y hệt của “người giống mình” mà ông đã thấy 8 năm trước.
Đây không phải là lần duy nhất Goethe nhìn thấy một doppelganger. Có lần, ông bắt gặp một người bạn, Friedrich, đi dạo trên phố và mang áo choàng của ông. Ông về nhà ngay sau đó và thấy Friedrich đang ở nhà mình và mang cái áo choàng y hệt những gì ông đã thấy trên đường phố. Người bạn này đã bị dính mưa và vào để mượn áo của Goethe.

Catherine Đại đế

Chuyện kì lạ về những “hồn ma của người đang sống”
Catherine Đại đế là vị nữ hoàng đầy quyền lực và là một nhân vật nguy hiểm của Nga vào thế kỉ 18. Bà không hề sợ sệt trước những chuyện như việc nhìn thấy doppelganger của mình tiếp quản vương miện.
Truyện kể lại rằng, một đêm, nữ hoàng Catherine đang nằm nghỉ thì 2 cô hầu gái bảo rằng họ vừa mới trông thấy bà vào phòng thiết triều. Bà đã đến điều tra sự việc ngay sau đó, và bắt gặp chính mình đang điềm tĩnh ngồi trên ngai vàng. Nữ hoàng ngay lập tức lệnh cho lính gác bắn “hồn ma” này. Không ai nhắc đến gì đến chuyện doppelganger của nữ hoàng Catherine có bị ảnh hưởng bởi viên đạn đó không; nhưng vị nữ hoàng này đã qua đời một thời gian không lâu sau đó.

Percy Bysshe Shelley

Chuyện kì lạ về những “hồn ma của người đang sống”
Percy Bysshe Shelley là một nhà thơ sáng giá, nhưng thường được nhớ đến với tư cách là chồng của Mary Shelley (tác giả cuốn tiểu thuyết Frankenstein). Mặc dù Marry Shelly, tác giả của những tiểu thuyết kinh dị, thường được cho là đã nhìn thấy ma quỷ, nhưng chính Percy mới là người đã chứng kiến được những doppelganger.
Một thời gian không lâu trước khi bị chết đuối trong một vụ tai nạn hàng hải năm 1812, Percy đã thừa nhận với vợ rằng ông đã rất nhiều lần nhìn thấy hồn ma của mình. Một trong những trải nghiệm ám ảnh này là lúc Percy bước lên thềm và được doppelganger của mình chào đón và hỏi: “Ông định mãn nguyện như thế này trong bao lâu nữa?”
Hồn ma của Percy cũng được một người bạn thân – Jane Williams – nhìn thấy khi đang đi qua cửa sổ phòng cô (con đường mà Percy thật thường đi) và đến mỗi ngõ cụt, nhưng không bao giờ thấy quay trở lại.

Nữ hoàng Elizabeth I

Chuyện kì lạ về những “hồn ma của người đang sống”
Nữ hoàng Elizabeth I (trị vì Anh Quốc từ năm 1558-1603) nổi tiếng là một nữ quốc vương am tường, bình tĩnh và có uy tín. Bà là người chẳng bao giờ muốn dính líu với những hiện tượng siêu nhiên. Tuy nhiên, Nữ hoàng Elizabeth I đã nhìn thấy doppelganger của mình nằm bất động trên giường y hệt một thi hài. Và điều này đã trở thành một nổi ám ảnh lớn vì nó mang đến dấu hiệu của tử thần. Tuy nhiên, điều này cũng có thể chỉ là do một trục trặc tạm thời của điện não, nếu không vì một thực tế rằng Nữ hoàng Elizabeth I đã mất không lâu sau khi nhìn thấy doppelganger của mình.

Abraham Lincoln

Chuyện kì lạ về những “hồn ma của người đang sống”
Một đêm sau cuộc tuyển cử đầu tiên của mình, trong khi đang nằm nghỉ trên giường, tổng thống Abraham Lincoln bất chợt liếc qua gương và nhìn thấy khuôn mặt mình. Có điều, trong gương ông có đến 2 khuôn mặt. Một Lincoln nhợt nhạt và ma quái đặt cạnh khuôn mặt thật đang nhìn vào ông từ trong gương. Ngài tổng thống bật dậy khỏi giường và doppelganger biến mất; nhưng khi ông nằm xuống, hồn ma này lại xuất hiện.
Bà Mary vợ ngài sợ rằng doppelganger này sẽ mang lại điều không may cho cuộc tái bầu cử của ông. Tổng thống Lincoln sau đó quyết định nhìn kỹ vào hồn ma của mình một lần nữa, nhưng kể từ đó nó không xuất hiện lại. Có lẽ bởi vì nó đã chuyển được thông điệp của mình, bởi tổng thống Arabham Lincoln đã thất bại trong nhiệm kì thứ 2 của ông.

Guy de Maupassant

Chuyện kì lạ về những “hồn ma của người đang sống”
Nhà văn pháp Guy de Maupassant nổi tiếng với những trải nghiệm khá thân mật với hồn ma của mình. Doppelganger này không chỉ nói chuyện mà còn kể cho nhà văn một câu chuyện; và Maupassant đã thừa nhận một trong những câu chuyện cuối đời của ông thực chất được viết bởi hồn ma của mình.
Câu chuyện “The Horla” nhà văn này được kể là một câu chuyện não nề, về lương tri một người dần bị linh hồn quỷ dư ăn mòn và xem người này là “vật chủ”. Và kể từ đó, sức khỏe tinh thần của Maupassant bắt đầu trở nên suy sụp.
Trở lại vài tháng sau khi biến mất, doppelganger này bước vào phòng của Maupassant, nhìn ông với khuôn mặt buồn bã và tuyệt vọng . Một năm sau đó, nhà văn này qua đời trong một bệnh viện tâm thần.

Emilie Sagee

Chuyện kì lạ về những “hồn ma của người đang sống”
Emilie Sagee từng làm việc tại một trường nữ sinh. Là một giáo viên tốt nhưng vì một lý do nào đó mà Emilie luôn đổi việc. Chỉ trong vòng 16 năm, cô đã phải nhảy việc đến 19 lần.
Năm 1845, phía nhà trường mới bắt đầu phát hiện được lý do cho sự kì lạ này. 13 học sinh đã chứng kiến hồn ma của Emilie đứng cạnh cô trong suốt buổi học và phản chiếu lại những bước đi của cô. Lần sau, bóng ma này lại đứng phía sau khi cô đang ăn, và cô không hề hay biết về sự xuất hiện này mặc dù tất cả mọi người đều có thể nhìn thấy nó rất rõ ràng. Tuy nhiên, mỗi lần hồn ma này xuất hiện, Emilie đều trông mệt mỏi và không có sức lực.
Có lần, doppelganger của Emilie xuất hiện trong lớp học và ngồi điềm tĩnh trên ghế trong khi chính Emilie thật vẫn đang làm vườn. Một vài người liều tiến lại gần bóng ma này, nhưng lại phát hiện họ có thể đi xuyên qua nó.
Theo thời gian, bóng ma Emilie đã trở nên khá quen thuộc trong cuộc sống nhà trường, tuy nhiên, nó vẫn khiến nhiều người hoảng sợ. Chính vì vậy, phụ huynh học sinh quyết định chuyển trường cho con mình. Và mặc dù luôn là một giáo viên gương mẫu, hiệu trưởng nhà trường buộc phải sa thải Emilie và hồn ma của cô./.

Thứ Năm, 19 tháng 9, 2013

Không bỏ được bà nào

Không bỏ được bà nào


Có ông lấy phải  bà vợ hư , chuyên môn ăn cắp vặt của hàng xóm. Mọi người khuyên ông nên bỏ đi, ông cũng quyết tâm bỏ vợ-” Nếu không bỏ tôi xấu hổ lắm”, ông nói. Chẳng dè vợ không bỏ được mà ông còn lấy thêm vợ hai.
Bà hai vừa ăn cắp vặt vừa hủ hóa tùm lum, ai cũng chê cười. Mọi người khuyên ông nên bỏ đi, ông cũng quyết tâm bỏ vợ- ” Nếu không bỏ tôi làm con chó”, ông nói. Nhưng ông cũng không bỏ bà vợ hai mà còn lấy thêm bà vợ ba.
Bà vợ ba hư đốn nghiêm trọng hơn, vừa ăn cắp vặt vừa hủ hóa vừa chửi lộn suốt ngày với hàng xóm.Mọi người khuyên ông nên bỏ đi, ông cũng quyết tâm bỏ vợ-” Nếu không bỏ tôi chết quách cho xong”, ông nói. Rốt cuộc vợ ba không bỏ được, ông còn lấy thêm vợ thứ tư.
Đến lúc này mọi người không còn chịu được nữa, xúm lại đấu ông. Ông mếu máo nói khổ thân tôi, đâu phải tôi không muốn bỏ, tôi quyết tâm lắm chứ. Nhưng đụng đến bà nào nó cũng cãi, nói tôi theo anh từng này năm, tại anh chọn tôi làm vợ  chứ tôi  không chạy chọt xin xỏ anh. Việc gì anh giao tôi cũng không thoái thác, bảo tụt quần tôi tụt quần, bảo chổng mông tôi chổng mông, anh còn muốn gì nữa? Tôi sẽ sống với anh như đã sống với anh, đố anh đuổi tôi ra khỏi nhà được đấy.
Nói xong anh khóc òa, nói bà con bảo tôi phải làm thế nào. Mọi người chịu chẳng biết làm thế nào.
Bỗng ông Bụt hiện ra, nói  sao con không nói với vợ con rằng các bà làm vợ thì ổn nhưng làm người thì không xong, ai là vợ tôi kẻ đó trước hết phải là người. Anh lại khóc ầm lên, nói Bụt ơi con nói thế chúng nó xé xác con ra. Bụt cười, nói thế thì để ta sẽ giúp con thực hiện được lời hứa, hoặc con chết ngay tức thì hoặc con biến thành con chó. Tự  con chọn lấy.
Anh ta hoảng lên, nói bẩm Bụt tha cho con, con bỏ vợ ngay đây, bỏ vợ ngay đây. Trong ngày hôm đó, anh ta bỏ được cả ba bà vợ hư.
Chuyện cổ tích đến đây là hết, he he
Nguyễn Quang Lập
LỜI BÀN : 

Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng kiên quyết không từ chức


Đào Tuấn
Trước phiên chất vấn được truyền hình trực tiếp, ĐBQH Dương Trung Quốc đã chất vấn Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng: Toàn dân chứng kiến các nhà lãnh đạo cao nhất của Đảng xin nhận kỷ luật, công khai nói lời xin lỗi nhân dân. Nhưng tại phiên khai mạc, Thủ tướng chỉ nhận trách nhiệm chính trị. Dường như Thủ tướng xem nhẹ trách nhiệm trước dân hơn trước Đảng. Thủ tướng có định “Đoạn tuyệt với những lời xin lỗi bằng văn hóa từ chức?”. Nhà sử học dẫn trường hợp một đồng chí tổng bí thư “đã từ chức để tiếp tục phấn đấu và sau 3 thập kỷ đã trở lại làm Tổng bí thư kịp thời với cuộc đổi mới của đất nước”. Ông cũng nói: “Cáo quan hồi hương là 1 cách giữ tiết tháo”. Thủ tướng “Sẽ khởi đầu cho sự tiến bộ của Chính phủ bằng văn hóa từ chức?”.
Thủ tướng đã trả lời thẳng vào câu hỏi, nguyên văn:
“Đối với tôi, còn 3 ngày nữa tròn 51 năm theo Đảng hoạt động cách mạng. 51 năm qua, tôi không xin với Đảng cho tôi đảm nhiệm chức vụ này hay khác. Tôi cũng không từ chối, thoái thác bất cứ nhiệm vụ gì Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó. Là 1 cán bộ, đảng viên, tôi đã nghiêm túc báo cáo đầy đủ với Đảng về bản thân mình. Đảng, Bộ Chính trị, BCH TƯ đã hiểu rõ về tôi, cả ưu điểm, khuyết điểm, cả phẩm chất đạo đức, năng lực, sức khỏe, thương tật. Đảng ta cầm quyền, lãnh đạo NN, đã phân công tôi tiếp tục làm nhiệm vụ Thủ tướng. QH cũng đã bỏ phiếu bầu tôi là Thủ tướng. Tôi sẵn sàng chấp hành nghiêm túc mọi quyết định của Đảng. Tóm lại là gần suốt cả cuộc đời theo Đảng, tôi không có chạy, không có xin, không có thoái thác từ chối nhiệm vụ gì mà Đảng, Nhà nước phân công. Tôi sẽ tiếp tục nghiêm túc thực hiện như tôi đã làm như 51 năm qua.”
 Ơ HƠ , LÂU NAY TUI LÀM LÃNH ĐẠO MÀ ĐÂU THẤY AI NÓI PHẢI CHỊU TRÁCH NHIỆM GÌ ĐÂU...
VẬY THÌ TỪ NAY VỀ SAU CŨNG VẬY , TUI CŨNG SẼ TIẾP TỤC LÀM LÃNH ĐẠO , CŨNG VẬY THÔI , TUI CŨNG SẼ NHƯ CÁC ĐỒNG CHÍ TRƯỚC TUI, TUI CŨNG SẼ CHỊU TRÁCH NHIỆM CHÍNH TRỊ NẾU MÀ BÀ CON PHÀN NÀN QUÁ SÁ, VẬY THÔI ... CÒN CỤ THỂ CHỊU TRÁCH NHIỆM CÁI GÌ THÌ ... LÂU NAY ĐÂU CÓ ĐÂU, TUI ĐỐ THẰNG NÀO ĐỦ SẠCH ĐỂ XỬ TUI ĐÓ , MỖI THẰNG TƯỚNG CA TUI KÝ QUYẾT ĐỊNH ĐỀU PHẢI NẮM HỒ SƠ CỦA VÀI THẰNG TỪ TỈNH ỦY VIÊN TRỞ LÊN CHO TUI, VẬY ĐỨA NÀO NGON CHƠI TAY ĐÔI ĐI, TUI ĐƯA HẾT LÊN MẠNG INTERNET LIỀN , DÁM NGON CHƠI  KHÔNG ?
À MÀ CHO TUI HỎI MỘT CHÚT : CÓ AI BIẾT TIẾT THÁO LÀ CÁI GÌ CHỈ CHO THỦ TƯỚNG TUI VỚI .TUI KHÔNG BIẾT NÓ LÀ CÁI GÌ, LÂU NAY CỨ TƯỞNG NÓ LÀ TIẾT CANH ...
 

Thứ Tư, 18 tháng 9, 2013

Đảng và Nhân dân – Vị thế bị tráo

18/09/2013


con xưng bố của ba
ấy là nhà vô phúc
"Đảng… vĩ đại… tài tình… sáng suốt… lãnh đạo Nhân dân… giáo dục Nhân dân…"
Nói mãi, nghe mãi thành quen, nên bao người coi đó là chân lý. Hễ nghe nói khác, lại cho là nghịch nhĩ.
Điệp khúc ngân vang hơn nửa thế kỷ, khiến giới cầm quyền càng thêm tin rằng quyền lãnh đạo của họ là một thứ đương nhiên – như thể được Tạo hóa ban cho; là một vị thế độc tôn – có thể thừa kế nội bộ từ thế hệ này sang thế hệ khác, theo kiểu "cha truyền con nối" như thời vua chúa phong kiến. Dưới con mắt cường quyền, Nhân dân hiện ra như bầy cừu chỉ có khả năng biểu cảm bằng tiếng "be be", suốt đời cần được bề trên "chăn dắt"; hay như đám học trò thiểu năng, "giáo dục" suốt mấy chục năm mà vẫn không khá lên được, thành thử mãi vẫn chưa đủ tầm dân trí, để xứng đáng hưởng những quyền tự do dân chủ, mà thế giới vẫn coi là quyền tối thiểu…
Điệp khúc ru ngủ đó cũng gia tăng tư duy nô lệ trong Nhân dân, khiến hàng triệu người an phận, cam chịu mọi điều phi lý. Nhiều người còn bị lòa đến mức không nhận diện nổi ân nhân đích thực: Rõ ràng là bản thân đang nhận quà từ thiện của đồng bào, mà chỉ biết đáp lại bằng câu "ơn đảng ơn chính phủ".
Một trạng thái xã hội tê liệt, bị đè nén bởi sự lộng hành trong ngộ nhận từ phía thống trị, và bị thôi miên trong cơn u mê ở bên bị trị. Hậu quả tai hại đến mức ta nên dành thời gian để trao đổi cho rõ ngọn ngành.
Trước khi đi vào chi tiết, cần giải thích một chút để người đọc khỏi cho rằng người viết tùy tiện về chính tả. Trong chế độ độc đảng, nhiều khi chỉ cần nhắc một chữ "đảng" cũng đủ để hiểu là Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN), nên có thể tạm chấp nhận cách viết tắt như vậy. Bấy lâu nay, thông lệ chính thống là viết hoa chữ "Đảng". Tại sao? Theo quy tắc ngữ pháp thì phải viết hoa danh từ riêng. Nhưng từ "đảng" (đơn lẻ) không phải là danh từ riêng. Ngược lại, nó là một danh từ chung của tiếng Việt, dùng để chỉ một đảng bất kỳ trong số nhiều đảng khác nhau đã và sẽ tồn tại. Nếu chiếm dụng từ "đảng" để dành riêng cho ĐCSVN, thì có thể coi là "tham nhũng tiếng Việt" với động cơ tư lợi. Đó không chỉ là ẩu về mặt ngôn ngữ, mà còn tùy tiện về tư duy, vô tình hay hữu ý cho rằng: Ở Việt Nam thì hiển nhiên chỉ có thể tồn tại một đảng duy nhất. Nếu không tán thành với quan điểm "độc tồn" ấy thì không nhất thiết phải tòng phạm trong việc "đảng hữu hóa" từ "đảng" – cái thực sự thuộc "sở hữu toàn dân".
Hiến định thần thánh
Trong Lời nói đầu của Hiến pháp Việt Nam 1992, tiếp theo phần sử ca "từ ngày có đảng" là đoạn sau đây:
"Hiến pháp này quy định chế độ chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, cơ cấu, nguyên tắc tổ chức và hoạt động của các cơ quan Nhà nước, thể chế hoá mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, Nhà nước quản lý."
Tức một trong những mục đích chính của Hiến pháp nàythể chế hoá sự lãnh đạo của ĐCSVN đối với Nhân dân và Nhà nước. Qua đó, vị trí trên – dưới trong mối quan hệ "thần thánh" của ĐCSVN đối với Nhân dân và Nhà nước cũng được hiến định. Dẫu phía "thần dân" được gán cho nhãn hiệu "Nhân dân làm chủ", nhưng thực tế đã quá đủ để chỉ ra rằng: Đó là một trong những thuật ngữ chính trị giả tạo và trớ trêu nhất trong lịch sử tư duy Dân tộc. Cái hư danh "làm chủ" không hóa trang nổi thân phận bị trị.
Để bảo vệ quyền tự do tư tưởng và tự do tín ngưỡng, Hiến pháp Hợp chúng quốc Hoa kỳ quy định:
"Quốc hội không được ban hành luật nhằm thiết lập quốc đạo hoặc ngăn cấm tự do tín ngưỡng, hay hạn chế tự do ngôn luận, hoặc tự do báo chí, hoặc quyền của Nhân dân về hội họp ôn hòa và kiến nghị Chính phủ sửa chữa những điều gây bất bình." (Tu chính án I)
Còn Hiến pháp Việt Nam thì ngược lại: Thiết lập "quốc đạo" thông qua hiến định "quốc kinh":
"Dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, nhân dân Việt Nam nguyện đoàn kết một lòng, … thực hiện đường lối…" (Đoạn cuối của Lời nói đầu Hiến pháp 1992)
Vậy là toàn thể Nhân dân Việt Nam buộc phải theo chủ nghĩa ấy, tư tưởng ấy và cương lĩnh ấy, dù những thứ ấy mới hình thành và luôn biến dạng theo năm tháng, chứ không nhất quán và ổn định lâu đời như kinh thánh của các dòng đạo truyền thống. Ai không muốn cũng phải chấp nhận, "không được phép nảy sinh lòng khác" – Y chang nét đặc trưng của một số tôn giáo: "Các ngươi không được thờ các thần khác!" Chỉ chênh lệch "chút xíu" là: Người theo đạo thông thường được quyền lựa chọn, còn "đạo đảng" thì toàn thể Nhân dân Việt Nam buộc phải theo. Cái thông điệp "không được chệch hướng" mang tính "tối hậu thư" được ẩn chứa trong thuật ngữ mĩ miều nồng hương đạo đức, ấy là "đoàn kết một lòng", tất nhiên là "dưới ánh sáng" ấy để "thực hiện Cương lĩnh" "thực hiện đường lối" của ĐCSVN. Sự độc tài cũng dậy mùi từ chữ "nguyện" – vốn được dùng để mô tả ý chí của người tự do. Than ôi, kể cả ý nguyện của Nhân dân cũng do "đảng định". Họ không thèm hỏi ý kiến của toàn Dân, thậm chí cố tình lờ đi hay bóp méo ý nguyện của Nhân dân, rồi độc quyền áp đặt cho Nhân dân cái ý nguyện "đảng tạo", thông qua thủ thuật hiến định… Chỉ riêng điều đó cũng đủ để khắc họa trạng thái "tự do" của cộng đồng Nhân dân mang hư danh "làm chủ".
So với nhiều hiến pháp khác, như Hiến pháp MỹHiến pháp Đức, thì Hiến pháp Việt Nam 1992 quy định thêm nhiều thứ, ví dụ như "Chế độ kinh tế" "Văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ". Tại sao như vậy? Đơn giản là: Hiến pháp 1992không thể hiện ý nguyện của Nhân dân Việt Nam, mà nhằm "thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội" của ĐCSVN, như đã viết trong Lời nói đầu của Hiến pháp. "Chủ nghĩa xã hội" là gì? Trong số những người thường rao giảng về nó, phần thì thao thao bất tuyệt về những điều mà bản thân không hề hiểu, phần khác cũng biết là nó dở, nhưng vẫn "bán hàng giả" nhằm "vinh thân phì gia". Ấy vậy mà nhà cầm quyền lại áp đặt trong Hiến pháp 1992 rằng:
"Điều 31  Nhà nước … giáo dục ý thức công dânyêu chế độ xã hội chủ nghĩa…"
Đỉnh cao huyền bí của Hiến pháp 1992 là:
"Điều 4 Đảng cộng sản Việt Nam, … theo chủ nghĩa Mác - Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là lực lượnglãnh đạo Nhà nước và xã hội…"
Huyền bí bởi hiến định cho ĐCSVN một vị thế "thần thánh". "Thần thánh" không chỉ ở xuất xứ khó hiểu, mà còn ở chỗ quyền lực tối thượng được áp đặt đương nhiên và vĩnh viễn lên cả Dân tộc Việt Nam, bất luận "thần thánh" có tử tế và tài năng hay không.
Với Điều 4, Nhân dân bị mất quyền tự do tư tưởng, quyền tự lựa chọn con đường mình đi. Cũng không còn quyền cử ra những người thay mặt mình điều hành, quản lý đất nước và xã hội, tức là mất cả quyền tự do bầu cử, ứng cử một cách thực chất.
Tuy Điều 4 Hiến pháp 1992 không quy định ĐCSVN là lực lượng lãnh đạo duy nhất, càng không quy định ĐCSVN là đảng duy nhất được phép tồn tại, nhưng trên thực tế, nó bị lạm dụng để cấm đoán các đảng phái khác hình thành và hoạt động, nghĩa là tước đi cả quyền tự do lập hội được quy định tại Điều 69 Hiến pháp 1992.
Việc hiến định quyền "lãnh đạo Nhà nước, lãnh đạo xã hội" của ĐCSVN đã xảy ra trong Hiến pháp 1980, theo khuôn mẫu của Điều 6 trong Hiến pháp Liên Xô 1977. Tuy nhiên, về bản chất thì có lẽ vai trò của việc hiến định ấy trong Hiến pháp 1980 khác hẳn so với trong Hiến pháp 1992Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992.
Vào năm 1980, sau khi dành thắng lợi trong bốn cuộc chiến tranh ác liệt, lãnh đạo ĐCSVN rất tự tin, cảm thấy quyền "lãnh đạo Nhà nước và xã hội" của mình là đương nhiên, không phải bàn cãi. Việc ghi quyền lãnh đạo ấy vào Hiến pháp có lẽ nhằm ca ngợi đảng. Tính hùng ca tràn đầy trong Hiến pháp 1980, đến mức "hiến định" cả độ tuổi "bốn nghìn năm lịch sử"của Dân tộc Việt Nam, rồi dùng hơn nghìn chữ để ngợi ca sự nghiệp của ĐCSVN, đặc biệt là các thành tựu trong bốn cuộc chiến tranh, và kể tội kẻ thù. Thậm chí, còn "hiến định" cả "kẻ thù truyền kiếp". Hơn nữa, còn trích cả một đoạn dài 205 chữ từ "Nghị quyết của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của ĐCSVN" để trình bày đường lối mà Đại hội đã đề ra. Trong không khí đó, có lẽ lãnh đạo thuở ấy của ĐCSVN không có nhu cầu bức thiết là phải hiến định quyền lãnh đạo của đảng để rồi bấu víu.
Với Hiến pháp 1992 thì ngược lại, nó ra đời trong hoàn cảnh nền kinh tế đất nước trải qua một thời kỳ kiệt quệ kéo dài, uy tín của ĐCSVN bị giảm sút nghiêm trọng, trong lúc Liên Xô và phe xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu đã đồng loạt sụp đổ, khiến đảng mất chỗ dựa quốc tế, kể cả về tinh thần lẫn vật chất. Trước tình hình nguy kịch ấy, Điều 4 của Hiến pháp 1992 không còn là vòng nguyệt quế ngợi ca đảng và chế độ, mà được giới cầm quyền tận dụng như cái phao cứu sinh, để bám giữ vị thế lãnh đạo trước nguy cơ bị đợt sóng thần lịch sử nhấn chìm, và dùng nó làm cái gông pháp lý để chụp lên cổ những ai dám lên tiếng phủ nhận quyền lãnh đạo của ĐCSVN. Một điều hiến định với mục đích như vậy có chính đáng hay không?
Nếu cho rằng đảng mình không còn đủ uy tín để được đa số Nhân dân chấp nhận trao quyền lãnh đạo, nên đành lạm dụng Hiến pháp làm vũ khí pháp lý nhằm bám giữ quyền lực, thì có tử tế và vinh quang hay không?
Ngược lại, nếu tin tưởng rằng đảng mình vẫn được đa số Nhân dân tín nhiệm trao quyền lãnh đạo, thì việc gì phải cố ghi bằng được vào Hiến pháp những điều phi lý không cần thiết cho thêm tai tiếng?
Hiện thân thần thánh
ĐCSVN là gì mà được hiến định một quyền lực siêu phàm như vậy? Tố Hữu, nhà thơ đầu đàn của ĐCSVN và từng tham gia bộ sậu lãnh đạo tối cao của chế độ, đã mô tả rằng:
Hình ảnh đó nó lên điều gì? Có người nhìn nhận đảng như một cơ thể thống nhất, bình luận rằng "trăm tay nghìn mắt" thì là quái vật. Người khác quan niệm đảng là một tập thể của nhiều cá thể, thì lý giải rằng trong đảng cứ 50 người làm (trăm tay) thì có 500 người nhòm ngó (nghìn mắt) để phán và phá, thành thử làm gì cũng khó. Lại có ý kiến cho rằng "da sắt xương đồng" thì là bất động vật, một thứ vô hồn. Chắc hẳn cả ba ý đó không phải là điều mà Tố Hữu muốn nói. Hai câu thơ của ông thể hiện một thủ pháp truyền thống, được áp dụng suốt mấy chục năm qua để đề cao đảng. Đó là: Làm lạ hóa, trừu tượng hóa để tuyệt đối hóa đảng, nhằm có được một hình tượng cực kỳ siêu phàm, vô cùng sáng suốt và tài giỏi toàn năng. Từ đó mà thuyết phục hay bắt buộc muôn dân ngoan ngoãn đi theo, một lòng tuân thủ sự điều khiển và sai khiến của lãnh đạo đảng.
Có điều ngộ nghĩnh là những người đứng đầu đảng rất hay ca ngợi đảng, mà hóa ra là ca ngợi chính mình. "Đảng vĩ đại" phải chọn mình làm "đầu đảng", thì mình vĩ đại biết nhường nào? "Đảng tài tình sáng suốt", mà chính mình là người quyết định đảng "nghĩ gì nói gì làm gì", thì có nghĩa là mình tài tình sáng suốt, chứ còn ai? Vì chẳng mấy ai ngờ rằng họ đang tự khen bản thân, nên không ai chê là tự phụ, mà ngược lại còn khen là họ khiêm tốn. Đó là một ví dụ về hiệu quả diệu kỳ của phương pháp "lạ hóa", không những có thể biến không thành , mà còn có thể biết âm thành dương, biến xấu thành tốt.
Đảng linh thiêng nhờ ẩn khuất siêu hình. Song trên thực tế đảng chỉ có thể hiện thân vào những cá thể bằng xương, bằng thịt. Dù lãnh đạo cấp nào thì cũng thấm đẫm trong mình những cái sang hèn, tốt xấu của trần gian.
Nhiều vị khi đi học thì lạch bạch dưới trung bình, lớp nào cũng phải nương tựa bạn bè. Lý lịch thuộc diện ưu tiên, song vẫn không vào thẳng được đại học, mà phải vòng qua lối "cử tuyển", "liên thông", "tại chức" hay "từ xa". Đã hạ chất lượng đến tột cùng, mà nhiều "đại nhân" vẫn phải cậy người học hộ, thi hộ. Ấy vậy mà nhờ "sự phân công của đảng" cũng leo lên được ghế lãnh đạo, rồi cho mình cái quyền sai khiến muôn dân, lên mặt dạy bảo cả những bậc thầy. Cứ như thể đảng là một thứ hồn, thiêng đến mức chỉ cần nhập vào hạng yếu bóng vía cũng khiến kẻ ngây ngô có thể phát ngôn ra những chân lý cao siêu của thế giới xa lạ.
Đảng lãnh đạo thông qua chủ trương, đường lối, chính sách và mệnh lệnh. Tất cả những thứ đó đều là sản phẩm của những con người cụ thể. Không phải của toàn thể mấy triệu đảng viên, cũng không phải của mấy vạn đảng viên cốt cán, mà của rất rất ít "siêu đảng viên". Đó là mười mấy vị trong Bộ Chính trị, mà thường thì tập thể ấy cũng bị chi phối bởi chỉ mấy người. Hãn hữu, quyền lực bao trùm thiên hạ được mở rộng ra vòng Ban Chấp hành Trung ương Đảng với khoảng hai trăm ủy viên. Về lý thuyết thì Ban Chấp hành Trung ương và Đại hội đại biểu đảng toàn quốc có tiếng nói quyết định trong việc hoạch định chủ trương và đường lối của ĐCSVN. Nhưng Ban Chấp hành Trung ương thì do Đại hội đảng bầu ra, mà thành phần cốt cán tham gia Đại hội đảng lại do Bộ Chính trị của khóa trước lựa chọn. Và nói chung, cả hai thành phần ấy thường tỏ ra rất biết thân biết phận, nên chẳng mấy khi dám làm trái ý lãnh đạo tối cao.
Vậy là số phận của gần trăm triệu người hiện sống trên đất Việt, thậm chí cả số phận của những thế hệ mai sau, được đặt vào tay một số "siêu nhân". Câu hỏi tự nhiên là: Những "siêu nhân" đó có xứng đáng được trao trọng trách to lớn như vậy hay không? Bạn hãy rút thăm chọn ngẫu nhiên vài vị trên "thiên đình", rồi thử trả lời câu hỏi này xem sao!
Thực tình tôi không muốn và cũng chẳng thích nêu đích danh ai, nhưng để trả lời câu hỏi "có xứng đáng được trao trọng trách to lớn như vậy hay không" thì không thể ca ngợi hay quy kết chung chung, mà phải căn cứ vào con người cụ thể. Phòng trường hợp nhóm đương nhiệm chưa kịp thể hiện hết mình, thì chọn nhóm tiền nhiệm vậy.
Xin thứ lỗi là không thể tránh chọn ông, bởi suốt ba mươi năm qua không ai án ngữ chính trường lâu bằng ông. Chín năm làm Chủ tịch Quốc hội. Mười năm làm Tổng bí thư ĐCSVN. Trong thời gian ấy, ngoài những công việc sự vụ như ngồi bấm giờ điều hành các cuộc họp, hay đi thăm viếng đó đây, thì ông làm được những gì? Việc gì có thể tính là công? Việc gì phải coi là tội? Bao nhiêu quyết định sai lầm trầm trọng, bao nhiêu vụ tham nhũng tày trời đã xảy ra khi ông nắm giữ quyền lực tối cao? Nhân dân sẽ phải gánh chịu hậu quả thêm bao nhiêu thập kỷ nữa kể từ khi ông "hạ cánh"?
Ông đã từng học trường Trung cấp Nông lâm Trung ương Hà Nội (1958 – 1961). Sau 4 năm làm việc trong ngành lâm nghiệp, ông lại được đưa đi học đại học lâm nghiệp tại Liên Xô (1966 – 1971). Trong khoảng 8 năm trời được đào tạo về nghề rừng, ông đã học được những gì và rồi áp dụng thế nào, mà thời kỳ ông làm Chủ tịch Quốc hội (là "cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất của nước CHXHCN Việt Nam") và Tổng bí thư ĐCSVN (là "lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội") cũng là thời kỳ mà rừng Tổ quốc bị tàn phá nặng nề nhất? Không phải do lục lâm tiến hành vụng trộm, mà công khai, đàng hoàng, được đầu têu hay dung túng bởi cán bộ và cơ quan Nhà nước, và còn được ngụy trang bởi chủ trương chính sách, ví dụ như việc đội lốt xây dựng thủy điện để phá rừng, chiếm đất. Chất lượng lãnh đạo trong lĩnh vực mà ông từng được đào tạo chính quy bài bản còn tệ như vậy, thì hiệu quả lãnh đạo "tuyệt đối và toàn diện" trong những lĩnh vực mà ông thuộc loại "nửa chữ cắn đôi" còn… nặng nề tới đâu?
Ông biết gì về công nghệ khai thác bô-xít và hậu quả của nó? Ấy vậy mà ông lại tùy tiện ký kết với "bạn vàng" của ông về việc khai thác bô-xít ở Tây Nguyên, biến một việc tệ hại thành "chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước". Giả sử lúc đầu do nông… cạn, nên nông nổi ký nhầm, thì sau đó biết bao người đã lên tiếng can ngăn, đã phân tích rõ ràng về hậu quả tai hại toàn diện, cả về mặt kinh tế, quốc phòng và môi trường. Họ là bậc thầy của các ông, ít nhất là về kiến thức khoa học và công nghệ, tại sao vẫn dứt khoát không nghe?
Một người tử tế, nếu tự mình làm ra của cải dư dật, thì cũng không quyết ăn tiêu bằng sạch, mà còn lo dành dụm ít nhiều cho con, cho cháu. Tài nguyên của Đất nước không phải là thứ do các ông hay thế hệ này tự tay làm ra, mà do Tạo hóa ban cho muôn đời Dân Việt, nên các ông không có quyền hành xử theo lối "nuốt không hết thì phá", mà càng phải có trách nhiệm để phần cho bao thế hệ mai sau. Giả sử việc khai thác bô-xít ở Tây Nguyên có lãi ngay lập tức và hoàn toàn vô hại, thì các ông cũng chẳng nên vơ vét hết, nếu còn biết tôn trọng đạo đức tối thiểu, là không được phép ăn tranh cả phần tài nguyên của đời đời kế tiếp. Đằng này, đã được các chuyên gia báo trước là lỗ, và thực tế đã chứng tỏ là lỗ, lại còn gây ra bao tác hại ghê gớm cho môi trường, chưa kể đến hiểm họa quốc phòng… Vậy mà các ông vấn cứ bịt tai nhắm mắt tiếp tục làm bừa. Thế là vì cớ gì? Vì lợi lộc tư túi mà tối mắt, hay vì mải theo "bạn vàng" mà lạc lối?
Bỏ cả đống tiền của để dựng hồ chứa bùn đỏ trên nóc nhà Đông Dương còn chưa đủ tốn kém và nguy hiểm hay sao, màcòn quyết vay mấy chục tỷ USD để rước hiểm họa hạt nhân về đặt giữa lòng Ninh Thuận? Đừng nghĩ rằng "đóng két cuốn gói" rồi là thoát. Nếu sau này xảy ra thảm họa hạt nhân ở Ninh Thuận, hay ở Bình Định, Phú Yên, Hà Tĩnh, Quảng Ngãi… thì Nhân dân sẽ truy tìm thủ phạm cả trên dương thế lẫn dưới tầng địa ngục, trong đội ngũ đã tham gia tư vấn, thiết kế, xây dựng, hoặc vận hành nhà máy điện hạt nhân, và đặc biệt là trong hội đã đẻ ra loại "chủ trương luôn luôn đúng nhưng thực hiện chỉ có sai". Là người lãnh đạo tối cao của bộ máy cầm quyền khi thông qua quyết định xây dựng nhà máy điện hạt nhân, chắc chắn Nhân dân sẽ không quên trách nhiệm hàng đầu của cá nhân ông.
Cái gia đình cỏn con của bản thân, ông có điều khiển tử tế không? Sao ông không dồn sức lo liệu việc nhà cho gần hơn với năng lực, mà lại ôm đồm lãnh đạo cả Quốc gia?
Năm này qua năm khác, ông giáo dục toàn Dân, toàn đảng phải "học tập và làm theo…", theo những thứ mà chính bản thân ông không theo, hoặc có muốn theo cũng không theo nổi. Cuối cùng, bao năm bận bịu "giáo dục Nhân dân" của ông chỉ để lại ấn tượng sâu sắc về… bản lĩnh nói dối. Giờ đây đã nghỉ hưu, ngày rộng tháng dài, ông hãy tĩnh tâm suy nghĩ thật kỹ, rồi trả lời ngắn gọn cho toàn thể Nhân dân được rõ: Chúng tôi có thể học được cái gì từ những người như ông?
Với tài đức như thế, tại sao Nhân dân Việt Nam lại phải chấp nhận để ông lãnh đạogiáo dục suốt bằng ấy năm trời? Tính theo tuổi thọ trung bình là 73, thì tất cả chúng tôi, những công dân Việt Nam sinh trước năm 1992 và hiện chưa khuất núi, phải mất khoảng một phần tư đời mình để sống dưới thời "tứ trụ triều đình" của ông. Mà đấy là mới kể thời trị vì của ông. Không hiểu kiếp trước chúng tôi phạm phải tội gì, mà kiếp này bị Trời đày lâu như vậy?
Viết như thế không phải để phủ định cá nhân ông. Dẫu sao đi nữa, khi bộ máy quyền lực khổng lồ đã đưa ông lên vị trí lãnh đạo tối cao, thì chứng tỏ là ông cũng có phần nhỉnh hơn số đó. Có điều, còn hàng vạn đảng viên hơn hẳn ông cả tài lẫn đức, nếu so sánh trong phạm vi toàn Dân thì số tài đức hơn hẳn ông còn nhiều gấp bội. Vậy thì tại sao lại chọn ông lãnh đạo đảng cầm quyền, để cầm đầu cả Quốc gia? Ừ thì tổ chức cũng có lúc nhầm lẫn, nhưng vì sao lại nhầm lẫn bốn nhiệm kỳ liên tiếp, suốt gần hai mươi năm trời? Phải chăng là vì cái bộ máy và cơ chế tổ chức ấy không muốn hoặc không thể chọn những người có tài năng vượt trội?
Nếu là đảng viên có trách nhiệm với đảng thì cần đặt ra câu hỏi: Có thể phó mặc số phận của đảng cho bộ máy và cơ chế tổ chức ấy hay không?
Nếu là công dân có trách nhiệm với bản thân và cộng đồng thì phải tự hỏi: Có thể tin tưởng mà để mặc bộ máy và cơ chế tổ chức ấy chọn ra những người nắm giữ vận mệnh của cả Dân tộc hay không?
Viết như thế không nhằm phủ nhận đảng cầm quyền, mà để đối diện với câu hỏi không thể lẩn tránh là: Có thể chấp nhận việc hiến định quyền lãnh đạo đương nhiên và vĩnh viễn cho một đảng với thực trạng chất lượng tổ chức như vậy hay không?
Từ chỗ là một đảng mạnh vì biết dựa vào Nhân dân và dám đương đầu với thử thách, nay ỷ thế độc quyền lãnh đạo mà đứng trên Nhân dân, để tham nhũng hoành hành tàn phá Đất nước và làm hại Nhân dân, rồi lạm dụng bạo lực để trấn áp phản biện và bỏ tù những người bất đồng chính kiến. Vậy thì tránh sao nổi tha hóa? Ỷ vào sức mạnh súng đạn, thay cho sức mạnh trí tuệ, thì làm sao chọn được lãnh đạo tài năng?
Thuật ngữ "lãnh đạo tập thể" hay được dùng để ngụy trang năng lực và lấp liếm trách nhiệm cá nhân. Song vài trăm học sinh lớp một hợp lực lại cũng không đủ trình độ trúng tuyển vào đại học; vài trăm cái xe đạp buộc gộp lại cũng không thể cất cánh giống máy bay… Cái gọi là "lãnh đạo tập thể" có thể gom góp chút sức mọn, nhưng không thể biến hóa ra mãnh lực từ cõi hư vô, họa chăng chỉ khuếch trương tà khí. Trong hoàn cảnh số "ác" lấn át số "thiện", thì "tập thể" ấy sẽ triệt tiêu cái "thiện". Bi kịch tương tự như bị kẹt giữa đám đông không biết bơi chới với trong sóng nước, thì người bơi giỏi đến mấy cũng dễ bị kéo chìm.
Lịch sử đã chứng kiến bao tiền triều phong kiến, có thể khởi đầu bởi một đấng minh quân, nhưng tự mãn rồi tự tôn, lao vào sa đọa, dần dần tha hóa thành hôn quân. Ỷ thế độc quyền quân chủ, đám trọng thần lộng hành không lo tiến cử người tài đức, mà lại dèm pha, thậm chí hãm hại hoàng tử thông minh, và đưa hoàng tử u mê kém cỏi lên ngôi thái tử, để sau này dễ bề "xỏ mũi". Ưa loài siểm nịnh mà ruồng bỏ tài năng, thì triều đình chỉ còn nước lụi tàn.
Nếu nhà đương quyền không rút ra được bài học tương ứng từ lịch sử, khăng khăng tự tôn trong chế độ độc đảng toàn trị, thì sẽ không thoát khỏi vết xe lầy của các tiền triều, rồi sớm muộn cũng biến khỏi vũ đài lịch sử.
Để giải phóng nguồn năng lượng khổng lồ đang tiềm ẩn trong Nhân dân và trong ĐCSVN, nhằm khắc phục hiện trạng bi đát gần như vô vọng, thì giới cầm quyền phải vượt qua bản tính ích kỷ và bản năng cậy thế cường quyền, mà chấp nhận cạnh tranh dân chủ. Chỉ những chế độ dân chủ và những đảng chấp nhận dân chủ thì mới có khả năng tự điều chỉnh để bền vững với thời gian. Khi phải cạnh tranh với các đối thủ khác và thuyết phục Nhân dân bỏ phiếu bầu mình, thì không đảng nào dám đưa những người kém năng lực lên làm lãnh đạo, và chẳng đảng nào dám trịch thượng với Nhân dân.
Cho đến lúc giới cầm quyền tỉnh cơn mộng quyền uy, ta chỉ có thể đặt ra và tự trả lời câu hỏi: Một đảng với hiện thân cầm đầu như thế mà xưng là "lãnh đạo Nhân dân" và "giáo dục Nhân dân" thì có hợp lý hay không?
Nhân dân trong phận học trò
Thuở xa xưa, khi đại đa số người dân còn nghèo và ít học, thì nhiều nhân vật trong giới cầm quyền có vẻ xuất chúng, lại có thêm lợi thế từ độc quyền thông tin. Nếu người cầm quyền không hơn người dân về tài, hay đức, hay về tuổi đời, thì thường cũng hơn về thâm niên hoạt động hay thành tích đóng góp cho chế độ. Vì vậy dân tình dễ chấp nhận việc "mấy ổng dẫn dắt".
Ngày nay, dù xướng tên bất cứ ai trong bộ máy cầm quyền, thì cũng có thể tìm được trong Nhân dân vô số những người hơn hẳn vị ấy cả tài lẫn đức, cả tuổi đời lẫn thâm niên hoạt động, cũng như thành tích cống hiến. Trong hoàn cảnh đó, dựa vào cơ sở nào để lập luận rằng mấy vị đang cầm đầu ĐCSVN hiển nhiên có quyền "lãnh đạo Nhân dân", "giáo dục Nhân dân" về những thứ mà Nhân dân được yêu hay phải ghét, về những điều mà Nhân dân phải làm, được làm và không được làm?
Giữa thời đại internet, nhiều nông dân cũng lướt mạng tìm kiếm tri thức. Nhiều thanh niên mới lớn cũng có khả năng tự mở rộng tầm hiểu biết vượt xa khỏi biên giới quốc gia. Biết bao người dân hàng ngày tiếp nhận những thông tin đa dạng, không chỉ về những gì đang diễn ra, mà còn tra cứu cả tài liệu lịch sử, để đánh giá những chuyện đúng sai của hàng chục năm về trước. Trong khi đó, nhiều vị lãnh đạo đầu bạc không chỉ lạc hậu về công nghệ, mà còn chậm tiến cả về tư duy. Họ cứ ca mãi những bài mà thiên hạ đã biết rõ là sai, khiến người nghe phải xấu hổ thay.
Từ khi giáo dục bị thị trường hóa, những người có chức có quyền có thể trưng ra vô vàn bằng cấp, nhiều hơn hẳn so với các thế hệ quan chức trước kia. Nhưng tầm kiến thức và khả năng tư duy thì ngược lại. Thậm chí, cơ chế tuyển chọn lãnh đạo bấy lâu nay đã tạo ra trạng thái hết sức trái khoáy: Càng lên cao thì mật độ chất xám càng giảm, như thể là mô phỏng tự nhiên: Càng lên cao thì không khí càng loãng. Theo cách nói của nhà báo Huy Đức thì "nhận thức chính trị của một nguyên thủ trong thời đại ngày nay lại chỉ như tuyên huấn huyện ủy hồi thập niên 1980s." Còn nhà văn Nguyễn Quang Lập thì thành thật thủ thỉ: "… nói thật nhé, cụ còn kém hơn nhiều so với mấy cụ hưu trí ở phường, xã." Phải chăng, cũng chính vì hạn chế tư duy mà giới cầm quyền không nhận thức nổi là thời cuộc đã thay đổi, do đó vẫn đòi đặt đảng – mà thực chất là chính bản thân họ – lên trên Nhân dân, và vẫn muốn nhân danh đảng để "giáo dục Nhân dân"?
Họ định "giáo dục" ai? "Giáo dục" Cụ Võ Nguyên Giáp rằng "đề nghị… cho dừng triển khai các dự án khai thác bô-xít ở Tây Nguyên" là sai, là trái với "chủ trương lớn của đảng và Nhà nước" ư? "Giáo dục" Cụ Nguyễn Trọng Vĩnh rằng "đồng ý với bản kiến nghị về sửa đổi Hiến pháp năm 1992" (thường được gọi tắt là "Kiến nghị 72") là "suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống" ư? Không hiểu "các thầy" có gì hơn so với "loại học trò" như các Cụ để mà "giáo dục"? Hay để đảm bảo chất lượng "giáo dục đại chúng", thì những "loại học trò cứng đầu" như các Cụ đã bị khai trừ khỏi Nhân dân? Trong Nhân dân có vô số những người tài giỏi hơn hẳn giới cầm quyền và đội ngũ tuyên huấn, khai trừ làm sao xuể.
"Hàng tổng" đã đành, đằng này "hàng mõ" cũng ngộ nhận, cũng lên giọng "lãnh đạo và giáo dục Nhân dân". Một viên đại tá (từ đại ngàn đại tá), với học hàm Phó giáo sư (trong số bạt ngàn Phó giáo sư), cũng ngạo nghễ khen Hiệu trưởng và Hiệu phó của mấy trường đại học… học giỏi. Biết là đang "nói với đội ngũ trí tuệ nhất của đất nước chúng ta", mà vẫn lớn tiếng: "Đồng chí kia cất cái báo đi nhé, cất kính đi! Tôi nói như vậy mà vẫn đọc báo, không nên như vậy." Tầm cỡ Hiệu trưởng, Hiệu phó trường đại học, đã chịu "cưa sừng làm nghé", gắng gượng ngồi chứng kiến bài tuyên huấn luyên thuyên, mà còn bị "xạc" công khai giữa hội trường như thế, thì tầm bà con công nông sẽ bị mắng mỏ đến mức nào? Đó là một ví dụ điển hình về sự ngạo mạn, hợm hĩnh của mấy vị cho rằng mình có quyền "giáo dục Nhân dân".
Có vô vàn những phát ngôn về "lãnh đạo Nhân dân" "giáo dục Nhân dân", đầy trong sách vở, đài báo… Ông To phồng má, bà Nhỏ cũng trợn mắt, đua nhau đòi "lãnh đạo và giáo dục Nhân dân". Mà Nhân dân là ai?
Nhân dân là cộng đồng người gắn kết với nhau bởi nền văn hóa và lịch sử chung. Nhân dân của một nước là cộng đồng của toàn bộ dân cư nước ấy. Điều đó có thể đọc được ở nhiều nơi. Thậm chí, "tài liệu chính thống" của Liên Xô, được dịch ra tiếng Việt với sự phối hợp của phía Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, còn viết rằng:
"Chỉ trong trong xã hội xã hội chủ nghĩa, khái niệm ‘nhân dân’ mới bao quát toàn bộ dân cư, tất cả các nhóm xã hội của nó." (Dòng 4 – 7, trang 402, "Từ điển triết học", bản tiếng Việt, do Nhà xuất bản Tiến bộ Mát-xcơ-va in năm 1986, được dịch từ bản tiếng Nga in năm 1975, với sự phối hợp sửa chữa và bổ sung của Nhà xuất bản Sự thật Hà Nội).
Bất cứ đảng phái nào cũng là một "nhóm xã hội" của cộng đồng dân cư, là tập hợp của những con người từ Nhân dân mà ra. Vì vậy, mọi đảng phái đều ở trong Nhân dân. Nếu muốn sắp xếp thứ tự trên dưới, thì phải đặt Nhân dân ở trên mọi đảng phái, kể cả ĐCSVN.
Lẽ ra phải là như vậy. Thế nhưng, đã từ lâu, trong ngôn ngữ chính trường ở nước ta, hễ đi với nhau thì "ĐCSVN" được viết trước "Nhân dân", và trong đời sống chính trị thì ĐCSVN luôn được đặt trên Nhân dân.
Là cá thể của Nhân dân, là bộ phận của Nhân dân, mà đòi đứng trên toàn thể Nhân dân để "lãnh đạo Nhân dân" và "giáo dục Nhân dân", thì có phải là… có giáo dục hay không?
Con Nhân dân hay đã lạc loài?
"Từ Nhân dân mà ra, vì Nhân dân mà phục vụ." Khẩu hiệu đó đã gắn liền với lực lượng vũ trang mang tên Nhân dân từ thuở xa xưa, khiến người người tin rằng lực lượng ấy là của Nhân dân. Niềm tin đó được củng cố bởi Điều 45 Hiến pháp 1992, quy định rằng:
"Các lực lượng vũ trang nhân dân phải tuyệt đối trung thành với Tổ quốc và nhân dân..., bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và những thành quả của cách mạng, cùng toàn dân xây dựng đất nước."
Cho đến một ngày, đó đây trương lên khẩu hiệu mang tín hiệu phản phúc: "Còn đảng còn mình". Tưởng rằng đó chỉ là sản phẩm lạc điệu của mấy cái đầu ít học. Ai dè, tư duy lạc loài còn được khuếch đại tiếp, khi Điều 45 Hiến pháp 1992được sửa đổi thành Điều 70 trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp phiên bản 2 (được đăng tải để lấy ý kiến nhân dân từ ngày 02/01/2013):
"Lực lượng vũ trang nhân dân phải tuyệt đối trung thành với Đảng cộng sản Việt Nam, Tổ quốc và nhân dân ...; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân, chế độ xã hội chủ nghĩa, cùng toàn dân xây dựng đất nước và thực hiện nghĩa vụ quốc tế."
Họ không chỉ bắt "Lực lượng vũ trang nhân dân phải tuyệt đối trung thành với Đảng cộng sản Việt Nam""bảo vệ Đảng", mà còn đặt “Đảng cộng sản Việt Nam" lên trên cả "Tổ quốc và Nhân dân". Trên thế giới có hiến pháp nào khác kỳ quặc như thế nữa không? Vì "Lực lượng vũ trang nhân dân" là một bộ phận của Nhân dân, nên bắt lực lượng ấy phải "bảo vệ Đảng" thì có nghĩa là đòi Nhân dân phải bảo vệ đảng. Điều đó trớ trêu ở chỗ: ĐCSVN tuyên bố ra đời để phục vụ và bảo vệ Nhân dân, nhưng bây giờ lật ngược: Đòi hỏi Nhân dân phải phục vụ và bảo vệ đảng.
Thực ra, việc hiến định "Lực lượng vũ trang nhân dân phải tuyệt đối trung thành với ĐCSVN" sẽ chẳng có lợi gì cho đảng. Bởi lòng trung thành của các chiến sĩ và sĩ quan đối với ĐCSVN chẳng phụ thuộc vào việc nghĩa vụ "trung thành" có được hiến định hay không. Trong một thể chế mà giới cầm quyền luôn đầu têu coi thường Hiến pháp và vi phạm pháp luật, thì các điều hiến định cũng không thể tác động nhiều đến tâm tư và hành động của người cầm súng.
Ngược lại, việc hiến định "trung thành" một cách cưỡng bức chỉ gây phản cảm. Trong lực lượng vũ trang không thiếu người trượng nghĩa. Họ sẵn sàng giúp đỡ và bảo vệ những người lâm nạn. Nhưng nếu ai đó, kể cả ĐCSVN, lại ra lệnh rằng "anh phải tuyệt đối trung thành với tôi, phải tận tụy bảo vệ tôi và phải hy sinh vì tôi", thì biết đâu lòng tự trọng sẽ khiến họ quay lưng... Vậy là, việc hiến định "trung thành" có thể sẽ làm cho vài ba tay súng "trung thành" hơn, nhưng lại khiến nhiều người trọng nghĩa khí hành động ngược lại.
Đã có nhiều ý kiến phê phán cái sửa đổi Hiến pháp kỳ quặc đó. Thay vì thành khẩn tiếp thu, bộ máy tuyên truyền quốc doanh lại tung ra những luận điệu ngụy biện để phản công. Họ khẳng định rằng lực lượng vũ trang do đảng lập ra, nghĩa là của đảng. Và tiền của mà Nhân dân bỏ ra nuôi lực lượng ấy cũng được thuyết minh là bổng lộc của đảng. Thành thử, nhiều tướng tá cho rằng mình được đảng tuyển mộ và nuôi nấng no nê, thì đương nhiên "phải tuyệt đối trung thành với ĐCSVN""bảo vệ Đảng". Đối với tầm tư duy của họ thì chẳng có gì là lạ khi đặt ĐCSVN lên trên Tổ quốc và Nhân dân.
Phải chăng, vì quan niệm không phải là lực lượng của Nhân dân, nên công an được huy động để đàn áp Dân? Những đứa con của Nhân dân được giao cho đảng giáo dục và rèn luyện trong lực lượng công an mang tên Nhân dân, không hiểu được đảng đào tạo thế nào, mà khi ra nghề lại chỉ chăm chăm trấn lột Dân? Mới ngày nào, công an còn được coi là lực lượng trấn áp côn đồ và kiềm chế đầu gấu để bảo vệ cuộc sống yên lành của muôn dân. Vậy mà bây giờ, công an lạigiả danh côn đồ và thuê đầu gấu xã hội đen để tấn công Dân. Thậm chí, cả quân đội, mà nhiệm vụ là bảo vệ Tổ quốc và Nhân dân trước giặc ngoại xâm, cũng bị lôi cuốn vào những vụ phi pháp hại Dân, như ở Tiên Lãng. Nhân dân cũng chẳng tiếc những kẻ sẵn sàng tuân lệnh quan tham đi đàn áp Dân và phụng sự loài cướp đất. Nếu đôi bên đều muốn thì đảng cứ việc giữ đám đó mà làm của riêng. Có điều, các vị hô hào "đảng hữu hóa" lực lượng vũ trang nên ý thức rõ những hậu quả nhãn tiền sau đây:
Một là, nếu cho rằng lực lượng vũ trang là của ĐCSVN, thì hãy trung thực gọi nó là "Lực lượng vũ trang ĐCSVN". Hãy xóa hai chữ "Nhân dân" ra khỏi tên lực lượng vũ trang, để tên "Nhân dân" không còn bị lạm dụng, gán cho những toán quân đi đàn áp Dân.
Hai là, nếu lực lượng vũ trang là của ĐCSVN, thì hãy lấy tài sản riêng của đảng mà nuôi lực lượng ấy! Không thể bắt Dân tiếp tục đóng thuế, hay phải đứng ra trả nợ, để nuôi "con riêng của đảng", nếu chúng chỉ chăm chăm bảo vệ đảng (nói đúng hơn là bảo vệ lãnh đạo của đảng).
Ba là, nếu lực lượng vũ trang là của ĐCSVN, để bảo vệ đảng là chính, thì công dân sẽ không có nghĩa vụ phải gia nhập lực lượng ấy, nghĩa là sẽ không còn "phải làm nghĩa vụ quân sự" như bấy lâu nay. Bởi vì: Công dân chỉ có nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc và Nhân dân, trong đó có cả bản thân và gia đình mình, chứ không có nghĩa vụ phải bảo vệ ĐCSVN, càng không có nghĩa vụ phải hy sinh xương máu vì đảng hay vì cái gọi là "nghĩa vụ quốc tế" của giới cầm quyền.
Bốn là, nếu lực lượng vũ trang hiện đang tồn tại không còn là của Nhân dân, thì Nhân dân có quyền lập ra lực lượng vũ trang của mình, sẽ lấy lại tên của mình để đặt cho lực lượng ấy, sẽ đưa con em mình vào đó và dành tiền của để nuôi họ. Tất nhiên, lực lượng vũ trang đích thực của Nhân dân sẽ đương đầu với bất kỳ thế lực nào hại Nước, hại Dân.
Vậy thì các vị đòi "đảng hữu hóa" lực lượng vũ trang đã thỏa mãn chưa? Liệu các vị có ngăn cản nổi con em Nhân dân rời bỏ lực lượng vũ trang đã xa Nhân dân để trở về với lực lượng vũ trang đích thực của Nhân dân hay không? Thiếu người, thiếu của, liệu các vị có duy trì nổi đội quân khổng lồ để bảo vệ đảng hay không?
Rõ ràng, việc lạm dụng Hiến pháp để buộc lực lượng vũ trang "phải tuyệt đối trung thành với ĐCSVN" không đem lại lợi ích gì, mà chỉ có hại cho đảng. Một lần nữa ta thấy: Những vị lớn tiếng nhất trong việc hô hào bảo vệ đảng có khi lại là những người phá đảng đắc lực và hiệu quả nhất.
Do bị phản đối, trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp phiên bản 3 (được trình Quốc hội tại kỳ họp thứ 5, Quốc hội khoá XIII, ngày 17/05/2013), họ đã chữa Điều 70 thành:
"Lực lượng vũ trang nhân dân tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và nhân dân..."
Tức là đưa "Tổ quốc" lên trước "Đảng", bổ sung thêm "Nhà nước" vào sau "Đảng", nhưng vẫn đặt "nhân dân" ở vị trí cuối cùng, và chỉ có "nhân dân" là không được viết hoa. Rồi đây, có thể "thứ tự trung thành" sẽ còn được thay đổi trong các phiên bản dự thảo tiếp theo, nhưng những gì đã diễn ra trong Dự thảo phiên bản 2phiên bản 3 mãi mãi là bằng chứng về sự coi thường Nhân dân của thế lực cầm quyền.
Từ khi ra đời đến nay, dù chẳng hề có hiến định về nghĩa vụ "phải tuyệt đối trung thành với Đảng" "bảo vệ Đảng", thì cả hai lực lượng Quân đội Nhân dân và Công an Nhân dân vẫn trung thành với ĐCSVN và bảo vệ ĐCSVN. Nếu đảng thực sự gắn bó với Tổ quốc và Nhân dân, thực sự vì Nhân dân và chia sẻ số phận với Nhân dân, thì việc hiến định "Lực lượng vũ trang nhân dân phải tuyệt đối trung thành với ĐCSVN""bảo vệ Đảng" là hoàn toàn không cần thiết. Bởi lẽ khi đó, lực lượng vũ trang trung thành với Tổ quốc và Nhân dân thì cũng đã hàm chứa cả trung thành với đảng, và bảo vệ Tổ quốc và Nhân dân thì đương nhiên cũng bảo vệ cả đảng. Cho nên, việc cố tình tách riêng đảng trong danh sách mà lực lượng vũ trang "phải tuyệt đối trung thành" chứng tỏ rằng: Thế lực cầm quyền (đang đạo diễn việc hiến định nghĩa vụ "trung thành" của lực lượng vũ trang) đã tự tách mình ra khỏi Tổ quốc và Nhân dân.
Việc đặt ĐCSVN lên trước cả Tổ quốc và Nhân dân trong thứ tự mà lực lượng vũ trang "phải tuyệt đối trung thành" (tức là đòi lực lượng vũ trang phải trung thành với đảng hơn so với Tổ quốc và Nhân dân) không chỉ phản ánh sự ngộ nhận vô lý, mà cả tâm lý lo sợ của những thế lực tự biết mình phạm lỗi lớn với Tổ quốc và Nhân dân. Thay vì tỉnh ngộ mà dừng tay, họ lại tiếp tục sa đà, rồi lạm danh đảng và lạm dụng Hiến pháp để che chắn cho tội lỗi của họ. Việc hiến định đó cũng cho thấy: Nếu gặp phản ứng, họ sẵn sàng lôi kéo và ra lệnh cho lực lượng vũ trang mang tên Nhân dân quay lưng lại với Nhân dân, và đẩy con em Dân đi chống lại Dân. Hơn bao giờ hết, những người đang đứng trong hàng ngũ quân đội và công an cần phải tỉnh táo để xác định cho rõ: Mình vẫn là con em của Nhân dân, hay chỉ còn là công cụ của các thế lực đang vẫy vùng trong tham nhũng?
*
*    *
Không riêng Lực lượng vũ trang Nhân dân, mà cả ĐCSVN cũng từ Nhân dân mà ra, trước sau cũng chỉ là bộ phận của Nhân dân. Vì vậy, không chỉ Lực lượng vũ trang Nhân dân, mà cả ĐCSVN, và hiển nhiên cả tất thảy các vị lãnh đạo của hai tổ chức này, cũng đều phải trung thành với Nhân dân. Tách khỏi Nhân dân là phi lý, đứng trên Nhân dân là phi luân, làm hại Nhân dân là phi nghĩa. Nếu không chịu hiểu cái lẽ tối thiểu ấy mà cư xử cho phải đạo, thì đừng có mà oán thán khi bị Nhân dân ruồng bỏ như đám lạc loài.
Dù cái ghế mượn tạm của cuộc đời cao thấp đến đâu, thì các vị thường ưỡn ngực "lãnh đạo và giáo dục Nhân dân" cũng đừng quên thân phận. Muốn có mặt trên đời đều phải chui ra từ lòng mẹ. Muốn lớn lên cần sự cưu mang, nuôi dưỡng của người thân. Muốn có chữ phải theo thầy học đạo. Muốn thăng tiến phải dựa vào sự dìu dắt, nâng đỡ của bậc đàn anh. Ấy vậy mà khi có được quyền cao, chức trọng, thì tưởng mình là siêu nhân, cư xử như con Trời, coi Nhân dân như thần dân hạ đẳng. Nhân danh đảng, tự cho mình cái quyền chăn dắt Nhân dân. Lấn át Nhân dân, trong đó có cả mẹ cha, mà không thấy là thất hiếu. "Xoa đầu" Nhân dân, trong đó có cả những người từng cưu mang, nâng đỡ, mà không thấy là thất lễ. Cao ngạo giáo dục Nhân dân, trong đó vô số người còn giỏi hơn cả thầy mình, mà không thấy là thất thố. Chiếm đoạt của cải của Nhân dân, trong đó có bao người cùng cực, mà không thấy là thất đức. Dương dương tự đắc, mà không thấy cũng có ngày thất thế, và rồi cũng trở lại là thất phu.
Viết đến đây, bỗng nghe vang vọng bài ca "Cho con" của nhạc sĩ Phạm Trọng Cầu:
"Ba sẽ là cánh chim đưa con đi thật xa
Mẹ sẽ là cành hoa cho con cài lên ngực
Ba mẹ là lá chắn che chở suốt đời con
Vì con là con ba, con của ba rất ngoan
Vì con là con mẹ, con của mẹ rất hiền
Ngày mai con khôn lớn bay đi khắp mọi miền
Con đừng quên con nhé ba mẹ là quê hương."
Đúng vậy, ba mẹ luôn hết lòng thương yêu và chăm sóc các con, bình thường không bao giờ bỏ rơi con cháu, đơn giản "vì con là con ba" "vì con là con mẹ". Khi con sống phải đạo, cư xử tử tế, xứng đáng là "con của ba rất ngoan""con của mẹ rất hiền", thì "ba mẹ là lá chắn che chở suốt đời con". Kể cả khi con nhỡ làm điều gì dại dột, thì ba mẹ cũng rộng lòng tha thứ. Nhưng nếu đã đủ già dặn mà con lại xưng là bố của ba, đòi làm má của mẹ, rồi đè đầu ba mà lãnh đạo, túm tóc mẹ mà giáo dục, thì không thể coi là vụng dại được nữa. Thử hỏi, trong hoàn cảnh ấy, ba mẹ còn biết làm gì với thứ đã mang nặng đẻ đau tốn công nuôi dưỡng, ngoài việc đấm ngực mà kêu: Trời ơi, sao nhà tôi vô phúc thế này?
17/09/2013
H. X. P.

Thứ Ba, 17 tháng 9, 2013

Trận Chiến Bí Mật Nha Kỹ Thuật BTTM/QLVNCH


Trong chiến tranh Việt-Nam, một đơn-vị tối mật được ít người biết đến với danh hiệu Nha-Kỹ-Thuật thuộc bộ Tổng-Tham-Mưu, Quân-Lực Việt-Nam Cộng-Hòa. Những quân-nhân trong đơn-vị bí mật này thường được gọi là Lôi-Hổ hoặc xếp họ vào hàng lính Biệt-Kích thuộcbinh-chủng Lực-Lượng Ðặc-Biệt. Người Hoa-Kỳ cho rằng Nha-Kỹ-Thuật là một huyền thoại trong cuộc chiến tranh Ðông-Dương.Cả hai đơn-vị NKT và LLÐB đều được Hoa-Kỳ yểm trợ mạnh mẽ, NKT có tổ chức riêng biệt dựa theo cơ-cấu tổ chức của LLÐB. Các 'Sở' hoặc Bộ-Chỉ-Huy (CCN, CCC, CCS - Command & ControlNorth, Central, South) tươngđương với các Bộ-Chỉ-Huy 'C' (C1, C2, C3, C4) của LLÐB. Các 'Căn-cứ Hành-Quân Tiền-phương' (FOB - Forward Operation Base) tương-đương với các BCH 'B' (B50, B52, B57, v.v...). Các toán 'Lôi-Hổ' tương-đương với các toán 'A' biên-phòng. Bài viết này theo tài liệu trong cuốn 'SOG - The Secret Wars of America's Commandos in Vietnam', tác giả John L. Plaster.

Tháng Hai 1961, môt chiếc thuyền đóng theo kiểu những thuyền đánh cá khác ở Bắc Việt-Nam trôi bềnh bồng ngoài khơi vịnh Bắc Việt, lặng lẽ hướng về Cẩm-Phả, một thành phố nhỏ ven biển. Hai đêm trước, họ đã lướt qua hảicảng Hải-Phòng một cáchêm-thấm. Ðêm nay lúc hoàng hôn, họ có thể thấy mờ-mờ những rặng núi trong tỉnhQuảng-Ðông của Trung-Hoa vào khoảng 40 dặm về phiá bắc. Trường hợp không may xẩy ra, nếu họ bị bao vây, sẽ không có một chiếc tầu nào của phe ta đến tiếp cứu họ. Chiếc thuyền con không được đóng ở ngoài Bắc mà ở Vũng-Tàu cách xa 800 dặm, những người lái tầu đã được cơ-quan tình báo CIA Hoa-Kỳ bí-mật tuyển mộ và huấn luyện để đưa một người Việt-Nam tuổi khoảng trung tuần đem theo máy truyền tin xâm nhập vàomiền Bắc. Ðiệp viên bí danh Ares đã đặt chân lên miền Bắc thành công mỹ-mãn. Dưới thời tổng-thống Kenedy, điều-khoản số 52 trong Hội-Ðồng An-Ninh Quốc-Gia chấp thuận cho cơ-quan CIA xửdụng quân Biệt-Kích Mũ-Xanh (Special Forces) và đơnvị Người Nhái Hải Quân (Navy SEALs) để huấn-luyện, cố-vấn quân-nhân Việt-Nam trong những nhiệm-vụ bí-mật do ông trùm Xịa CIA Colby tổ chức.

Tại thành phố bờ biển Nha-Trang, Lực-Lượng Ðặc-Biệt Hoa-Kỳ huấn luyện cho Biệt-Kích quân Việt-Nam thuộcLiên-Ðoàn 1 Quan-Sát để dòthám đường mòn Hồ-Chí-Minh. Trong năm 1961-1962,Liên-Ðoàn 1 Quan-Sát tổ chức 41 cuộc hành-quân viễn thám, tìm kiếm dấu vết đường xâm-nhập cuả địch qua ngã Lào.

Trong khi đó, ngoài Ðà-Nẵng, toán người-nhái Hoa-Kỳ huấn luyện thủy-thủ Việt-Nam, chuyên chở người xâm nhập miền Bắc bằng đường biển. Ngoài ra tổ chức thêm những toán Biệt-Hải với nhiệm-vụ mở những cuộc tấn công bất ngờ các mục tiêu dọc theo bờ biển miền Bắc.

Sau vài chuyến thành công, Hải-Quân Bắc Việt đã đề phòng, ngăn chận đánh chìm một số hải thuyền. Sau khi nhận định lại tình hình, cơ-quan CIA đổi hướng xâm nhập miền Bắc bằng đường hàng-không qua sự tiếp tay của Không-Lực Việt-Nam Cộng-Hòa. Các nhân-viên (Trong giai đoạn này họ là dân-sự) xắp xâm nhập miền Bắc được huấn luyện trong căn cứ ở Long-Thành, cách Saigon khoảng 20 dặm về hướng đông. Quân Mũ-Xanh và nhân viên CIA huấn luyện họ về ngành tình-báo, kỹ-thuật pháhoại, xử-dụng vũ-khí, nhẩydù, đánh morse và mưu-sinh. Những khả năng để họ có thể hoạt động trong nhiều năm ngoài Bắc.

Ðến cuối muà Xuân 1961, điệp-viên Ares vẫn thường gửi những điện văn morse đến trung tâm truyền tin viễn thông của CIA ở Phi-Luật-Tân để báo cáo. Không như điệp viên Ares, ra đi đơn độc.

Bây giờ đến giai đoạn thả những toán biệt kích xâm-nhập từ 3 đến 8 người. Họ không được may mắn như điệp-viên Ares. Chuyến đầu tiên thả toán Atlas, toán này không có cơ hội để gửi điện văn báo cáo là đã đến nơi, chiếc máy bay chở họ cũng biến mất luôn! Tướng Kỳ đích thân lái phi vụ thứ hai thả toán Castor sâu vào miền Bắc Việt-Nam. Ba tháng sau, Hà-Nội làm rùm beng vụ đem xét-xử ba người sống sót trong toán Atlas. Ít lâu sau toán Castor cũng mất liên-lạc, rồi đến hai toán Dido và Echo cũng nằm trong tay địch quân. Toán cuối cùng thả xuống miền Bắc trong năm 1961 là toán biệt kích Tarzan cũng mất tích. Trong mùa hè 1962, cơ-quan CIA đồng-ý bàn giao các hoạtđộng trong vùng Ðông-Nam- Á cho quân-đội trong vòng 18 tháng.

Chương trình bàn giao có tên là Kế-Hoạch Trở-Lại (Operation Switchback). Rồi thì chính-biến 1-11-1963 xẩy ra và nhiều biến đổi trong miền Nam Việt-Nam làm cho kế-hoạch chậm trễ. Quân-đội Hoa-Kỳ vẫn chưa có một đơn vị đặc biệt nào để đảm nhận chương trình của CIA bàn giao. Hà-Nội gia tăng mức độ xâm nhập vào miền Nam làm cho bộ-trưởng Quốc-Phòng Mc Namara ra lệnh thả nhiều toán 'Biệt-Kích' ra ngoài Bắc phá hoại 'Giới lãnh-đạo miền Bắc nên biết rằng họ sẽ phải trả giá nếu còn iếp tục nuôi dưỡng, cho quân xâm nhập vào miền Nam'. Kế-hoạch 34A (OPLAN-34A) ban-hành ngàỵ 15 tháng 12 năm 1963 giới hạn cho một số mục tiêu.

Mặc dầu Mc Namara thúc đẩy, kế-hoạch 34A bắt đầu từ ngày 1 tháng Hai 1964, Bộ-Chỉ-Huy Quân-Viện (MACV) mới lập xong một đơn vị cho các hoạt động bí mật của CIA.Ðơn vị này do một đại-tá chỉ huy và bao gồm nhiều đơn vị, từ LLÐB, Người Nhái, Không-Ðoàn Cảm-Tử (AirCommando). Ðơn vị mới này lấy tên là SOG (SpecialOperation Group) Liên-ÐoànHành-Quân Ðặc-Biệt. Sau đó đổi tên để bảo mật mặc dầu vẫn viết tắt là SOG (Study and Observation Group) Ðoàn Nghiên-Cứu, Quan-Sát, tên mới nghe có vẻ chỉ gồm những chuyên-gia hoặc những nhà giáo.

Ðơn-vị mới SOG không trực thuộc cơ-quan MACV hoặc cấp chỉ huy của MACV là tướng William Westmoreland, mà nhận lệnh thẳng từ bộ TTM/QLHK (JCS) trong NgũGiác-Ðài và thường nhận lệnhtừ tòa Bạch Ốc. Chỉ có 5 sĩ quan cao cấp Hoa-Kỳ ở Saigon được báo cáo về những hoạt động bí-mật của SOG: Tướng Westmoreland, tham-mưu-trưởng của ông ta,trưởng phòng Nhì, tư-lệnh Ðệ- Thất Không-Lực, và viên tư lệnh lực-lượng Hải-Quân HK tại Việt-Nam.

SOG được chấp thuận mở những cuộc hành quân phát xuất từ miền Nam Việt-Nam, và Thái-Lan vào đất Ai-Lao, Miên, Bắc Việt và có thể ở phiá bắc Miến-Ðiện, Quảng-Ðông, Quảng Tây, Hồ-Nam và đảo Hải-Nam bên Tầu. Ngân khoản dành cho SOG sẽ dấu trong ngân khoản dành cho Hải-Quân Hoa-Kỳ. Trùm SOG là một sĩ-quan thuộc binh-chủng Nhẩy-Dù trong trận Thế-Chiến thứ Hai, sau đó chuyển qua Lực-LượngÐặc-Biệt trong thập niên 50. Ðại-Tá Clyde Russell đã từng theo sư-đoàn 82 Dù nhẩy xuống Pháp, Hòa-Lan, sau đóchỉ-huy Liên-Ðoàn 10 LLÐBbên Âu-châu, sau đó là Liên-Ðoàn 7 LLÐB trong căn-cứ Fort Bragg, North Carolina.

Trong kế-hoạch 34A, đại-tá Russell và ban tham-mưu thay đổi cơ-cấu tổ chức của Liên-Ðoàn Nghiên-Cứu Quan-Sát dựa theo tổ chức OSS xâmnhập với sở Không yểm, Hải yểm và một đơn-vị Tâm-lý chiến. Cơ-quan CIA cho SOG xử-dụng hệ-thống tiếp-liệu đặc biệt với những đồ chơi 'Xa-xỉ phẩm' như vũ-khí tối tân, dụng cụ câu dây điệnthoại để nghe lén. Ðồ tiếp liệu bí mật này có trong căn cứ Chinen ở Okinawa.

Ngoài ra còn có thêm văn phòng chuyên lo việc tiếp liệu cho đơn vị SOG và LLÐB.

CIA bàn giao thêm cho SOGmột phi đội C-123 từ Ðài-Loan do các phi-công Ðài-Loan lái để thay thế các máy bay C-47 của Không-Lực VNCH. Phi-đội này có tên là Ðệ Nhất gồm bốn chiếc C123. Mỗi chiếc có một phi hành đoàn phụ Hoa-Kỳ để bay những phi vụ trong miềnNam, các phi-công Ðài-Loan bay những phi vụ ra Bắc hoặc qua đất Miên. Những phi côngÐài-Loan này không biết tiếng Việt, có thẻ căn-cước Việt-Nam nhưng chỉ một số rất ít viên chức Việt-Nam mới biết họ là ai. CIA cũng bàn giao thành quả 3 năm hoạt-động của họ cho tới năm 1964. Tất cả 22 toán thả ra ngoài Bắc, chỉ còn liên-lạc được 4 toán Bell, Remus, Easy, Tourbillon và Ares.

Trong căn-cứ Long-Thành gần Saigon, SOG nhận được khoàng hơn 20 nhânviên đang thụ-huấn. Các sĩ quan SOG không tin tuởng nơi họ và phải loại trừ những quân nhân đó. SOG cũng không thể trả họ về cho QL/VNCH vì họ đã biết những nhiệm-vụ, hoạt động bí mật của cơ-quan ở ngoài Bắc. Cách giải quyết dễ dàng nhất là... cứ thả họ ra ngoài Bắc (Bỏ rơi cho địch quân). Trong tháng Năm, Sáu, Bảy 1964, các toán Boone, Buffalo, Lotus và Scorpion nhẩy dù xuống miền Bắc và đều bị bắt hết.

Ngoài ra một số nhân viên khác cũng được gửi ra ngoài Bắc để tăng cường cho hai toán Remus và Tourbillon. Sau khi thanh toán xong các toán do CIA để lại, SOG bắt đầu tuyển mộ nhân viên mới cho một chương trình huấn luyện dài 21 tuần lễ. Danh từ 'LÔI-HỔ' có từ đây. Ðể yểm trợ cho kế-hoạch 34A tấn công bất ngờ bờ biển Bắc Việt, trong đêm 16 tháng 2 năm 1964, ba thủy thủ người Na-Uy lái chiếc tầu Nasty (chạy rất nhanh, hỏa lực mạnh do Na-Uy chế tạo) chở theo người nhái Việt-Nam dự tính phá hủy một chiếc cầu, bị địch phát giác phải quay trở lại. Mấy đêm sau, một toán phá hoại người nhái khác xâm nhập miền Bắc bị thất bại, mất đi 8 quân nhân thuộc Lực-Lượng Người Nhái HQVN.

Qua tháng 7, các tốc đỉnh Nasty và Biệt-Hải dùng chiến thật tấn công bất ngờ rồi chạy, phá hủy được năm mục tiêu ngoài Bắc trong hai ngày 9 và 25 tháng Bảy. Ngày 30 tháng 7, SOG xử dụng 5 chiếc tốc đỉnh Nasty tấn công những dàn ra-đa gần Hải-Phòng gây nhiều tiếng nổ phụ. Trong tháng Tư 1964, bo ätrưởng quốc-phòng Mc. Namara ra lệnh thám-thính phần đất bên Ai-Lao.

Chươngtrình 'Leaping Lena' bắt đầu thả toán đầu tiên qua Lào ngày 24 tháng Sáu, đến 1 tháng Bảy, năm toán Biệt-Kích Việt-Nam nhẩy dù qua biên giới Lào để dò-thám các hoạt động của quân-đội Bắc Việt Chương trình 'Leaping Lena' tới tai cố-vấn của tổngthống Hoa-Kỳ, ông William Bundy qua bản báo cáo 'Tất cả các toán đều bị địch tìm ra vị-trí, chỉ còn bốn người sống sót chạy thoát trở về'.

Ðầu năm 1965, phi công Jim Ryan của Air America (CIA), chụp được một số hình ảnh, những con đường mới làm từ đèo Mụ-Già qua phần đất Ai-Lao, hệ thống đường mòn HồChí-Minh gia tăng. Ngày 8 tháng Ba năm 1965, SOG cómột cấp chỉ huy mới là Ðại-Tá Donald Blakburn, một huyền thoại trong ngành Lực-LượngÐặc-Biệt.

SOG The Secret Wars Of America's Commandos in Vietnam, John L. Plaster.
VÐH

Năm 1957, chính quyền Eisenhower tài trợ cho một chương trình bí-mật. Phốihợp giữa cơ quan Trung-Ương Tình-báo CIA và bộ Quốc-Phòng Hoa-Kỳ giúp đỡ việc thành-lập một đơn-vị Lực-Lượng Ðặc-Biệt cho Nam Việt-Nam. Ðơn-vị này tên là Liên-Ðoàn Quan-Sát số 1, âm-thầm xâm-nhập vào hàng ngũ quân du-kích cộng-sản.

Ðể bảo mật, Liên-Ðoàn Quan-Sát số 1 do một ban tình báo trong bộ quốc phòng, ban Nghiên-Cứu điều hành. Ban này có hai thay đổi, thứ nhất đổi tên là Phòng Liên-Lạc Phủ Tổng-Thống, dưới sự theo dõi trực tiếp của tổng-thống Diệm. Thứ hai, trung-tá Lê-Quang-Tung được chỉ định làm trưởng phòng Liên-Lạc.

Năm 1958, cơ-quan CIA tại Saigon, thành lập ban ngoại-vụ để làm việc với phòng Liên-Lạc Phủ Tổng-Thống. Trưởng ban là Russell Miller dưới danh hiệu ngoại giao, ông ta để ý trung-tá Lê Quang Tung chọn mười hai nhân viên cho đơn vị mới. Mười một sĩ quan trẻ thiếu-úy hoặc trung-úy, dưới quyền đại-úy Ngô-Thế-Linh, người đã làm việc 5 năm ngoài Ðà-Nẵng. Trong tháng Mười Một, mười hai người được đưa qua Saipan. Họ được cơ-quan CIA huấn Luyện hai tháng về nhiều môn, tình-báo tác-chiến, phương-thức phá-hoại và điều-khiển đường giây tình-báo. Trở về Saigon vào cuối năm, Đại-úy Ngô Thế Linh được chính thức bổ nhiệm làm trưởng
phòng Bắc Việt (bí-danh phòng 45) trong phòng Liên-Lạc Phủ Tổng-Thống.

Chỉ có hơn chục người, trong những tháng kế tiếp, phòng 45 lo việc huấn luyện thêm nhânviên. Ðến giữa năm 1959 một nhóm năm sĩ-quan khác được đưa qua Saipan thụ huấn khóa huấn luyện ngắn sáu tuần lễ. Sau đó ít lâu, cơ-quan CIA cử nhân viên qua Saigon huấn luyện hai lần, mỗi lần khoá huấn luyện kéo dài mười hai tuần lễ. Lần này chương trình huấn luyện nhằm vào những sĩ quan trẻ sinh quán nơi miền Bắc và gốc người thiểu-số.

Trong khi việc huấn luyện kéo dài đến cuối năm 1959. Phòng 45 phác-họa kế hoạch đầu tiên, họ tìm cách xâm nhập vào một hậu phương mà địch kiểm soát rất chặt chẽ gần năm năm. Cơ quan CIA biết rõ trở ngại của phòng 45. Trước đó năm 1951-1953, họ cho xâm nhập 212 điệp viên Tầu vào Hoa-Lục, một nửa bị giết, nửa khác bị bắt. Trên đất Đại Hàn , kết quả cũng tương tự.

Phòng Liên-Lạc phủ Tổng Thống trao trách nhiệm cho trung-úy Ðỗ-Văn-Tiên bí danh Francois gửi một điệp-viên đơn độc (singleton) ra ngoài Bắc. Francois tìm được một người có khả năng là Phạm-Chuyên, đã từng là đảng viên trong tỉnh Quảng-Ninh bị vợ bỏ, ông ta di cư vào miền nam. Mới đầu Phạm-Chuyên từ chối làm việc, mặc dầu trung-tá Lê-Quang-Tung đã cho đàn em theo dõi, dụ dỗ sáu tháng. Trung-úy Tiên (Francois) cộng tác với một nhân viên CIA là Edward Reagan tìm cách thuyết phục Chuyên, sau hơn sáu tháng Phạm Chuyên nhận lời.

Người điệp viên mới được đưa ra Nha-Trang để qua kỳ trắc nghiệm tâm-lý. Chuyên đạt được điểm xuất sắc, sau đó qua hai kỳ khảo nghiệm (test) nữa, một ở Saigon và ở Nha-Trang. Tiếp theo là phần huấn luyện cho Chuyên sáu tháng về ngành truyền-tin. Trong khi Chuyên được huấn luyện, trung-úy Tiên và Reagan bận rộn phác-hoạ kế hoạch gửi người điệp viên trở ra ngoài bắc. Chuyên sẽ nằm vùng dài hạn trong tỉnh Quảng-Ninh, một tỉnh ngay bờ biển, nơi Chuyên rất rành-rẽ, cho Chuyên xâm nhập bằng đường biển là điều hợp lý. Hai chuyên viêntình báo bay ra Ðà-Nẵng tìm địa điểm phát xuất, họ thuê một biệt thự có tường cao bao quanh làm căn cứ. Tất cả những hoạt động của họ từ đó trở về sau có mật hiệu là Pacific (Thái-Bình-Dương).

Trước khi Chuyên được gửi đi, Phòng 45 quyết định kế hoạch ngắn hạn, thả điệp viên qua vùng phi quân-sự, dọc theo vĩ tuyến 17. Người được tuyển chọn cho kế hoạch này là một người theo đạo công giáo, quê ở Hà-Tĩnh tên là Vũ-Công-Hồng. Hồng được huấn luyện nhanh chóng và đưa ra Huế sống trong một căn nhà an-toàn. Trong nhà có thêm hai sĩ-quan trẻ thuộc phòng Liên-Lạc Phủ Tổng-Thống là Phạm-Văn-Minh và Trần-Bá-Tuấn, cả hai đều đã được huấn luyện ở Saipan. Hai người có bí danh là Michael và Brad. Họ làm việc với nhân viên CIA David Zogbaum. Cũng như Francois (tr/u Tiên), Reagantrong Ðà-Nẵng, các hoạt động phát xuất từ Huế có mật hiệu làAtlantic (Ðại-Tây-Dương).

Vũ-Công-Hồng mang bí danh là Hirondelle đã sẵn sàng ra đi. Thiếu-tá Trần-Khắc-Kính nhân vật thứ hai trong phòng Liên-Lạc PTT, có mặt trong lúc thả điệp viên Hirondelle qua sông Bến-Hải. Qua sông, Hirondelle biến mất vào màn đêm và trở lại miền nam vài tuần sau. Mặc dầu chỉ cho biết tin tức về đường đi nước bước, hệ thống an-ninh nơi miền Bắc, người điệp viên làm cho phòng 45 phấn khởi.

Hai tháng sau chuyến đi của Hirondelle, Chuyên đã sẵn-sàng sau một năm huấn luyện. Sứ mạng của Chuyên khác với Hirondelle. Chuyên sẽ thu-thập tin tức tình báo, tuyển mộ thêm điệp viên và sẽ nằm vùng trong nhiều năm. Theo kế-hoạch (vỏ bọc / ngụy trang) Chuyên sẽ trở nên một người đánh cá ở Cẩm-Phả, một làng nhỏ gần vịnh Hạ-Long. Ðó cũng là quê của Chuyên trước năm 1958, sự trở về của Chuyên có thể bị lộ, tuy nhiên ông ta còn có gia đình, anh em, vẫn hy vọng được che chở.

Phạm-Chuyên đã sẵng sàng rađi với bí danh Ares. Ðầu tháng Tư năm 1961, Ares lên tầu Nautilus I rời Ðà-Nẵng theo chuyến hải hành hai ngày về phiá bắc. Gặp thời tiết xấu, chiếc Nautilus I phải quay trở về bến. Vài hôm sau, thời tiết trở nên tốt, điệp viên Ares lại lên đường. Cả hai Francois và Reagan ra bến tầu tiễn Ares, Francois nhớ lại 'Tôi chúc anh ta đi may mắn'. Ðiệp viên Ares không nói một lời nào.

Bầu trời xanh, biển lặng, chiếc Nautilus I lặng lẽ xâm nhập vào vùng biển Quảng Ninh, sau đó Ares chèo xuồng nhỏ đổ bộ lênbờ. Ðịa điểm đổ bộ gần Cẩm-Phả, Ares đem đồ tiếp vận lên bờ rồi dấu hai máy truyền tin. Nhiệm vụ đầu tiên, anh ta phải tuyển mộ thêm một người để giúp đỡ trong việc xử dụng máy truyền tin. Phòng 45 đã rõ điều này nên sẽ chờ tín hiệu của Ares trong vòng nhiều tuần hoặc nếu không vài tháng. Không bị phát giác, có người trông thấy, người điệp viên lẻn về làng cũ, và vào thẳng căn nhà xưa của mình. Xum họp với gia đình, Ares thuyết phục người emPhạm-Ðộ. Miễn cưỡng, anh ta đi theo Ares ra bờ biển thâu hồi hai máy truyền tin. Họ đào hố chôn hai cái máy ở trong nhà.

Chuyến xâm nhập của Ares coi như thành công. Ngày 9 tháng Tư, mấy ngư dân khám phá ra chiếc xuồng nhỏ của Ares. Tiếp theo sau là những cuộc khám xét làng đánh cá do lực lượng an-ninh. Sau khi xác định không ai làm chủ chiếc xuồng nhỏ, cuộc khám xét lan tràn ra bãi biển, và công-an tìm ra hố chôn dấu hai máy truyền tin.

Nghi ngờ điệp viên địch (miền nam) xâm nhập, viên chỉ huy lực lượng công an tỉnh Quảng Ninh thảo kế hoạch khám xét từng nhà, đặc biệt những nhà có người di cư vào nam, và những gia đình có liên hệ với chế độ thực dân trước đây.

Không biết chuyện đó, Ares vẫn trốn trong một cánh rừng gần đó. Anh ta đem theo một máy truyền tin, nhờ người em quay máy (crank), điệp viên Ares gửi đi bức điện văn đầutiên. Ðể tránh làn sóng bị giaothoa, Ares đánh tín hiệu từ bờ biển miền bắc Việt-Nam, vượt đại dương đến trạm Bugs, mật hiệu do cơ-quan CIA đặt cho trạm viễn thông ở Phi-Luật-Tân. Từ đó bản điện văn sẽ được tiếp vận, truyền đi đến cơ quan CIA tại Saigon. Robert Kennedy, nhân viên CIA bước vào phòng
45 với bức điện văn trên tay vẫy-vẫy mừng rỡ nói lớn 'Thành công!'.

Một phó bản bức điện văn của Ares được trình lên tổng-thống Diệm. Sau đó Ares gửi thêm hai mươi hai bản báo cáo nữa trong một thời gian gấp rút. Trong khi đó tại Quảng-Ninh, nhân viên phản-gián Bắc Việt dò làn sóng viễn thông để lấy những bản điện văn. Một cụ già cũng báo cáo cho công an rằng có người lạ tìm cách dấu mặt đang sống trong một căn chòi gần bãi biển. Cụ già nói thêm, có người trong nhà khoe một cây viết nguyêntử, vật ít thấy nơi miền bắc.

Với những điều thâu thập, công-an theo dõi nhà của gia đình Phạm Chuyên. Ngày 11 tháng Sáu, giới thẩm quyền bắtgiữ Phạm-Ðộ trong khi anh ta đem đồ tiếp tế vào rừng cho anh mình. Sáu ngày sau, họ khám phá ra máy truyền tin thứ hai chôn dấu trong nhà cùng với bản mật mã. (số phận người điệp viên Ares Phạm Chuyên ra sao???).

Hà Nội có hai lựa chọn. Công bố vụ bắt được điệp viên Aresrồi đưa ra toà như nhóm Ðại-Việt trước đây, hoặc dùng Ares làm gián điệp đôi ép buộc Ares phải liên lạc thường xuyên với Saigon.

Ðúng 9 giờ sáng ngày 8 tháng Tám, Saigon nhận được điện văn của Ares sau gần hai tháng mất liên lạc. Với sĩ-quan an-ninh Bắc Việt bên cạnh, người điệp viên cắt nghĩa về sự vắng mặt của mình. Mẹ và em gái anh ta không đủ tiền nạp thuế nông nghiệp, do đó anh ta phải lánh mặt lên Hà-Nội tạm thời. Saigon tạm tin vào những điều báo cáo của Ares và đồng ý gửi tiếp tế cho Ares theo lời yêu-cầu của anh ta. Chiếc Nautilus I lại rời Ðà-Nẵng ngày 12 tháng Giêng năm 1962 đem đồ tiếp tế cho Ares. Chiếc này đến vịnh Hạ-Long không gặp trở ngại, sau đó tự nhiên mất liên lạc vô tuyến một cách bí mật.

Phòng 45 lo ngại cho số phận chiếc Nautilus I cùng với thủy thủ đoàn, mặc dầu có sự nghi ngờ điệp viên Ares... Có lẽ chiếc tầu gặp tầu tuần duyên của Bắc Việt khi đến gần bãi biển. Phòng 45 cho đóng chiếc tầu khác lấy tên là Nautilus 2. Chiếc này sẵng sàng vào tháng Tư cùng với thủy thủ đoàn tuyển mộ từ những người Bắc di cư và huấn luyện tại Ðà-Nẵng.

Ngày 11 tháng Tư, chiếcNautilus 2 rời Ðà-Nẵng ra Bắc hướng về vịnh Hạ-Long. Hai ngày sau ra đến ngoài khơi Quảng-Ninh. Sáu người trong nhóm mười bốn thủy thủ đoàn, xuống xuồng cao-su chở theo đồ tiếp vận cho Ares gồm bẩy hộp thiếc, và hai mươi ba hộp carton bọc trong bao plastic. Họ chèo xuồng đến một đảo nhỏ trong vịnh Hạ-Long, chất hàng lên đảo và lấy cây che đi.

Khi chiếc Nautilus 2 về đến Ðà-Nẵng an toàn, phòng 45 ăn mừng sự thành công của chuyến tiếp tế đầu tiên cho điệp viên Ares. Sau đó ngày 2 tháng Năm, họ gửi tín hiệu chỉ chỗ dấu hàngcho điệp viên Ares. Ít lâu sau, Ares báo cáo đã thâu hồi đồ tiếp vận kể cả máy truyền tin cùng với máy chụp ảnh 35mm.
Kenneth Conboy, Dale Andradé.
Carrollton, Cọp Khánh-Hòa

Thứ Tư, 11 tháng 9, 2013

China , bài 3 : Người Trung Quốc không hiểu tiếng nói của nhau


 Phương Anh
Truyền thông Trung Quốc đồng loạt đưa tin, chính phủ nước này đang nỗ lực để đồng nhất ngôn ngữ trên toàn đất nước. Khoảng hơn 400 triệu người dân nước này không thể nói tiếng tiếng Quan Thoại trong khi phần lớn số dân còn lại sử dụng quốc ngữ rất tệ.
Trong nhiều thập kỷ qua, Đảng Cộng sản Trung Quốc đã nỗ lực để thúc đẩy tình đoàn kết trong một quốc gia có hàng ngàn tiếng địa phương. Khoảng cách địa lý quá lớn, thiếu đầu tư vào giáo dục, đặc biệt ở những vùng nông thôn nghèo hẻo lánh dẫn đến những chuyện dở khóc dở cười.
Các quan chức Trung Quốc đã phải thừa nhận rằng có thể người dân của nước họ sẽ không bao giờ nói chung tiếng Quan Thoại.

Tân Hoa Xã dẫn lời phát ngôn viên Xu Mei của Bộ giáo dục Trung Quốc cho biết: “Chỉ có 70% người dân nước này có thể sử dụng tiếng Quan Thoại, nhiều người trong số họ sử dụng quốc ngữ ở mức tệ. 30% còn lại (hơn 400 triệu dân) không thể dùng tiếng Quan Thoại”.
Dù mang đến những lợi ích thiết thực nhưng chiến dịch khuyến khích sử dụng tiếng Quan Thoại từ lâu đã gây ra nhiều tranh cãi, thậm chí cả tình trạng bất ổn tại quốc gia đông dân này.
Hiện, Tây Tạng đang biểu tình để phản đối việc sử dụng tiếng Quan Thoại trong trường học. Năm 2010, hàng trăm người đã đổ xuống đường phố Quảng Châu vì cho rằng các nhà chức trách nước này đang cố cách ly với Quảng Châu.
Phương Anh

LỜI BÀN :
Qua 3 bài China vừa rồi, chắc chắn mỗi người sẽ có một cái nhìn về " sự đoàn kết, thống nhất, hùng mạnh, hài hòa " của một nước TQ xhcn lớn nhất thế giới và tương lai của nó ra sao rồi.
Chắc chắn một điều là, mọi dân tộc " thiểu số " hơn tộc Hán ở TQ chẳng bao giờ vừa lòng với vị thế đàn em của mình , và khi có cơ hội, vấn đề là làm sao được độc lập...
Và khi đó, TQ sẽ tan rã ... 

China, Bài 2 : Nhân nghe Giáo sư Trung Quốc gọi dân Hồng Kông là ‘đồ chó’



“…họ tự coi mình không phải là người Trung Quốc. Đã là người Trung Quốc thì phải nói tiếng quan thoại. Không nói tiếng quan thoại là con hoang, là chó của Anh…”
Trong cuộc phỏng vấn gây tranh cãi, Giáo sư Khổng cũng cảnh báo dân Hong Kong, rằng họ không nên ‘giỡn mặt’ với người đại lục: “Chúng tôi sẽ ngừng cấp nước. Chúng tôi sẽ ngừng bán rau quả. Chúng tôi sẽ ngừng cung cấp lúa gạo. Các vị tự đi mà trồng.” (BBC 24/1/2012)
Lời bàn của Khuất Đẩu
Đầu năm rồng nghe một vị giáo sư khả kính dạy môn Trung quốc học tại đại học Bắc Kinh, người tự nhận là giòng dõi của Khổng tử, trước ống kính truyền hình lại chửi dân Hồng Kông là “con hoang” là “đồ chó” khiến một dân Á Nàm Zành hạng hai là Khuất Đẩu tôi buồn năm phút.
Buồn vì không ngờ khẩu khí của một kẻ mang danh giáo sư lại là con cháu của “Vạn thế sư biểu” mà hàng tôm hàng cá và du côn đến như vậy.
Chỉ vì dân Hồng Kông chỉ thích nói tiếng Quảng Đông chứ không thích nói tiếng quan thoại trong giao tiếp mà bị mắng xối xả trên đài, thì hàng ngàn người dắt theo chó biểu tình trước tòa đại diện của Bắc Kinh là chuyện đương nhiên, chỉ tiếc rằng thiếu bao cu đã dùng rồi để bịt mõm họ Khổng.
Khổng nói “tôi biết nhiều người trong số họ tự coi mình không phải là người Trung Quốc. Đã là người Trung Quốc thì phải nói tiếng quan thoại. Không nói tiếng quan thoại là con hoang, là chó của Anh”.
Mà tiếng quan thoại thực ra chỉ là tiếng Bắc Kinh, tiếng của vài chục triệu người, chẳng qua nhà nước qui định dùng làm tiếng phổ thông chứ không phải là tiếng mẹ đẻ. Cứ cho rằng tiếng Bắc Kinh nói nghe như tiếng Anh, hay và đẹp hơn tiếng Quảng Đông, cũng không thể nhục mạ họ là con hoang nếu họ không dùng tiếng quan thoại như một ngoại ngữ. Cái cách rủa sả khinh miệt đó thực chẳng phải là cung cách của người có giáo dục. Nếu bảo rằng họ Khổng đang dạy học thì cái học của Khổng là học phiệt.
Những người Hoa ở Chợ Lớn và nhiều thành phố khác ở nước ta, đã mấy người biết tiếng quan thoại, chẳng lẽ họ cũng là con hoang? Thảo nào, năm 1979 lấy cớ bị Việt Nam đàn áp, hơn 300.000 người Hoa bỏ cả cửa nhà tài sản nghe theo tiếng gọi của đất mẹ bầy đàn trở về, liền bị coi là người Á nàm zành tị nạn, bị đày vào vùng rừng núi đầy lam sơn chướng khí ở biên giới vừa mới chiếm của Việt Nam, khiến họ trở thành những kẻ không quê hương, không tổ quốc!
Hồng Kông hơn 100 năm trước là nhượng địa của Anh. Chỉ là một làng đánh cá bé nhỏ mà bọn tư bản giãy chết đã dựng nên một Hồng Kông sầm uất, trù phú vào bậc nhất của châu Á. Đến nay, cái khúc ruột “cho không” ấy đã tiếp thêm máu cho đất mẹ xanh xao vì bị con ma cà rồng CS thời Mao chủ tịch hút hết máu. Giờ béo tốt đẫy đà nhờ “mèo trắng mèo đen, mèo nào cũng được miễn là bắt được chuột”, CS Hoa lục đã quên mất những tháng năm ô nhục bị đế quốc cắn xé từng mảnh tả tơi, phưỡn bụng ra mà lên mặt đại Hán.
Giọng điệu của Khổng Khánh Đồng chính là giọng điệu của Trung nam hải. Chưa bao giờ giới trí thức Trung Quốc lại lớn tiếng mắng chửi dọa nạt như lúc này. Với “bọn chó của Anh” thì đừng có mà hỗn hào liếm mặt, coi chừng sẽ cúp nước, cúp lương thực. Với Việt Nam thì mắng là đồ vô ơn, đòi dạy thêm một bài học nữa, trong khi chính xương máu của Việt Nam đã đổ ra trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, thực sự không phải cứu nước mình mà để cứu đàn anh thoát khỏi sự bao vây của Mỹ.
Khi Anh đáo hạn phải giao Hồng Kông cho Bắc Kinh, dân Hồng Kông đã cuống lên định làm một cuộc di cư vĩ đại, đến nỗi Bắc Kinh phải hứa cho tự trị trong 100 năm. Chẳng phải vì thương bọn “chó của Anh” mà vì sợ của cải bị mang theo, tức là sợ bị chảy máu. Dẫu sao cái chiến lược của họ Đặng cũng khá khôn ngoan. Không như ở miền nam Việt Nam, vì bị cải tạo tư sản, vì thù hận giai cấp mà cả triệu người phải bỏ nước ra đi.
Buồn năm phút, nhưng Đẩu tôi cũng vui năm phút.
Vui vì nghe bọn họ chửi nhau. Dân Hồng Kông chửi dân Hoa lục là nhà quê, không biết phép lịch sự ở nơi công cộng (hút thuốc, xả rác). Tệ hơn là bòn mót một cách hèn hạ. Có cả ngàn người biểu tình phản đối đàn bà Hoa lục mang bụng bầu tới Hồng Kông đẻ, để được hưởng trợ cấp từ những đồng tiền thuế của dân Hồng Kông.
Đàn bà đã thế, đàn ông còn hèn hạ hơn khi ùn ùn sang Hồng Kông để xem cho bằng được 9 phút làm tình không bị cắt trong phim Sắc Giới.
Tuy là thuộc địa của Anh, nhưng sống trong không khí tự do dân chủ, nên bao nhiêu sách bị cấm ở Hoa lục đều xuất bản thoải mái ở Hồng Kông. Chính ở đây, hằng năm vẫn diễn ra lễ kỷ niệm cuộc đàn áp đẫm máu ở Thiên An môn, trong khi các bà mẹ có con bị giết ở Hoa lục không dám gặp nhau.
Cũng chính ở đây vị bác sĩ riêng của Mao Xếnh Xáng đã tung hê cuộc sống tình dục bẩn thỉu, bệnh hoạn của người “cầm lái vĩ đại”.
Hồng Kông chính là khung cửa hẹp của Trung Quốc. Nắng gió tự do, từ đó không ngớt lùa vào đại lục cho bớt tối tăm ngột ngạt. Nơi có những nghệ sĩ đích thực như Ngải Vị Vị bị trù dập, có Lưu Hiểu Ba tuy được giải Nobel nhưng phải nằm mẹp sau song sắt để chiếc ghế trống thay mặt mình nhận giải thưởng. Nghĩ cho cùng, họ Khổng lớn tiếng chửi dân Hồng Kông chẳng qua vì sợ đó thôi, sợ cái mùi hoa dân chủ bọn tư bản Anh đã “thâm độc” cài sẵn bên thềm cửa sổ.

Ngải Vị Vị
Khuất Đẩu