(Trích Luận ngữ Tân thư)
Phạm Lưu Vũ
Tục
nhân lỡ một người thầy thì ôm hận suốt đời. Thánh nhân lỡ một người
thầy thì ôm hận nghìn thu. Tục nhân ôm hận vì không gặp cơ hội được trên
người. Thánh nhân ôm hận vì cảm thấy có lỗi nặng với những đời sau.
Việc hôm nay, té ra có nguyên do từ bao đời trước nữa. Ví dụ cái chuyện
thật, giả của muôn đời. Muôn đời,thật thà là món trang sức rẻ tiền của
dối trá, dối trá là chủ nhân đích thực của thật thà. Than ôi! cái đạo
nói thật chẳng phải tầm thường. Đến thánh nhân cũng muốn cầu còn chẳng
được. Thế gian xưa nay vẫn leo lẻo đấy, cứ tưởng mọi chuyện rồi sẽ rõ
như ban ngày. Vậy mà rốt cuộc, tìm mãi có thấy tí sự thật nào đâu. Chung
quy cũng tại một bận lỡ làng của bậc Vạn Thế Sư mà sinh ra cả…
Vẫn “Lời tựa“ trong Luận ngữ Tân thư. Sau đây lại xin trích một phần của bộ sách đó:
Khổng
Tử có lúc dạy tới ba ngàn học trò. Vậy mà vẫn lũ lượt người đến xin
học. Vì thế mới đặt ra lệ phải kiểm tra, phỏng vấn trước khi nhận, đại
khái cũng hao hao như thi đại học hoặc cao đẳng bây giờ. Phụ trách khâu
tuyển sinh này gồm các thầy Tử Cống, Tử Nạp, Tử Hối, Tử Lộ, Tử Thâm, Tử
Thượng, Tử Hạ. Toàn những thầy mà đời sau xếp vào bậc Tiên hiền cả. Từ
khi đặt ra lệ ấy, thiên hạ càng đua nhau đến xin nhập học, công việc
giáo dục phát đạt lên trông thấy. Bận rộn nhất là các thầy Tử Cống, Tử
Nạp, Tử Hối, Tử Lộ. Các thầy thay nhau bán hồ sơ, xét duyệt hồ sơ, kiểm
tra thí sinh bằng mồm, bằng mũi, bằng mắt, cả bằng tay… nữa. Kẻ thì cho
nhập học, kẻ thì đuổi thẳng cổ. Chung quy cái việc thi tuyển thì xưa nay
đều có trong, có đục cả, không có gì đáng chép lại. Chỉ xin chép ra đây
mấy chuyện lạ xảy ra trong lúc tuyển sinh ấy. Không hiểu sao lại chỉ
rơi vào các thầy Tử Thâm, Tử Thượng và Tử Hạ.
Một hôm, có
một lão già nom hơi cổ quái, gương mặt tuy gồ ghề song hai mắt rất long
lanh, dáng đi nhanh nhẹn, hoạt bát đến gõ cửa xin nhập học. Tử Thâm được
phân công ra tiếp. Tử Thâm hỏi:
“Cụ già thế này, sắp xuống lỗ rồi còn học làm gì nữa cho mệt?”.
Lão kia trả lời:
“Lão chẳng học cái gì khác. Song trước khi xuống lỗ cũng muốn học cho được mỗi cái cách nói thật đó mà thôi”.
Tử Thâm ngạc nhiên hỏi lại:
“Tại sao cụ phải học cách nói thật?”.
Lão kia trả lời:
“Lão
từng nghe cổ nhân truyền lại rằng, nói thật một câu sẽ kinh động đến cả
trời đất, quỷ thần. Vậy mà lão sống ngần này tuổi đầu rồi, tuyệt chẳng
bao giờ thấy trời đất, quỷ thần động lòng gì cả. Điều đó phải chăng vì
thiên hạ toàn kẻ nói dối. Tất nhiên trong đó có cả lão nữa. Vì thế lão
mới phải đến đây để học cái đạo nói thật. Rất mong Phu Tử chiếu cố chỉ
giáo cho, dẫu lão nói thật được một câu rồi chui xuống lỗ cũng hả lòng”.
Tử Thâm nghe ra bèn bảo:
“Rất tiếc ở đây chỉ dạy Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín. Không dạy nói thật. Cụ đi tìm nơi khác mà học thôi”.
Lão kia nghe Tử Thâm nói thì có vẻ hơi thất vọng, song vẫn cố vớt vát:
“Lão nghe tiếng Phu Tử nức nở cả thiên hạ. Vậy ngoài Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín ra, Phu Tử còn dạy cái gì nữa?“.
Tử Thâm trả lời:
“Dạy
đủ lục nghệ. Từ làm chính trị đến đi buôn, từ làm hàng thật đến hàng
giả, từ chế đồ xịn đến đồ lô… Học đến đâu sáng ra đến đó. Cứ gọi là vua
ra vua, tôi ra tôi. Bố ra bố, con ra con. Chồng ra chồng, vợ ra vợ. Thầy
ra thầy, trò ra trò. Trên đời này động đến môn nào Phu Tử cũng tuyệt
đối tinh thông cả. Duy có cái môn nói thật ấy thì bản sự đây quả chưa
nghe nói đến bao giờ”.
Lão kia nghe thấy thế thì thất vọng quá, bèn thở dài một tiếng rồi than:
“Thế
mà lão phu đây cứ tưởng bở. Ôi! Đến cửa này cũng không học được cách
nói thật nữa thì lão đành nói dối cho trọn kiếp cùng với thiên hạ thôi”.
Than
xong, lão ta vái Tử Thâm một cái rồi đi ra. Tử Thâm bèn vào kể lại toàn
bộ đầu đuôi với Khổng Tử. Khổng Tử nghe kể đến đâu ngạc nhiên đến đấy.
Nghe xong, Ngài trầm ngâm một lát rồi bảo:
“Ngươi
chưa nghe nói đến cái môn nói thật bao giờ cũng phải. Học thuyết của ta
toàn thị là chính trị. Mà đã gọi là chính trị thì cần gì phải biết cách
nói thật. Thời thế này mà vẫn còn người muốn học cái đạo nói thật ư?
Thì chính ta cũng đang muốn tìm thầy để học cái môn đệ nhất ngu ngốc ấy
mà chưa tìm ra đấy”.
Một
hôm khác, có người ăn mặc sang trọng ra dáng một vị quan to, xe cộ rình
rang, tiền hô hậu ủng đến xin học. Tử Thượng được phân công ra tiếp. Tử
Thượng lễ phép hỏi:
“Dám xin hỏi ông làm chức quan gì?”.
Ông kia trả lời:
“Chức gì lớn nhất mà thầy có thể nghĩ tới được”.
Tử Thượng hỏi tiếp:
“Vậy ông còn muốn học Phu Tử để làm gì nữa?”.
Ông kia trả lời:
“Ta học để bịt mõm thiên hạ”.
Tử Thượng nghe thấy hơi lạ tai. Bèn hỏi tiếp:
“Thế nào là bịt mõm thiên hạ?”.
Ông kia trả lời:
“Thầy
còn giả đò không biết ư? Ta vốn xuất thân làm nghề hoạn lợn, song từ
khi thành đạt thì chẳng thiếu thứ gì. Tước vị, bổng lộc, quyền hành, vây
cánh… đủ cả. Chỉ phải cái bọn kẻ sĩ trong thiên hạ thấy ta không học
hành gì, cứ chửi vụng ta là đồ thượng đẳng vô học. Ta thì không thèm
chấp, song vợ con, cháu chắt ta thì không khỏi có lúc phiền lòng. Nay ta
đến đây cốt để bù cái chỗ khiếm khuyết duy nhất ấy của mình mà thôi, để
chúng nó không còn chửi vào đâu được nữa”.
Tử
Thượng nghe ông ta nói, lưỡng lự không biết giải quyết ra sao. Cũng
đành phải vào thưa lại với Khổng Tử. Khổng Tử thản nhiên phán ngay:
“Kẻ
ấy đâu có cần học hành gì. Hắn đến đây chỉ cốt cho thiên hạ trông thấy
hắn cũng từ cửa ta mà đi ra giống như những kẻ sĩ khác đó thôi”.
Tử
Thượng nghe thầy nói chợt tỉnh ngộ, bèn lập tức trở ra. Quả nhiên thấy
ông kia cùng đám lâu la, xe cộ đã rầm rĩ quay ra đến cổng, vừa đi vừa
quảng cáo oang oang, cố tình cho thiên hạ chú ý. Chẳng thèm nói gì đến
chuyện xin học nữa. Tử Thượng phục Khổng Tử quá, chỉ biết vừa nhìn theo
vừa lẩm bẩm:
“Ta ở ngay trong nhà thầy, đọc sách thầy, nghe thầy giảng… Mà đến bây giờ mới hiểu được ý nghĩa của hai chữ: Cửa Khổng”.
Lại
một hôm khác, có người đội nón tơi, đi chân đất, dáng như ăn mày đến
xin nhập học. Cố nhiên là Tử Hạ được phân công ra tiếp. Tử Hạ hỏi:
“Anh muốn làm học trò của Phu Tử với mục đích gì?”.
Bất ngờ người ấy không trả lời mà hỏi lại:
“Thầy hãy cho tôi hỏi trước. Thầy học Phu Tử để làm gì?”.
Tử Hạ thấy thế thì hơi cáu, song vẫn nhã nhặn trả lời:
“Bình sinh ta học Phu Tử chỉ cốt để làm người”.
Người ấy hỏi tiếp:
“Thế đã làm người được chưa?”.
Tử Hạ vẫn cố gắng nhã nhặn:
“Tất nhiên là chưa. Vậy cho nên vẫn đang phải học tiếp”.
Người ấy bảo:
“Thì
ra thiên hạ đều cùng một giuộc cả. Kẻ nào cũng chỉ được cái leo lẻo cái
lỗ mồm. Có biết đâu rằng làm người mà dở dang thì chi bằng làm vật
quách cho rồi. Còn tôi muốn làm học trò của Ngài chỉ cốt được ăn thịt”.
Tử Hạ tròn mắt ngạc nhiên, bởi chưa nghe ai trả lời như thế bao giờ. Bèn hỏi tiếp:
“Tại sao anh lại nghĩ rằng làm học trò của Phu Tử thì sẽ được ăn thịt?”.
Người ấy trả lời:
“Tôi
nghe nói Phu Tử thịt thái không vuông thì không ăn. Mà con lợn, con gà,
con dê, con bò… có con nào vuông đâu. Thế thì dứt khoát sẽ có nhiều chỗ
phải bỏ đi. Tôi chỉ xin được chén những chỗ bỏ đi ấy mà thôi”.
Tử
Hạ nghe nói cảm thấy hơi có lý. Song cũng chẳng biết quyết định ra sao,
đành phải vào thưa lại nguyên văn với Khổng Tử. Khổng Tử ngẩn người ra
một lát rồi mừng quớ lên bảo:
“Kẻ
ấy chính là thầy ta đó. Ta vốn đã để ý dò tìm bấy lâu nay mà chưa tìm
thấy. Ngươi mau mau ra mời y vào đây, để chính ta phải làm lễ bái sư”.
Tử
Hạ vội vàng chạy ra thì người kia đã bỏ đi đâu mất. Làm cho không những
Khổng Tử, mà những đời sau, cho đến tận bây giờ, ai nghe đến câu chuyện
này cũng than thở, tiếc rẻ mãi.
Về
sau, cũng nhân chuyện này, có ông Mục công người đất Kinh còn bình luận
một câu đại ý: “Chỗ bỏ đi hay là phần còn lại. Thế gian này, trừ thánh
nhân ra, chính cái phần còn lại ấy của thiên hạ mới là thầy của thánh
nhân vậy”.
P. L. V.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét