Nguyễn Thúy Ái
1 - Bàn tay lạ
2 - Cơn giông
5 - Bạn trai 
8 - Ông thổi kèn 
9 - Những món đồ gỗ
12-  Đêm qua đi đâu   
13  - Trở  về Lệ chi viên 
| 
1 | 
       Sau Tết, trong dịp họp mặt bạn bè, có một người bạn trai
  cũ chúc Phương hạnh phúc, Phương bảo cái đó có rồi chúc cái khác đi. Anh ta
  chúc cô trẻ đẹp mãi. Lời chúc này không thực tế vì nhan sắc là thứ rất mau
  phai tàn, nhiều khi chỉ một lần sinh nở, một cơn bệnh, một cú sốc hay một
  biến động nào đó trong cuộc sống là lập tức người ta xuống sắc ngay. Thêm
  nữa, thời gian bao giờ cũng là kẻ thù của sắc đẹp. Có người chúc cô phát tài.
  Phương nghĩ, vài năm gần đây mọi người giàu lên, hay mua sắm nên tiền vô nhà
  cô như nước, không cần phải chúc. Cơ sở sản xuất của chồng cô cứ như diều gặp
  gió. Còn cô, làm việc ở một cơ quan nhà nước nhưng tiền lương, tiền thưởng
  cũng tăng cao. Phương không nghĩ rằng có ngày mình giàu như vậy, cô có giỏi
  giang gì đâu, lại sống như trên mây trên gió, cũng thành tỷ phú như ai.  
Giàu có kể ra cũng vui. Toàn từng
  bảo, muốn khỏi nô lệ tiền bạc thì phải gắng làm để có thật nhiều tiền. Nhưng
  có lúc nào Phương thấy mình nghèo đâu, kể cả lúc đi học phải mặc áo vá, đi xe
  đạp… Lúc nào cô cũng rộn rã cười vui khiến có người ngạc nhiên, sự nghèo khổ
  về vật chất không kéo được tâm hồn bay bổng của cô xuống. Bây giờ Phương đã
  nhận ra mình là kẻ bất thường về tâm hồn. Con gái đầu lòng của họ đã mười lăm
  tuổi, bạn bè nó tới chơi gọi Phương bằng “bác” khiến cô giật mình. Mới đây
  thôi, những cô gái trẻ cỡ đó vẫn gọi Phương bằng chị, bằng cô… Phương biết
  mình đang già, sắp già… Nhưng tự trong lòng lúc nào Phương cũng thấy mình rất
  trẻ, hay ấu trĩ thì đúng hơn. Tâm hồn cô đã dừng lại từ lâu ở tuổi mười tám
  đôi mươi. Toàn bảo cũng còn may, có người còn dừng lại ở tuổi lên tám kìa!
  Nhìn bên ngoài người ta có thể đoán được tuổi tác, những người cùng tuổi thì
  mức độ già trẻ gần như nhau nhưng mức độ trưởng thành bên trong thì rất khác
  nhau. Nếu không kiềm chế, suy nghĩ, nhiều lúc cô sẽ hành xử như một cô gái ở
  lứa tuổi mới lớn. Trong giấc mơ lúc nào Phương cũng thấy mình là một cô bé.
  Toàn cùng cư xử với vợ như vậy. Biết Phương không lớn được, anh thấy vui vui
  và cũng lo sợ vu vơ điều gì đó. 
* 
Mấy ngày nay đến cơ quan, các chị
  đồng nghiệp cứ nhìn mặt Phương là quở: 
        - Chồng về có
  một tuần mà sao hốc hác thế kia?  
Phương không thể giấu được sự hốc
  hác ấy dưới lớp son phấn. Mấy bà ở đây đều thuộc lớp đàn chị, từ bốn mươi trở
  lên, tuổi đó mấy bà tinh lắm, sắc lắm. Nhìn thoáng qua một cái là biết hết.
  Phương muốn kể cho họ nghe mọi chuyện nhưng kể ra thì kỳ.  
Suốt đêm qua giấc ngủ chập chờn
  của cô đầy ác mộng. Sau một tháng đi xa về, đêm nào Toàn cũng yêu vợ, vuốt ve
  vợ một cách nồng nhiệt hơn bao giờ. Có lẽ anh tìm cảm giác ôm vợ trong vòng
  tay lành lặn… Trước đây việc yêu đương dày đặc ấy khiến cô dã dượi, mệt mỏi
  nhưng hạnh phúc. Còn bây giờ thì khác, cái bàn tay lạ có lông lá nhiều hơn mà
  Toàn mới “tậu” về, như lời nói đùa của một số bạn bè làm Phương co rúm khi nó
  bắt đầu đặt lên bụng cô. Mọi háo hức chờ đợi của cô bỗng dưng tan biến, nhưng
  sợ chồng thất vọng, mất vui nên cô vẫn để bàn tay lạ ấy lướt trên thân thể
  mình và sau đó khi chồng ngủ say cô lại nằm thao thức và len lén ngó xuống
  bàn tay mà Toàn đang duỗi ra thoải mái trên chăn nệm. Hẳn đó là bàn tay của
  một người đàn ông có dáng người thô đậm, da ngăm đen… Bàn tay ấy không thích
  hợp với dáng người cao ráo, trắng trẻo của Toàn. Phương nghiệm ra rằng hầu
  hết hình dáng, cốt cách bàn tay của mỗi người đều tương ứng với vóc dáng, tính
  cách của họ. Bàn tay nói rất nhiều về chủ nhân của nó nên thuật xem chỉ tay,
  tướng tay vẫn cứ tồn tại. Hồi mới ra trường được phân công về một cơ quan
  đóng xa thành phố, chưa hiểu hết môi trường mới, cô có một vài lỗi nhỏ trong
  sinh hoạt, và được gọi lên gặp một phụ nữ trong ban lãnh đạo, một phụ nữ lớn
  hơn Phương khá nhiều tuổi. Cô ngồi cúi gằm nghe chị ta kiểm điểm mình với
  giọng nói tình nghĩa ngọt ngào theo cách giấm được pha rất nhiều đường.
  Phương không dám nhìn vào khuôn mặt đẹp mà theo cô, khá phúc hậu và trắng
  trẻo. Thế nhưng, nhìn đôi tay của cô gái lớn tuổi ấy khi đặt trên bàn, Phương
  thấy lạ lùng làm sao: So với thân hình đầy đặn hấp dẫn, đôi tay ấy như của
  một người khác gắn vào, nó đen đúa, gầy quắt queo như những cành củi khô,
  móng tay để dài, chải chuốt nhưng cúp vào như những cái vuốt cú vọ hung hiểm
  khiến cô liên tưởng đến bàn tay của một mụ phù thủy… Sau này trong chuyên
  môn, Phương khá có uy tín, Thủy, tên người phụ nữ ấy mà không ít đồng nghiệp
  vẫn lén gọi sau lưng là “Phù Thủy”, tìm cách làm thân với cô, lôi kéo cô về
  cùng phe nhưng cô vẫn cứ sợ… Cho đến khi mọi việc bị đổ bể, Thủy bị kỷ luật,
  phơi bày ra bao nhiêu âm mưu ghê gớm để có một vị trí cao hơn trong cơ quan
  lẫn mưu kế cướp chồng của một người đàn bà khác…  
Sau những suy nghĩ miên man cô
  thiếp đi. Trong giấc ngủ, bàn tay lạ ấy lại tiếp tục lần mò trên thân thể cô
  với những động tác ham hố thô bạo mà chưa bao giờ Toàn có. Cô hoảng sợ ú ớ
  khiến Toàn thức giấc, cô bảo em nằm mơ… Để khỏi bị ám ảnh bởi bàn tay lạ, ban
  ngày Phương tránh nhìn vào bàn tay trái của chồng, cô cố mường tượng lại cánh
  tay bị cụt ngày xưa của anh, một bàn tay không có ngón bị đứt hơn nửa vì tai
  nạn lao động. Toàn luôn mặc áo tay dài để che phủ bàn tay bị mất.  
Khi nhận lời lấy Toàn, Phương bị
  mẹ cật vấn: 
 - Sao có người lành lặn đẹp
  trai theo đuổi không lấy lại đi lấy một thằng cụt tay?  
Phương đáp:  
 - Mẹ ơi, người ta yêu đâu
  phải sự hoàn hảo mà còn vì cả sự khiếm khuyết.  
 - Lãng mạn, lý thuyết… giống
  cha mày y hệt! 
Nhưng cha Phương cũng không ủng
  hộ, bạn bè xì xầm, xem đó như là một sự thất bại của Phương. Thậm chí họ ác
  ý, tọc mạch cho rằng Phương bị “sao đó” nên mới lấy người chồng như vậy. Vì
  trước đây Phương có một mối tình với một người rất đẹp trai, có học vấn cao
  nhưng Phương đã chủ động chia tay và sau đó gặp Toàn. Người đàn ông lầm lì bí
  ẩn, ốm đến vêu vao đó đã cuốn hút cô. Nhưng hình như không phải chỉ có bấy
  nhiêu, mà còn vì Toàn thật cô đơn, khốn khó và thất nghiệp nữa. Cô nghĩ một
  người như vậy sẽ dành hết trái tim cho mình và những gì cô làm cho Toàn sẽ có
  ý nghĩa biết bao… Còn bạn bè Toàn thì lo ngại cho anh. Giữa lúc sa cơ, mất
  việc, mất tay lại cưới được một cô vợ trẻ măng, thân hình gợi cảm và duyên
  dáng đến mức bất cứ đàn ông nào cũng cảm thấy sẽ rất hạnh phúc khi được sống
  với cô. Phương vượt qua dư luận để lấy Toàn không mấy khó khăn. Nhưng cô lại
  thấy không phải dễ dàng khi sống với người đàn ông chỉ có một bàn tay, được
  âu yếm ôm ấp và dắt đi chơi chỉ bằng một tay. Dù được chồng yêu đương nồng
  nhiệt nhưng lúc nào cô cũng thấy thiếu. Có đủ hai bàn tay không chỉ là sự
  tiện lợi mà còn là vẻ đẹp hài hòa của con người, nhất là những khi cùng chồng
  đi ra ngoài. Mỗi khi gặp người quen, họ chào Phương mà mắt thì liếc vào nơi
  cổ tay áo trống của Toàn. Hoặc trong những cuộc gặp gỡ tiệc tùng, nhiều người
  đàn ông ghen tỵ với Toàn đã cố ý khoe khoang sự lành lặn khéo léo của đôi tay
  mình. Toàn không phải không nhận ra điều đó, anh đã bù đắp cho vợ bằng cách
  dồn tất cả sự trìu mến đắm say của mình vào bàn tay còn lại. Và dần dần
  Phương cũng quen với sự thiếu hụt ấy, bởi đó là một bàn tay ấm áp và rất mẫn
  cảm, mê say, biết dò tìm những kho báu cảm xúc trên thân thể vợ, lắng nghe
  được những nỗi ấm lạnh thầm kín nơi cô. Với một bàn tay, Toàn cũng làm nên cơ
  nghiệp. Từ thất nghiệp, ở nhà thuê, họ đã có nhà cửa đất đai… Nhưng cũng có
  lúc người ta nhắc đến cô, người phụ nữ có chồng cụt tay với sự ái ngại, vết
  thương ấy ở Toàn đã lành lặn từ lâu nhưng lại nhói đau trong cô. Giá mà Toàn
  có đủ hai tay, hạnh phúc của cô thật viên mãn. Có lần Toàn cũng lắp một bàn
  tay giả cho có vẻ thẩm mỹ hơn nhưng chỉ thấy nó vướng víu và Phương thì ác
  cảm với cái bàn tay bằng chất dẻo không cử động được và vô cảm ấy. Mỗi khi lỡ
  đụng vào nó là cô cứ giật thót người. Rồi chính Toàn cũng thấy nó vô dụng nên
  tự tháo ra.  
Cơ sở sản xuất của Toàn ngày càng
  phát triển. Những món đồ gỗ trong nhà họ do Toàn thiết kế và làm bằng gỗ quý
  với những kiểu dáng độc đáo khiến nhiều người đến nhà chơi đòi mua với giá
  cao hoặc đặt làm cho họ một món khác tương tự. Mấy năm học ở trường mỹ thuật của
  Toàn cũng không đến nỗi hoang phí. Không đồng hành với cọ, với bố, với màu,
  anh đồng hành với gỗ, cưa, đục… Mỗi đêm nằm ngủ trong căn phòng có nhiều vật
  dụng bằng gỗ, Phương lắng nghe hơi thở của từng thớ gỗ, nghe cả hương thơm
  của đại ngàn còn vương vấn đâu đây. Cách đây hơn mười năm Toàn vay mượn và
  gom góp tiền lên Lâm Đồng mua một vạt đất lởm chởm sỏi đá gần núi để trồng
  rừng, nhờ gia đình một người anh họ sống trên đó coi ngó. Bây giờ mỗi lần lên
  thăm, cột võng nằm đung đưa và nghêu ngao hát giữa những tán lá mát rượi,
  Phương bảo chồng: “Ít nhất anh cũng đã trả lại cho rừng phần nào anh đã lấy
  đi của nó”. 
Đi lại, giao thiệp nhiều, thiếu
  một bàn tay thật bất tiện, có vẻ giảm đi những giá trị đang có nên ai cũng
  khuyên Toàn nên đến bệnh viện nối một bàn tay khác, dư tiền tội gì phải để
  thiếu một bàn tay. Toàn nghe lời đến bệnh viện dò hỏi. Bác sĩ khám, làm thủ
  tục nhưng phải chờ đến lúc có ai chịu hiến bàn tay. Toàn chờ khá lâu. Người
  tự nguyện hiến chi rất hiếm, hoặc có thì người hiến già quá hay cơ địa không
  hợp với anh sao đó. Còn những người bị tai nạn biết không  thể qua được
  nhưng mấy ai chịu hiến một phần thân thể người thân của mình. Bảo vệ thân thể
  lành lặn ngay cả khi đã chết là một quan niệm đã ăn sâu vào tâm thức của khá
  nhiều người. Ngày xưa có những người dám cắt phần thân thể đàn ông của mình
  để trở thành hoạn quan, vào cung cấm làm những công việc dở hơi nhưng phần cơ
  thể bỏ đi ấy vẫn là “của quý”, được giữ gìn cẩn thận, ghi tên hẳn hoi để lỡ
  khi kinh thành có biến, họ nháo nhào tìm đến lấy lại để chết mang theo cho
  toàn thây. Sống không tiếc mà chết lại tiếc, thật quái gở. Chờ mãi vẫn không
  tìm được bàn tay thích hợp, có lần bệnh viện gọi anh đến làm thủ tục ghép chi
  nhưng đó là một bàn tay phụ nữ nên Phương không chịu. Cô rất ghét những người
  đàn ông có bàn tay nhỏ nhắn, mềm mại như tay phụ nữ. Tưởng tượng đến bàn tay
  phụ nữ ấy vuốt ve mình cô nổi da gà. Một người bạn làm ăn của Toàn đi Trung
  Quốc thay thận về bảo bên ấy có thể thay bàn tay cho anh nhanh hơn. Toàn liên
  hệ được với bệnh viện bên ấy, anh làm một chuyến du lịch và nhân thể nối lại
  bàn tay… Một tháng sau Toàn về nhà với một bàn tay mới, trông anh hồng hào
  phương phi hẳn ra. Phương ngỡ ngàng nhìn bàn tay của chồng. Cô quan sát rất
  kỹ. Tất nhiên, tay của chồng mình mà. Các chuyên gia phẫu thuật đã cắt thêm
  một đoạn ngắn đến tận cổ tay rồi mới nối, vết nối rất khéo chỉ một vết sẹo mờ
  quanh cổ tay, Toàn đeo một cái đồng hồ che đi là xong. Thế nhưng không cần
  nhìn kỹ người ta cũng thấy nó khác bàn tay kia của Toàn, vốn gân guốc với những
  ngón dài hơi gầy. Bàn tay ấy của một người trẻ hơn Toàn hay ít ra mập hơn vì
  nó đầy đặn, da căng nhưng ngón tay ngắn hơn, thô và nhiều lông lá với những
  cái móng ngắn lồi lõm, đầu ngón tay nở to… Cô hình dung đó là bàn tay của một
  người đàn ông ít học, xấu xí khá thô lỗ, bàn tay ấy chắc từng đánh đấm người
  khác hoặc làm những việc mờ ám…  
Bây giờ mỗi khi ra ngoài cùng
  chồng, Phương thoải mái hơn vì ít ai để ý đến bàn tay cụt của anh. Toàn lái
  xe chở cô đi, tự tin, trông Toàn cân đối, đẹp trai hơn. Nhưng khi đi sóng
  đôi, Phương luôn tránh đi phía có bàn tay ấy, nằm ngủ trên giường cũng vậy.
  Nhưng dù tránh gì cô cũng luôn bị ám ảnh rằng bên cạnh vợ chồng cô có bàn tay
  của một người lạ. Những lúc vợ chồng thân mật, say đắm nhất, quên thì thôi
  chứ nhớ thì cô ngượng nghịu vì có bàn tay lạ chứng kiến, tệ hơn nó cũng tham
  gia tích cực vào chuyện  ân ái của vợ chồng của cô. Dần dần Phương ghét
  nó, mỗi lần
  Toàn dùng bàn tay ấy chạm vào người cô là cô hất, phủi đi… Nhưng Toàn là
  người thuận tay trái, bao nhiêu năm giờ mới được dùng lại tay thuận theo bản
  năng, nhưng lại chưa quen nên còn vụng về. Phương cứ nghĩ, giá đừng có còn
  hơn, vì nó không phải là của Toàn, không hợp với Toàn chút nào. Tuy cũng bằng
  xương bằng thịt con người và được nuôi sống bằng máu của anh nhưng Phương
  thấy nó là một bàn tay giả, tệ hơn đó là bàn tay của người khác, từng có một
  đời sống khác với những hành vi mà cô không biết được. Cô thấy xa cách với
  chồng vì Toàn mang thêm một phần thân thể lạ, vá víu, gượng ép, giả tạo… Mỗi
  lần được Toàn ôm cô là Phương co rúm, thủ thế, đề phòng và muốn thoát ra. Tâm
  trí cô cũng căng thẳng để đừng nghĩ tới bàn tay đang vồ vập, vuốt ve lùng sục
  trên thân thể mình như một gã thợ săn ham hố, bạo liệt. Rồi Phương cay đắng
  nhận ra rằng những rung cảm say đắm giữa cô và chồng cũng giảm đi.   
Nhưng gần đây mọi chuyện lại khác,
  Phương có lúc hoảng hốt như bắt quả tang mình đang ngoại tình. Thôi chết rồi,
  cô thấy mình cũng tò mò, hồi hộp, đợi chờ nó tìm đến. Bàn tay ấy mang đến cho
  cô một cảm giác là lạ, rung động bất ngờ, xao xuyến nhưng không kém phần mãnh
  liệt của một người đàn ông khác mang lại … 
Một lần cô làm món mì xào giòn với
  các thứ gan, tim, cật, lá lách mua ở gian hàng thịt heo ngoài chợ, những thứ
  Toàn vẫn thích… Anh ăn và bị dị ứng ngứa ngáy toàn thân, đặc biệt là bàn tay
  ráp nối ấy, nó sưng phù lên phải đi bác sĩ khám và điều trị. Các phần khác
  trên người Toàn khỏi nhanh, riêng bàn tay ấy lâu hơn, nổi đầy mẩn đỏ trông
  rất ghê sợ. Sau đó trong một lần đi nhậu với bạn, ăn đặc sản gì đó Toàn bị
  lại. Lần này anh còn bị nặng hơn. Chữa khỏi rồi anh kiêng khem đủ thứ, cũng
  không biết phải kiêng gì, chỉ ăn những món ăn không thấy phản ứng cho yên
  tâm. Nhưng bàn tay đó vẫn hay bị bệnh hay gặp tai nạn. Trời nóng nó cũng nóng
  hơn, trời lạnh nó cũng lạnh hơn, hay bị tê cứng, bị kẹp, bị đứt tay, hay lóng
  ngóng làm vỡ đồ. Có lần nửa đêm thức dậy, Phương thấy chồng ngồi gãi điên
  cuồng bàn tay ấy đến chảy máu, bàn tay nổi đầy những cục đỏ. Cô vội lấy kem
  Phénergan ra thoa cho Toàn nhưng cũng không bớt ngứa, nó cứ nóng bừng lên,
  anh chịu không nổi đòi nhúng vào nước sôi cho tuột da ra. Cô phải dùng cái
  nhíp nhổ lông mày của mình kẹp từng miếng bông gòn nhúng nước thật nóng chà
  lên. Toàn cáu bảo hôm sau sẽ đến bệnh viện tháo nó ra. Tưởng vợ sẽ an ủi,
  phản đối để anh dịu bớt bực dọc, nào ngờ Phương thủng thẳng nói: “Em thấy vậy
  còn hay hơn!”  | 
| 
Cơn giông 
Mẹ Thăng là một người phụ nữ đài
  các nhưng yếu ớt, đau ốm quanh năm, lấy chồng gần sáu năm mới sinh được
  Thăng. Sau khi đi chữa hết thầy lang này đến thầy lang khác, không loại trừ
  những cuộc hành hương cầu tự đến những đền chùa, miếu mạo xa xôi. Sau cuộc vượt
  cạn đầy gian nguy suýt nữa mất mạng, mẹ không có đủ sữa cho Thăng nên bà nội
  chạy đôn chạy đáo tìm cho Thăng một bà vú. Vú Ơn có mặt trong nhà Thăng vào
  lúc đó. Bây giờ khuôn mặt vú còn in rõ trong ký ức của Thăng, làm sao có thể
  quên được người đã từng cho mình bú. Nhưng cũng nhờ Thăng mà vú Ơn nguôi
  ngoai nỗi đau mất con. Bà kể rằng, không hiểu sao cái làng quê nhỏ bé heo
  hút, nằm gọn trong một thung lũng ấy có gì hấp dẫn mà cuộc chiến tranh nào
  cũng rảo gót qua và để lại bao cảnh hoang tàn. Một hôm, lúc nửa đêm quả đại
  bác bắn ra từ cái đồn đóng trên trái núi ngất ngưỡng ở đầu làng để nã vào một
  cánh rừng ở cuối làng đã đi không tới đích, giữa chừng rơi đúng vào nhà vú Ơn
  làm nhà sập, bốc cháy. Chồng và đứa con nhỏ mới ba tháng tuổi của vú chết thảm,
  vú sống sót nhờ lúc đó bị đau bụng đang ngồi ở cái hố phân cuối vườn. Mất hết
  nhà cửa, chồng con, vú như người điên đi lang thang đầu làng cuối xóm với hai
  bầu vú căng đau nhức, sữa chảy làm ướt áo rồi lại khô, chồng chất nhiều lớp
  làm hai vạt áo bằng vải thô của vú dày lên như hai tấm mo cau. Bà nội Thăng
  gặp vú ngoài chợ huyện và động lòng thương, mua bắp nấu, bánh gói cho vú ăn
  và nghĩ đến đứa cháu đích tôn thiếu sữa của mình. Bà dỗ dành dẫn vú về nhà
  cho tắm rửa, an ủi vú rồi bế Thăng đặt vào lòng. Với bản năng làm mẹ, vú lập
  tức cho Thăng bú. Sữa của vú mát nên Thăng lớn nhanh như thổi. Khi sữa vú đã
  cạn, cũng là lúc gia đình Thăng sa sút nên bà cho vú ra đi với một số tiền
  nho nhỏ làm kế sinh nhai và có cơ hội tìm cho mình một người chồng để nương tựa.
   
Vú đi rồi, nhiều chuyện xảy ra với
  gia đình Thăng, ông mất, cha và chú út Thăng đi kháng chiến, cô Ba trốn đi
  theo một người đàn ông vì bà Thăng ngăn cản họ yêu nhau. Nhà rơi vào cảnh
  túng bấn, thất thế. Nhiều đêm chính quyền cho người vào lục soát nhà, cảnh
  đàn bà con nít sợ hãi nép vào nhau như đàn gà sợ đám quạ diều. Tấm ảnh duy
  nhất của cha Thăng để lại treo trên tường bà cũng lấy cất giấu tận đáy rương,
  thỉnh thoảng mới cho Thăng xem. Vốn là người đảm đang và quyết đoán, bà nội
  quyết tâm cứu cảnh nhà sa sút bằng nghề nấu mạch nha. Đây là nghề truyền
  thống ở quê Thăng nhưng sau này bị tàn lụi bởi cách làm ăn gian dối của nhiều
  người, thay vì nấu bằng nếp và mộng lúa, người ta nấu bằng gạo, lại là loại
  gạo dẻo do Mỹ viện trợ, chất trong kho đã lâu nên đã có sâu bò lổn ngổn, hôi
  rình mùi mốc, mùi bao. Có người còn nấu bằng khoai mì rồi độn vào mè, nào đậu
  phụng rang… Không còn giữ được mùi vị mạch nha tinh khiết nên dần dần món
  hàng đặc sản nầy ế ẩm, chỉ còn vài nhà làm cầm hơi mang ra chợ tỉnh bán cho khách
  qua đường. Bà Thăng vẫn giữ cách làm theo truyền thống chọn nếp bồ lem dẻo
  thơm nấu thành xôi, trộn với mầm lúa mướt rượt như những cọng giá, được phơi
  khô giã nhỏ. Hai thứ ấy ủ lại với nhau, nóng rực lên rồi nhuyễn ra thành thứ
  nước đùng đục như sữa, vị ngọt lợ. Bà và mẹ ép hỗn hợp ấy trong một cái bao
  vải, vắt lấy phần nước cốt rồi cho vào một cái nồi đồng to, loại nồi bảy, rồi
  nấu suốt ngày cho chất lỏng ấy đặc dần, thành chất dẻo có màu hổ phách và trở
  nên ngọt lịm, một vị ngọt thơm, dịu không gắt như vị ngọt đường và không bao
  giờ kết tinh. Rồi uy tín và học vị của ông nội Thăng, một người hiếm hoi
  trong làng đậu tú tài ở khoa thi hương cuối cùng của chế độ phong kiến đã
  thêm vào giá trị của món mạch nha ấy, cứu gia đình Thăng khỏi lúc túng bấn. Mạch
  nha bà Tú Đóa trở nên được ưa chuộng, người ta đặt mua để biếu xén, đi đám
  hỏi, đám cưới, mua đem tận ra Huế, gởi vô  Sài Gòn làm quà… Nhưng công
  việc dần dần quá sức những phụ nữ vốn không phải nông dân như bà và mẹ Thăng.
  Giữa lúc ấy, vú Ơn lại xuất hiện. Lần này ngó vú thật thảm hại, gầy đen, vác
  trên vai một đứa bé đang ngủ, mỏng dính và xơ xác như một miếng giẻ rách. Vú
  xin nhà Thăng cưu mang, nhưng mẹ Thăng, một người đàn bà còn trẻ đẹp có chồng
  ở xa, luôn bị đám đàn ông, đặc biệt là đám cán bộ chiến dịch xa nhà thèm nhỏ
  dãi như đám trẻ trước miếng mạch nha no tròn quấn trên đầu đũa. Mẹ Thăng đang
  ra sức bảo vệ tiết hạnh của mình nên sợ không dám tới gần những phụ nữ ngoại
  tình, chửa hoang, tránh họ như tránh hủi nên không đồng ý tiếp nhận vú Ơn. Còn
  bà nội Thăng với nửa lòng nhân hậu và nửa óc thực tế, lại là người có quyền
  lực cao nhất trong nhà đã nhận Vú vào như một người giúp việc, quả thực nhà
  Thăng đang rất cần một người như vú.  
Hai mẹ con vú ở trong một gian
  chái nhỏ vốn dùng làm nhà kho sau bếp, nơi bà Thăng để lương thực dự trữ như
  bắp đậu, bí đao, bí đỏ, đường… Bây giờ nhà ít người, ruộng đất đã bán bớt nên
  căn nhà kho lâu nay chỉ để ủ mộng lúa làm mạch nha. Thăng là cậu chủ nhỏ chỉ
  lẩn quẩn ăn, ngủ ở nhà trước, trên những tấm phản bằng gỗ lim đen bóng, chạy
  chơi trong cái sân gạch sạch sẽ, bằng phẳng để khỏi vấp té. Thỉnh thoảng từ
  cái sân gạch, Thăng nhìn thấy con bé của vú Ơn tập đi trên cái sân đất sau
  nhà, khi vú ngồi xé những tấm thảm dày bằng mầm lúa để phơi, rễ chúng mọc kết
  vào nhau rất chặt. Khi biết đi, biết chạy chơi vững vàng đôi lúc cô bé mon
  men lên tận nhà trên, trố mắt nhìn Thăng múa may quay cuồng với cái gậy hay
  túm râu những con dế rồi chu miệng thổi phù phù để chúng hăng lên, đá nhau.
  Đôi mắt đen láy, lúc nào cũng như hỏi han, cứ nhìn Thăng như một người từ
  hành tinh nào mới đến. Ánh mắt đau đáu ấy sau nầy đã làm nhói buốt trái tim
  Thăng suốt đời. 
Thăng không biết cô bé tên gì, mọi
  người gọi cô bé là “em” nên Thăng cũng gọi như thế. Dù bà và mẹ không nói gì
  nhưng Thăng biết giữa mình và Em có một bức tường vô hình ngăn cản. Thăng có
  thể chia cho Em một cái kẹo, một trái chuối nhưng lại không được chơi đùa
  thân mật với Em. Mỗi lần mò xuống nhà kho rủ Em chơi đùa thì bà tức tốc tìm
  Thăng, giao cho một công việc gì đó, như đuổi gà, dán nhãn vào những lon sữa
  bò rỗng để đựng mạch nha hoặc bắt ngồi vào bàn học bài. Thăng học xong tiểu
  học, mẹ muốn Thăng được học ở một ngôi trường trung học lớn nhất của tỉnh, đó
  là trường Trần Quốc Tuấn. Thăng phải khăn gói ra thị xã ở trọ nhà người bà
  con để thi vào trường ấy. Thăng thi đậu, đó là niềm tin khởi đầu để hai người
  phụ nữ đơn côi trong nhà Thăng ra sức làm việc, có niềm hy vọng, có mục đích
  để sống, khi cha Thăng bặt vô âm tín, người chú cũng vậy. Còn người cô ruột
  Thăng theo chồng xa đã chết non mà đến mấy năm sau bà và mẹ mới biết. Họ tin
  rằng Thăng sẽ thành đạt để gây dựng lại những gì đã mất. Dù qua nhiều biến
  cố, bà và mẹ luôn tự hào về gốc gác và nề nếp gia đình, riêng Thăng chỉ thấy
  tan gác, nghèo túng.  
Học ở thị xã, thỉnh thoảng Thăng
  vượt đèo Eo Gió về thăm nhà để lấy gạo, tiền, Thăng thấy Em cũng đi học ở
  trường làng, có lần vú Ơn cho Thăng xem vở của Em, Thăng ngạc nhiên vì Em học
  rất giỏi, toàn điểm cao, hơn hẳn Thăng khi học ở đây. Nhất là trong vở Em có
  những hình vẽ rất đẹp, dù ở trường không hề dạy môn ấy. Nhiều lúc Thăng bắt
  gặp Em ngồi vẽ say sưa bằng những mảnh gạch non trên cái sân sau, giờ đã được
  tráng xi măng để phơi mộng lúa, vẽ xong rồi lại xóa vì sợ la rầy. Bà và mẹ
  Thăng có vẻ quý Em bởi em ngoan, biết thân biết phận nhưng vì một lẽ họ không
  gần Em được. Sau này Thăng mới hiểu vì Em là một đứa con hoang. Cái thành
  kiến ấy ở những phụ nữ gia giáo nhà Thăng khó mà phá nổi.  
Nhà gần huyện đường cũ, nơi ông
  nội Thăng từng là một viên thư lại trong ấy, giữa những tòa nhà xiêu đổ, rêu
  phong. Những lối đi từng dập dìu xe ngựa nay cỏ mọc đầy, chỉ có những con bò
  lạc vào gặm cỏ. Những cục phân bò to bằng cái bát đổ ập lên phũ phàng những
  viên gạch cũ kỹ được chạm khắc công phu, lên những hoa huệ đất từng e ấp dưới
  những gót chân khuê các, trang trí cho một cuộc sống thư nhàn. Nhưng cảnh
  hoang phế tiêu điều ấy kích thích trí tuởng tượng phong phú của bọn trẻ ghê
  gớm. Vào đây chúng thấy mình như ở một thế giới khác, cao sâu hơn, huyền hoặc
  hơn cái thế giới bên ngoài. Thăng kể cho Em nghe những câu chuyện về ông, về
  cha mà Thăng được nghe từ bà. Ở đây, Em cũng cởi mở với Thăng hơn. Một cuộc
  sống đầy những chịu đựng, mặc cảm, khổ tâm, khiến tâm hồn của Em lớn trước
  tuổi. Dù học trễ vài năm nhưng lúc nào Thăng cũng lớn hơn Em một cấp học,
  Thăng vào cấp trung học đệ nhị thì em vào trung học đệ nhất cấp nhưng Thăng
  nói gì Em cũng hiểu, còn khôn ngoan hơn hẳn những đứa con gái học cùng lớp
  với Thăng. Mỗi lần về Thăng mua tặng Em sách, bút chì màu. Trả ơn, Em tặng
  lại những bức tranh nho nhỏ, nhìn vào, Thăng thấy rờn rợn và linh cảm một tài
  năng đặc biệt ở Em. Một lần đi tắm sông, bơi qua cái cồn giữa sông để trốn
  mấy đứa bạn chơi, Thăng bắt gặp Em lang thang giữa bờ bãi đìu hiu. Thăng len
  lén đi theo sau lưng, khi gần sát “hù” lên một tiếng tiếng khiến Em giật bắn
  người. Đợi Em hoàn hồn, Thăng hỏi Em làm gì ở đây. Em bảo cảnh ở đây rất đẹp,
  Em ước gì ghi lại được vẻ đẹp của những nhành lau phất phơ trên đèo vắng, của
  những con cò đơn côi đứng ở cuối bãi và cảnh núi sông kề cận bên nhau. Em hỏi
  Thăng ý nghĩa tên con sông quê. Vệ là gì? Thăng chịu, nhưng Thăng rất yêu cái
  âm thanh đó. Em bảo Em cũng thế, sau này hãy gọi Em bằng cái tên ấy. Thăng
  không hiểu tại sao lại sau này. Vì đi học, tên cô bé ấy cũng giống như tiếng
  gọi quen thuộc ở nhà. 
Cứ mỗi mùa hè là Thăng nao nức về
  quê, Thăng có đủ cách nói dối để thoát khỏi sự kiểm soát của bà, nào là đến
  nhà bạn, đi tắm, câu cá, vào rừng. Còn Em tuổi ấy có thể đi làm thuê như nhổ
  đậu, bẻ bắp. Thật ra Em cũng có làm nhưng làm thật nhanh rồi cùng Thăng lang
  thang khắp các bãi bờ, gò đống, bìa rừng. Hai đứa trẻ trốn nhà đắm mình vào
  cảnh thiên nhiên hoang dã, để thu vào mắt mình bao nhiêu là vẻ đẹp. Em đắm
  đuối cảnh thiên nhiên và bắt đầu có những bức ký họa đầu tiên. Em bảo mọi ý
  nghĩa đi qua đầu mình đều bằng hình ảnh và Em muốn vẽ lại nó. Những ngày hè
  ấy là thời gian sung sướng nhất, Thăng thấy mình như được tung bay giữa trời
  rộng, như con chim ưng xoãi cánh bên một con phượng hoàng. Chỉ cần được đi
  bên Em, nhìn thấy em, cảm nhận được hơi thở của Em thì dù bà và mẹ có nổi
  trận lôi đình đến đâu Thăng cũng dám đón nhận. Có lẽ những món ăn dân dã,
  thanh sạch của nhà quê cùng với những vích mạch nha vét nồi, uống thứ sữa từ
  nếp thơm, mộng lúa trong ngần khiến vóc dáng Em nuột nà, tóc mây óng ả. Và
  hồn của sông, khí của núi cùng với sương mù buổi sớm, gió hú buổi chiều hun
  đúc nên cho Em một tâm hồn đa cảm. Và hình như được gần những phụ nữ kiêu
  hãnh như bà và mẹ Thăng nhưng lại xuất thân từ tối tăm đã thôi thúc cho Em
  khát vọng hướng về ánh sáng. Tuy là con của một kẻ ăn người ở trong nhà nhưng
  nhờ được học hành và lấp lánh chút tài năng, được sinh sống trong ngôi nhà cổ
  kính, khuôn phép nên Em có được cốt cách đặc biệt tao nhã mà hoàn cảnh của em
  khó có được. Bọn trẻ yêu nhau bằng một tình yêu thơ dại, lung linh mà tự mình
  không ý thức được sự sâu nặng của nó. Nhưng từ trong vô thức Thăng cũng xem
  Em như đứa em, vì cả hai lớn lên trong một ngôi nhà, cùng bú với nhau một
  giòng sữa mẹ…  
Có lần cả hai lên gò hái sim, đang
  say sưa tìm lặt những trái tim chín căng mọng tím than và ngọt lịm bỗng Thăng
  nghe một tiếng kêu rất lạ của một loài chim lớn, nhìn sang bìa rừng bên kia
  Thăng bắt gặp một cảnh tượng kỳ diệu, một đàn công ba con có hai con đang
  cùng nhau xòe đuôi ra múa. Thăng và Em không ai bảo ai nằm bẹp dưới gốc sim
  nín thở để xem, một con bọ bò lên gáy làm Thăng nhột nhưng không dám động
  đậy. Nhưng rồi một con công đi mất, điệu múa kể tiếp của hai con công còn lại
  là một điệu khác hẳn, của một con trống và một con mái. Chúng múa say sưa
  trong một vũ điệu ngây ngất men tình khiến Thăng nóng bừng cả người còn Em
  thì úp mặt xuống cỏ không dám xem. Chiều ấy khi trở về, một cơn mưa từ trên
  núi đổ xuống đuổi theo, hai đứa chạy thật nhanh, chạy đến đâu mưa đuổi theo
  đến đó, đến khi gặp được một cái chòi của những người giữ bắp bỏ trống thì cả
  hai đã ướt loi ngoi. Mưa mờ mịt, tạt vào trong lều, nhìn Em rét mướt, Thăng
  muốn ôm Em vào lòng, dùng môi lau khô nước trên khuôn mặt trắng ngà bê bết tóc
  của em, dùng tay sưởi ấm hai bầu vú nhỏ thanh khiết, tội nghiệp hằn rõ dưới
  làn áo ướt, run lên trong từng đợt gió mưa... Nhưng nền giáo dục nghiêm khắc
  của gia đình đã ngăn Thăng lại. Bao nhiêu năm sau Thăng vẫn còn oán giận sự
  ngoan ngoãn ngu ngốc ấy của mình. Sau này trong giao tiếp, khi ra nước ngoài
  Thăng gặp được biết bao phụ nữ rạng ngời, đáng say mê, và họ cũng say mê
  mình, trong những khung cảnh thơ mộng, ở những khách sạn sang trọng,
  nhưng  một cơ hội yêu đương huyền diệu như thế thì không bao giờ có lại
  trong đời. Một tình yêu không  thỏa lúc xuân thì đến giờ vẫn còn làm
  Thăng đau xót và không có gì bù đắp được.  
Thăng học xong trung học, mẹ bán
  dần những món nữ trang quý giá cho Thăng vào Sài Gòn thi đại học. Tết năm đó,
  Thăng về Thăm nhà, vì xa Em quá lâu và vì ngây ngất trước những thành công
  đầu tiên trên con đường học  vấn nên lần về nhà ấy Thăng đã hớ hênh,
  không giấu được tình cảm của mình dành cho Em. Thăng mua cho Em rất nhiều
  quà, bằng những đồng tiền còm của một sinh viên nghèo, toàn là sách vền hội
  họa, những thứ Thăng lùng sục bao nhiêu ngày chủ nhật ở những chợ sách xôn
  trên vỉa hè Sài Gòn cùng với giấy bút cọ màu… Thăng quấn quýt bên Em, kể cho
  Em nghe về thành phố ấy, như một thế giới khác hẳn cái làng quê vây bọ bởi
  núi đồi, nơi nếp sống chỉ nương tựa vào thiên nhiên từ mấy trăm năm rồi dường
  như chưa thay đổi. Nghe Thăng kể, đôi mắt em rực sáng lên, hăm hở… Nhưng tất
  cả không  qua mắt được bà và mẹ Thăng. Bà lập tức gọi Thăng lên nhà
  trên, ngồi xếp bằng đối diện với bà trên bộ phản giữa, ngay trước bàn thờ tổ
  tiên. Cái bàn thờ rất cao, có  nhiều tầng nhiều lớp, có bộ lư đồng trên
  có chim hạc đứng trên lưng rùa với những bức tranh khảm xà cừ lấp lánh cùng
  những bức hoành phi câu đối toàn bằng chữ Hán mà Thăng chỉ hiểu mang máng qua
  lới giải thích của bà. Thăng biết đây là một cuộc nói chuyện nghiêm trọng. Bà
  phân tích cho Thăng nghe rằng, anh là người thừa kế duy nhất của dòng, vì ba
  và chú ruột Thăng ở ngòai Bắc không  biết sống chết ra sao, hơn nữa là
  một thanh niên gốc gác gia phong, có một tương lai đầy hứa hẹn nên Thăng
  không  thể lấy con gái một giúp việc trong nhà, đó lại là đứa con vô
  thừa nhận đến giờ cũng không  biết cha là ai. Bà chỉ nói vậy,
  không   yêu cầu Thăng phải suy nghĩ, phải trả lời. Không khí trong
  nhà chùng xuống, tối tăm, như có một đám mây nặng phủ kín bầu trời trước một
  cơn giông. Thăng biết bà không  nói gì với vú Ơn và Em. Nhưng họ, thân
  phận những người ăn nhờ ở đậu, vốn nhạy cảm với cách đối xử của chủ nhà,
  những người đã ban ơn cho mình, đã nhận ra sự thay đổi của hai người đàn bà
  cương quyết bảo vệ gia phong còn hơn bảo vệ sinh mạng của chính mình. 
Lần sau Thăng về, vú Ơn và Em
  không  còn ở trong nhà nữa. Thăng đau đớn nhưng  không biết hỏi ai.
  Đó cũng là lúc chiến tranh đang thời kỳ khốc liệt nhất ở quê Thăng. Dân làng
  người chạy vô rừng theo Cộng sản, người chạy sang những vùng khác ít bom đạn
  hơn. Bà nội và mẹ Thăng thu dọn chạy ra thị xã, họ không mang theo lúa gạo mà
  mang theo bộ đồ thờ, nào lư đồng, những bức hòanh phi, câu đối. Ở nơi mới, họ
  thuê một mảnh đất hoang mọc đầy cò tranh ven thị xã, một căn nhà nhỏ bằng
  phên tre để sống qua ngày. Nơi đây họ lại tiếp tục làm nghề nấu mạch nha và
  lấy bả từ mộng lúa và nếp sau khi vắt hết nước cốt để nuôi heo. Gom góp những
  đồng tiền khó nhọc ấy gởi vào Sài Gòn cho Thăng ăn học. Ngày Thăng sắp ra
  trường cũng là lúc bà nội mất. Tình hình chiến sự chuyển biến nhanh chóng,
  chỉ vài tháng sau quê Thăng được giải phóng nhưng Sài Gòn thì chưa. Thăng
  phân vân không biết nên về hay ở. Mất liên lạc với quê nhà chưa đầy một tháng
  mà Thăng nóng ruột vô cùng. Anh thèm khát hơi mẹ và nôn nao biết mặt cha,
  người cha hơn hai mươi năm qua Thăng luôn mơ tưởng. Rồi Sài Gòn cũng được
  giải phóng, đất nước thống nhất, Khi xe đò đi lại thông thương ra miền Trung,
  miền Bắc, Thăng liều vọt lên xe về nhà. Thăng ngỡ ngàng nhìn mẹ, thay vì niềm
  vui đoàn tụ, đôi mắt bà u sầm ôm lấy con và nói “Hòa bình rồi đó con!”. Hóa
  ra người cha người cha vẫn chưa hiện diện trong nhà như Thăng nghĩ và anh còn
  biết thêm, cha đã lấy vợ khác, một phụ nữ miền Bắc kém ông hai chục tuổi, họ
  có với nhau hai người con. Trong nỗi đau ấy chính mẹ lại an ủi Thăng “Biết
  làm sao được, chiến tranh mà con, lâu quá…” Rồi Thăng phải trở lại trường đại
  học để học chính trị và nhập học. Lần sau Thăng về mới gặp được cha. Khi ấy
  gia đình riêng của ông chưa vào, ông sống ở cơ quan và sống luôn tại đó, nơi
  ông mới được bổ nhiệm về làm lãnh đạo. Thăng nôn nóng đạp xe từ nhà đến văn
  phòng gặp cha, khi đứng trước mặt ông rồi, anh không nói năng gì. Ông nhận ra
  con trai và lên tiếng trước “Thăng đó hả con?” Cha trong tâm tưởng của Thăng,
  qua lời kể của bà và mẹ quá đẹp nên không khỏi thất vọng khi đứng trước con
  người thật hiển hiện của ông. Dáng cha cao lớn nhưng không vững chãi, ông ăn
  mặc bèo nhèo. Nói chuyện với con trai nhưng ông có vẻ dè dặt, không mấy tin
  tưởng đứa con được dạy dỗ trong một xã hội khác. Sau này cha con có dịp nói
  chuyện nhiều hơn, Thăng càng ngạc nhiên vì một người trí thức như cha lại rất
  giáo điều, có phần cuồng tín nữa. Những suy nghĩ của ông cũng rập khuôn như
  nhiều người khác. Hình như cha không đọc được hết sự thông minh và nhạy cảm
  trước thời sự ở đứa con trai đã trưởng thành. Bao nhiêu năm qua, Thăng hướng
  về cha như cỏ cây hướng về ánh sáng. Không được cận kề người sinh thành ra
  mình nhưng nhờ cái bóng của cha mà Thăng được lớn lên, vững vàng trong từng
  bước đi, dù không được cha dìu dắt. Nhưng  giờ đây sao cha trông xa lạ,
  anh chỉ thấy mình thuộc về mẹ… 
Dù sao nhờ cái lý lịch tốt và vị
  trí của cha nên khi ra trường đi làm, Thăng được cấp trên chú ý, cất nhắc.
  Con đường sự nghiệp của Thăng nhờ thế khá thuận lợi hơn một số bạn bè của
  anh…Theo sự định hướng của mẹ, khi dành dụm được những đồng tiền đầu tiên,
  Thăng nghĩ đến việc mua đất. Lâu nay anh sống ở một căn hộ do cơ quan cấp,
  trên tận tầng lầu thứ mười hai của một chung cư cũ. Thăng  hay nói đùa,
  sống gần trời nên nên lúc nào cũng mơ về đất. Cộng thêm với số vàng dành dụm
  lâu nay của mẹ chắt chiu nên Thăng xây được nhà, đưa mẹ vào sống với mình.
  Qua vài mối tình rồi Thăng cũng gặp được người con gái mình yêu và tin cậy để
  giao phó đời mình. Vợ Thăng là một phụ nữ trí thức, hiền thục, sinh liền cho
  anh hai đứa con trai nên mẹ Thăng rất hài lòng. Thăng thấy rằng mình đã thay
  cha bù đắp cho mẹ công bà nuôi con, chờ chồng suốt hơn hai chục năm trời.  
Khi mọi việc tưởng đã vẹn toàn,
  công thành danh toại và tưởng đã quên những gì  không vui trong quá khứ,
  thì trong đám tro than của mối tình  thơ ngây xưa cũ, heo hút Em vẫn như
  một hòn than âm ỉ nóng bỏng trong lòng. Càng lớn tuổi, Thăng suy nghĩ nhiều
  về Em, không biết bây giờ cô ở đâu. Anh ray rứt vì không bảo vệ cô lúc ấy.
  Nếu cuộc đời Em trầm luân thì hạnh phúc của Thăng chẳng thể vuông tròn. Thăng
  luôn khao khát được gặp lại Em, dù chỉ một lần trong đời. Cứ thoáng thấy
  người phụ nữ hao hao giống là giật mình. Ở cơ quan, một dạo Thăng thấy một cô
  gái trẻ làm tạp vụ có khuôn mặt và đôi mắt khá giống Em, Thăng cứ lân la hỏi
  thăm về gia đình và cha mẹ của cô ấy. May mà không phải. Thăng vẫn đinh ninh
  rằng Em phải là một họa sĩ. Mỗi khi đọc báo, xem tivi anh hay để ý đến những
  nữ họa sĩ. Không  hiểu nhiều về hội họa nhưng thỉnh thoảng Thăng vẫn ghé
  vào những phòng triển lãm tranh, lân la ở những nơi bán tranh... Khi bớt bận
  bịu chuyện nhà, mỗi năm Thăng tìm cách về quê thăm mộ bà nội để dò hỏi tin
  tức của Em nhưng không ai biết. Giống như ngày xưa, Thăng một mình lang thang
  qua những bãi bờ hiu quạnh, những gò đống hoang vắng ở quê nhà với hy vọng em
  thấp thoáng đâu đó ở đầu sông, hay một triền núi, tay cầm đầy hoa dại, túi
  đầy sim chín. Ngang qua làng xóm, Thăng nhìn vào từng căn nhà tối tăm, tìm
  dấu tích của những bức họa… Cứ thế đến mấy năm trời Thăng không hề tuyệt
  vọng.  
Cho đến một ngày, Thăng tình cờ
  đọc được một mẩu tin trên trang văn hóa-nghệ thuật của một tờ báo, giới thiệu
  cuộc triển lãm sắp tới của một nữ họa sĩ. Bài báo viết rằng đây là cuộc triển
  lãm đầu tiên nhưng  người nữ họa sĩ ấy gắn bó với hội họa đã lâu, đã
  từng làm nhiều việc khác chỉ để được vẽ, người suốt đời chỉ có một niềm đam
  mê duy nhất ấy. Và tên của người nữ họa sĩ, hay bút hiệu thì đúng hơn, khiến
  Thăng phải xem đi xem lại, vì nó trùng với tên con sông ở quê anh. Thăng tức
  tốc đến xem địa điểm, dù vài hôm sau nữa cuộc triển lãm mới khai mạc. Hôm đó,
  lẫn trong đám khách mời đông đúc đang chen vai thích cánh trước những bức
  tranh, tràn ngập hoa và những lời chúc mừng, sau khi nữ họa sĩ lên đọc một
  bài diễn văn nhỏ, cạnh người chồng ân cần và hai đứa con khôi ngô. Thăng từ
  xa đứng nhìn, bồi hồi như chìm đắm vào cõi xa xăm. Thời gian đã lấy đi vẻ non
  tơ nhưng lại thêm cho người phụ nữ ấy vẻ chín muồi, nồng nàn. Trong chiếc áo
  dài tím cách điệu, giản dị và hơi có vẻ xuề xòa, hầu như không trang điểm, Em
  vẫn lồng lộng một thứ nhan sắc khác, mà người ta hay gọi vẻ đẹp bên trong.
  Thăng phải kiềm chế hơi thở, anh hồi hộp e rằng nếu mình thở mạnh thì Em sẽ
  tan biến mất. Một cử chỉ từ vô thức, Thăng đưa tay lên cằm, như ra vẻ suy tư,
  để che bớt một phần khuôn mặt của mình. Giữa bao cảm xúc mạnh mẽ, điều tràn
  ngập trong tim Thăng chính là, qua bao thăng trầm, Em vẫn là Em, trong sự
  phát triển sung mãn từ chính nội lực của mình.Từ một cái cây con yếu ớt, phải
  chống chọi với sương giá, nắng hạn để lớn lên, nay đã hoa trái đầy cành.
  Nhưng trong cái vẻ chững chạc của một phụ nữ viên mãn ấy, vẫn lấp lánh ngọn
  lửa ngày nào, ngọn lửa chất chứa những khát vọng, trăn trở…  
Thăng cố lẫn vào đám đông, khi Em
  đi bắt tay những người khách quen, anh nuốt vào lòng bao quay quắt, yêu dấu
  nén chặt trong lòng suốt nhiều năm qua, chỉ chực tan chảy, tuôn tràn cho
  thỏa. Và Thăng chợt nhận ra, dù người phụ nữ ấy đứng ở góc nào trong phòng
  tranh, trò chuyện với ai thì người chồng cũng luôn liếc nhìn về vợ. Em đáp
  lại bằng một nụ cười nồng ấm kín đáo và chắc hẳn luôn làm mê hồn người đàn
  ông ấy.          
 Những bức tranh đóng khung
  trên tường kia, hầu hết là tranh vẽ phong cảnh, loáng thoáng Thăng nhận ra
  sông núi quê nhà và cái ngả ba sông gợn sóng, buồn thảm. Em từng hay ngồi
  trên cái mố cầu của chiếc cầu dài mỏng manh bị mìn và những trận lụt tàn phá,
  gãy làm đôi rồi gãy làm ba, sau này chỉ còn hai nhịp sát đầu cầu và vài nhịp
  đứng chôn chân chơ vơ ở giữa sông, để dòng nước chảy qua, quấn quýt… Nơi ấy,
  Em hay ngồi dõi mắt nhìn nước chảy hàng giờ không  chán. 
Quá khứ dấy lên mãnh liệt, nhưng
  thay vì tiến đến bên Em, ôm lấy Em, tự nhiên Thăng đi thụt lui. Khi bắt gặp
  mình như thế, Thăng đã ra đến cảnh cửa của đại sảnh rồi quay lưng bước thật
  nhanh ra bãi để xe.  | 
| 
Đêm
  thành phố đầy sao  
Mỹ,
  bạn thân của Hoa có lần đưa chồng con đến thăm, cho một con chó con và cảnh
  báo : 
- Bồ chưa có chồng mà làm việc
  trong cao ốc văn phòng, sống nhà chung cư là coi như ế suốt đời. Sống hoài
  giữa bê tông cốt thép người ta cũng dễ trở nên khô cứng và lạnh lẽo lắm! 
Lời nói ấy bắt đầu ám ảnh Hoa, làm
  bộ lạnh bên ngoài vậy thôi chứ bên trong cũng nóng ruột lắm rồi, ngày tháng
  cứ trôi vùn vụt. Ở cơ quan còn nhiều đứa ngoài ba mươi chưa chồng, chưa có
  người yêu. Mà bọn nó nào kém cỏi gì, có đứa còn thuộc loại tài sắc nữa là
  đằng khác. Có mấy bằng đại học, nói tiếng Tây, tiếng Tàu như gió, đi nước
  ngoài như đi chợ, xài tiền như nước nhưng vẫn không kiếm được một nửa của
  mình. Trong cơ quan không thiếu đàn ông, nhưng bọn nó hay chê. Sao cũng chê,
  người xấu trai, bần tiện bị chê đã đành, còn người đẹp trai hay quá khéo cũng
  bị chê. Nhưng bị chê nhiều nhất vẫn là
  những chàng bị quy kết là “bóng”.
  Mà Hoa thấy cũng lạ thiệt, hiện tượng “pê đê” hồi trước cô thấy hình như chỉ
  có tầng lớp bình dân bây giờ thì đâu cũng có. Má cô bảo ngày xưa chuyện ấy
  rất hiếm. Hay là cuộc sống đô thị chật hẹp, phải sống và làm việc giữa bốn
  bức tường, xa rời thiên nhiên nên giới tính người ta cũng bị biến dị đi.
  Nhiều khi chính cô mải lo học hành, thăng tiến, làm việc căng thẳng nên cô
  cũng thấy ít nữ tính hơn mẹ mình. Ba mươi tám tuổi mà Hoa vẫn sống độc thân,
  mọi người không bảo cô kén nữa mà bảo cô khó, nhiều lúc Hoa lục vấn mình và
  thấy họ nói có phần đúng. Mọi cái trong nhà để vị trí nào thì cô luôn muốn
  thấy nó phải có ở vị trí đó, mấy đứa em lấy dùng để chỗ khác là cô la. Giờ
  nào việc ấy. Sau mười một giờ đêm ai mở tivi cô rất ghét. Với cô đàn ông phải
  ra đàn ông, đàn bà phải ra đàn bà. Hồi đó có lần bà dì giới thiệu cho Hoa một
  người đàn ông, ai cũng bảo đạt hết mọi điều… Cô thấy anh ta cũng không có gì
  để chê nhưng chỉ vì anh hay đeo một sợi dây chuyền to tướng ở cổ khiến cô ngứa
  mắt quá nên nhất định không ưng. Sau nầy đọc sách cô mới biết mình vì kiến
  thức không tới nên đã nhận thức sai. Trong âm có dương, trong dương có âm. Ở
  người đàn ông nào cũng có một chút đàn bà và ở người đàn bà nào cũng có một
  chút đàn ông, chỉ khi nào cái phần giới tính tầm gởi ấy phát triển lấn át cái
  phần chính thống thì mới có vấn đề. Rồi khi má cô qua đời, không muốn bọn em
  trai, em dâu và đám cháu xem mình là bà cô trong nhà nên Hoa quyết tâm dành
  dụm thêm tiền để ra ở riêng. Để an toàn, cô mua căn hộ trong một chung cư mới
  xây thuộc loại cao cấp.  
Khỏe! Hoa cảm thấy như thế khi cô
  có một cõi riêng, được sống theo trật tự, giờ giấc, thẩm mỹ của mình. Đi làm
  về đọc sách, nghe nhạc, chủ nhật rủ bạn về nấu món gì ăn… Mình không làm
  phiền ai và cũng không ai làm phiền mình. Và với phương tiện liên lạc đầy đủ,
  nào điện thoại nhà, điện thoại ở cơ quan, điện thoại di động và có cả một địa
  chỉ email trên mạng internet nên dù sống, làm việc trong “cái hộp” chất ngất
  trên tầng cao Hoa thấy mình cũng đâu có bị cô lập. Nhớ lần đầu máy vi tính
  của cô được nối mạng Internet, nhìn biểu tượng trái đất quay tròn cô sung
  sướng hãnh diện thấy mình nối kết được với cả thế giới. Cô email cho bạn bè,
  họ hàng ở nước ngoài liên tục và nhận được email của họ. Sau đó cô chán cái
  trò chơi nầy, những giòng chữ không dấu trên trang giấy ảo nó chỉ chuyển tải
  được một ít thông tin nhưng không thể diễn tả được tình cảm của mình như một
  lá thư viết… Nhưng rồi cũng chẳng ai rảnh gởi mail cho Hoa mãi. Cô nhớ cho
  đến lúc suốt đời má cô vẫn giữ được những lá thư vàng ố của bạn bè thân thời
  trẻ và những lá thư tình ba cô gởi lúc theo đuổi bà …  
Cho nên Hoa chỉ thấy thoải mái
  được một thời gian đầu, dần dần cô mới thấm thía khi sống một mình cũng không
  dễ dàng chút nào, dù là sống trong một chung cư đầy đủ tiện nghi. Căn hộ của
  cô ở tầng thứ sáu, đi thang máy. Hàng ngày đi lên đi xuống, gặp đi gặp lại
  bao nhiêu người, rất quen mặt nhưng rất ít ai chịu mở miệng chào hỏi nhau bởi
  thời gian ngắn ngủi và vì người ta căng thẳng hơn khi đi thang máy. Dãy hành
  lang sạch bóng, vắng lặng và hun hút, ai đi làm về cũng lập tức chui vào cái
  “lô cốt” hiện đại của mình và đóng cửa lại. Những cư dân ở đây đều quá văn
  minh lịch sự, không làm phiền nhau nhưng cũng chẳng mang đến niềm vui gì cho
  nhau. Tết vừa rồi có một việc ghê sợ đã xảy ra. Từ ngày ba mươi mọi người
  nghe một mùi hôi nhưng không xác định được là ở căn hộ nào, cũng không ai dám
  gõ cửa từng căn để hỏi, người nào cũng cho rằng chắc có một con chuột cống bị
  chết, kẹt ở đâu đó. Qua ngày mùng một, mùi hôi thối càng nồng nặc nhưng ai
  cũng kiêng kỵ vì ngày đầu năm mới thiêng liêng nên ráng chịu đựng, đóng kín
  cửa cố thủ trong nhà mình. Qua ngày mùng hai, khách khứa lục tục kéo tới thăm
  và mùi thối đến mức không còn chịu nổi người ta mới báo cáo với công an
  phường đến phá khóa cửa một căn hộ được xem là nơi xuất phát của mùi hôi ấy
  và xác chết của một phụ nữ bắt đầu thối rữa được tìm thấy trong phòng ngủ của
  căn nhà. Sau khi cái xác được mang đi, cơ quan y tế đến tẩy trùng… Những nhà
  gần đó phải đi sơ tán hết, không dám ăn tết tại nhà. Gần một tuần sau thân
  nhân của người phụ nữ xấu số đi du lịch nước ngoài về, mới hay người thân
  mình đã chết vì khi họ đi cũng không cho ai biết, không thèm báo với chính
  quyền địa phương họ đến những đâu. Sống trong thời đại thông tin mà người ta
  chết chỉ vì tự cô lập mình. Cũng may gia đình ấy sống êm ấm, nạn nhân chắc là
  bị ngất, bị trúng gió nhưng không có ai bên cạnh cứu kịp, chứ không Hoa thấy
  nó như những bi kịch gia đình mà cô nghe hoặc xem từ những bộ phim của Anh, của
  Mỹ. Cô bắt đầu lo sợ, sống một mình và chết một mình. Cô đã đọc ở đâu đó,
  người ta nói rằng đặc điểm và hạnh phúc của con người chính là sống theo bầy
  đàn. Xã hội bây giờ đông đúc hơn nhưng bầy đàn tan rã dần, chỉ còn lại từng
  gia đình hay từng người rời rạc… Trước đây khi còn ở chung, mỗi khi đi làm
  về, giúp em dâu làm việc nhà, trò chuyện, bồng bế hay la mắng một đứa cháu
  khiến cô cảm thấy mình được cân bằng… Còn bây giờ tuy thảnh thơi, không có ai
  để cáu kỉnh nhưng cô luôn bứt rứt và u uất. Nhờ có con chó Hoa cũng thấy đỡ
  buồn, nó nhỏ nhắn, xinh xắn như món đồ chơi. Việc đầu tiên là cô huấn luyện
  cho nó biết đi vệ sinh đúng chỗ, nếu không cô có thể bị hàng xóm kiện và bị
  truất quyền nuôi chó, vì từng có vài chuyện như thế xảy ra nên ban quản lý
  chung cư ra quy định trên và được mọi người đồng ý chấp hành. Con chó làm mất
  thời gian và làm phiền cô hơn là niềm vui, nhưng đã quen có nó cô không nỡ
  đem cho ai, dù có lần đứa cháu theo ba mẹ nó đến chơi đã mê mẩn nên bồng trộm
  về nhà, Hoa lập tức qua nhà đổi một món quà để mang chó về. Con chó nầy có
  cái thú ỉa bậy, dù có dỗ ngon dỗ ngọt hay trừng phạt nghiêm khắc tới đâu nó
  không bỏ được cái tật nầy. Cứ mở cửa mà quên đóng lại ngay thế nào nó cũng
  lẻn ra, làm bậy đâu đó giữa hành lang hay trước cửa một căn hộ và lập tức cô
  bị gọi ra “làm nhiệm vụ”, vì ở đây ai cũng biết cô nuôi một con nhỏ rất xinh
  nhưng cũng rất “mất dạy”. Có người thông cảm, nhẹ nhàng nhắc cô, cũng có
  người rất gay gắt, như người đàn ông mới đến sống gần căn hộ hơn nửa năm nay,
  khá đông con mà hình như góa vợ.  
Hoa bắt đầu âm thầm chơi trò tìm
  bạn bốn phương, cái trò có lúc cô cho là nhảm nhí. Thư qua thư lại mấy tháng
  cô luôn nhận được những lá thư “trật chìa”, lợt lạt. Hoa đã có một mối tình,
  suốt mấy năm sinh viên bên nhau thế mà còn nhầm lẫn huống hồ tìm ai tận
  phương nảo phương nao. Mấy đứa làm cùng phòng bày cô vào mạng internet tán
  gẫu để tìm bạn. Khi chat, cô thấy vui vui nhưng ở đây hầu hết quá buồn tẻ
  không có niềm vui thật nên người ta phải tìm những niềm vui ảo. Có lần cô gặp
  một người đàn ông tự xưng là “ông già khó tính”, cô cũng xưng là một “bà già
  khó chịu”. Cả hai hẹn nhau trên mạng chat với nhau được mấy lần. Việc nầy làm
  Hoa nhớ hồi đi học viết giấy ném qua ném lại trong lớp. Viết để chọc nhau, để
  tỏ tình rồi khều bạn nhờ chuyển, nơm nớp sợ thầy cô phát hiện, hoặc kẹt lại
  trong tay một đứa quỷ quái nào đó, giờ ra chơi nó tung toé ra cho cả lớp
  biết. Chat bây giờ chỉ có biệt danh, những nickname nửa tây nửa ta,
  trong một không gian ảo, danh xưng ảo, không ai biết mình già trẻ đẹp xấu ra
  sao. Tất cả đều ảo. Nhưng có một điều không thể ảo, đó là ngôn ngữ khi chat,
  nó luôn miêu tả chính xác về tính cách, nền tảng văn hóa của người chơi. Qua
  những lời trao đổi trên mạng nửa đùa nửa thật, Hoa nhận ra “ông già khó tính”
  là một người sâu sắc, có học vấn và hơi khinh bạc, bởi cô từng gặp những lời
  lẽ hết sức thô bỉ khi chat. Sau một thời gian liên lạc, yên tâm đó không phải
  là kẻ “khủng bố” cô mới cho địa chỉ email… Nhưng cũng không có chuyện gì để
  gởi thư cho nhau nhiều, không có chung một quá khứ, cũng không hướng chung về
  tương lai thì biết nói gì. Có lúc cô chỉ đọc nhưng không trả lời… Hoa kể
  chuyện nầy cho mấy đứa bạn nghe, nó bảo cứ cho số điện thoại đi, rồi hẹn gặp,
  nếu thấy ông ta… sạch sẽ, có cảm tình được thì tiến tới hôn nhân càng tốt,
  nếu không cứ quan hệ cho biết “mùi đời”, lỡ có một đứa con thì nuôi. Phụ nữ
  bây giờ có quyền làm mẹ mà không cần có chồng. Ôi, tụi nó táo bạo quá. Nhưng
  cô cứ hình dung ra bây giờ, cuộc sống của cô có một đứa con là cả một sự cứu
  rỗi. Cô sẽ không còn phải sống cô quạnh, có một người để chăm sóc thương yêu,
  hy vọng, nương tựa, cô sẽ thoát ra khỏi sự nhàm chán hiện tại. Có con, cô sẽ
  không còn lẻ loi, chủ nhật sẽ dẫn nó công viên chơi đùa chứ không phải đóng
  kín cửa, náu mình trong cái hang động văn minh nầy nữa. Nghĩ vậy Hoa ngồi bật
  dậy mở máy vi tính, cả tuần nay bận rộn cô chưa kiểm tra xem có ai gởi mail
  cho mình không. Lần này dù anh ta không gởi cô cũng viết, cô sẽ gởi một lá
  thư thật tình cảm kèm cả số điện thoại nhà với một quyết tâm lớn là được gặp
  người đàn ông ấy, cô cần một con người thật chứ chán cảnh gặp gỡ trên không
  gian ảo nầy lắm rồi. Cô say sưa gõ chợt có tiếng đập cửa rầm rầm, cô đứng lên
  mở cửa. Thấy mặt ông hàng xóm là cô nghĩ ngay đến con chó ỉa bậy, chắc lúc
  này mở cửa để đóng tiền an ninh quốc phòng gì đó cho ông tổ trưởng dân phố
  nên nó lại lẻn ra mà cô không hay. Lấy cái hốt rác, lấy giấy ra dọn nhưng cô
  vẫn bực, người gì mà khó chịu. Con chó mấy bữa nay táo bón cứ như cứt dê, dọn
  một loáng là xong. Con chó lại chạy ra cô mắng mỏ nó mấy câu, quay lại thấy
  ông ta vẫn đứng ở cửa, ngó chăm chăm vào màn hình máy tính cô để cạnh cửa, có
  một điều gì đó chuyển biến mạnh trên sắc mặt ông ta, sắc mặt của kẻ tìm ra
  chân lý.  
*** 
Từ ngày biết ông ta chính là kẻ
  hay chat với mình, cô không còn hứng thú lên mạng nữa, một con người trông
  nhàm chán thế mà cũng đi chat. Cũng may lá thư điện tử ấy chưa kịp gởi đi, cô
  đã xóa nó ngay lập tức. Mỗi lần thấy ông ta là cô xấu hổ, người đàn ông xa lạ
  mà có lúc cô đã phơi ra những ngõ ngách tối tăm của lòng mình. Một tuần sau
  ông ta gõ cửa, trên tay là một bể cá cảnh nhỏ và lỉnh kỉnh thức ăn cho cá. Cô
  mời vào, ông ta trình bày là sắp đi công tác Đà Nẵng nửa tháng, nhờ cô chăm
  sóc hộ mấy con cá. Cô ngắt lời “Ủa mấy đứa con của anh đâu?”. Ông ta bảo đó
  không phải là con mà là mấy đứa cháu, nó vào trọ học hè đã về quê rồi. Rồi
  ông ấp úng nói thêm, tôi cũng có một đứa con nhưng mấy năm nay nó sống với mẹ
  ở một thành phố biển ngoài Trung, vì mẹ nó tha thiết muốn được nuôi nó, thỉnh
  thoảng tôi mới ghé thăm. Ông chỉ nán ít phút bày cô tăng cường ôxy cho cá
  bằng cách cho ít nước vào cái chai rồi súc mạnh xong đổ vào bể. Họ không nhắc
  gì chuyện đã làm quen với nhau trên mạng. Xem như nó không hề xảy ra.  
Hoa kể tiếp chuyện này với Mỹ, nó
  bảo “Càng tốt, lửa gần rơm lâu ngày cũng bén.” Ông ta về sang nhận lại cá,
  cảm ơn và đưa quà cho Hoa, thỉnh thoảng cũng sang nhà cô trò chuyện, mượn báo
  đọc. Hoa hy vọng như lời cô bạn, nhưng cả nửa năm qua lại cũng chẳng có
  chuyện gì xảy ra. Hoa cho rằng có lẽ lửa ở người đàn ông ấy quá yếu còn cô là
  loại rơm… ướt nên chẳng thể bén được. Cô phì cười nhớ có lúc đã từng mơ ước
  có con với người đàn ông đó. Bây giờ cô cũng không muốn có con với ai hết. Ừ,
  cô có quyền làm mẹ nhưng đứa trẻ con nào cũng có quyền có cha, lớn lên nó sẽ
  hỏi cha đâu, nó có thể kiện cô khi để nó ra đời trong một nỗi khó khăn, khiếm
  khuyết tình cha con. Nó sẽ vào đời ra sao khi mang tiếng là một đứa con hoang
  …  
Một buổi chiều oi nồng, Hoa ngồi
  ăn cơm một mình, quạt máy quay vù vù. Máy điều hòa nhiệt độ giờ không đắt
  nhưng nghe nói tốn điện lắm nên Hoa chưa dám sắm. Ở đây ngoài tiền điện,
  nước, gas, điện thoại, Internet còn phải trả tiền thang máy, tiền gởi xe, chi
  phí cho ban quản lý, cho người làm vệ sinh chung cư hàng tháng cũng tốn bạc
  triệu. Mới đây cô còn mua bảo hiểm nhân thọ nữa chứ, đủ thứ bảo hiểm nhưng
  cuộc sống dường như không mấy bình an. Dân thành phố là vậy, phải chi trả đủ
  thứ, bị thuyết phục mua những món hàng mà người ta không nhìn thấy, không cần
  thiết. Có vài người bạn cô lâu nay thất nghiệp, giờ đi bán hàng đa cấp cứ đeo
  bám lấy cô gần như cưỡng ép cô mua những loại thực
  phẩm chức năng nghe như thuốc thánh, bán với giá trên trời. Mất một số tiền
  không nhỏ với những lọ “thuốc tiên” ấy Hoa mới biết mình bị lừa. Nhưng cô sẽ
  không đau nếu chuyện lừa đảo đó từ người xa lạ. Trời đất, bạn bè mà cũng lừa
  nhau để kiếm tiền! Suy nghĩ miên man chợt nhìn dưới chân không thấy con chó
  đâu, cô lại lo con chó của mình ra ngoài làm bậy. Vừa mở cửa cô đã thấy khói
  và mùi khét khét. Quả là lâu quá không nhìn thấy khói. Dùng bếp gas, ấm điện,
  lò vi ba không có khói đã đành, để phòng cháy, trên bàn thờ cha mẹ cô cũng
  thắp nhang điện, đèn cầy điện nên phải mất một giây cô mới định thần rằng hẳn
  phải có một cái gì cháy gần đây mới sinh ra khói. Cô đưa mắt tìm kiếm và thò
  đầu nhìn xuống mấy tầng dưới, thấy đám người từ dưới đất lao xao chỉ chỏ nhìn
  lên cô nhận ra có cháy từ căn hộ ngay dưới nhà mình. Cô run lên, không cần
  suy nghĩ cô đập cửa nhà ông hàng xóm. 
- Anh Khắc!  
Anh ta mở cửa, thò đầu ra. 
- Cháy ! 
- Ở đâu? 
- Nhà bên dưới. 
Ngay lúc ấy điện cúp tối thui, Hoa
  càng run, khói bắt đầu tuôn lên mù mịt. Họ vào nhà lấy bình chữa lửa. Anh ta
  lại qua phòng cô bảo đã gọi điện thoại cho phòng chữa cháy, họ biết rồi. Bấy
  giờ những người chung quanh mới hay nháo nhào không biết chạy đi hay vào nhà
  mang cái gì. Hoa bỗng hỏi: 
- Mang gì theo… anh?  
- Mang cái gọn nhất, giấy tờ,
  tiền… nhanh lên sợ không kịp… 
Cô tóm con chó nhỏ, mang được một
  chiếc valy sau khi nhét thêm mấy món quan trọng rồi sập cửa chạy theo anh ta.
  Với chiếc váy ngủ không có nút, chỉ vắt chéo qua người, có một sợi dây to bản
  cột thắt giữa cái eo, cũng không có áo nịt ngực bên trong, hai bầu ngực căng
  đầy cứ rung lên theo nhịp bước mà Hoa không có cách nào để che chắn. Họ bổ
  xuống được bên dưới bằng cầu thang bộ, đúng lúc đoàn xe chữa lửa cũng vừa đến
  hụ còi inh ỏi. Chỉ mười lăm phút sau đám cháy được dập tắt, chủ nhà vẫn chưa
  về và chưa cháy lây qua những căn hộ khác. Chỉ là một vụ cháy nhỏ nhưng nỗi
  ám ảnh về tòa tháp đôi bị khủng bố bên Mỹ ngày 11-9 và hình ảnh những người
  rơi từ từ trên lầu cao xuống đất với cả nghìn người chết. Trong vụ cháy cháy
  tòa nhà ITC ở khu trung tâm Sài Gòn với hàng trăm người chết thảm mà lẽ ra có
  thể cứu được khiến mọi người run sợ. Gần một giờ sau, thấy đã an toàn, những
  chiếc xe chữa cháy lần lượt rời sân. Hai người hổn hển leo lên, tòa nhà chìm
  ngập trong bóng tối, dãy hành lang lênh láng nước. Hoa phải bám vào cái dây
  nịt ở lưng Khắc để khỏi trợt ngã và vẫn còn run, anh ta vừa xách chiếc cặp da
  của mình vừa xách valy cho cô, Hoa chỉ bồng con chó. Trong đầu cô hiện lên
  hình ảnh một gia đình. Giống một đôi vợ chồng quá, một khoảnh khắc giống như
  hạnh phúc vụt lóe lên trong cô rồi lụi tắt cũng nhanh như thế. Khắc vào nhà
  mình lấy quẹt gas và đèn cầy sang thắp lên cho cô. Hoa chợt nhớ ra: 
- Anh ăn cơm chưa? 
- Chưa… 
Cô lấy đồ ăn dự trữ trong tủ lạnh,
  bật bếp gas hâm. Thật ra cô không còn muốn ăn nhưng có lẽ anh ta đói. Hoa dọn
  thức ăn đầy bàn, ngồi chống đũa nhìn anh ta ăn ngon lành, một lát mới nhắc
  cô: 
- Hoa ăn đi chứ… nóng quá. 
Dưới ánh nến bập bùng cô thấy mồ
  hôi anh túa ra ướt đẫm, cô lấy một tờ báo quạt cho mình, quạt cho Khắc và
  nói: 
- Kiểu này chưa chắc đêm nay đã có
  điện, nóng chết. 
- Lát lên sân thượng, trên đó mát
  lắm, Hoa lên bao giờ chưa? 
- Dạ chưa … 
Cô nhận ra
  mình quá lễ phép. Bữa ăn xong Hoa khóa cửa, tòa nhà mười hai tầng chìm ngập
  trong bóng tối, nhưng từng căn hộ vẫn còn xôn xao vì vụ cháy, họ ra đứng ra
  tụ năm tụ ba bên ngoài dùng đèn sạc hay thắp nến ăn cơm, trò chuyện. Mấy đứa
  trẻ trượt với lớp nước còn đọng lại trên hành lang cười khanh khách. Lần đầu
  tiên Hoa thấy tất cả các căn hộ mở cửa và mọi người cởi mở với nhau đến như
  thế. Đến cầu thang, Khắc bật quẹt thắp nến dẫn cô lên, cái cầu thang tối và
  sâu khiến cô có cảm giác như đang dấn thân vào một cuộc phiêu lưu mạo hiểm.
  Cả hai lặng lẽ đi vì sợ hụt chân ở từng nấc thang và như choáng ngợp vì cái không gian riêng tư, tối tăm
  vắng lặng chỉ có hai người. Bóng tối khiến Hoa thấy mấy tầng còn lại càng
  thăm thẳm như đang dẫn vào một hang động. Ánh nến leo lét, chập chờn nhưng
  cũng đủ để in nên hai cái bóng của họ trên vách, chúng sóng đôi bên nhau một
  cách tình tứ, có lúc gãy khúc hay nhập lại làm một như một đoạn phim yêu
  đương. Hoa bối rối quá, một điều gì đó cựa quậy trong tim cô, lan khắp châu
  thân. Hoa thấy say say, đôi mắt trở nên nồng nồng. Gần đến nơi, gió thổi mạnh
  qua song cửa mở vào sân thượng khiến cây nến trên tay Khắc vụt tắt. Anh mò
  mẫm tìm tay cô. Hoa nhắm mắt hẳn lại, mặc cho Khắc dẫn đi, vì bước chân cô
  bây giờ trở nên yếu ớt, hụt hẫng và nhẹ tênh. Có lẽ khi cảm xúc được kích
  hoạt, trở nên mãnh liệt khiến cho phần vận động của cô bị yếu ớt. Đã mấy lần
  hình như Khắc muốn dừng lại trong bóng tối nhưng anh cố đi. Đến nơi anh lần
  mò tìm cách đẩy chốt. Cánh cửa bật ra, gió thốc vào như một cơn lốc, tóc lẫn
  váy của Hoa bay tốc lên, cô đưa hai xuống cuống quýt kéo váy để che đôi chân
  trần, mặt ngước lên để gió dồn tóc về phía sau. Hoa chợt sững người trước một
  bầu trời cao xanh mờ ảo nạm đầy sao và xa xa một vầng trăng sơ khai thanh
  mảnh như một lá cỏ, tỏa sáng dịu dàng. Những phiến mây trắng mỏng, trôi nhẹ
  qua trăng, trôi nhẹ qua sao một cách thái hòa. Chưa bao giờ cô được nhìn thấy
  một bầu trời đêm lộng lẫy huyền ảo như vậy, đêm nào cô cũng cứ chúi mũi vào
  máy tính, vào tivi, vào mấy tờ báo. Hay trút nỗi cô đơn mênh mông lẫn những
  khát khao yêu đương vào quyển nhật ký, mà không biết có một kỳ quan ngay trên
  đầu mình... | 
| 
Một lần đi dạy kèm 
      Đứng trước ngôi nhà kín cổng cao
  tường Vân thấy e ngại, mấy lần nhón chân định bấm chuông nhưng không tới cô
  định bỏ về. Vân là cô gái có vóc dáng nhỏ bé, dù đã được nối bằng đôi guốc
  cao mười phân mà cái chuông nhà này vẫn cứ quá tầm tay với, cô thấy nản, càng
  mặc cảm về chiều cao khiêm tốn của mình. Nhìn quanh thử có hòn gạch hòn đá
  nào để kê đứng lên hay không… Chợt Vân giật mình vì một giọng nói ồ ề vang
  lên: 
      -  Người gì bé tí thế
  này mà dạy với dỗ hả trời? 
      Vân quay lại, một người đàn
  ông cao lớn, to lớn thì đúng hơn, râu ria xồm xoàm che hết cả mặt… Chao ôi,
  bộ dạng này mà gặp ở đoạn đường vắng chắc cô chết khiếp, trông ông ta giống
  con gấu hơn là một con người. Nhưng linh cảm cho cô biết rằng đó là chủ nhân
  của ngôi nhà này, người đã đăng trên báo tìm một cô giáo cho hai đứa con gái
  nhỏ của mình với lời rao kỳ lạ “Tìm một cô giáo dạy kèm thật dữ để trị hai bé
  gái”. Bạn bè cô cũng đọc được thông tin đó, bọn nó cũng cần chỗ dạy kèm,
  nhưng không ai lại muốn mang tiếng… dữ, vả lại dạy dỗ “hai con cọp” thì chắc
  mệt lắm. Bọn sinh viên tỉnh lẻ như cô luôn cần việc làm thêm kiếm tiền để
  trang trải việc học, đỡ gánh nặng cho gia đình được chút nào hay chút đó
  nhưng chắc không kham nổi ca này. Vân lại vừa tự ý nghỉ việc sau hơn một
  tháng giúp việc trong gia đình một vị tướng. Công việc ở đó của Vân rất nhẹ
  nhàng, lương cao. Cứ sau giờ học cô đến ngôi biệt thự rộng lớn nằm trên một
  con đường đẹp, yên tĩnh ở khu trung tâm thành phố để chăm sóc, trò chuyện cho
  có bạn với một bà cụ gần tám mươi tuổi, vợ của vị tướng. Cô cũng có thể vừa
  học bài ở đó vì công việc chẳng có gì nhiều. Nhưng sao trong không gian yên
  tĩnh, cao sang và có rất nhiều hoa kiểng ở đó vẫn khiến cô cảm thấy bất an và
  sờ sợ những người khác trong nhà. Thật ra Vân chỉ thấp thoáng nhìn thấy những
  thành viên khác trong gia đình ấy chứ chưa được tiếp cận với ai, như chồng bà
  cụ, con trai, con gái, con dâu và các cháu nội của bà. Vì bà ở trên một tầng
  lầu riêng biệt rộng rãi, đầy đủ tiện nghi, có cầu thang riêng. Suốt ngày bà
  mở tivi, Vân hỏi sao bà mở để chi cho tốn điện mà không xem. Bà bảo “Để cho
  có tiếng người cháu ạ!” Dần dần Vân nhận ra gia đình danh giá này đang chìm
  trong một bi kịch. Đó chính là ngôi nhà được nhà nước cấp cho họ, nay thị
  trường định giá lên đến hàng nghìn cây vàng. Ai cũng muốn phần nhiều của ngôi
  nhà ấy sẽ thuộc về mình. Nhiều cuộc họp gia đình căng thẳng khiến mỗi người
  luôn cố thủ, đề phòng lẫn nhau, nghi ngại nhau… Bà cụ sống giữa một đại gia
  đình tam đại đồng đường, trong ngôi nhà mà mỗi mét vuông đất được tính bằng
  cả một tài sản, với đa số nhân dân của một đất nước nghèo, ngay cả với người
  dân thành phố này. Thế nhưng Vân thấy bà cụ còn khốn khổ, cô đơn hơn cả một
  bà già nghèo khó ở quê cô, sống trong mái nhà tranh nhưng ấm áp vì có con
  cháu chung quanh chăm sóc, có tình hàng xóm láng giềng khi tối lửa tắt đèn…
  Hàng ngày bà cụ uống rất nhiều loại thuốc, Vân nghĩ, nếu bà uống lộn thuốc và
  lỡ chết, chắc những người trong gia đình cũng không có ai hay kịp vì họ hầu
  như không bao giờ lui tới phòng bà. Khi Vân xin nghỉ bà cụ rất tiếc, tưởng cô
  chê lương ít nên bà đề nghị tăng tiền. Lúc đó bỗng dưng Vân dám bật ra một
  câu nói thật: 
      - Con đâu định xin thêm
  tiền của bà, nhưng sao ngôi nhà này lạnh lẽo quá làm con sợ… 
  Bà
  cụ thở dài : 
       -  Nhà bà vốn
  vậy, biết làm sao bây giờ… 
      Nghỉ làm chỗ bà cụ, cô cũng
  tiếc thật. Bây giờ đọc báo tìm mãi chưa có công việc nào hợp với mình, lại
  cần tiền đóng học phí còn nợ nhà trường và để dành cho năm học mới nên Vân
  liều mạng tìm đến địa chỉ ấy. 
*** 
      Với ánh mắt hơi giễu cợt,
  ông ta lấy chìa khoá trong túi ông ta mở cửa cho Vân vào nhà. Hai cô bé mập ù
  khoảng mươi tuổi, đen nhẻm đang thò tay vọc hồ cá cảnh trước hiên. Ông ta hét
  lên: 
 
   - Cá chết hết ! bà Tám đâu? 
  
  - Bà Tám đi chợ ! 
  Ông ta hét tiếp: 
  
  - Rửa tay vào chào cô giáo mới! 
      À thì ra, trước cô đã từng
  có những tiền nhiệm thất bại phải ra đi. 
*** 
      Có lúc Vân cũng muốn bỏ
  cuộc, vì hai cô bé sinh đôi ấy không hề muốn học, còn sợ học nữa là đằng
  khác, dù mới học lớp sáu với chương trình cải cách gì đó. Chỉ riêng kèm môn
  văn thôi, với một sinh viên ngành xã hội như cô thì môn văn đâu có tồi mà cô
  cũng đã đau đầu với bọn nhỏ. Có lẽ người soạn chương trình muốn tất cả học
  sinh sợ môn văn hơn là yêu mến nó, hoặc là để đào tạo những nhà văn, nhà ngôn
  ngữ học thì đúng hơn. Vân khám phá ra căn nhà này không có bóng dáng người mẹ
  nhưng không tiện hỏi người giúp việc, một lần cô thử hỏi chúng: 
       - Mẹ các em đâu? 
 
  Một đứa đáp: 
 
   - Theo trai rồi! 
     Vân thấy choáng cả người và chợt
  hiểu tại sao các em lại như thế. Tự nhiên cô không giận những cử chỉ, lời nói
  xấc láo và hành vi ương bướng của các em nữa. Mà cô cảm thấy thương những đứa
  trẻ con nhà giàu nhưng không hề được sung sướng. Người cha là giám đốc một
  công ty xuất nhập khẩu mải mê với công việc còn mẹ đã bỏ nhà đi theo một
  người đàn ông khác. Nhiều khi chúng lười học thì cô kể chuyện, cô kể chuyện
  rất sinh động nên chúng ngồi há mồm ra nghe, sau đó luôn năn nỉ cô kể nữa.
  Thế là Vân nghĩ ra cách trị chúng. Cô ra điều kiện phải làm đủ các bài tập
  thì mới kể chuyện. Thế là mọi việc cũng tạm ổn nhưng đôi khi chúng chỉ làm
  đối phó mà thôi. 
      Một lần cô đến, thấy một
  đứa đang gào khóc, còn bà giúp việc cuống lên. Thì ra một đứa có kinh lần đầu
  và vô cùng sợ hãi nhưng bà Tám không đủ lời lẽ để giải thích. Vân kéo nó vào
  phòng tắm và chỉ nói một câu là nó im ngay. “Cô cũng đang bị như em.”
  Và với “phụ tùng” luôn đem theo trong ví cho “những ngày ấy”, Vân bày nó cách
  sử dụng. Sau đó Vân dùng một nửa thời gian học để giảng giải rằng, chúng sắp
  thành một thiếu nữ và đó là điều kiện mà tạo hoá ban cho tất cả phái nữ, nếu
  không “bị” như vậy sẽ thành một người con gái bất thường và lớn lên không có
  em bé được. 
      Sau “tai nạn” đó, bức tường
  ngăn cách giữa cô với chúng hoàn toàn sụp đổ. Ngoài chuyện học, cái gì chúng
  cũng hỏi cô. Tội nghiệp, những kiến thức để trở thành một thiếu nữ của chúng
  hoàn toàn trống rỗng. Vân bày chúng cách ăn uống để khỏi béo phì, bày chúng
  chơi cầu lông. Ra nắng phải đội mũ để da khỏi đen, tóc khỏi cháy. Vân còn “tư
  vấn” cho chúng cách ăn mặc dù cô chẳng có bao nhiêu quần áo, lại toàn đồ
  sida. Vân còn bày chúng cách cư xử khi bị con trai chọc ghẹo từ những kinh
  nghiệm của chính mình… Có lần ngồi trên xe buýt, một gã con đến ngồi bên
  cạnh. Hắn mời Vân ăn kẹo, cô không ăn. Hắn hỏi gì cô cũng trả lời không biết,
  cô vốn rất ghét kiểu tán gái sàm sở ấy, chưa gì đã gọi cô bằng em. Thế là gã
  ấy nổi giận bảo cô khinh người và tìm cách gây sự. May là những người đi xe
  hiểu được bênh vực cho cô chứ ở chỗ vắng chắc gã hành hung cô mất. 
      Người cha vắng nhà biền
  biệt, Vân tha hồ nhào nặn bọn trẻ theo ý của cô, dụ chúng mua sách đọc thay
  vì dùng tiền đó ăn quà vặt. Chúng đỡ quậy nên bà giúp việc biết ơn cô vô
  cùng. Nhờ hơn một năm kèm cặp bọn trẻ, Vân có công việc ổn định để có tiền ăn
  học. Người cha mỗi lần về, nhìn cô với ánh mắt dịu dàng hơn, đôi khi mua quà
  cho con, ông ta cũng mua quà cho cô và nói xa nói gần rằng nếu sau này cô vẫn
  tiếp tục kèm cặp cho bọn trẻ thì tốt quá. Nhưng đến lúc cô phải đi thực tập
  và làm luận án tốt nghiệp. Lần này ông về, râu tóc gọn ghẽ hơn, trông ít già
  hơn trước. Có lần cô nghe bà Tám tiết lộ tuổi tác ông, hóa ra ông ta chỉ bằng
  tuổi anh cả của cô, chưa tới bốn mươi. Hôm đó sau giờ học, cô xin gặp ông để
  thưa chuyện, cô cũng báo trước rằng hơn tháng nữa cô xin nghỉ để ông còn kịp
  tìm người dạy thay. Lúc nói chuyện ấy, cô quên mất có hai đứa nhỏ bên cạnh.
  Nghe Vân không dạy nữa, thật bất ngờ hai đứa ôm cô khóc như mưa làm nước mắt
  cô cũng rơi lã chã. Người cha thấy vậy liền bỏ sang phòng khác.  
*** 
      Hơn tháng sau, ba cha con
  tìm đến thăm Vân ở ký túc xá với một bó hoa lớn, thì ra hôm ấy là sinh nhật
  của cô mà cô đâu có nhớ. 
      Ngày sắp ra trường cô nhận
  được thư của ông, viết ngắn gọn “Việc ly hôn của chúng tôi đã hoàn tất, nếu
  không ngại khoảng cách tuổi tác và cuộc đời dang dở của tôi, thì không có ai
  hơn em để làm vợ tôi và làm mẹ các con tôi. Tôi thương em từ lâu nhưng không
  dám nói…” Lá thư ấy làm Vân run rẩy và suốt đêm, giấc ngủ trở nên chập chờn.
  Trong khoảnh khắc ngủ được một chút thì hình ảnh của ông và hai đứa nhỏ cứ
  hiện ra trong giấc mơ…  | 
| 
5 | 
Những
  căn nhà bên cạnh hầu hết đều được sửa sang hay xây lại khang trang khiến căn
  nhà của Tần trông càng cũ kỹ, an phận… Nhiều lúc Tần tự ví nó giống như mình.
  Từ ngày chồng mất cách đây tám năm, căn nhà không gì thay đổi. Giấy tờ nhà
  cũng do chồng đứng tên chủ quyền. Tần không buồn đi chuyển đổi sang tên mình.
  Bao nhiêu lần Tần định sửa nhà nhưng cứ ngại vì không có đàn ông trông coi.
  Cô thì lơ ngơ, con trai nhỏ mới mười tuổi, sợ bọn thợ bắt nạt, nếu họ có làm
  dối cô cũng không biết đối phó ra sao, vì bản tính Tần luôn nhường nhịn, nhỏ
  nhẹ… dù cô đã có một khoảng tiền gởi trong ngân hàng đủ cho việc sữa chữa
  lớn. 
Có lần Nhật đến chơi không hiểu
  sao cô đem chuyện này ra nói. Nhật bảo: 
- Tần làm đi, anh ghé trông coi
  cho. 
Nhật nói ngắn gọn nhưng Tần biết
  anh đã hứa là làm, làm nhiệt tình đến nơi đến chốn. Nhiều lúc Tần nghĩ nếu có
  vợ chắc vợ Nhật sẽ không hiểu anh ấy bằng mình đâu. Tần dám quả quyết như vậy
  vì từ bé nhà họ ở gần nhau. Hình ảnh xa nhất về Nhật cô có thể nhớ là lúc ấy
  Nhật bằng con trai cô bây giờ, còn Tần là một cô bé chỉ thích làm con trai,
  vì bà nội Tần lúc nào cũng ao ước Tần là một thằng cu khi biết mẹ cô sau khi
  được hai đứa con gái không còn khả năng sinh nở nữa. Cô theo Nhật chơi những
  trò chơi con trai như thả diều, tạt lon, bắn ná… Tần thích ăn ổi thì Nhật leo
  hái ổi, cô thích ăn mía Nhật bẻ trộm mía. Ở trường cuối năm Nhật được phần
  thưởng, thấy Tần không có, anh chia Tần vở, bút chì… Tần vui sướng mang về
  khoe bà. Vào trung học, không hiểu môn nào, bài nào cô lại nhờ Nhật chỉ. Họ
  hồn nhiên lớn lên bên nhau dù theo thời gian Nhật thành một chàng trai cao
  lớn rắn rỏi còn Tần thành một thiếu nữ uyển chuyển, thướt tha. Mặc cho hai bà
  mẹ nhìn nhau hài lòng và đầy tình ý… Họ không có được thứ cảm xúc mà những
  những đôi trai gái mới lớn bên nhau thường có.  
Nhật vào đại học, mỗi dịp về quê
  nghỉ hè hay nghỉ tết, việc đầu tiên của anh là đến thăm Tần, anh kể cho cô
  nghe chuyện ở thành phố, về mối tình của anh với một bạn gái cùng lớp. Khi
  nghe Tần cũng cảm thấy một chút hụt hẫng nhưng rồi lại quên ngay. Lần sau về
  anh kể đã chia tay với cô bạn và tỏ ra rất buồn. Tần thấy thương anh, cô an
  ủi và tiếc cho một mối tình. Những chuyện kể của anh ở thành phố là động cơ
  thôi thúc cô vào đại học. Nhật là người ra đón cô ở sân bay, Tần lơ ngơ chưa
  tìm được chỗ trọ, anh dẫn Tần gởi ở tạm phòng trọ với những cô bạn học của
  anh. Rồi khi cô báo tin thi đậu nhưng chưa biết ở đâu, anh tìm thuê một phòng
  trọ gần trường để cô đi học cho tiện rồi sau đó còn dẫn cô đi ăn khao. Thỉnh
  thoảng Nhật ghé thăm, mấy cô bạn cùng phòng cứ khen Nhật đẹp trai. Tần bảo có
  ai thích cô sẽ giới thiệu cho. Nhiều lần Nhật đến, cả hai trò chuyện một lúc
  rồi Tần lỉnh đi, nháy mắt cho cô bạn ra tiếp anh, để họ thử thời vận… Sau đó
  họ có vẻ mến nhau nhưng cũng chỉ có vậy.  
Nhật ra trường có việc làm trong
  lúc Tần đang học năm thứ hai. Họ sống cách xa nhau chừng vài trăm cây số nên
  ít khi gặp, đôi lúc về quê, qua những người thân trong gia đình họ mới có
  được thông tin về nhau. Thế rồi công việc, giòng đời cứ đẩy họ xa nhau hơn.
  Khi dạy học ở một tỉnh nhỏ Tần nghe Nhật lập gia đình với một cô gái trẻ, vừa
  học xong lớp mười hai và trở về thành phố lập nghiệp. Vậy là đám cưới của anh
  cô không đến cắm hoa giúp như đã hứa. Ngày đám cưới của mình cô mời bao nhiêu
  bạn bè nhưng quên mất Nhật, mà có nhớ cô cũng không biết địa chỉ anh ở đâu mà
  mời. Cô chỉ nghe anh đã có hai con và khá thành đạt. Cô thấy mừng, thấy anh
  xứng đáng được như vậy. 
Cho đến khi được sống chung trong
  một thành phố và tình cờ gặp nhau thì cả hai đã rơi vào cảnh đứt gánh giữa
  đường. Nhật đã ly dị vợ còn Tần góa chồng. Anh kể hết, không giấu điều gì, có
  lẽ anh còn thương vợ nhưng không chịu nổi sự can thiệp thô bạo của gia đình
  bên vợ, cô ấy là con một và anh buộc phải sống chung. Từ chuyện riêng của
  mình, anh cho Tần một bài học: 
- Tần cũng có con trai, kinh
  nghiệm sau này đừng cho nó lấy con một, đừng ở nhà vợ… 
Cô cười: 
  -
  Con em cũng là con một đó thôi! 
Anh nuôi đứa con gái lớn còn đứa
  con gái nhỏ ở với mẹ nó. Mỗi lần về thăm con bị bên ngoại của chúng làm khó
  anh rất khổ tâm lại tìm đến kể với Tần. Đi công tác xa anh chở con tới gởi.
  Mỗi khi có tiền, anh đến đưa nhờ cô mua sắm những thứ mình cần. Rồi mẹ anh
  thu xếp vào ở luôn với con trai, anh đỡ vất vả. Nhiều lần bà bảo Tần, hồi đó
  bà nhắm cô cho Nhật, cứ tưởng khi vào thành phố học là điều kiện tốt nhất để
  đến với nhau… Bà không hiểu tại sao hai đứa không thương nhau. Cô không dám
  cãi bà, không dám thú nhận cô thương Nhật nhưng không yêu anh và không thể
  nào lý giải được điều đó.  
Nhật nhờ một người bạn là thầu xây
  dựng điều công nhân của mình đến sửa nhà cho Tần. Cô khỏi phải tính toán lo
  lắng gì hết. Cứ đi làm về là Nhật ghé qua coi ngó, đôi khi ăn cơm với Tần.
  Ông bạn nhà thầu của Nhật tưởng anh là người tình của cô còn đám thợ tưởng
  anh là chủ nhà, và gọi họ là “ông chủ, bà chủ” cả hai ngoảnh nhìn ra hai
  hướng cười kín đáo nhưng không đính chính. Nhà sửa xong rất đẹp mà không có
  những khoảng phát sinh thêm như Tần dự trù, cô làm một bữa tiệc đãi thợ. Nhật
  mang thêm một thùng bia. Nhật và ông bạn thi nhau uống, thấy Nhật say ông bạn
  ra về cứ bảo anh ở lại nhưng Nhật nhất định về. Đưa Nhật ra cổng, Tần khóa
  cửa vào nhà, con trai đã ngủ, còn lại một mình trong căn nhà rộng hơn, ngổn
  ngang chén dĩa và thức ăn thừa. Tần ngồi sụp xuống cầu thang bật khóc nức nở.
  Lần sửa nhà này với sự có mặt thường xuyên của Nhật hàng xóm đồn đại là cô
  sửa nhà để lấy chồng, bạn bè mừng cho cô vì biết đó là một người bạn thân từ
  thuở nhỏ, bây giờ cùng đơn lẻ… Thằng bé nhà cô thì quyến luyến Nhật ra mặt.
  Mỗi lần cô đến nhà Nhật bà cụ thở ra vào, trách cứ Tần đủ điều. Anh chị của
  cô, của Nhật ngoài quê có dịp vào thành phố chơi luôn khuyến khích họ lấy
  nhau. Không có một trở ngại nào mà trái lại, rất thuận lợi, được tất cả ủng
  hộ nếu họ muốn tiến tới… Mối quan hệ giữa họ trở thành điều thắc mắc, khó
  hiều của nhiều người. 
Sau đợt sửa nhà tự nhiên Tần lên
  cân vùn vụt, cô chỉ đẹp nhờ cái dáng thon thả … Nhật là người lo âu về điều
  đó trước cả cô. Có lần thử máu cô được biết đường trong máu mình rất cao
  “đụng trần”. Anh bảo cô nên đi tập thể dục, vì bụng anh ngày cũng càng to vì
  những cuộc bia bọt. Tần là người rất lười hoạt động. Sáng dù thức dậy rất sớm
  cô cũng chỉ thích nằm mơ màng, đó là cái thú cố hữu của Tần mấy chục năm nay.
  Khuyên bảo Tần không được Nhật rủ cô cùng tập. Có người áp như thế cô mới
  chịu đi. Mỗi sáng sớm anh đợi cô ở công viên để cùng đi bộ, xong ai về nhà
  nấy. Đi cả năm như thế vóc dáng và sức khỏe của Tần được cải tiến rõ rệt, cô
  sút được gần ba ký, đường trong máu cũng bớt cao.  
Bây giờ việc tập luyện của Tần đã
  thành một nhu cầu tự nhiên, không tập cô không chịu được. Dù mùa hè mới sáu
  giờ trời đã sáng bửng hay mùa đông trời còn tối nhá nhem, họ vẫn chờ nhau ở một
  góc công viên, vẫn đi song song bên nhau, không hề va chạm. Có lần Tần bảo
  Nhật, cô là phụ nữ, có thể hy sinh vì con, chứ còn Nhật sao sống thế mãi
  được. Anh bảo đợi con gái lớn lấy chồng đã, chủ yếu là anh chưa có ai để yêu… | 
| 
      Không cần đợi đến lúc trở thành thiếu nữ, khi còn là một
  cô gái nhỏ xíu, Quỳnh soi gương và nhận ra mình xinh đẹp. Làn da trắng ngà,
  đôi môi đỏ hồng và mái tóc đen óng… Tóc Quỳnh hình như không cần phải chải,
  nó suôn mượt đến mức như không thể rối vào nhau được. Bà giúp việc chăm sóc
  Quỳnh từ tấm bé mỗi lần chải tóc và bím lại cho cô trước khi đi học thường
  bảo : 
      - Con bé này có mái tóc đen
  mượt và nụ cười tươi như hoa nên cuộc đời rất sung sướng, mơ được ước thấy… 
      Quỳnh vẫn biết được mình
  luôn sung sướng đấy thôi. Cô sinh ra trong một gia đình khá giả, ba mẹ là
  những người tử tế và sống với nhau hạnh phúc. Họ có cô sau khi sinh liền hai
  người con trai nên Quỳnh là cô “công chúa” mà ba mẹ mơ ước. Khỏi phải nói ba
  mẹ nâng niu cô như thế nào, các anh thì luôn nuông chìu em gái. Từ khi vào
  mẫu giáo cô đã được học ngọai ngữ và năm sinh nhật bảy tuổi Quỳnh được gia
  đình tặng cho một cái đàn Piano mới toanh đặt mua từ bên Nhật. Nhờ đầy đủ
  điều kiện, được kèm cặp đúng mức nên Quỳnh học rất giỏi. Thầy cô môn nào cũng
  muốn “giành” Quỳnh đi thi học sinh giỏi môn của họ phụ trách. Mỗi khi đi họp
  phụ huynh ba mẹ luôn ngây ngất bởi những lời khen từ giáo viên chủ nhiệm…
  Sung sướng như vậy nhưng không có nghĩa Quỳnh được đỏng đảnh và lười nhác như
  một tiểu thư, cô được hưởng một nền giáo dục khá nghiêm khắc. Mẹ dạy nấu ăn,
  cắm hoa, làm bánh… Còn bà giúp việc nhà dạy cô làm những món ăn thông thường,
  kể cả những món bình dân như mắm kho quẹt, cá kho tiêu. Mỗi khi đi làm từ
  thiện bà mẹ hay dẫn Quỳnh theo để cô tận mắt thấy rằng còn bao nhiêu số phận
  kém may mắn hơn mình cần được chia sẻ… Vì thế, từ khi học trung học Quỳnh đã
  nung nấu mơ ước trở thành một bác sĩ, theo cô đó là nghề được trực tiếp xoa
  dịu vết thương cho mọi người. Biết thi vào ngành y là rất khó nên Quỳnh cũng
  là một “cây gạo” có cỡ và chạy “sô” từ “lò luyện” này qua lò khác. Tuy vậy,
  bản năng con gái mạnh mẽ khiến cô không quên chưng diện cho mình dù xuất hiện
  ở đâu. Quần áo, mũ nón, khăn quàng, giày ví của cô nhiều vô kể và lúc nào
  cũng được cô chọn lựa để màu sắc, kiểu dáng luôn hài hòa với khung cảnh, thời
  tiết... Cô còn hay tham gia công tác xã hội, thăm trại trẻ mồ côi, hiến máu
  nhân đạo. Và ở đâu Quỳnh cũng khá nổi bật. Có một vài hãng quảng cáo tìm đến
  tận nhà mời Quỳnh làm người mẫu quảng cáo trên truyền hình, có người gợi ý đi
  thi hoa hậu vì Quỳnh cao gần một mét bảy nhưng ba mẹ cô không đồng ý, họ muốn
  tương lai của con gái phải đặt nên tảng trên học vấn chứ không phải bằng vẻ
  đẹp bên ngoài. Dù vậy, phải thi đến lần thứ hai Quỳnh mới vào được trường Y.
  Quỳnh vẫn chuẩn bị tinh thần để thi lại lần thứ ba nếu rớt. 
       Vào đại học, tham gia
  nhiều sinh họat đoàn thể, phong trào văn nghệ, Quỳnh biết mình còn có số đào
  hoa. Nhiều lúc phải tắt điện thoại di động để khỏi phải nghe quá nhiều cuộc
  gọi và tin nhắn làm quen, tỏ tình của các chàng trai. Bạn của mấy người anh
  khi đến nhà hầu hết đều muốn trở thành em rể của họ. Mẹ thường tủm tỉm cười
  pha lẫn chút lo âu bảo “Càng đào hoa càng khó lấy chồng đó con!”  
       Nhưng năm cuối ở bậc
  đại học, các bạn cùng lớp lần lượt có người yêu, có cô còn chuẩn bị lên xe
  hoa khi ra trường. Riêng Quỳnh vẫn lẻ loi dù những “cái đuôi” theo ngày càng
  nhiều nhưng cô không chọn được ai, chủ yếu là không thể rung động được với
  người con trai nào. Quỳnh bắt đầu có biệt danh “công chúa tuyết”, “nữ hoàng
  băng giá” hoặc người đẹp có “trái tim vô cảm”. Cô không tin vậy, khi muốn trở
  thành một người thầy thuốc, Quỳnh biết mình có một trái tim mẫn cảm vô cùng,
  trước những đau đớn, mất mát của người chung quanh. Cô luôn bị ám ảnh bởi
  những bất hạnh của người khác, tìm cách này hay cách kia để xoa dịu. Cô yêu
  âm nhạc, văn chương và cảm xúc trào dâng khi cảm nhận được vẻ đẹp của nghệ
  thuật. Vì cô đơn nên cô thường mơ tưởng đến hình ảnh của một chàng trai, là
  người yêu, người chồng của mình sau này với những hình ảnh rất lãng mạn. Thế
  nhưng người trong mộng của cô vẫn chưa hiện ra… Một bác sĩ trẻ ra trường
  trước Quỳnh sáu năm, khá đẹp trai, làm việc trong một bệnh viện lớn, có phòng
  mạch riêng, có xe hơi riêng… Nhưng sao người đó thực dụng quá. Những tiêu chí
  hạnh phúc chỉ là con số thu nhập, là số diện tích nhà ở. Nghề bác sĩ chỉ là
  một cái “cần câu” danh lợi với anh ta. Liền sau đó một nhà doanh nghiệp trung
  niên, giàu sang, có mọi thứ, trừ một đời sống tinh thần. Với anh ta, văn
  chương, âm nhạc chỉ là đồ xa xỉ. Anh muốn có một người vợ xinh đẹp, có danh
  vị và học thức như sắm một món trang sức cao cấp để làm sang cho mình… Một Việt
  kiều trẻ, thành đạt về nước thăm gia đình, gặp Quỳnh một lần, khi sang Mỹ anh
  gởi cho Quỳnh hàng trăm email, kể cả những cuộc điện thọai và những món quà
  rất trang nhã… Anh không cần danh vị, tiền bạc gì ở cô, anh có thể nuôi vợ
  suốt đời nhưng anh chỉ thấy một giá trị duy nhất ở Quỳnh: sắc đẹp. Cô nghĩ,
  chẳng lẽ hàng thế kỷ qua, những con người tiến bộ đã đấu tranh để giải phóng
  phụ nữ và bản thân những người phụ nữ tự trọng đã đấu tranh để khẳng định giá
  trị của mình bằng học vấn, tài năng, sự cống hiến… Nay, một cô gái ở thế kỷ
  21, lại cam phận trở lại làm kiếp dây leo, sống như một cái bóng để chồng
  nuôi mình? Đó không bao giờ là sự lựa chọn của Quỳnh. Cũng có người đến với
  cô bằng một tình yêu chân thành, với sự rung động sâu xa của trái tim và
  Quỳnh không thể không thú nhận là mình không xúc động bởi tình yêu trong sáng
  ấy. Nhưng nghẹt một điều là họ không có danh vị xã hội, tương lai không mấy
  tươi sáng. Quỳnh phải hổ thẹn với lòng mình khi nhận ra mình cũng câu nệ
  không “môn đăng hộ đối”. Có người đạt nhiều “điểm” nhưng lại không đẹp trai,
  Quỳnh không quan tâm lắm đến vẻ đẹp bên ngoài, nhưng người cô yêu hẳn phải là
  đàn ông có sức hấp dẫn… Không ai vừa ý cô cả, mấy người anh trêu chọc em gái
  rằng có lẽ cô không bình thường hoặc người cõi trên. Bà mẹ bắt đầu sốt ruột
  khi Quỳnh ra trường, đi làm được vài năm mà vẫn chưa có bờ bến nào để ghé
  vào. Quỳnh khá thành công trong công việc, luôn được sự ưu ái, ngưỡng mộ của
  người khác phái. Nhiều lúc cô thấy tuyệt vọng, chẳng lẽ mình ở vậy suốt
  đời... Cô thấy mọi người yêu thật dễ dàng còn với Quỳnh sao khó quá. Cô không
  hiểu sao mình không thể yêu ai, nhiều lúc cô ước mình yêu vô tư, mù quáng,
  dại dột như một số bạn gái của mình. “Coi chừng ế à nghen”, câu nói đùa ấy
  bây giờ bắt đầu làm Quỳnh chột dạ. Khi nghe những lời tán dương ngất trời về
  mình cô không còn vui nữa. Đẹp, giỏi, tốt nhưng không biết yêu… Để làm gì
  nhỉ? Thậm chí là bất hạnh.  
      Cho đến một lần Quỳnh cùng
  đoàn công tác của bệnh viện đến khám chữa bệnh miễn phí cho người nghèo ở một
  vùng xa. Đang giờ ăn cơm, nghỉ ngơi, người dân địa phương nháo nhác báo cho
  họ biết có một tai nạn giao thông nghiêm trọng xảy ra và một chiếc xe bị rơi
  xuống hố… Quỳnh vội buông đũa, khoác chiếc áo blouse theo xe cấp cứu. Đến nơi
  họ nhìn thấy một cảnh kinh hoàng, chiếc xe hơi bị nạn ở dưới hố và những
  người đi trong xe đều nằm gọn trong chiếc xe móp méo, không biết sống chết
  thế nào. Theo lời kể của người đi đường, vì tránh một chiếc xe máy ngược
  chiều chạy ẩu nên chiếc xe hơi mất trớn và rơi xuống… Nhờ sự giúp đỡ của
  người dân, nhóm y bác sĩ xuống được dưới hố, phá cửa xe đưa những người bị
  nạn ra ngoài. Họ gồm tám người, người gãy chân, người bị đa chấn thương, có
  người không thấy máu me gì nhưng bất tỉnh… Tất cả được đưa về trạm cấp cứu
  rồi đưa về bệnh viện thành phố vì đó là một đoàn gồm những nhà khoa học đi
  công tác xuất phát từ thành phố. Quỳnh thay mặt đoàn mình đưa họ về. Trong đó
  có một người mà cô e rằng bị chấn thương cột sống nặng, anh ta còn tỉnh táo
  và trông khá trẻ… Quỳnh rùng mình khi nghĩ rằng anh ta sẽ mằm một chỗ suốt
  đời. Quả là như vậy, khi về bệnh viện, sau khi khám tất cả, vị bác sĩ trưởng
  khoa nói với Quỳnh “Ca này nặng lắm…” Rồi ông thở dài “Anh ta mới ba mốt
  tuổi, chưa có gia đình mà người thân cũng đang sống ở nước ngoài. Tội.” Quỳnh
  nghe lòng nhói đau khi nghĩ tiếp, nếu nặng như thế, không chỉ nằm liệt một
  chỗ mà e rằng anh ta cũng không thể lấy vợ và có con.  
       Dù không có nhiệm vụ
  trực tiếp điều trị cho bệnh nhân nhưng ngày nào Quỳnh cũng ghé qua chỗ anh
  theo, theo dõi bệnh lẫn quan sát anh ta. Lúc đầu anh thường nằm thiêm thiếp
  trông như đang ngủ, vầng trán cao sang, chiếc mũi thẳng, đôi môi đầy đặn,
  nghiêm nghị mím lại vì nén một nỗi đau tinh thần hơn là thể chất. Con người
  này hẳn từng làm khổ nhiều cô gái đây, cô nghĩ… Quỳnh hay đến thăm trong giờ
  dành cho thân nhân, đôi khi xem thử có những ai, mối liên hệ với anh ta ra
  sao và cô tự cười cái tính tò mò phụ nữ của mình. Tất nhiên có rất nhiều cô
  gái đến thăm, có vài cô rất đẹp, những đồng nghiệp trẻ già, có người là họ
  hàng gần xa. Hầu hết, họ xót xa cho một nhà khoa học trẻ, có nhiều năng lực
  và thừa niềm đam mê lại là người bị nặng nhất. Những bệnh nhân cùng đi với
  anh lần lượt ra viện còn anh ở lại. Rồi anh cũng nhận ra Quỳnh, người đã leo
  xuống hố cứu mình. Anh nói một câu hài hước: 
       -  Lúc đó tôi cứ
  tưởng có một thiên thần hiện ra dẫn tôi lên thiên đường! Đâu ngờ phải ở lại
  cái địa ngục này… 
       Đến lượt Quỳnh được
  phân công phụ việc cho bác sĩ chính theo dõi và điều trị cho anh. Em gái anh
  từ nước ngoài về còn mẹ anh yếu quá không thể về thăm con nổi. Cô ấy khóc lóc
  sụt sùi khi nói chuyện riêng với Quỳnh. 
      -  Bác sĩ biết không,
  anh ấy đâu chịu đi xuất cảnh cùng gia đình, chỉ thích ở lại để theo đuổi
  ngành địa chất. Chị ơi, khi ấy anh đậu cả hai trường đại học, và anh bỏ ngành
  y mà ai cũng mơ ước để chọn học địa chất. Khi ra trường, anh học tiếp rồi mới
  đi nghiên cứu, rất vất vả và bây giờ là thế này đây...  
       Biết anh mình phải
  chữa bệnh lâu dài, nằm hoài trong bệnh viện tù túng, cô em đã xin phép đưa
  người anh về nhà nhờ bác sĩ đến điều trị và thuê người chăm sóc, cô phải trở
  lại Úc vì con còn nhỏ… Cô ấy còn lớn tuổi hơn Quỳnh nhưng cứ gọi Quỳnh là
  “chị” và xưng “em” ngọt xớt. 
      -  Chị ơi, thỉnh
  thoảng chị làm ơn ghé qua nhà, ngó qua anh của em một chút. Phải chi anh em
  học trường y thì thành đồng nghiệp của chị rồi. Chị đẹp quá. Mẹ em cứ hối
  thúc anh lấy vợ nhưng anh nói, phải yêu thật là yêu thì mới lấy được, còn
  không thì ở vậy. Nhiều cô thích anh lắm… Nhưng giờ thì vậy đó, phải chi anh
  chịu cho em mang anh sang Úc chạy chữa… Hay chị từ từ tìm cách thuyết phục hộ
  em, anh chịu ra nước ngoài, gia đình em biết ơn chị suốt đời.  
 
   Quỳnh cười buồn: 
       - Tôi đâu có quyền
  lực gì để làm nổi việc đó… 
       Qua Úc, cô ấy gọi
  điện ngay cho Quỳnh và gởi email. Quỳnh cũng ngại, cô không còn nhiệm vụ gì,
  bác sĩ điều trị tại nhà cho anh cũng là một bác sĩ khác, đồng nghiệp của
  Quỳnh. Nhưng cô em cứ năn nỉ và mỗi lần Quỳnh ghé thăm, ánh mắt nồng ấm, cố
  kìm nén nỗi đau một cách can đảm của anh khiến cô không thể không đến. Quỳnh
  nhận ra sự sung sướng, xúc động chen lẫn tuyệt vọng của anh khi thấy cô. Nằm
  một chỗ nhưng anh không buồn chán lắm nhờ rất thích đọc sách báo, lên mạng
  internet theo dõi những thông tin của ngành địa chất và ghi ghi chép chép. Cô
  chọn những quyển sách mình thích mang cho anh mượn. Trong khi trao đổi về
  những gì đọc được, Quỳnh nhận ra rằng ngoài niềm say mê khoa học, anh còn cảm
  nhận về văn chương sâu sắc và tinh tế. Càng tiếp xúc với anh, Quỳnh càng sợ
  hãi những cảm xúc trào dâng trong tim mình. Tại sao trái tim của cô lại xao
  xuyến trong một hoàn cảnh nghiệt ngã như thế này. Cô có điên không. Quỳnh
  muốn trốn chạy khỏi anh nhưng không làm nổi điều đó. Anh ta ngày càng ám ảnh
  cô, lúc đi trên đường, trong bữa ăn, giấc ngủ, lúc khám bệnh… Mỗi lần cô đến
  anh không nói gì nhiều nhưng cô cảm thấy anh ta cũng bối rối y hệt như mình,
  cũng chất chứa một điều gì, như một đám mây nặng, chỉ chờ một cơn mưa. Rồi
  một ngày anh thu hết can đảm nói với Quỳnh : 
      - Quỳnh ạ, anh không muốn
  em khó xử và anh phải sống trong dằn vặt. Em hãy cho anh đừng gặp em nữa, hãy
  cho anh xa em, dù bây giờ em là lẽ sống của anh. Em hoàn hảo quá, em phải
  được yêu một cách xứng đáng và được hạnh phúc. Anh không được phép níu chân
  em… Em đi đi.  
      Không kìm được, Quỳnh bật
  khóc nức nở, qua hàng hàng nước mắt cô thấy vầng trán cao, đôi mày mạnh mẽ
  của anh nhăn lại trong tận cùng của đau đớn. Đau đớn hơn cả khi anh biết tin
  mình bị chấn thương cột sống và có thể chẳng bao giờ được làm việc và làm
  chồng, làm cha… Họ ngồi yên lặng bên nhau rất lâu rồi đến lúc Quỳnh ra về.
  Nhưng không ngờ chỉ mấy bước chân thôi, như có một sức hút vô hình buộc cô
  phải quay đầu nhìn lại. Anh nằm đó, trên chiếc giường lò xo kiểu bệnh viện,
  có thể dựng lên ở phần lưng, hạ xuống phần chân, mắt anh thăm thẳm yêu
  thương, âu yếm lẫn buồn đau cùng một sự chấp nhận, bao dung đến lạ lùng. Cô
  quay bước lại, đổ xuống anh như một cái cây bị đốn hạ. Anh ôm chặt lấy Quỳnh,
  môi tìm môi quấn quýt lấy nhau cùng vị mặn của nuớc mắt của hai người hòa
  quyện lại trên môi nhau. Quỳnh cứ nằm trong lòng anh như thế, mặc cho người
  phụ nữ lớn tuổi chăm sóc anh lâu nay vào nhìn thấy và lui gót… Buổi chiều êm,
  ngoài thềm vắng vài chiếc lá khô rơi xào xạc.  
      Tình yêu lâu nay phải dồn
  nén được buông thả nên ngày nào họ cũng phải gặp nhau. Đi làm về, tắm rửa,
  trang điểm là Quỳnh chạy xe đến nhà anh. Bà mẹ bắt đầu dò hỏi với một chút
  mừng vui, hy vọng rằng con gái đã tìm được một tình yêu đẹp đẽ, vì cái vẻ xôn
  xao, say đắm toát ra ở mắt môi, ở từng bộ phận nhạy cảm trên cơ thể xuân thì
  của cô không giấu được ai. Ánh mắt ấy làm Quỳnh đau thắt. Nếu bà biết sự thật
  rằng con gái của mình đang yêu như mê cuồng một chàng trai nằm liệt giường,
  không hy vọng gì đứng lên được nữa.  
      Những ngày tháng ấy, Quỳnh
  sống như trong một cơn mê, không còn nhớ gì, nghĩ gì, cô khá bận rộn với công
  việc ở bệnh viện, phần thời gian còn lại là dành cho anh. Mỗi lần gặp nhau
  chỉ là để chìm đắm trong lòng nhau, những nụ hôn không muốn rời, những vuốt
  ve ngây ngất mà chắc những ai từng sống trên thiên đường cũng không có được
  sự trải nghiệm thần tiên ấy. Anh bảo: 
      - Nếu đổi tai nạn ấy để
  được có em anh vẫn thấy mình quá lời… Chỉ tội cho em. 
      Quỳnh bịt mồm anh bằng một
  cái hôn, nhưng sau đó anh vẫn nói: 
      - Dù gì em vẫn phải có
  tương lai, người như em phải được làm vợ làm mẹ, nếu không uổng phí lắm … 
 
  - Tương lai của em là mang đến hạnh phúc cho anh. 
  -
  Nhưng anh không thể mang đến hạnh phúc cho em. 
  -
  Em không tin vậy… 
      Và họ đã thử. Anh như run
  lên khi Quỳnh tự cởi quần áo ngoài, quần áo lót để anh nhìn ngắm thân thể
  thanh tân của cô. Anh thốt lên “Em đẹp như một nữ thần”. Quỳnh muốn dâng hiến
  sự trong trắng cho anh. Cô dịu dàng nằm xuống bên cạnh, họ ôm lấy nhau… Khi
  anh cố chồm lên người Quỳnh nhưng sự đau đớn làm anh nằm vật ra, mồ hôi đầm
  đìa. Có lẽ đây là nỗi đau đớn tột cùng của một con người mà Quỳnh nhìn thấy
  được trong đời nhưng chính điều đó khiến Quỳnh trở nên mạnh mẽ hơn bao giờ.
  Cô cứ ôm chặt lấy anh và họ ngủ thiếp đi trong vòng tay của nhau.  
       Ngoài bác sĩ chuyên
  khoa điều trị, Quỳnh đọc sách và lên mạng internet tìm hiểu về căn bệnh của
  anh. Và cô đau xót nhận ra rằng cách điều trị, cho thuốc đều đúng, theo kịp
  với y học hiện đại nhưng sao chuyển biến của bệnh chẳng có gì đáng lạc quan,
  kể cả vật lý trị liệu và những phương tiện y khoa khác rất đắt tiền. 
*** 
      Quỳnh sống như trong một
  giấc mơ, cô không hiểu chuyện gì xảy ra là từ đâu. Hơn một năm sau, anh bắt
  đầu tự ngồi được và họ yêu nhau như tất cả mọi người bình thường. Ai đã từng
  yêu và được yêu, ân ái cùng người mình yêu và đạt đến cực cảm, thì họ tin
  rằng mình đã được hưởng nhiều gấp chục lần hơn những cặp tình nhân ấy. Không
  lần nào họ yêu nhau mà Quỳnh không khóc vì hạnh phúc. Gia đình Quỳnh biết mối
  tình của họ khi người cô yêu bắt đầu lẫm chẫm tập đi. Mẹ anh ở nước ngoài dù
  rất yếu cũng bảo con gái đưa về nước để thăm người con trai “chết đi sống
  lại” của bà. Người mà bà ôm lâu và khóc nhiều không phải là người con trai
  yêu quý mà chính là Quỳnh. Trong bữa tiệc vui, lần đầu tiên gia đình Quỳnh
  với gia đình anh gặp nhau cùng với người bác sĩ điều trị của anh. Ông vui vẻ
  từ chối lời cảm ơn của mọi người: 
      - Không phải tôi giúp anh
  ấy bớt bệnh đâu, mà chính cô bác sĩ Quỳnh trẻ đẹp ngồi bên cạnh anh đó. Có lẽ
  lần đầu tiên trong cuộc đời thầy thuốc của mình, tôi chứng kiến được rằng
  tình yêu quả là một liều thuốc kỳ diệu nhất… 
      Sau đó ít ngày họ làm lễ
  đính hôn. Những tấm ảnh chụp trong ngày ấy Quỳnh luôn mang theo trong túi
  xách của mình, cô còn lấy làm hình nền cho cái máy tính xách tay và điện
  thoại di động, cứ có giờ rảnh là cô mở ra ngắm nhìn không chán… | 
6 | 
| 
7 | 
      Như nhiều chàng trai tỉnh lẻ khác,
  tốt nghiệp đại học xong Ân chỉ muốn tìm cách xin việc ở thành phố. Nhưng
  nghẹt nỗi, xin vào các cơ quan nhà nước thì Ân kẹt cái hộ khẩu, còn xin vào
  công ty nước ngoài thì
  Ân yếu khâu ngoại ngữ. Nhớ ngày đầu bước chân vào thành
  phố để thi đại học, ở tạm nhà một người bà con sống lâu năm ở thành phố, Ân
  ngạc nhiên hết sức khi thấy chú bé mới hơn mươi tuổi con chị chủ nhà ngồi đọc
  truyện cổ tích bằng tiếng Anh. Sau này học chung với các bạn là dân thành phố
  Ân cũng nhận ra rằng nếu mình giỏi hơn họ về các môn tự nhiên thì họ thường
  hơn hẳn mình về ngoại ngữ. Cái dân thành phố mới lạ, hình như họ học ngoại
  ngữ còn có vẻ dễ dàng hơn học tiếng mẹ đẻ. Ân cũng tìm đến nhiều trung tâm
  ngoại ngữ vì nhưng học yếu, nói dở, nghe kém, giọng của Ân nói tiếng Anh
  khiến ai cũng phì cười, thế là Ân ngượng, đâm ra lười học và bỏ luôn.  
      Nhà không nghèo đến mức để
  Ân đủ kiên trì, nhẫn nhục bám lại thành phố tìm cách đổi đời. Ở chờ việc chán
  quá Ân về quê. Mẹ Ân, một người phụ nữ góa bụa truyền thống, ở vậy nuôi con
  hơn mười năm nay từ khi cha Ân mất. Hơn thế nữa, bà làm ăn phát đạt bằng cái
  quán bánh xèo ở thị trấn lúc nào cũng đông khách. Bánh của bà nổi tiếng, dân
  thị xã chiều chiều cũng vượt đường xa gần chục cây số đến ăn, vì dù bánh có
  ít thịt nhưng nhiều nấm và rau sống tươi ngon cộng với loại nước chấm rất
  “độc chiêu” tự bà chế biến và giữ như một bí quyết. Nhờ cái quán bánh xèo ấy
  mà dù mồ côi cha Ân vẫn được ăn học, sung sướng như một cậu công tử. Khi vào
  Sài Gòn Ân thuê hẳn một phòng riêng ở cho thoải mái và mua ngay một chiếc xe
  máy để đi học. Ân thấy mình không thua dân thành phố thứ gì, trừ ngoại
  ngữ.    
       Ân về, bà mẹ vui lắm,
  bà vẫn muốn Ân về xin việc ở quê, có nhà cửa đàng hoàng, có vốn liếng bà dành
  dụm bao nhiêu năm cho con trai cũng kha khá. Bà trông con ra trường, đi làm,
  ít năm nữa rồi lấy vợ, có cháu cho bà bồng. Xứ này thiếu gì con gái đẹp, ít
  nhất cũng nổi tiếng trong tỉnh. Quê Ân có câu “Ăn chơi Thạch Trợ, lấy vợ
  Nghĩa Hành”. Con gái Nghĩa Hành đẹp đoan trang, phúc hậu, không ít dân tứ xứ
  tới đây cũng tìm cách rước cho được một cô gái Nghĩa Hành. Bà có
  mấy đứa cháu gái lấy chồng tận Sài Gòn, tụi nó bây giờ giàu có thành đạt, vài
  ba con rồi mà mỗi lần về quê bà vẫn thấy chúng càng đẹp. Ân cũng biết điều
  đó, hơn bốn năm học ở Sài Gòn, cũng có lúc sa đà yêu đương với vài cô gái
  miền Nam nhưng Ân nghĩ mình sẽ lấy một cô gái cùng quê vừa xinh đẹp vừa dễ
  hợp với mẹ mình hơn. Ân lúc nào cũng nghĩ đến việc làm vui lòng mẹ.  
       Việc đầu tiên của Ân
  về nhà ních no một bụng bánh xèo ngủ một giấc để bù việc ngủ gà ngủ gật trên
  tàu lửa rồi sau đó đi tắm sông. Tắm sông là một cái thú mà Ân ghiền từ nhỏ.
  Được hụp lặn giữa bãi bờ xanh ngát, trong giòng nước trong veo Ân như thấy
  mình trút bỏ hết mọi suy tính, lo toan trước một tương lai buộc phải gắn liền
  với chữ “thành đạt” mà người mẹ luôn kỳ vọng vào mình. Mặc chiếc quần đùi ướt
  từ sông về, lúc băng qua đường vào nhà Ân khoác thêm chiếc khăn lông cho kín
  đáo. Anh đi vòng ngõ sau tránh cái sân đang rất đông khách ngồi ăn, uống bia,
  cười nói rôm rả. Lối sau nhỏ, lót gạch tàu, lo liếc nhìn đám khách phía trước
  xem thử có ai quen, Ân vấp phải cô gái ngồi rửa chén khiến cô mất thăng bằng
  vì đang ngồi trên cái đòn gỗ quá nhỏ, chỉ nhỉnh hơn bàn tay. Ân vội vàng đỡ
  cô dậy, miệng xin lỗi rối rít. Cô gái lườm Ân bằng đôi mắt thông minh, khuôn
  mặt sáng láng: 
      - Đậu đại học rồi chỉ ngước
  nhìn lên thôi chắc? 
  -
  Thì người ta xin lỗi rồi mà!  
      -  Lỡ đạp chết người
  ta sao? 
 
  - Người chớ có phải gà con đâu mà dễ chết vậy? Mà sao biết tui kỹ sư? 
       - Thì ở đây ai không
  biết!  
  
  - Còn cô là ai?  
  
  - Tui là tui, làm thuê cho mẹ anh!  
  
  - Xin chào cô, người nhà mà tui không biết!  
   
   - Hổng dám người nhà đâu, người giúp việc thì đúng hơn.  
       Ân thấy mình đang ở
  trần mà nói chuyện với với cô gái trẻ thì không tiện, hơn nữa đó là một cô
  gái tạo cho Ân một ấn tượng đẹp. Cô mặc một bộ quần áo thể thao đã cũ mèm,
  loại đồng phục dành cho học sinh, mái tóc búi cao một cách trễ nãi để lộ cái
  cổ cao thanh thoát và mềm mại, khuôn mặt tròn trắng ngần và mắt môi cô dường
  như lấp lánh trong bóng chiều nhá nhem. Không kìm được tò mò, vào nhà mặc
  quần áo chải tóc xong, Ân ra tìm mẹ để hỏi : 
       - Nhà mình có con bé
  mới vào làm hả mẹ? 
      - Con gái cô Bảy, cuối tuần
  nó đến phụ để rửa chén dĩa .. 
 
  - À … 
      Cô Bảy là người phụ nữ
  nghèo, trước đây thường đi làm thuê, lâu nay đến phụ việc cho mẹ của Ân. Ân
  không ngờ một phụ nữ kham khổ, lam lũ và hiền như cô Bảy lại có một cô con
  gái xinh đẹp, có dáng dấp như một tiểu thư lại đáo để như vậy, cô có vẻ như
  một cô nữ sinh hơn là một cô gái làm thuê... Từ lúc ấy, Ân chỉ còn quan tâm
  điều một điều: Cô gái ấy đã rửa chén xong chưa, đang làm gì, giá đừng sợ mẹ
  quở để Ân làm giúp cô gái…Nhưng chỉ lát sau Ân nhận ra cô dắt đạp đi ra cổng…
  Không kìm được, Ân đến chỗ cô Bảy và hỏi: 
  
   - Sao con gái cô về sớm vậy ? 
         -
   À, em nó về đi học thêm... 
 Không
  kìm được ngạc nhiên, Ân hỏi tiếp: 
  -
  Em học lớp mấy vậy cô ? 
 
  - Em học lớp mười hai đó cháu .   
  
  - Ồ !  
**** 
      Bà mẹ sắc sảo không thể
  không nhận ra con trai mình đang lao đao vì cô con gái của người làm thuê. Bà
  công nhận con bé trông thật đẹp đôi với con trai mình, nếu nó có quần áo sang
  trọng hơn một chút. Nhưng cái tính con bé ấy bà không ưa. Con nhà nghèo mà
  tính tình chảnh chọe. Từ khi đến phụ việc ở đây nó không chịu ăn cơm cùng với
  mẹ nó và những người giúp việc khác dưới bếp, còn bà thì ăn riêng trước ở nhà
  trên, dù ăn có một mình. Nó còn cả gan góp ý bà là không nên dùng bột ngọt
  nhiều có hại cho sức khoẻ của khách. Cái món sữa đậu nành à lấy của người ta
  bỏ mối để bán, thường đựng trong chai nhựa cũ, nó bảo vậy không tốt, uống sẽ
  dễ bị ung thư, nên đựng trong chai thủy tinh hoặc hũ sành! Chai thủy tinh ở
  đâu cho đủ lại còn dễ bể nữa… Mới có nhúm chữ mà ngo ngoe, con bà học xong
  đại học còn chưa ăn thua. 
  Bà
  thẳng thắng góp ý khi thấy Ân cứ tìm cách gặp cô gái hoặc nhìn lén cô: 
        - Con đừng tiếp
  xúc với con Hà, không được đâu… 
 
   -  Sao không được hả mẹ ?  
         -
   Con đó nó đanh đá lắm. Mà chẳng lẽ con ưng nó, mẹ lại ngồi sui với con
  Bảy mẹ nó, mầy bôi tro trát trấu vào mặt mẹ à ? 
         - Chưa gì
  mà sao mẹ nói ghê vậy, cô ấy còn đi học mà…rồi sẽ có tương lai.  
         - Thôi,
  đừng ỷ học cao rồi lý sự với mẹ, đũa mốc không thể chòi mâm son, nó có thành
  bà gì thì kệ nó! Mới nứt mắt mà đã biết liếc trai. Từ khi con về nó siêng đến
  làm chứ trước đây mấy khi. Có khách đông cần người tới phụ kêu hết hơi nó còn
  õng ẹo.  
      Thế nhưng sau đó Hà ít đến
  phụ việc hơn, hình như cô biết mẹ Ân đã nói gì nên thấy Ân là lỉnh đi. Ân
  giận mẹ, ý định ở lại quê nhà cũng biến mất. Anh lại khăn gói lên đường vào
  Sài Gòn rồi ra sao thì ra. Hơn một năm, qua vài lần nhảy cóc từ công ty này
  qua công ty khác vừa lăn vào học ngoại ngữ, Ân mới tìm được việc mình yêu
  thích và trụ ở đó. Ngày về thăm mẹ với rất nhiều nhớ thương và chút ít dỗi
  hờn, Ân khát khao hy vọng sẽ được gặp lại Hà. Người Ân muốn gặp sau mẹ là cô
  Bảy nhưng những người làm bảo rằng cô Bảy đã vào Sài Gòn làm thuê để nuôi con
  gái học đại học rồi. Có người còn vui miệng kể rằng nhiều người muốn giới
  thiệu cho Hà lấy chồng Việt kiều, lấy chồng Hàn Quốc giàu lắm, đổi đời ngay
  tức khắc khỏi phải làm gì nhưng cô chỉ muốn đi học… Một lần nữa lại lạc mất
  Hà, Ân thấy buồn. Nhiều cô gái cũng xinh đẹp, gặp hoài, học chung, làm chung,
  họ còn rất ân cần hoặc chủ động tán tỉnh mình sao Ân không nhớ, lại hay nghĩ
  vẩn vơ về cô gái mới chạm mặt có vài lần mà còn bị mẹ cấm đoán… 
**** 
      Đã lâu lắm, phải đến ba năm
  liền Ân chưa về quê, tuy vậy khi nhớ con bà mẹ lại vào Sài Gòn thăm, nhân
  tiện xem con ăn ở ra sao giữa cái thành phố mà nhắc tới tên là người dân quê
  bà lại rộn lên niềm ngưỡng mộ. Năm nay bà bảo không được khoẻ, cố mà về ăn
  tết với mẹ. Nằm trên tàu, thời tiết mùa đông se lạnh, Ân trùm mền ngủ suốt,
  chỉ mong cho mau tới nhà. Thế nhưng chưa tới quê nhà, tàu chỉ dừng lại ít
  phút ở những ga nhỏ của vùng lân cận, nghe giọng địa phương hao hao, rồi cảnh
  vật, hình ảnh người dân cũng gần giống người quê mình, lòng Ân rộn lên một
  niềm xao động yêu thương. Anh bật dậy, vén rèm cửa để nhìn ngắm cho thỏa con
  mắt. Cảnh lẫn người đang xôn xao đón tết, những ngôi nhà mới đang hối hả cho
  công đoạn cuối cùng, quét vôi, tô điểm. Trước thềm hoa mai, hoa cúc hoa vạn
  thọ đã tranh nhau khoe sắc. Vùng đất này đã giàu hơn nhiều so với lần đầu
  tiên anh xuôi tàu vào Nam để thi đại học, nhà tranh lưa thưa, cảnh vật u
  buồn... Lần này về, Ân mang nhiều quà về cho mẹ và cho cả bà con hàng xóm,
  một vài người bạn thân thời còn trung học, nay có người đã vợ con đề huề. Bà
  mẹ hẳn sẽ hài lòng về cậu con trai bắt đầu phát tướng, hồng hào và cao lớn.
  Ân làm việc trong một công ty nước ngoài, có một chức vụ nho nhỏ trong công
  ty, được đi nước ngoài thường xuyên, chủ yếu là những nước trong khu vực châu
  Á. Chuyến đi nào Ân cũng chụp hình kỷ niệm để dành mang về cho mẹ xem, để mẹ
  ngắm nghía mỗi khi con trai đi xa và mang ra khoe khi có ai hỏi thăm về con
  mình. Chỉ có một điều bà không hài lòng về con trai là không chịu lấy vợ hay
  ít nhất cũng gởi hình bạn gái về cho bà xem. Thật ra Ân cũng có vài mối tình,
  tưởng cũng yêu ghê lắm nhưng rồi cũng đến lúc phải chia tay, như một kết cuộc
  không tránh khỏi, dù những cô gái không tiếc gì với Ân, kể cả chuyện quan hệ
  tình dục, thậm chí có cô dễ dàng đáp ứng Ân chuyện ấy như mời nhau đi uống cà
  phê, Ân đâm ra ngại.  
      Là ga nhỏ nên tàu chỉ dừng
  có năm phút để hành khách lên và xuống, ai cũng vội vàng, người xuống đứng
  xếp hàng chờ xuống rồi chen nhau với người đi lên, cửa hẹp, túi xách họ vướng
  vào nhau. Ân bị xô đẩy suýt té vào một cô gái đi lên, mang đồ đạt lỉnh kỉnh
  tóc dài tha thướt. Vóc dáng xinh xắn, quần áo hợp thời trang của cô khiến Ân
  không thể không tò mò tìm cách nhìn thử khuôn mặt. Biết bao cô có dáng đẹp
  nhưng nhìn tận mặt thì xấu hoắc. Lần này Ân không thất vọng, nhưng anh ngớ
  người. Trời, trông cô quen thuộc quá khiến Ân không thốt nên lời. Cô gái cũng
  kinh ngạc khi nhận ra Ân. Chưa kịp nói gì thì dòng người xô nhau, cô ở trên
  tàu và Ân đã tiếp đất, đứng ở sân ga và tàu bắt đầu chuyển bánh. Ân hoảng hốt,
  cuống cuồng khiến một người khách đứng cạnh hỏi : 
 - 
  Anh có bỏ quên gì trên tàu không ? 
      Giá mà anh bỏ hành lý ở sân
  ga cho nhẹ để nhảy lại lên tàu. Không kịp nữa rồi nhưng Ân vẫn chạy theo,
  giống như con tàu là một thỏi nam châm khổng lồ còn anh là một vụn sắt, anh
  bị hút theo, chạy càng lúc càng nhanh cho kịp với tốc độ của con tàu. Và từ
  một khung cửa, gần chỗ anh ngồi lúc nãy một khuôn mặt đẹp hiện ra áp sát vào
  kiếng với mái tóc dài rối bời, đôi mắt mở to nói những lời không thanh âm mà
  Ân tin rằng mình nghe hết. Em nhận ra anh rồi. Em đây. Tàu chạy nhanh hơn, bỏ
  Ân đang lùi lại, anh mệt đứt hơi, bải hoải chân tay vì vừa xách nặng. Ân đứng
  nghỉ, nhìn theo con tàu xa khuất dần, sân ga vắng hoe. Ân buồn bã lê bước ra
  cổng và gọi một chiếc xe ôm. Mọi rộn rã về những ngày tết ở quê nhà tắt ngúm.
  Cuộc trùng phùng quá bất ngờ mà như thành vô vọng. Bao nhiêu năm nay không
  phải Ân không nhớ đến cô bé rửa chén cho nhà mình năm xưa, biết cô đang ở
  cùng thành phố với mình, nhiều lúc đi trên đường phố Sài Gòn, Ân bỗng ao ước
  giá như Hà xuất hiện ở đâu đó, để Ân chạy theo, gọi tên và giữa họ không còn
  gì chia cắt nữa. Nhưng Sài Gòn rộng lớn quá, nếu không có một đầu mối liên
  lạc thì dù sống suốt đời ở đó người ta vẫn vĩnh viễn lạc mất nhau…  
       Biết con về, bà mẹ
  làm rất nhiều món bánh mứt đặc biệt của ngày tết. Phụ nữ ở quê anh thường tự
  làm những món ấy như một cách thể hiện tài nữ công gia chánh khéo léo của
  mình chứ ít khi ra chợ mua, chỉ người người nào vụng lắm mới mua bánh mứt
  ngoài chợ về cúng ông bà và đãi khách trong ba ngày tết. Mẹ Ân thường bảo
  con, lấy vợ phải tìm đứa con gái cho khéo, người khéo thường khôn. Cho nên
  người ta mới nói “khôn khéo” hay “vụng dại” là vậy. Dù nhà chỉ có hai mẹ con
  bà vẫn làm đủ món, mỗi món một ít. Nào bánh nổ, bánh thuẩn, mứt bí, mứt mè,
  mứt gừng… Nhưng Ân mê nhất chính là món bánh tét mẹ làm, bánh tét không nhiều
  thịt như bánh chưng, ít đậu xanh hơn nên ăn đỡ ngán. Đòn bánh tét bà gói bao
  giờ cũng tròn đều, nhưn bánh ngay chính giữa trông như một cái nhụy hoa, lát bánh
  tét ra trông trắng ngần, chung quanh viền một nét xanh màu lá và thơm lừng
  mùi tiêu, mùi hành phi, mùi lá chuối. Ân thường ăn no căng bánh tét với dưa
  món do mẹ làm từ củ kiệu, đu đủ, cà rốt… Ngâm với nước mắm ngon nấu pha
  đường.   
       Ân sốt sắng giúp mẹ
  gói bánh, quán bánh xèo tạm nghỉ từ mấy hôm trước. Hồi nhỏ, Ân hay ngồi nhìn
  mẹ gói bánh và chỉ chực được bà cho chút nhân đậu xanh còn lại được viên
  thành từng nắm để đặt vào giữa cái bánh, món nhân ấy rất ngon vì được bà xào
  với các thứ gia vị. Bà gói và bày cho Ân cách gói : 
- Tập gói đi, sau này có muốn ăn
  thì gói chứ con gái bây giờ mấy ai còn biết gói bánh chưng bánh tét, toàn đi
  mua. Sao ngon và sạch bằng bánh mình làm… 
  Bỗng
  bà ngập ngừng : 
      - Con còn nhớ con Hà con cô
  Bảy hồi làm cho mẹ không ? 
 -
  Dạ nhớ, sao mẹ ? 
      Giọng bà ái ngại nhưng
  không kìm nổi niềm vui.  
       - Bây giờ nó giỏi lắm
  nghen, đã tốt nghiệp đại học rồi, có việc làm ngon lành còn đang học thêm gì
  đó. Nó đã đưa cô Bảy vào trong từ mấy năm nay. Vừa rồi nó có về thăm quê, mẹ
  nó yếu không về được. Nó có ghé thăm mẹ và hỏi về con…Ờ, cũng tội con nhỏ, nó
  chẳng tỏ ra oán giận mẹ gì đâu .  
  Ân
  yên lặng, nén một tiếng thở dài. 
       Như chợt nhớ ra điều
  gì bà lau tay vào cái khăn lau lá chuối rồi đứng lên, đến cái ngăn kéo gần đó
  lấy đưa cho Ân một cái danh thiếp. Cầm lấy, thoáng nhìn qua, Ân run lên như
  bắt được vàng. Những ngày tết ấy, lòng Ân cũng vui như tết, có lẽ lâu lắm rồi
  anh mới có một cái tết vui như vậy. Ân cùng mẹ đi thăm mộ ông bà, ngoan ngoãn
  lẽo đẽo theo bà đến nhà họ hàng. Ai cũng hỏi anh một câu giống nhau: 
      - Chừng nào cưới vợ cho tui
  uống rượu đây? 
  Ân
  tủm tỉm cười: 
      - Dạ nếu mẹ cháu không cấm
  thì hy vọng trong năm nay… 
  Bà
  mẹ lườm con : 
      - Thời này ai mà cấm được
  các cô, các cậu… 
      Bởi ngay từ lúc nhận được
  tấm danh thiếp ấy, Ân cảm thấy mình có tất cả. Họ tên, chức vụ, địa chỉ công
  ty cùng số điện thoại cố định lẫn di dộng và email của Hà. Anh lập tức gọi
  cho cô, sau đó họ nhắn tin cho nhau liên tục. Họ luôn bên nhau. Ân còn chạy
  ra một tiệm internet để gởi email cho Hà, để chat với cô cho thỏa… Hà hứa sẽ
  ra ga đón khi anh trở vào. Ân cứ như sống trên mây, trí tưởng tượng hoạt động
  hết công suất. Xuống ga, Ân sẽ chạy đến ôm Hà thật chặt và không bao giờ để
  mất cô lần nữa. | 
| 
     Từ hồi còn là thiếu nữ, Bích đã biết mình không đẹp. Ngoài
  hai mươi rồi mà hiếm hoi mới có người chọc ghẹo bâng quơ. Nhà nghèo, lại là
  chị cả của một đàn em đông đúc, học đến lớp mười Bích phải nghỉ ở nhà phụ mẹ
  trông em, đi chợ nấu ăn, chẳng có thời gian và quần áo đẹp để đi chơi, kết
  bạn. Người con gái nghèo không chỉ khổ trong cuộc sống mà trong tình duyên
  còn khổ hơn. Dù có người thấy cô siêng năng, chăm chỉ nhưng khi biết nhà
  nghèo quá thì họ ngại, không tiến đến. Cho đến mãi sau này, có ai nhắc đến
  chuyện chồng con, Bích thấy tủi thân. 
Các em lớn dần, Bích ra chợ tập
  buôn bán. Ban đầu, chỉ có một cái nia đựng kim chỉ đi bán dạo, sau đó mới
  dành dụm được ít tiền, sang được một cái tủ kiếng trong góc chợ. Buôn bán
  thật thà, tính tình nhẹ nhõm nên dù đứng trong góc Bích vẫn có khách quen.
  Quyết tâm thoát nghèo, qua mấy năm gom góp, tiết kiệm tối đa, Bích sang được
  một cái sạp lớn giữa chợ. Nhưng mải lo làm ăn, suốt ngày ở ngoài chợ, Bích
  đâu có dịp giao tiếp với ai ngoài khách hàng hầu hết là phụ nữ. Bích làm được
  hết mọi việc, dựng vợ gả chồng cho đàn em, chữa bệnh cho mẹ già, xây nhà mới…
  Đến khi người mẹ nằm xuống, một mình trong căn nhà rộng, Bích mới thực sự sợ
  hãi nỗi cô đơn… Bích hoảng hốt tìm đến những câu lạc bộ kết bạn, may đồ đẹp,
  đi học nhảy đầm, mua báo để tìm đọc mục kết bạn bốn phương… Nhưng cũng chẳng
  có kết quả gì. Buồn, Bích đóng cửa sạp đi du lịch. Đi cho biết đó biết đây.
  Nhưng càng đi Bích càng buồn vì người ta đi chơi có đôi, có đũa hay có con
  cái, còn Bích chỉ một mình. 
       Hôm ấy, vừa về đến
  nhà, Bích mang đồ đạc lỉnh kỉnh lên lầu, không nhìn thấy rõ bậc thang ở chỗ
  quanh cô bước hụt bị trượt ngã rơi xuống tận chân thang. Đau quá nhưng Bích
  cũng cố lết đến gọi điện thoại cho đứa em. Chẳng may điện thoại cũng bị hư,
  Bích liều mạng sang đập cửa căn nhà hàng xóm gần nhất, cái nhà mà Bích chẳng
  máy ưa vì dạo này, tối nào cũng phát ra tiếng kèn làm cô mất ngủ. Ông ta mặc
  áo sang nhà cô, hỏi mấy câu rồi cầm bàn chân nắn nắn, thấy Bích “á”
  lên một tiếng rất to van nài ông đừng nắn bóp nữa. Ông sợ nên vội vàng ra gọi
  xích lô đưa cô đến bệnh viện, ông còn bồng cô lên xe, mùi thuốc lá rẻ tiền từ
  người ông xông lên nồng nặc làm Bích phải nín thở. Chân cô bị bong gân, bệnh
  viện chỉ thoa nắn, băng bó rồi dặn cô về nhà tĩnh dưỡng. 
       Không đi đâu được nên
  ông ta thành“cái chân” của Bích. Bích đưa địa chỉ, ông tìm đến báo cho
  các cô em biết, te te đi mua giùm thức ăn khi cô cần. Lúc này Bích mới giận
  đám em, thầm trách cứ chúng vô ơn. Đứa nào cũng bận làm ăn, con cái, chỉ ghé
  qua thăm chốc lát, đâu thể chăm sóc chị như Bích chăm sóc chúng khi còn bé.
  Trước đây, suốt ngày ngoài chợ cái gì cũng sẵn, Bích đâu nghĩ tới ngày này.
  Thấy vậy, ông hàng xóm lại hay qua hỏi thăm. Bích sai vặt ông ta thoải mái vì
  nghĩ rồi sẽ đền ơn cho ông. Quen buôn bán, Bích nghĩ tiền bạc sẽ giải quyết
  được mọi chuyện, kể cả ơn nghĩa. 
          Về
  đây đã mấy năm, bà con trong xóm không biết tên gì nên gọi ông là “ông thổi
  kèn”, vì nghe ông thổi kèn trong một ban nhạc. Ban ngày, Bích ngoài chợ thì
  ông ở nhà, ban đêm ông đi làm thì Bích về nên chẳng mấy khi gặp. Bích không
  chú ý gì đến người đàn ông cao nhòng, ốm nhom, trông có vẻ nhàu nhò đó. Vì
  Bích nghĩ, chắc hơn Bích cả chục tuổi, người ta đã có vợ con rồi quan tâm làm
  gì. Bây giờ cô mới biết mấy tháng nay ban nhạc ông cộng tác tan rã, chưa xin
  được nơi khác nên tối nào ông cũng thổi kèn cho đỡ buồn. Có lần Bích đã sang
  đập cửa bảo ông ngưng thổi bằng một giọng rất khó chịu. 
       Số ông thật long
  đong, nhưng ông bảo tất cả cũng do ông mà ra. Xuất thân từ một gia đình giàu
  có, được cha mẹ cho sang Pháp du học. Nhưng qua đó, thay vì học bác sĩ như
  gia đình mong muốn, ông lại học thổi kèn, môn ông rất thích nhưng bên này bị
  cha mẹ cấm. Khi biết thế, họ ngưng chu cấp tiền bạc, ông đành phải trở về và
  bị cha mẹ ruồng bỏ, không chia cho ông một món gia tài nào. Ông làm trong một
  ban nhạc, rồi cũng lấy vợ nhưng vì nghèo, vì không con cái, không hạnh phúc
  nên họ chia tay. Cách đây mấy năm, cha mẹ ông qua đời, trước khi mất, người
  mẹ đã gọi ông chia cho ông căn nhà mà bấy lâu nay bà cho thuê để kiếm sống
  những ngày xế bóng… Khi nghe thế thì Bích không còn ý nghĩ sẽ trả công cho
  ông bằng tiền. Bích hay mời ông cùng ăn cơm. Có người trò chuyện Bích ăn ngon
  miệng hơn. Lần đầu tiên Bích được tiếp xúc với một người đàn ông có học thức
  và không quan tâm đến tiền. Và dù thất nghiệp, cô độc, túng thiếu nhưng cuộc sống
  của ông là cả một thế giới mà Bích không hiểu hết. 
       Khi chân bớt đau,
  Bích phải ra ngồi chợ nhưng chưa chạy xe được. Bích nhờ ông chở nhưng ông bảo
  không biết đi xe máy. Tối tối, Bích động viên ông tập xe, khi chạy được ông
  chở cô đi bán. Ngồi sau lưng ông mà Bích cứ lo đến rụng tim, nhưng ông chạy
  xe rất cẩn thận, dần dần Bích giao cho ông chìa khóab nhà để ông lo cơm nước.
  Bích từ chợ về mua thêm thức ăn. Trong tủ lạnh cô bây giờ đã có bia, có nem,
  chả hay những món nhậu khác. Nếu như trước đây cô cứ nấn ná ngoài chợ, thì
  bây giờ mong sao dọn hàng cho nhanh để về vì biết ở nhà có người đang chờ
  mình. Lần đầu biết được hương vị của tình yêu, ngồi ngoài chợ Bích cũng thấy
  lòng ngây ngất, thấy gì cũng vui, nghe gì cũng chực cười. Họ bàn tính đám cưới,
  một cái đám cưới rất lớn, có đủ anh em và bạn bè trong ban nhạc cũ của ông và
  đám em, đám cháu của Bích, những bạn hàng ngoài chợ. Trong tiệc cưới, theo
  yêu cầu của mọi người, chú rể lên chơi một bản nhạc, Bích vô cùng tự hào vì
  có một người chồng tài hoa. 
     Từ đó, tối nào Bích cũng yêu cầu
  chồng thổi kèn cho nghe. Ông cười bảo “Nó không làm em khó chịu nữa sao?”.
  Bích trả lời “Hồi đó em khó chịu vì tiếng kèn của người lạ, còn bây giờ là
  tiếng kèn của chồng mình”. Bữa ăn nào Bích cũng gắp bỏ đầy chén của chồng,
  quần áo cũ của chồng cô vứt bỏ hết, mua toàn áo xịn. Mỗi lần ông chở Bích ra
  chợ rồi phụ dọn hàng, mọi người xì xầm “Chồng bà Bích đẹp trai ác liệt há!”.
  Bích có thai, ông mua bao nhiêu là sách dạy chăm sóc thai nhi, em bé cho Bích
  đọc, cái thai lớn quá mà Bích đã lớn tuổi nên phải sinh mổ. Thằng bé giống
  ông, lại rất khôn, mới tám tháng mà có khách đến chơi giành bồng, nó sợ hãi
  kêu thét lên “Ba!” khiến ông sung sướng đỏ cả mặt và lúng túng phân
  trần “Hơn năm mươi tuổi, mới được nghe tiếng gọi ba lần đầu!” | 
8 | 
| 
9 | 
      Cửa
  phòng bật mở, chị thư ký công đoàn hiện ra: 
      - Ai tham gia đi cứu trợ
  bão lụt miền Trung không? Đoàn đang thiếu một người. 
Cả phòng nhao nhao: 
      - Đi bao lâu? 
      - Một tuần! 
      - Có trừ vào phép năm
  không? 
      - Sao lại không trừ? Đi làm
  từ thiện mà còn tính với toán! 
      Đôi mắt có đuôi của chị
  lườm người hỏi một cách rõ dài. Nhạn băn khoăn, có nên đi không. Cô muốn
  thoát ra khỏi thành phố đông đúc, ồn ào này cũng như muốn thoát ra khỏi tâm
  trạng u uất của mình. Vả lại Nhạn chưa có dịp ra miền Trung bao giờ, cô sốt
  sắng đăng ký như sợ ai giành mất phần của mình. 
       Đoàn xe khởi hành rất
  sớm, ai cũng nghe ngoài ấy rất lạnh nên mang theo cả đống quần áo, có người
  còn quàng sẵn khăn len như để phòng cái lạnh từ xa. Dân Sài Gòn nhát lạnh
  nhưng thèm lạnh lắm. Sống trong nắng nóng quanh năm, thỉnh thoảng trời mới
  ban cho một vài ngày lạnh, thường là vào dịp Noel. Nói lạnh là với cảm nhận
  của dân Sài Gòn chứ với dân miền Trung, miền Bắc thì có thấm tháp gì so với
  cái lạnh thấu xương ở quê họ. Thế nhưng đó là dịp để mọi người diện quần áo
  lạnh. Dù mùa lạnh kéo dài có vài ngày nhưng không thể không sắm, rồi còn
  thỉnh thoảng đi Đà Lạt chơi. Ăn mặc kín đáo trông mọi người có vẻ đẹp hơn,
  phái nam trông thật lịch sự với những cái áo vest, áo gió. Còn phái nữ trông
  như những con búp bê, sang trọng trong những chiếc áo lạnh đủ kiểu, đủ màu
  cùng với khăn quàng… Trong xe mọi người nao nức vì được thay đổi không khí,
  nói chuyện râm rang. Có người dậy sớm quá bây giờ ngủ gà ngủ gật, chẳng sợ ai
  cười. Còn Nhạn yên lặng mải mê với những câu hát về miền Trung mà cô thuộc
  lòng từ nhỏ, do bà nội cô hay hát. Bà là một phụ nữ gốc miền Trung, lấy chồng
  người miền Nam rồi ở hẳn trong này, con cái đùm đề khiến bà ít có dịp về thăm
  quê, rồi khi rảnh rang về được thì chẳng còn mấy người thân ngoài đó nên bà
  không về nữa. Tuy vậy, nỗi niềm hoài hương của bà luôn được thể hiện qua
  những câu hát. Bà rất thích hát, cả khi già rồi vẫn hay hát vu vơ một mình
  như thiếu nữ. Nhạn nhớ nhất là câu “Về miền Trung, miền thuỳ
  dương bóng dừa ngàn thông, thuyền ngược xuôi suốt một dòng sông dài. Ôi quê
  hương, xứ dân gầy, ôi bông lúa. Có tiếng hát xao xuyến dưới ánh trăng vàng…”.
  Trong hình dung của Nhạn, đó là một miền đất nghèo nhưng rất thơ mộng, con
  người ở đó cũng trữ tình như bà nội cô. Cho nên cô chỉ thật sự chú ý cảnh vật
  bên ngoài khi xe tiến vào mảnh đất miền Trung. Rừng núi chập chùng, những bãi
  biển tuyệt đẹp rồi những thị xã, thành phố cũng tấp nập phồn vinh. Cô nghĩ,
  có lẽ miền Trung bây giờ giàu hơn. Nhưng càng ra xa sự phồn vinh ấy giảm dần,
  đồi trọc, rừng thưa, đất cằn, những khóm tre gầy xơ xác… Những căn nhà mặt
  tiền bé xíu như những cái nấm dàn chào hai bên quốc lộ. Mùa đông, trời u ám,
  mọi vật có vẻ đìu hiu cho đến khi hai chiếc xe vượt qua một đoạn đường đèo
  xói lở sau một cơn bão lụt kinh hoàng. Khi xe họ tiến vào một ngôi làng chỉ
  mới cách đây một vài hôm bị nước lụt cô lập hoàn toàn như một ốc đảo thì trời
  cũng vừa tối. 
      Công việc cứu trợ không thể
  tiến hành ngay được, chính quyền xã ở đó cũng lúng túng, mải một hồi lâu mới
  tìm được cho họ một chỗ nghỉ tạm thời cùng với một đoàn cứu trợ khác, cũng từ
  thành phố mới đến vào sáng hôm nay. Mấy chục người chen chúc trong một ngôi
  nhà gỗ khá rộng nhưng xiêu vẹo, chung quanh cây cối còn ngổn ngang, mùi nhựa
  cây, trái cây còn non và mùi hoa lá rụng tơi bời trong vườn còn tỏa hương.
  Trong cái không gian và hoàn cảnh đặc biệt ấy, những người xa lạ lập tức cư
  xử với nhau thật mộc mạc, chân thành, điều ít có ở người dân thành phố. Thời
  tiết lạnh lẽo, không điện không đèn, họ nhóm lửa nấu cơm ăn với muối mè do
  một người địa phương mang tới, đói bụng, lạ miệng, họ ăn thật ngon lành. Lạ
  chỗ, thiếu tiện nghi nên khó ngủ, cũng chẳng có đàn nhưng có một người ngồi
  dựa cột, mắt lim dim say sưa huýt sáo mồm những điệu tango say đắm như để ru
  mọi người ngủ. 
       Sáng hôm sau, Nhạn
  dậy sớm lo bữa ăn sáng cho đoàn, vì ở đây làm gì có hàng quán. Nhóm lửa nấu
  nước với mớ cây ẩm cô làm khói um lên, khảo nước mắt vô cớ của rất nhiều
  người, trong đó có cô. Người huýt sáo mồm ban tối đến giúp cô một lúc thế là
  lửa cháy hực hở để nấu mì gói và sưởi, mọi người lại được no, ấm. Lúc đoàn
  của cô đến điểm cứu trợ, ngang qua một điểm khác cô lại thấy anh chàng huýt
  sáo mồm đang tích cực làm việc cùng với đoàn của mình. Buổi trưa, khi xe của
  cô về nơi nghỉ ngơi, Nhạn thấy anh ta bê bết bùn đang phát mì gói, phát gạo,
  quần áo cho bà con, đoàn của anh ta có ít người nhưng họ biết làm việc hiệu quả
  hơn đoàn của cô, trưởng đoàn cũng nhận ra điều đó. Sau khi ăn cơm trưa,
  trưởng đoàn hỏi ý kiến mọi người và đề nghị kết hợp với đoàn bên kia để công
  việc nhanh chóng hơn vì hàng cứu trợ còn nhiều. 
      Hôm sau, Nhạn về cùng tổ
  với người huýt sáo mồm, bấy giờ Nhạn mới biết anh ta tên Bình. Trong bữa cơm
  anh ta ngồi gần cái nồi to tướng và bới cơm cho Nhạn. Nhạn mắc cỡ vì nhận ra
  mình ăn nhiều hơn thường lệ, có lẽ vì lạnh nên cô mau đói, làm việc nặng và
  đâu có dịp nào ăn vặt. Như thói quen, khi trò chuyện với Bình, Nhạn hỏi về
  nghề nghiệp, đó là thứ mà Nhạn tin rằng dễ xác định được thành phần xã hội
  của một người nhanh nhất, Bình trả lời rất tự tin “thợ mộc”
  khiến cô tràn trề thất vọng. Nhạn không thích giao du, kết thân với những
  người có trình độ thấp hơn mình. Cô cụt hứng không trò chuyện với anh nữa.
  Thế nhưng những giờ nghỉ giải lao, những lúc di chuyển trong gió bấc mưa
  phùn, ánh mắt ấy hướng về cô ấm áp như hai ánh lửa và nhất là những điệu nhạc
  anh huýt sáo mơn trớn trái tim Nhạn, làm nó trở nên mềm mại, run rẩy thật tội
  nghiệp… Một anh thợ mộc sao cảm được một dòng nhạc cao cấp, tinh tế dường
  kia? 
       Khi Nhạn cương quyết
  từ chối một chàng trai theo đuổi mình khá lâu, ai biết chuyện cũng tiếc cho
  Nhạn, một người có nhiều điều kiện cho một cuộc sống ổn định. Anh ta có nhà
  cửa, có xe, biết làm ăn, bên cạnh một chức danh trong cơ quan nhà nước… Thế
  nhưng không hiểu sao cứ mỗi lần đối diện với anh ta Nhạn thấy lòng buồn vô
  hạn. Vài lần người ấy nồng nhiệt chộp lấy bàn tay Nhạn và định kéo cô vào lòng,
  Nhạn không hề rung động mà chỉ thấy dửng dưng, lạnh tanh, cứ va cham vào anh
  ta là cô nổi gai gốc… Thực sự Nhạn muốn lấy chồng, muốn thay đổi cuộc sống
  đơn thân nhàm chán nhưng không thể thuyết phục mình, càng không thể ép buộc
  mình được… Hình như người con trai khá chu toàn ấy không phải để dành cho
  Nhạn, mà cô lại rất tin ở linh cảm ấy của mình. 
      Nhưng khi người ấy không
  còn theo đuổi nữa, Nhạn cũng hụt hẫng, cô đơn… Bạn bè cùng lứa lần lượt lên
  xe hoa khiến Nhạn càng thấy bơ vơ như một kẻ ở lại, cũng có một vài đồng
  nghiệp tìm cách bày tỏ tình cảm, người này người kia giới thiệu… Nhưng càng chín
  chắn Nhạn càng khó yêu. Mẹ dọa “Chín quá coi chừng rụng đấy con à!”
  Nhạn cũng có một nỗi lo sợ mơ hồ … 
      Nhạn nghĩ sẽ quên Bình dễ
  dàng khi về thành phố, cô tự nhủ rằng đó chỉ là một chút xao lòng nhưng lạ
  thay cô lại nằm mơ thấy Bình, với ánh mắt sâu đen, bàn tay gầy gầy và những
  giai điệu diễn tả bằng tiếng huýt sáo mồm. Nhạn có thể trốn anh trong đời
  thật nhưng làm sao trốn trong giấc mơ? 
      Một lần Nhạn len lỏi trong
  dãy phố bán đồ lưu niệm tìm một món quà cho cô bạn thân mới dẫn chồng từ nước
  ngoài về sắp ra đi trở lại và đụng phải Bình trong một gian hàng chật chội.
  Nhạn kìm nén sự mừng rỡ hỏi Bình: 
          -
  Anh làm gì ở đây? 
          -
  Tôi đi giao hàng, còn cô? 
          -
  Nhạn đi mua hàng … 
       Cô còn kể nãy giờ
  chưa tìm ra được món quà ưng ý cho người bạn quý để chưng trên đàn dương cầm,
  trong căn phòng sang trọng ấm cúng theo phong cách châu Âu của bạn mà Nhạn đã
  thấy qua ảnh. 
     Bình bảo hay theo anh về kho thử
  xem, có vài món anh không muốn bán nên vẫn còn. Nhạn líu ríu ra bãi xe lấy xe
  chạy theo Bình như một đứa trẻ. Đó là một cái xưởng mộc tồi tàn có chừng vài
  người đang làm việc say sưa, thấy Nhạn họ ngẩn lên chào rồi cúi xuống làm
  việc tiếp. Những món hàng sơ chế trông còn thô mộc đầy trên các dãy kệ và lăn
  lóc dưới nền nhà. Nhưng những gì trong kho chứa này với Nhạn là cả một kho
  báu, cô căng mắt ra ngắm nhìn. Nào tranh, tượng và những món để trang trí
  khác làm bằng gỗ quý rất tinh xảo, độc đáo mà cô không thấy bất cứ tiệm mỹ
  nghệ nào bán. Bình bảo đó là hàng đặt và một số là “gia bảo” của anh
  chỉ để chưng chơi chứ không bán. Nhạn tự ái: 
          -
  Vậy chứ anh cho Nhạn đến đây để làm gì? 
          -
  Để tặng. Bất cứ món nào cô thích. 
          -
  Tại sao lại được thiên vị như thế? 
          -
  Vì hy vọng cô có đủ trình độ để thưởng thức nó. 
          Hóa
  ra con người này cũng rất kiêu kỳ. Bản tính tham lam cái đẹp, Nhạn thấy nếu
  không nhận thì cũng phí, nhưng nhận cũng bất tiện. Mải mê săm soi từng món đồ
  gỗ, Nhạn loáng thoáng thấy anh lấy giấy bút chì ra vẽ, hình như anh đang vẽ
  cô. Nhìn lên tường thấy nhiều tranh bút chì, ký tên anh. Bất giác cô hỏi: 
          -
  Anh là họa sĩ? 
          -
  Trước đây tôi có học ở một trường người ta dạy vẽ …  
         
  Nhạn ra về, cảm ơn Bình với lời “hăm dọa”: 
       - Nếu lần sau anh
  không lấy tiền thì Nhạn không dám nhận một lần nữa đâu nha! 
         
  Trời bắt đầu tối. Bình bảo đoạn đường này không an toàn cho phái nữ đi buổi
  tối nên xin phép đưa cô về. Anh luôn chạy xe phía sau cô, hai người không trò
  chuyện gì, Nhạn chỉ cảm nhận được ánh đèn xe ấy luôn chong về phía cô như dẫn
  đường. Đến ngõ Bình chỉ dừng lại một giây cho Nhạn kịp chào rồi quay xe. 
       Một tuần sau đi làm
  về em gái Nhạn bảo có người gởi cho cô một món quà. Nhạn mở ra, đó là một bức
  phù điêu bằng gỗ chạm khắc một hình một cô gái mà không khó khăn lắm để cô
  nhận ra đó là chính mình. Nhạn đứng vòng tay, co ro như đứng trước gió lạnh,
  tóc dài bay dạt về phía sau, từng đợt như sóng nhấp nhô và óng mượt… Hình như
  Nhạn đã đứng như thế bên bờ sông hôm đi cứu trợ bão lụt và rất xúc động trước
  một dòng sông vẫn còn dấu vết hoang tàn của con nước hung hiểm vừa đi qua…
  Chắc hôm ấy Bình đã nhìn lén cô trong tư thế đó. 
         Từ hôm đó
  Bình không xuất hiện, không tìm gặp, không mời Nhạn đi đâu đó, cũng không gọi
  điện mà chỉ thỉnh thoảng gởi cho cô một món đồ gỗ nho nhỏ, như một cái khung
  tranh, một cái hộp đựng đồ trang điểm, cái giá nhỏ để sách, một đôi guốc…
  Nhạn biết đây là những món Bình làm riêng cho cô chứ không có trong danh mục
  hàng hoá của ai đặt. Bình đã ẩn hình trong gỗ gởi đến cho cô bao nhiêu lời
  không nói. Và Nhạn như rơi vào một trạng thái tương tư đến quay quắt, làm
  việc gì cô cũng nghĩ đến Bình. Đi làm cô cũng mang theo một món nào đó của
  anh tặng để ngắm nghía, tiếng chuông điện thoại nào vang lên cô cũng hy vọng
  là của Bình, dù có số điện thoại của cô nhưng Bình tuyệt đối không gọi, chẳng
  lẽ cô gọi trước? Rồi một tiếng gió thoảng, một điệu nhạc văng vẳng đều khiến
  cô mơ tưởng đến tiếng huýt sáo mồm… Những món quà vẫn tiếp tục gởi đến cho cô
  mỗi tuần. Hơn ba tháng như thế, không gặp được Bình, cô cảm thấy ngột ngạt
  đến mức không thể chịu đựng nổi. Buổi chiều đi làm về Nhạn ghé vào nhà thay
  quần áo rồi chạy xe như điên dại đến chỗ Bình, cô đi để thoát khỏi sự nhớ
  nhung căng thẳng, để xác định tình cảm của mình chứ không hẹn trước, nên
  không tin rằng sẽ gặp được anh. Xưởng vắng tanh, Nhạn hồi hộp như thuở nhỏ
  chơi trò trốn tìm… Có lẽ mọi người đã ra về, trước khi lên tiếng gọi, Nhạn
  chợt nhớ ra phải tìm một cái cớ gì để nói với Bình khi cô đường đột đến đây. 
       Bình ra, lúng túng
  trong áo may – ô và quần cụt liền xin lỗi Nhạn đi mặc quần áo. Chỉ trong giây
  phút ấy thôi, gặp được anh, người Nhạn như giãn ra, ấm áp lạ thường đến nỗi
  cô có thể yên tâm quay về như vừa nạp đủ năng lượng cần thiết. Bình trở ra,
  Nhạn nói, nói ngược ý mình như bao nhiêu cô con gái đang yêu khác: 
       - Em đến đây để xin
  anh đừng gởi thêm những món quà ấy, em không chịu được …  
      Nhạn nói như gió thoảng,
  gần như sắp khóc. Chỉ mong Bình nói một câu gì đó để ngăn bớt cảm xúc của cô
  nhưng anh lại không nói. Anh chỉ nhìn cô bằng đôi mắt sâu, nồng rực, như
  thiêu đốt… | 
| 
        Vừa mới ra trường tôi được một
  người bạn của ba tôi, là thủ trưởng của một cơ quan lớn ở thành phố, ưu tiên
  sắp xếp vào làm việc ở đó, thế nhưng tôi lại không muốn nhận sự giúp đỡ ấy.
  Ai cũng bảo tôi khờ, ngu nữa là khác. Sau đó với nguyện vọng ghi hẳn hoi trên
  giấy “Đi bất cứ nơi đâu” tôi được phân công về một nơi cách thành phố khoảng
  năm mươi cây số. Vốn là dân tỉnh nên với tôi nơi ấy không có gì xa xôi hẻo
  lánh như đám bạn là dân gốc thành phố. Chẳng phải lâu nay tôi tự ví mình khi
  sống ở Sài Gòn, giống như một con cá cảnh sống trong bồn kiếng chật chội, tất
  cả cảnh vật, sự bình yên chung quanh dù không phải là giả nhưng cũng chưa
  phải là thật… Tôi phải ra với sông hồ, kênh rạch để sống đúng đời cá của
  mình, được bơi lội thỏa thích giữa rong rêu hay nước lũ, mưa nguồn. Tôi không
  ân hận gì việc phải đi xa thành phố. Vả lại nơi tôi làm việc tuy  đìu
  hiu xa làng xóm nhưng là một khu mới xây dựng khang trang gồm ba tòa nhà lầu
  ba tầng tọa lạc trên một vùng đồi thấp, xếp thành hàng chữ U nhìn ra một con đường
  quốc lộ trải nhựa óng ả. Có một dãy lầu dành hẳn làm khu nội trú cho cán bộ
  công nhân viên ăn ở sinh hoạt. 
       Thời ấy, đất nước sau
  chiến tranh còn nghèo khó, được làm việc ở một nơi như thế thì không có gì
  đáng phàn nàn. Điều khiến tôi hoảng sợ nhất, sau một thời gian ổn định ở đây
  tôi mới khám phá ra, đó là nỗi cô đơn. Lúc nào nó cũng bao vây, rình rập cứ
  muốn ôm chầm lấy tôi, khi tôi đứng một mình bên cửa sổ ngắm ráng chiều hay
  sáng sớm tản bộ xuống cái mội nước bên kia con lộ để hái hoa dại, buổi tối
  đối diện với trang nhật ký… Công nhân viên ở đây hầu hết còn trẻ, nhưng qua
  công việc, họp hành, liên hoan và cả những cuộc gặp gỡ, tiếp xúc riêng tư,
  tôi biết mình không thể sống lâu dài ở đây, càng khó có một tình yêu, dù có
  một vài người khác phái dành cho tôi tình cảm đặc biệt. Tôi kiêu quá chăng?
  Không hẳn vậy. Nếu nói rằng tôi không tìm được người đồng điệu thì đúng hơn.
  Những điều chủ yếu, đây là nơi để chúng tôi làm việc, rèn luyện, phấn đấu chứ
  không phải để yêu. Cho nên một cơ quan đông đúc, có nhiều người trẻ lại rất
  ít chuyện tình. 
         
  Nhưng đó chỉ là riêng bọn làm việc văn phòng tụi tôi thôi chứ còn ở cánh hậu
  cần thì chuyện này có vẻ sôi động hơn. Vì không thể yêu, không được yêu nên
  tôi quan sát xem người khác yêu đương ra sao. Hàng ngày xuống nhà ăn lấy phần
  cơm, buổi tối đi lấy nước tôi hay để ý thấy các chị nuôi hẹn hò với những anh
  bảo vệ, lái xe và cả những anh cán bộ trẻ sau những đống củi xếp cao hình
  zic-zăc như những mê cung. Chị nuôi, là từ chúng tôi gọi chung những phụ nữ
  làm ở khâu hậu cần như đi chợ, nấu ăn, tiếp phẩm, giữ kho… Bọn tôi tuy lương
  cao hơn, xếp vào hàng có học, được gọi là trí thức nhưng cũng phải nể nang
  họ, nhiều khi phải nịnh bợ, không ai dám chọc giận họ để được phần cơm dẻo,
  canh ngọt, được phân phối nhu yếu phẩm đúng hạn. Như tôi chẳng hạn, lẽ ra
  phải đủ bốn người mới lấy được phần cơm về phòng riêng nhưng đôi lúc chỉ có
  hai người thì một mình tôi vẫn được lãnh cơm về, nhiều khi hai đứa chỉ báo
  một phần cơm là đủ. Bởi sợ mập là nỗi ám ảnh thường trực của tôi khi còn là
  một cô bé, tôi rất sợ mập giống mẹ mình dù bà không hề quan tâm đến điều đó. 
       Nhóm chị nuôi này có
  nhiều cô khá xinh và rất diện, nhiều anh trong hàng ngũ bọn tôi có trình độ
  đại học hẳn hoi muốn “cua” họ không phải dễ. Có một cô chị nuôi rất đẹp,
  thuộc hàng hoa khôi mà có lẽ không một người đàn ông nào không thèm muốn. Một
  anh mới tốt nghiệp đại học về làm được mấy tháng cũng mê cô và bước đầu anh
  tỏ ra thành công rực rỡ trước bao nhiêu đối thủ. Quả là một chiến thắng vinh
  quang. Mỗi buổi chiều cuối tuần họ hiên ngang chở nhau ra về, trước con mắt
  thán phục của bao nhiêu người. Nhưng họ chỉ tíu tít được một thời gian ngắn.
  Sau đó người đẹp bỏ rơi anh chuyển sang xe khác, đó là xe của anh tài xế
  riêng của thủ trưởng. Anh cán bộ trẻ đau khổ bơ phờ một thời gian. Riêng tôi
  thấy lạ, sao đàn ông có thể yêu hoặc lấy một cô gái có trình độ văn hoá kém
  xa mình đến như thế. Với tôi, đây là nguyên tắc bằng vàng. Tôi cho rằng một
  đôi lứa có thể chênh lệch nhau về nhiều điều như tuổi tác, tầng lớp hay khác
  biệt về tôn giáo, màu da, chính kiến nhưng trình độ văn hoá phải tương đồng
  mới có thể hoà hợp và hạnh phúc được. Bằng chứng là ba mẹ tôi. Ba tôi học
  cao, còn mẹ tôi mới lớp ba và vĩnh viễn dừng lại ở đó, chỉ có điều là bà rất
  đẹp… Cả một thời thơ ấu tôi đau lòng chứng kiến ba mẹ tôi sống với nhau như
  hai người ngoại quốc, có lẽ còn tệ hơn, cùng nói tiếng Việt nhưng không bao
  giờ người này hiểu người kia nói gì.  
       Nhưng chuyện tình mà
  tôi chú ý hơn cả là chuyện của một người con gái trong đám chị nuôi ấy. Bởi
  trong đám mơn mởn xuân xanh ấy cũng có một người không đẹp, sự thật là xấu.
  Nếu tả cái xấu ra đây thì tội nghiệp cho cô. Bởi vẻ xấu của một con người tùy
  thuộc vào sự ban phát bất công của tạo hóa mà chưa ai có cách nào cải thiện
  được hay đấu tranh với ông ta về chuyện này, nếu Thượng Đế là đàn ông, bởi
  cái từ này  chỉ có giống đực, khi đàn ông vẫn còn đang làm chủ thế giới.
  Dù ai cũng biết rằng nếu chỉ có đàn ông thì đâu làm được trò trống gì trong
  chuyện  tạo ra con người. Nói một cách khoa học hơn là nếu xấu hay đẹp
  về dung nhan là điều không do người đó quyết định mà chủ yếu là do di truyền
  và những may rủi tình cờ trong cách đột biến gen di truyền. Không một cặp vợ
  chồng nào đẹp mà dám chắc chắn một trăm phần trăm sẽ sinh được con đẹp. Với
  những cặp vợ chồng xấu thì họ có quyền hy vọng “Cha mẹ cú sinh con tiên” và
  nhiều khi cũng toại nguyện… Cho nên khi chê một con người xấu tôi thấy có
  điều gì đó thật bất nhẫn. Nếu cười cợt, chọc ghẹo họ càng càng bạc ác hơn.
  Đâu ai muốn mình xấu, lỗi không phải của họ, xấu không phải là cái tội. Thực
  tế cũng chứng minh rằng nhan sắc và đức hạnh không phải lúc nào cũng đi chung
  với nhau. Thế nhưng đâu phải ai cũng chịu nghĩ như vậy. Con gái sinh ra xấu
  cha mẹ đã không ưng ý rồi, lớn lên ít được bạn bè chú ý, khó được mọi người
  nâng niu. Các chị nuôi vẫn gọi Sang là Thị Nở, dù tôi dám chắc nhiều người
  trong số họ chưa bao giờ đọc tác phẩm nổi tiếng ấy của nhà văn Nam Cao để có
  thể hình dung ra Thị Nở xấu xí ra sao. 
      Nhưng tôi và nhiều đồng
  nghiệp nữ của tôi thì quý Sang hơn cả vì cô cần mẫn, hiền hậu, có vẻ lam lũ
  và cam chịu. Nhiều khi xuống nhà ăn tôi thấy các cô kia đứng tán dóc còn Sang
  vẫn làm việc. Sáng sớm dậy tập thể dục, hay thấy cô lui cui nhóm bếp lò bằng
  than tổ ong, tôi hỏi: 
       - Sao chỉ mình Sang
  làm việc này vậy? 
       - Các chị ấy còn ngủ,
  tính em hay dậy sớm… 
          Tôi
  biết cô vẫn hay bị ăn hiếp, sai vặt và chịu những thiệt thòi khác và làm đề
  tài cho mọi người cười cợt. Ngay cả khi tôi mới về còn bị ăn hiếp nữa là.
  Trong một môi trường nội trú, phần nhiều là phụ nữ, lại xa cách cuộc sống bên
  ngoài, nhiều lúc tôi thấy nơi đây như một nhà tu kín, tù túng, kham khổ.
  Người ta không muốn ai hơn mình, hạnh phúc hay nổi trội hơn mình về bất cứ
  phương diện nào. Tôi học đàn cũng bị nói là “làm ra vẻ nghệ sĩ” còn đọc sách
  nhiều thì bị rêu rao rằng “làm ra vẻ trí thức”. Khi ở trường đại học, quen
  được thầy cô, bạn bè động viên, khen ngợi… Cho nên những lời nói biếm nhẽ, ác
  ý dù sau lưng ấy cũng làm tôi tổn thương ghê gớm. Vì thế tự trong lòng tôi
  thấy đồng cảm với Sang, tôi cũng có một cái “tội” nào đó, tất nhiên
  không phải là tội xấu. 
          Vẻ
  xấu xí của Sang tiếp tục bị đem ra bêu rếu và nó lên đến cao điểm khi cơ quan
  có thêm anh bảo vệ mới, họ lập tức được cặp đôi với nhau, không phải vì thiện
  chí mà vì ác ý. Bởi anh bảo vệ tên Củng ấy cũng cực kỳ xấu trai. Một khuôn
  mặt lởm chởm dấu tích của một thời mụn nhọt kinh hoàng lúc dậy thì, cái mũi
  gồ ghề với hai cánh mũi bên cao bên thấp, hai con mắt quá bé so với cái cằm
  lớn. Đôi vai rộng so với một đôi chân ngắn trông như hình ảnh người ta hay
  thấy trong những bức biếm họa tàn nhẫn vẽ một nhân vật nào đó. Hình thù của
  Củng càng chứng tỏ một điều là đấng Tạo hóa cũng có lúc làm ẩu không thể tả
  hoặc là đã hối lộ người kiểm định sản phẩm, dù là sản phẩm cao cấp nhất, để
  họ nhắm mắt cho ra lò mà không biết chất lượng ra sao, trong một nền kinh tế
  mà người tiêu thụ không còn lựa chọn nào khác. Đã thế trông Củng lại ngây
  ngô, khờ khạo, cái vẻ của một người quen ở vị trí thấp bé, mặc dù chiều cao thực
  sự của Cũng không đến nỗi tệ. Việc chính của anh ta là bảo vệ và được nghỉ
  khi hết ca trực nhưng anh bảo vệ kia vẫn hay ăn gian, đến thay ca trễ mươi
  phút hay gọi Củng ra thay mình sớm đến nửa tiếng. Các cô chị nuôi cũng hay
  sai anh chẻ củi, khuân hàng, đảo những chảo thức ăn to tướng, hứng những làn
  hơi nóng mịt mù thay họ hoặc mang rác đi đổ nếu anh ta lảng vảng gần nhà bếp…
  Khi bị ghép đôi với nhau họ tỏ ra rất xấu hổ. Những con người xấu xí vụng về
  này khi mắc cở cũng buồn cười lắm. Cứ ỏn ẻn, lập cập, ngẩn ngơ… Có lẽ họ cũng
  biết mình xấu xí, chẳng bao giờ được yêu nên cái vẻ mắc cở của họ lẫn một
  chút vui thích. Dần dần cả cơ quan đều biết đến cặp Chí Phèo - Thị Nở ấy, như
  một chuyện hài giải khuây ở một nơi xa vắng, buồn tẻ cho những con người bị nhốt
  ít có dịp vui ấy. Nhưng dần dần người ta phát hiện đó không phải là chuyện
  đùa. Một lần Sang bị cảm khá nặng, Củng đã ra tới khu nhà dân để hái một mớ
  lá xông mang về, vào bếp mượn nồi nấu rồi bưng vào tận phòng cho Sang xông,
  tất nhiên là mang một cách lén lút. Sau đó Sang khỏi bịnh, đôi má cô bắt đầu
  có màu ửng của một trái cây đang ngọt dần. Rồi anh bạn đồng nghiệp của Củng
  phát hiện ra trong chốt gác của họ có dấu cơm cháy rơi vãi. Thì ra sợ người
  yêu trực đêm đói bụng, Sang đã lén “tiếp tế” cơm cháy, thứ quà
  duy nhất mà cô có được. Bây giờ không chỉ các chị nuôi mà có thêm nhiều người
  trêu chọc họ, lần này không phải để cho vui, cho thỏa mãn niềm tự hào mình là
  những tạo vật hoàn thiện hơn mà vì họ không tin rằng kẻ xấu xí, kém cỏi, ngu
  ngơ ấy cũng biết yêu nhau. Họ chọc để đôi lứa ấy nhãng ra. Nhưng họ đã thất
  bại, trước những lời trêu chọc, Sang và Củng càng tỏ ra can đảm hơn, đứng hẳn
  cùng một phía, liên kết với nhau càng chặt hơn. Người ta bắt gặp họ ngang
  nhiên ngồi uống nước mía với nhau ngoài một cái quán ven đường quốc lộ lúc
  trưa vắng. Sự gắn kết của họ, chứng minh rằng nếu như vẻ đẹp ngoại hình bị
  ban phát rất bất công hay nhầm lẫn thì tình yêu là một thứ được ban phát rất
  công bằng. Những người khốn khổ, xấu xí hay khù khờ nhất vẫn được hưởng thứ
  mật ngọt ấy, thứ mà không  hiếm những ông hoàng bà chúa, những kẻ giàu
  sang, xinh đẹp, nổi tiếng nhất chưa chắc đã có được. 
       Nhưng đôi tình nhân
  ấy đâu đã được yên thân, một lần nữa họ bị chia cách bằng một tin đồn hung
  hiểm: Củng đã có vợ. Tôi thấy đôi mắt của Sang u sầm và dại hẳn đi, gặp ai cô
  cũng cúi đầu. Câu chuyện đến tai thủ trưởng, ông yêu cầu người trực tiếp quản
  lý Củng và Sang bắt họ làm kiểm điểm vì tội “quan hệ nam nữ bất chính”. Họ
  tuân lịnh, nhưng bản kiểm điểm trở thành một bản báo cáo rằng họ thương nhau
  thật lòng và chuyện đồn đại về Củng chỉ đúng một nửa, anh ta đã bị vợ bỏ,
  giữa hai người không hề có giấy đăng ký kết hôn, chưa con cái. Họ khẳng định
  rằng họ yêu nhau và xin tổ chức chấp thuận cho sống với nhau. Thủ trưởng cười
  xòa “Cho nó lấy nhau cho xong chuyện chứ yêu đương gì!”. 
      Họ về quê, nghe đâu là một
  làng quê ở miệt Dĩ An làm đám cưới rồi trở lại nơi làm việc, cũng có một vài
  người trong cơ quan đến dự. Đám cưới xong họ, họ được phân một căn phòng nhỏ
  trong dãy dành nhà cho những người đã có gia đình. Bây giờ, những cô gái sáng
  giá, xinh đẹp nhất lại thèm thuồng cái hạnh phúc nho nhỏ của họ. Hết giờ làm
  việc, vợ chồng Củng – Sang ra vỡ đất ở khu rừng chồi phía sau cơ quan. Nhiều
  sáng chủ nhật không về thành phố được, tôi đứng tựa cửa sổ từ trên lầu nhìn
  xuống thấy họ giữa ruộng rau, vườn khoai như một cặp vợ chồng nông dân trong
  những bức ảnh nghệ thuật hay tranh vẽ. Chồng vác cuốc đi trước, vợ cắp rổ đi
  sau, gió thổi lệch chiếc nón lá, người chồng đứng lại lấy nón ra thắt chặt
  quai rồi đội lại cho vợ, cô ngượng hất tay chồng, nũng nịu. Họ trồng được
  khoai mì, khoai lang, có đám rau xanh tốt. Chồng làm chuồng, vợ cho gà ăn… Họ
  luôn quấn quýt bên nhau, những lời chọc ghẹo giờ đây trở nên lố bịch nên nó
  tự im tiếng. 
*** 
       Làm việc ở đây được
  gần bốn năm tôi muốn được chuyển về thành phố nhưng không có lý do chính đáng
  để chuyển vì không có gia đình ở đó, cũng không có hộ khẩu gốc ở thành phố.
  Thủ trưởng bảo nếu muốn chuyển thì phải có nơi nhận, nhưng tôi đã không tìm
  được nơi ấy, người quen biết có thể tiếp nhận tôi cũng qua đời đột ngột nên
  tôi đành bó tay. Giữa lúc tôi quay quắt, sắp chết rục vì cô đơn thì cơ quan
  có một đoàn cán bộ liên ngành về làm việc. Hôm ấy biết đoàn sẽ đến, cô bạn
  cùng phòng với tôi trước khi xuống bếp tập thể lấy cơm cho hai đứa đã dặn tôi
  hãy đóng cửa sổ phòng, vì cửa ra vào chúng tôi luôn khép kín rồi. Cô e rằng
  lát nữa ông trưởng phòng đi ngang thấy phòng chúng tôi còn thừa hai chiếc
  giường sẽ bố trí khách vào ở chung. Lúc ấy rất phiền vì chúng tôi phải đóng
  vai chủ nhà để báo cơm, hướng dẫn, trò chuyện với khách… Cô giải thích như
  thế nhưng tôi không nghe theo, cô vừa đi xong tôi làm ngược lại là mở toang
  cửa sổ. Đúng như cô bạn dự đoán, chỉ năm phút sau ông trưởng phòng đi ngang,
  thấy tôi, ông dừng lại gửi người khách nữ duy nhất trong đoàn. Cô bạn tôi về
  mặt mày bí xị vì thấy có khách, bị làm phiền, mất công chào hỏi nhưng tôi cứ
  làm ngơ. Bởi với tôi mỗi một người là một thế giới thú vị, tôi thích làm
  quen, kết bạn với tất cả, tôi luôn hy vọng tìm thấy những tân thế giới ở họ.
  Tôi dọn giường cho cô bạn mới, nhường chiếc gối duy nhất cho khách. Chiều
  xuống, cô bảo ở đây buồn quá, tôi đưa cô ra ngoài đi dạo, ngắm những cánh
  đồng bắp xa tít tắp, chim xõa cánh bay về từng đàn khiến cô có vẻ khuây khỏa.
  Đặc sản ở đây chẳng có gì ngoài trái điều và trái mít. Tôi vào vườn mua một
  trái mít chín khoảng năm, sáu đồng, hết một phần mười lương tháng của tôi lúc
  ấy. Tối đến, trước khi xẻ mít cô bạn mới đề nghị mời mấy anh trong đoàn của
  cô cùng ăn. Để có một buổi tối vui vẻ tôi chạy đòi lại cái đàn guitar của
  mình ai đó đã mượn mất, và chứng tỏ ở nơi khỉ ho cò gáy này cũng có người
  biết yêu âm nhạc. Và trong ánh đèn điện chập chờn của máy phát điện hay hỏng
  hóc của cơ quan, chúng tôi ca hát. Âm nhạc làm cho mọi người xích lại với
  nhau rất nhanh. Sau đó mấy ngày cùng làm việc, khi hỏi thăm về công việc, so
  sánh về những đãi ngộ của cơ quan mình, tôi biết được cơ quan của cô 
  bạn mới trực thuộc trung ương đóng trên địa bàn thành phố đang thiếu một
  người có tay nghề như tôi. Thế là mấy người trong đoàn ấy xúi tôi gặp sếp của
  họ cũng sắp có mặt để xin chuyển công tác. Ông hứa nhận tôi không mấy đắn đo.
  Cánh cửa sổ để mở đã mở cho tôi về đúng nơi tôi cần. Đó là một sự kiện quan
  trọng trong đời tôi.  
**** 
     Về thành phố làm việc, mấy năm
  sau tôi lập gia đình, rồi chuyển sang công việc khác và ngày càng bận rộn, ít
  có dịp đi xa. Nhưng thỉnh thoảng tôi nằm mơ thấy mình vẫn còn làm việc ở nơi
  đầu tiên khi mới ra trường, với những thiếu thốn về vật chất lẫn tinh thần,
  những khắt khe vô lý, nhận thức ấu trĩ, hẹp hòi nhưng cũng đem lại cho tôi
  nhiều điều không vô ích, trái lại đã giúp tôi trưởng thành hơn. Chỉ có điều
  mỗi khi nằm chiên bao về nơi ấy tôi vẫn còn ám ảnh bởi nỗi cô đơn, tỉnh dậy chưa
  hết thảng thốt, sợ hãi. Nhiều lúc tôi định đi thăm, xem thử những đồng nghiệp
  cũ của tôi ở đó còn ai nhưng không có dịp. Mới đây tôi tham gia một chuyến đi
  thực tế khiến tôi nao nức, không hẳn vì nơi đến mà vì nghe được đi ngang qua
  con đường, nơi chốn mình đã từng gắn bó hơn bốn năm trời. Gần đến nơi của cơ
  quan cũ, khó khăn lắm tôi nhận ra vị trí của nó, vùng đất hoang sơ ấy đã
  thành khu công nghiệp lớn với những nhà máy đồ sộ mang tên Tây, tên Tàu,
  đường sá mở rộng thành đường cao tốc, có cầu vượt. Những dãy nhà lầu cao ngất
  ngày nào nay vì những cây non xưa kia bọn tôi trồng đã thành cây cao bóng cả
  che khuất hết mất dãy nhà. Bây giờ tòa nhà cũng chuyển cho một cơ quan khác,
  không còn  chức năng như cũ. 
         
  Chuyến đi thực tế bình an, tốt đẹp, lượt về thong dong hơn nên chúng tôi dừng
  lại một quán nhỏ bên đường ở miệt Lái Thiêu có nhiều cây trái. Quán thu hút
  sự chú ý của chúng tôi bằng cái cổng phủ đầy dây tơ hồng. Quán nhỏ nhưng gọn
  gàng, ấm cúng, sau quán là một khoảng sân có hoa, có hòn non bộ, kế đến là
  một ngôi nhà khá khang trang, tươm tất. Lúc chủ quán ra hỏi dùng gì, mấy
  người bạn tôi gọi món này món kia còn tôi ngẩn ngơ vì thấy bà chủ trông quen
  quá. Chỉ một thoáng tôi nhận ra Sang. Đúng là Sang. Tôi gọi to tên chị, Sang
  chạy lại, ngỡ ngàng một lát mới nhận ra tôi. Tôi hối chị dọn thức ăn cho mọi
  người rồi hãy nói chuyện. Trong khi chị làm việc tôi không ngừng ngắm nhìn
  chị. Bây giờ Sang đã là một phụ nữ đứng tuổi và hơi đẫy đà. Lạ thay những nét
  thô vụng, gồ ghề thời thiếu nữ của chị được thời gian đẽo gọt, trông chị mềm
  mại, duyên dáng hẳn ra. Chị hỏi thăm tôi ríu rít rồi hối người phụ việc vào
  nhà gọi chồng. Anh bảo vệ cù lần ngày nào giờ đã ra dáng một ông chủ. Anh
  không nói nhiều như vợ, khi nhận ra tôi anh chỉ lẳng lặng vào nhà mang hũ
  rượu ngâm thuốc đặc biệt ra đãi đám khách nam giới cùng đi với tôi. Ăn xong
  vợ chồng chị mời tất cả vào nhà nghỉ nghỉ ngơi và đãi trái cây, bảo hai đứa
  con của họ ra chào khách. Hai thiếu niên khỏe mạnh, dễ thương hơn hẳn cha mẹ
  về dung nhan. Có khách mới vào quán, vợ chồng họ lại chạy ra  phục vụ.
  Ngồi dưới mái hiên phủ đầy dây leo, tôi kể cho mọi người nghe về “thiên tình
  sử” của họ. Một người trong nhóm liền kết luận. Như thế, nghĩa là một cặp vợ
  chồng xấu xí vẫn có một cuộc hôn nhân tốt đẹp. Và có khi ngược lại… | 
10 | 
| 
11 | 
       Sau bao nhiêu những ghen tuông, dằn vặt, đổ lỗi,
  hòa giải… rốt cuộc rồi tòa án cũng phải xử cho vợ chồng tôi ly
  hôn. Chúng tôi có đủ tài sản chia đôi mà không cần tranh chấp, vì
  trong thời gian còn êm ấm, tôi và anh ấy đã gây dựng được hai ngôi nhà
  khá bề thế, có giá trị gần bằng nhau. Điều khiến cuộc chia tay
  trở nên khó khăn, gay cấn là đứa con trai nhỏ mà ai cũng muốn giành
  phần nuôi. Thương con, ai mà chả thương, nhưng trong vụ này nếu giành được
  nuôi con là một thắng lợi, để chứng tỏ mình tốt hơn, đúng hơn và
  một cách trừng phạt người
  kia. Khi tòa hỏi “Con muốn
  sống với ai?” thằng bé không biết trả lời sao, cứ ngơ ngác nhìn
  hết mẹ rồi đến cha. Lâu nay tôi và ba nó đã ly thân, hai người ở hai
  nhà, việc ai nấy làm tiền ai nấy xài nhưng trong tâm hồn non nớt
  của thằng bé thì chúng tôi vẫn cứ là một, như trước đây, ngay cả khi nói với một người
  nó cũng gọi “Ba, mẹ ơi, con kể cái này…”  
Nhưng rồi với tất cả sự
  quyết liệt, tôi giành được quyền nuôi con, như những thành công từ
  trước tới giờ luôn thuộc về tôi vì tôi là một phụ nữ giỏi giang,
  sắc sảo và kiêu hãnh. Không cần có anh ấy tôi cũng làm được tất
  cả, sẽ có tất cả như đã từng. Những người thân té ngữa khi biết
  vợ chồng tôi ly hôn. Khi rõ nguyên nhân, không ít người cho rằng chuyện
  ấy bây giờ có gì ghê gớm đâu. Tượng đài chung thủy mà người đời ca ngợi nay
  chỉ còn là một phê tích. Vả lại lăng nhăng là một thuộc tính của đàn ông,
  miễn là họ không bỏ bê vợ con. Người như tôi dư sức để chồng phải quay về tại
  sao không làm. Nhưng tôi không cần điều đó. Sự phản bội của anh ấy khiến tôi
  đau đớn, càng nghĩ càng uất giận. Không được yêu, với tôi còn là một điều
  nhục nhã ê chề và đó dường như là đặc tính của con người. Ngay cả những thai
  nhi còn trong bụng mẹ cũng được dự trữ bản năng tương tự. Tôi còn nhớ hồi đó,
  Khi biết mình có thai, đứa con mà vợ chồng tôi mong đợi tới hơn hai năm sau
  ngày cưới, khi tôi sốt ruột và bắt đầu nghi ngờ khả năng có con của mình lẫn
  của chồng, vì bạn bè đám cưới cùng lúc với tụi tôi đã tay bế tay bồng. Nhưng
  ngay khi tôi nhận được tin cơ quan xét cho đi công tác nước ngoài, tôi nhận
  biết mình có thai. Hồi đó đi nước ngoài không dễ như bây giờ, đó là cả một ân
  huệ khiến nhiều người phải ghen tỵ, mơ ước. Cái thai sẽ là một trở ngại, đến
  ngày đi nó đã khá lớn, nếu giữ lại tôi sẽ không được đi. Thế là chưa kịp báo
  tin vui cho chồng, tôi âm thầm đến bệnh viện phá thai. Đúng là sau lần đi tu
  nghiệp ấy con đường sự nghiệp của tôi được hanh thông… Thế nhưng mơ ước có
  một đứa con của tôi trở nên xa vời. Mấy năm sau dù áp dụng nhiều phương pháp
  mà tôi vẫn không thụ thai được… Nhưng kinh khủng nhất là nhiều năm sau tôi
  hay nằm mơ thấy đứa con bị bỏ đi từ trong trứng nước ấy luôn hiện ra trong
  giấc mơ, nhìn tôi bằng đôi mắt đầy căm hờn. Nó cứ lẽo đẽo theo tôi, cả những
  lúc tôi đi công tác xa, trong những giấc ngủ chập chờn, nửa mơ, nửa tỉnh.
  Càng lúc nó ám tôi như ám một kẻ thù vì tôi đã không cho nó làm người, vì tôi
  không thương yêu nó. Nó lồng lộn, vật vã vì sự nhục nhã ấy. Tôi yêu đương, ân
  ái, hưởng thụ rồi chối bỏ kết quả… Nó như một bóng ma bé bỏng, lạnh lẽo, u
  uất mang đôi mắt chứa đầy căm hờn khiến tôi càng lúc càng sợ hãi. Đến nỗi tôi
  rơi vào ảo giác, cứ thấy một đứa nhỏ đi lại trong nhà, thấp thoáng đâu đó
  trong phòng tắm, bước lên cầu thang nhưng tôi nhìn theo là nó biến mất. Có
  lúc ngồi xem tivi một mình nó còn đi ngang chạm vào tôi nữa, khiến tôi run
  lên. Buổi tối tôi không dám ở nhà một mình, nếu anh ấy có việc phải đi tôi
  bèn mở tất cả các đèn trong nhà và một tiếng động nhỏ cũng làm tôi giật mình,
  khiếp đảm. Nỗi sợ âm thầm không thể chia sẻ cùng chồng khiến tôi rơi vào sự
  trầm cảm suốt một thời gian dài. Rồi tôi trở thành mê tín, có lần tôi tìm đến
  một ông thầy bói. Ông ta càng khiến tôi hãi hơn khi phán rằng “Có một cái
  vong nhỏ, luôn đi theo cô. Cô phải lập bàn thờ, khấn vái, hương khói thì nó
  mới để cô yên”. Tôi lạnh toát cả người và làm theo lời ông ta răm rắp. Nhưng
  nó vẫn cứ hiện ra dọa dẫm tôi. Tôi nhận ra nó rất giống mình, từ khuôn mặt,
  cái miệng, cái mũi, nhất là cái tính khó tha thứ… Tôi cũng là đứa con từng bị
  ruồng bỏ. Hồi đó khi tôi mới mươi tuổi, ba mẹ tôi bỏ nhau, trước Tòa, ai cũng
  giành nuôi tôi, ai cũng cố chứng tỏ mình thương con hơn, có trách nhiệm hơn.
  Ba tôi được nuôi tôi vì ông có tài sản, thu nhập. Nhưng khi có vợ, người vợ
  mới này rất trẻ, không muốn sự hiện diện của tôi nên ông cho tôi được về với
  mẹ. Tôi yên ổn trong vòng tay yêu thương của mẹ một thời gian thì mẹ có nhân
  tình. Mẹ vẫn thương tôi nhưng tôi lại không thể có tình cảm với người đàn ông
  ấy, hiển nhiên vì tôi biết ông ta đang cướp mẹ của mình, nhất là khi ông ta ở
  lại với mẹ qua đêm, tôi phải ra ngoài phòng khách ngủ. Tôi khóc lóc, dằn dỗi
  cố chia rẽ hai người, nhiều khi ông ta đến tôi ra mở cổng và bảo mẹ không có
  nhà. Thế nhưng tôi không ngăn cản được việc họ sống hẳn với nhau. Khi mẹ có
  một đứa con trai kháu khỉnh, tôi thấy mình bị bỏ quên. Một lần tôi đến nhà ba
  chơi và chọc tức bà mẹ kế, như một cách để ba chú ý hay bênh vực mình. Không
  ngờ ông đuổi cổ tôi khỏi nhà, từ đó tôi xem ông như một người họ hàng xa, gặp
  hay không gặp chẳng còn là điều quan trọng… Người ta thường nói “Có con mới
  hiểu được lòng cha mẹ”, còn tôi thì ngược lại, khi có con tôi càng không thể
  hiểu nỗi lòng cha mẹ mình. Tại sao ba mẹ thương tôi ít vậy? Có lúc như chẳng
  thương gì cả, còn tỏ ra khó chịu vì tôi làm vướng chân khi họ muốn bước đi
  bước nữa. Trong khi tôi thương con ghê gớm, không một điều gì khiến tôi có
  thể xa rời con mình, kể cả tình yêu của một người đàn ông khác. Từ khi cha mẹ
  bỏ nhau tôi luôn có cảm giác mình là hậu quả của một sai lầm hơn là kết quả
  tình yêu, nhất là khi nhìn những đứa em khác cha hoặc khác mẹ sau này, tôi
  luôn thấy rằng chúng đều được yêu thương, nuông chìu rất mực. Cả sau này, khi
  có được một gia đình riêng, những lúc hạnh phúc bên chồng con, nhớ đến điều
  đó tôi cũng uất ức, nó như một vết thương không bao giờ lành, cứ ầm ỉ nhói
  đau. Tôi biết người mẹ nào cũng thương con nhưng chắc tôi thương con nhiều
  hơn họ, như thương bù, thương trả thù cho một tuổi thơ thiếu cha hụt mẹ. Bất
  cứ lúc nào nhìn con hay nghĩ đến con là lòng tôi lại dạt dào như sóng, biển
  Thái Bình trong tôi nào có bờ. 
*** 
Tôi dọn về căn nhà mới được sơn
  sửa lại khang trang, sau một thời gian dài cho thuê nên khá xuống cấp. Căn
  nhà rộng rãi, tươi đẹp nhờ thiên nhiên được đưa vào tận phòng tắm, tận nhà
  bếp và tiện nghi hơn nhưng con trai tôi buồn hẳn. Nó chỉ tươi lên khi nhận
  được điện thoại của ba nó. Đêm nào cũng vậy, khi nhận được lời chúc ngủ ngon
  vào khoảng chín giờ tối của ba thì nó mới yên ổn đi ngủ. Nhưng nhiều lúc ba
  nó vì bận rộn, vì quên hay vì gì đó có trời mà biết, thì thằng bé đâm ra quay
  quắt và thức rất khuya… Thường vào cuối tuần, ba nó đến đưa nó về nhà, dường
  như để hâm nóng lại tình phụ tử. Ở với ba, đến giờ đi ngủ thằng bé cũng gọi
  điện về chúc tôi ngủ ngon. Nó biết tôi khó ngủ, mà khó ngủ thì hôm sau tôi
  đâm ra bơ phờ, tính tình cáu hẳn, công việc kém hiệu quả và trông tôi héo rũ,
  xấu xí hẳn đi. Thật ra chứng bệnh ấy chỉ xuất hiện sau khi vợ chồng tôi ly
  hôn. Tôi vốn đứa rất dễ ngủ, cứ nằm xuống là ngủ, như trẻ sơ sinh, chủ yếu là
  tôi không có thì giờ để ngủ vì ham công tiếc việc. Như bạn bè tôi thường trêu,
  tôi thuộc về tầng lớp của những kẻ thừa ăn thiếu ngủ… Nhưng xa tôi vài hôm nó
  cũng không chịu được, thật là một thằng bé giàu tình cảm. Cứ thế, chiều thứ
  bảy nó mỏi mắt chờ ba còn chiều chủ nhật thì mong được về với mẹ. Mà đoạn
  đường từ nhà này đến nhà kia khá xa, đến vài chục cây số và thường xuyên kẹt
  xe… Những lúc thằng con đi rồi, vì buồn nên tôi thường mời bạn bè đến nhà
  chơi, nhậu nhẹt, nhảy nhót hoặc đi đâu đó với họ, hưởng chút tự do mà lâu rồi
  tôi mới có được. Những người đàn ông trước đây từng theo đuổi khi tôi chưa
  chồng, cả những người dành cho tôi tình cảm đặc biệt dù biết tôi đang có
  chồng, họ vẫn hay mời tôi đi uống cà phê, đi ăn. Giờ biết tôi bỏ chồng thì
  lại trốn biệt. Tôi tự cười cợt mình “Đừng tưởng bở! Đó, tìm được người yêu
  mình thực lòng đâu phải dễ”. Hình như vụng trộm với phụ nữ có chồng cũng là
  cái thú của không ít đàn ông. Họ đong đưa vui chơi vậy thôi chứ không thích
  gắn bó, càng không muốn có trách nhiệm… Dù sao những người đàn ông ấy cũng
  lấp được phần nào khoảng trống trong tôi, có những người rất thú vị, mỗi
  người mỗi vẻ. Nhưng dần dần tôi thấy mình càng trống trải hơn, hầu hết ông
  nào cũng có vợ con… Bây giờ tôi mới nhận ra rằng cuộc sống thiếu sự âu yếm,
  ân ái của một người đàn ông là điều không hề dễ dàng chịu đựng, nhất là với
  người đàn bà từng ghiền hơi hướng của chồng như tôi. Trước đây, những lúc
  căng thẳng vì công việc thì chuyện gần gũi vợ chồng giúp tôi nạp được một
  nguồn năng lượng đáng kể, tìm lại được sự cân bằng. Tôi luôn tự hào vì năng
  suất làm việc lẫn tần suất yêu đương của mình và xem đó biểu hiện của tuổi
  trẻ, dù tôi đã ngoài bốn mươi… 
Tôi với chồng cũ cố giữ lời hứa
  khi chia tay, phải cư xử làm sao để con trai thấy rằng nó không mất mát, vẫn
  còn đủ cha mẹ. Chúng tôi muốn thực hiện một cuộc ly hôn văn minh, theo kiểu
  “Xem nhau như bạn và cùng lo cho con”. Bây giờ tôi thấy điều đó rất khó,
  thằng bé khi về với mẹ, khi ở với ba, càng khoét sâu thêm cuộc sống bất
  thường của nó. Chúng tôi từng chúc nhau hạnh phúc nhưng đó là câu giả dối
  hoàn toàn. Ai cũng muốn người kia phải cô  đơn, trả giá hay khó khăn,
  thất bại trong cuộc hôn nhân kế tiếp thì mới hả hê. Ai cũng muốn độc quyền
  rằng chỉ có mình mới có khả năng mang đến hạnh phúc cho người kia, dù khi còn
  sống chung họ chỉ mang đến cho nhau toàn đau khổ. Có lúc đến nhà anh đón con,
  tôi không kiềm được tò mò về cuộc sống của anh sau khi tôi dứt áo ra đi. Dù
  không muốn vào nhà, căn nhà thân yêu mà tôi thuộc lòng từng vết ố bẩn trên
  tường giờ lạ lẫm vì không còn thuộc về tôi nữa. Đứng ngoài sân giục con ra
  nhưng tôi cũng liếc mắt vào, xem bây giờ anh sống ra sao, đánh hơi thử có mùi
  đàn bà khác chưa… Đó, không có bàn tay của tôi thì cuộc sống của anh vậy đó.
  Có lần anh đến chỗ tôi đón con, kịp thấy mặt tôi sau một đêm mất ngủ, chưa
  trang điểm, chắc trông nhợt nhạt, bèo nhèo lắm. Vậy mà anh ấy còn hỏi tôi có
  khỏe không. Tôi rất ghét câu thăm hỏi đạo đức giả ấy. Nếu từng biết quan tâm
  đến tôi như thế thì đã không xúc phạm đến tôi bằng cách lăng nhăng với người
  đàn bà khác. Vừa hỏi anh vừa nhìn xoáy vào thân thể tôi qua chiếc áo ngủ mỏng
  manh mà anh quá quen thuộc, tôi hiểu rằng anh nghĩ lâu nay tôi sống thiếu đàn
  ông, hẳn khó chịu lắm, đói khổ, thèm khát lắm… Quả thực trong những người đàn
  ông quen biết lâu nay, có lúc tưởng như rất thân thiết, với những phút rung
  động tựa như tình yêu, không ít người muốn cùng tôi thưởng thức chuyện chăn
  gối, giống như mời tôi đi nghe một buổi hòa nhạc hay ăn tối, vậy thôi… Thực
  lòng tôi mến họ, thậm chí đôi lúc mềm lòng vì vẻ mẫn tiệp hay tâm hồn đa cảm
  hoặc vẻ lịch lãm, cốt cách cao nhã của họ
  nhưng tôi không thể lên giường với
  họ được. Hình như ở phái nữ chúng tôi rất khác đàn ông về chuyện ứng biến
  trong tình dục. Nếu như các ông thường hứng khởi trước một thứ “của lạ” thì
  đàn bà chỉ an tâm, tìm được sự hoan lạc với người đàn ông quen thuộc, của
  riêng mình, người mà họ biết chắc rằng mình vẫn được yêu thương, tôn trọng,
  gắn bó sau chuyện ân ái.  
Thằng con tôi, để được sống bình
  thường như mọi đứa trẻ, vẫn được gần cha, gần mẹ thì nó phải chạy qua lại như
  một con thoi giữa hai ngôi nhà. Gần như mỗi tuần nó phải đi xuyên qua cái
  thành phố rộng lớn này, nhà cha ở quận Tân Phú còn nhà mẹ ở quận 2. Đường xa
  và còn hay bị kẹt xe, rồi khói bụi, chứng kiến những tai nạn giao thông thảm
  khốc, chịu mưa nắng thất thường quả là quá sức chịu đựng với một người lớn
  chứ nói gì một đứa bé. Chưa kể cha mẹ nó gặp nhau có vui vẻ gì đâu, nếu không
  lịch sự một cách lạnh lẽo, giả dối thì cũng hờn dỗi, móc méo, dò xét soi mói
  nhau một cách kín đáo. Từ tình bạn có thể chuyển thành tình yêu, tình vợ
  chồng chứ khó có tình yêu, tình vợ chồng chuyển hóa được thành một tình bạn
  thực sự. Cũng như hạt có thể thành mầm chứ mầm làm sao trở lại thành hạt. 
Một lần, trước mặt cả hai người
  thằng bé nói một câu bất ngờ:  
      - Sau này lớn lên có sẽ cố
  kiếm cho thật nhiều tiền!  
Tôi sững người vì chưa bao giờ dạy
  con làm giàu là mục đích khi lớn lên. Dù tôi là đứa ham làm giàu. Có nhiều
  tiền tôi mới thực hiện được những ước mơ, lấy lại những gì bị cuộc đời tước
  đoạt, có quyền lực hơn và trở nên hấp dẫn hơn. Ngay cả ba tôi sau này cũng
  nhìn tôi với con mắt khác, ông ngưỡng mộ ra mặt đứa con gái ông từng bỏ quên.
  Điều đó khiến tôi nở nang từng khúc ruột mỗi khi nghĩ tới. Nhưng tiền bạc đã
  choáng hết tâm trí của tôi, khiến tôi quên nhiều thứ đẹp đẽ từng được nuôi
  dưỡng chắt chiu, gieo trồng trong tâm hồn mình, kể cả quên luôn chồng. Và sự
  cớ xảy ra khi anh ngã vào vòng tay của một người đàn bà khác. Tôi không thích
  câu “cái gì cũng có giá của nó” vì đã được dùng đến mòn nhẵn, nhưng hóa ra
  lúc nào cũng đúng. 
Hình như ba nó cũng hoảng sợ ý
  nghĩa làm giàu đến quá sớm với thằng con bé bỏng nên liền hỏi: 
 
  - Kiếm tiền nhiều để làm gì vậy con? 
        - Để con mua
  cho ba mẹ hai căn nhà ở gần nhau, để mình đi qua đi lại cho gần! 
     À ra thế, tôi nhẹ cả người nhưng
  lại ứa nước mắt. Chẳng phải là chúng tôi từng ở thật gần nhau đó hay sao,
  ngay trong một nhà. Nó chỉ quờ tay một cái là chạm vào ba hoặc đụng vào mẹ.
  Khi dọn nhà về đây, tình cờ tôi đọc lại những trang nhật ký cũ của mình, có
  đoạn ghi khi con trai mới vài tuổi mà nó đã biết thích thú trước cảnh cha mẹ
  vui vẻ, đùa giỡn với nhau. Ánh mắt nó phấn khích, tràn ngập sự hân hoan và
  nói “Ba mẹ làm nữa đi!”. Từ khi vợ chồng chúng tôi lục đục, ánh mắt nó già
  hẳn. Chẳng hạn như câu nói hôm nay, trẻ con thường nghĩ đến chuyện mua đồ ăn,
  đồ chơi chứ sao lại nghĩ đến chuyện mua nhà. Anh ấy cũng vội liếc nhìn tôi và
  quay đi thật nhanh, nhanh đến mức tôi không kịp phân biệt đó là cái nhìn xấu
  hổ hay ân hận… Đến giờ, tôi ray rứt về việc lần đầu tiên có thai, chưa kịp
  báo tin vui cho chồng đã phá bỏ để được đi nước ngoài. Tôi cứ tưởng mình bị
  trừng phạt. Mãi rất lâu mới có thai lại, tôi cảm thấy như nhận được một hồng
  ân quá lớn, chỉ được ban phát một lần trong đời. Nó là đứa con đẹp hơn tôi mơ
  ước, chỉ lựa toàn những ưu điểm của cha mẹ mà giống. Nhiều khi bắt gặp tôi
  đang ngây ngất ngắm nhìn con, tán dương từng vẻ đẹp trên thân thể con, anh
  thường cười bảo, người mẹ nào mà chẳng thấy con mình là đẹp nhất. 
    Dù sao nhờ câu nói ấy của thằng bé,
  chiều thứ bảy sau khi anh đến đón con, tôi không để anh đứng ngoài cổng chờ
  rồi mới đưa thằng bé ra mà mời anh vào nhà uống nước, ăn trái cây để sẵn trên
  bàn, tôi nhận ra thằng bé vui sướng đến như thế nào, chắc hai cha con bàn
  tính gì đó rồi nó hồn nhiên bảo “Hay ba ở lại đây ngủ rồi rủ mẹ đi chơi công
  viên nước với mình nghen ba!” Chả là nó biết tôi chưa đến đó lần nào. Bù đầu
  ở công ty, tôi đâu có thì giờ vui chơi, những trò hồn nhiên trẻ con như thế.
  Thằng bé chưa đủ lớn khôn để hiểu rằng cuộc chia tay của chúng tôi là một sự
  cắt đứt quyết liệt, một sự trừng phạt lẫn nhau cho thỏa lòng tự ái, là một sự
  giải thoát để mỗi người được sống theo ý muốn của mình mà quên rằng điều đó
  gây ra nỗi bất an trong lòng lòng đứa con nhỏ, được kết tinh từ máu thịt,
  tình yêu của hai người, của một thời đã xa. Anh đi vòng qua cái bàn ăn rộng,
  đi về phía tôi và nói “ Ngày mai em cùng đi nhé!”. Tôi cảm thấy đắc thắng như
  một đứa trẻ vượt bạn trong một ván cờ xoàng. Ngày mai tôi có cuộc hẹn với một
  nhóm bạn cũ học cùng lớp. Từ chối buổi gặp đó không khó chỉ cần một cú điện
  thoại, nhưng tôi lại muốn chứng tỏ sự quan trọng của mình bằng cách nói dối
  rằng tôi có một cuộc họp đột xuất với hội đồng quản trị của công ty. 
      Tối hôm đó ở nhà một mình,
  tôi đọc một mớ báo cả tuần dồn lại để chìm vào giấc ngủ… Tôi vừa đọc vừa nhớ
  lại câu nói của anh ban chiều, thế là tôi không ngủ được. Tôi có quá quắt
  không khi không thể tha thứ cho anh về cái tội hầu hết đàn ông hay mắc phải
  ấy, và ngay cả đàn bà ngày nay, không đi ăn vụng như phái nam thì họ cũng
  thích “ăn vặt”, khi được ngồi bên một người đàn ông tình tứ mà họ thích,
  những lời tán tỉnh, mắt liếc tình đưa... Tôi cảm thấy thật khó khăn nếu bây
  giờ, trong ngôi nhà nầy xuất hiện một người đàn ông khác, tôi lại lẩn quẩn
  giống như mẹ mình. Không biết con trai tôi rồi có chấp nhận một người cha khác
  hay không. Nằm mãi cũng vô ích, tôi vùng dậy bật đèn mở máy tính làm việc.
  Sau thời gian dài mất ngủ tôi có kinh nghiệm chữa mất ngủ là hãy uống đủ nước
  và làm việc, làm cho đến khi thật sự mệt mỏi sẽ dễ ngủ hơn là tự ru mình bằng
  cách nầy hay cách kia chỉ tổ mất thời gian. Trước hết tôi vào mạng check
  mail. Lướt qua hộp thư tôi thấy mail của anh. Khi có chuyện cần nói với nhau
  chúng tôi chỉ có thể trao đổi bằng cách này là tiện nhất. Máy móc vô hồn
  khiến chúng kìm chế bớt những bực bội còn sót lại hoặc những lời xúc phạm
  nhau khi có ai đó tự ái hoặc nổi nóng. Anh viết cho tôi, nói vòng nói vèo như
  bản tính của anh, chỉ có một câu làm tôi chú ý, đọc đi đọc lại “Cho đến nay
  anh cũng không biết lỗi thuộc về ai. Nhưng điều đó cũng không còn quan trọng
  nữa. Chỉ một điều chắc chắn rằng anh và em có lỗi với con vì đã gây ra sự tan
  vỡ này, hình như chúng ta không vì con như chúng ta tưởng…” 
      Lá thư khiến tôi không còn
  làm được việc gì  nữa. Tôi tắt laptop vào giường nằm và thức trắng đêm.  | 
| 
     Tôi thật
  bối rối, xấu hổ khi đứng trước mặt trưởng đoàn, một nhà văn lớn tuổi, vui vẻ,
  trẻ trung nhưng cũng rất nghiêm khắc : 
      - Cô đi suốt đêm mà không
  báo với đoàn? Làm ai cũng lo lắng, không biết chuyện gì  đã xảy ra với
  cô. Thôi cô về phòng, chuẩn bị đi ăn sáng rồi báo cho anh em biết đêm qua
  cô  đi đâu… 
    Nói
  đến đây miệng anh nhếch một nụ cười hóm hỉnh, trêu chọc… Tôi hiểu, chuyện đêm
  qua tôi biến mất và điện thoại luôn trong trình trạng mất liên lạc, “ngoài
  vòng phủ sóng” khiến mọi người lo lắng cho tôi đã đành mà chắc chắn nó đã
  biến thành đề tài “sáng tác” cho mọi người cười vui và chơi chữ. Mấy hôm
  trước, có một nhà văn khá nổi tiếng tham gia chuyến đi này, trong một buổi
  lửa trại anh đã làm quen với một cô gái địa phương và sau đó nghe dẫn được cô
  vào một tiệm Internet dạy cô cách vào mạng, gởi email... Nghe tin ấy, một
  chàng thi sĩ có vầng trán hiền triết và nụ cười trẻ thơ chậm rãi lên tiếng: 
      - Chà… Chắc là muốn khai
  hóa cho nàng! 
      Không kìm được, tôi cười ré
  lên như bị chọc lét : 
      - Trước khi khai hóa phải…
  khai hoang đã chứ!  
      Một người nào đó, hình như
  là nhà văn K.  nói tiếp : 
 
  - Sau đó thì chờ… khai hoa! 
      Cả xe cười rần rần. Đoàn đi
  sáng tác ở Lâm Đồng đợt ấy của Hội Nhà Văn Tp. Hồ Chí Minh có mười ba người,
  con số theo người phương Tây là xui xẻo nhưng chúng tôi chưa thấy có chuyện
  gì xui mà chỉ thấy tòan chuyện vui. Cùng nghề nghiệp, cùng mối quan tâm và
  cùng độ tuổi như nhau cả nên thật là đồng điệu. Ai cũng rất nhạy cảm với chữ
  nghĩa, một từ được dùng, được hiểu với vô số tầng tầng lớp lớp ngữ nghĩa, vì
  thế có vô số chuyện cười, có khi cười đến chảy nước mắt. Đồng thời cũng có vô
  số thông tin liên quan đến nghề nghiệp, dư luận của giới viết lách. Có nhiều
  chuyện nóng hổi được tung ra, cập nhật hoặc được đính chính… Đúng là một cái
  chợ trời văn học nghệ thuật nóng sốt, ai cũng chộp được một cái gì đó rồi
  mang về xào nấu tùy theo nhu cầu và cái tạng của mình, để mang ra chiêu đãi
  bạn bè lúc trà dư tửu hậu hay chế biến thành bút ký, truyện ngắn, truyện dài
  không chừng. Một vài tuần nữa thôi, những món ấy sẽ tung lên trang văn nghệ
  của các báo. Thật ra, ngày thường ở thành phố chúng tôi vẫn có dịp gặp nhau
  trong những buổi hội họp, hội thảo, giao lưu, hoặc ở những quán cà phê cóc
  chung quanh trụ sở của Hội… Thế nhưng  không khí ở đó vẫn có một cái gì
  khô khan, gò bó, chật chội và có phần giả tạo so với những tâm hồn văn chương
  hướng tới sự phóng khoáng, bay bổng. Cho nên đi sáng tác thế này, tôi cảm
  thấy như sống được với con người thật của mình, bộc lộ những cảm xúc của
  mình, mà không sợ bị hiểu lầm, nhưng dù có bị hiều lầm thì cũng không… sợ.
  Cho nên chuyến đi còn vài ngày nữa mới kết thúc nhưng mọi người đánh giá là
  đã thành công. Sao là thành công? Vì rất vui. Được là những người An Nam thực
  thụ, gì cũng cười, tất cả đều được chế biến thành văn chương, qua lăng kính
  hài hước. 
      Ai cũng biết rằng nhà văn
  không phải là gà công nghiệp, cứ cho ăn đầy đủ hàng ngày thì… cục tác ra quả
  trứng. Nhà văn sáng tác là nhu cầu tự thân, là nhà văn thứ thiệt. Còn đi đâu
  đó mới sáng tác được là nhà văn “công nghiệp”. Có khi đi rất nhiều vẫn không
  viết được gì ra hồn nhưng ở một chỗ mà nhạy cảm, suy nghĩ sâu sắc, trăn trở
  nhiều với cuộc sống, nhất là khi tư tưởng không bị áp bức hay tự mình nô lệ
  hóa, như đeo bám vào một hệ tư tưởng nào đó hay phụ thuộc tiền bạc, sự nổi
  tiếng… thì họ vẫn viết tốt, lay động được lòng người. Nhưng thời buổi này,
  những nhà văn sống ở thành phố, trừ một số ít sống bằng nghề viết văn, toàn
  tâm toàn ý với nghề thì đa số bận bịu với những công việc khác như kinh
  doanh, làm quản lý, xuất bản, làm báo, biên tập viên và cả thất nghiệp… Nên
  khi đi thực tế quả là một liều “doping” để họ nhớ mình là người… sáng tác.
  Tôi không dám tin rằng những chuyến đi như thế này giúp tôi viết được cái gì
  ra hồn mà thường giúp tôi có thêm bạn bè, hoặc sau đó trở thành thân thiết
  hơn. Nhưng dù thế nào có đi thì phải có viết, nếu không lỡ lần sau giám đốc
  nhà sáng tác không cho đi chơi nữa thì nguy…  
      Lâu nay tiểu thuyết vẫn
  được xem là ngành “công nghiệp nặng” của văn học, nó thường được in ấn thành
  những cuốn dày cộm, trông đúng là những tác phẩm “vĩ đại”. Ở nhà vừa vác vừa
  đọc nghĩ cũng ớn lắm rồi, đâu ai dám mang nó ra đọc trước công chúng. Tôi có
  vài cuốn tiểu thuyết được đài phát thanh chọn đọc trong chương trình “Đọc
  truyện đêm khuya” nhưng rồi chính tôi cũng không đủ thời gian và kiên nhẫn để
  nghe cho hết tác phẩm của mình. Còn trong những buổi trà dư tửu hậu thì thơ
  được lên ngôi, dù là những bài thơ hay, đầy ám ảnh hay chỉ để cười cợt cho
  vui. Nghĩ mà ghen tị với các nhà thơ. Đi đến đâu cũng có giao lưu thơ, thật
  bất ngờ khi những nhà thơ không chuyên là cán bộ lãnh đạo địa phương hay những
  nông dân sống ở vùng sâu vùng xa rất mê thơ và làm thơ rất… thơ. Như ở huyện
  Lam Hà có một nông dân lên đọc một bài thơ của ông sáng tác, rất hay, khiến
  tôi phải cảm phục. Tất nhiên các nhà thơ ở thành phố có dịp tung tẩy những
  tác phẩm của mình, trình diễn bằng cảm xúc của mình nên thơ thường hay hơn
  khi tôi đọc họ trên báo hay những tập thơ gởi tặng. Đêm họp mặt với giới viết
  lách địa phương ở Nhà sáng tác tại Đà Lạt, một biệt  thự khá rộng tọa
  lạc ở khu phố tĩnh lặng nhưng không quá xa khu trung tâm thành phố. Hội
  trường ấm cúng có cả đàn Piano, trong không khí thân tình và rất tao đàn hôm
  đó tôi quyết tâm không để các nhà thơ “độc diễn” nên đã liều đọc một đoạn tùy
  bút của mình. Tôi được vỗ tay nhiệt liệt, không phải vì văn của tôi hay mà vì
  tôi đã làm một cuộc “cách mạng”: Đọc văn xuôi. Nhà văn Nhật Chiêu rất phấn
  khích trước sự…can đảm ấy của tôi và ân hận rằng không mang theo tập truyện
  ngắn mà anh vừa xuất bản để đọc chơi. Và anh đã “bù lỗ” bằng cách đọc một bài
  thơ Đường do anh dịch. Một số nhà văn hôm đó quyết tâm, từ nay mình sẽ đọc
  văn trước công chúng… Thúy Ái thấy phỗng mũi nghĩ mình là người tiên phong
  dám đọc văn.  
      Đánh trống lảng một hồi rồi
  tôi cũng đành phải xin lỗi mọi người vì không thể giải thích được chuyện tôi
  đã “bốc hơi” tối hôm qua, làm mọi người lo lắng lẫn nghi ngờ tôi sa đà vào
  một vụ yêu đương nào đó. Tôi hứa sẽ đền một chầu cà phê khi về thành phố. Còn
  chuyện ấy thì một lúc nào qúy vị cũng sẽ biết.  
*** 
     Hôm ấy đoàn đến thăm một nông
  trường. Nơi đó như một cái làng lọt thỏm giữa núi rừng nhưng khá đầy đủ tiện
  nghi như điện, điện thoại, truyền hình cáp, máy tính nối mạng Internet. Có
  trường học, công viên, quán cà phê vườn, sân vận động và các khu vực làm
  nghề. Nhiều người thích thú với cái xưởng sản xuất tơ tằm nơi đây, người đến
  xem thư viện, xưởng chế biến cà phê, trà, thăm vườn hoa… Còn tôi lân la ở mấy
  dãy trường học, cái gốc gác giáo viên dường như cựa quậy trong tôi. Sau một
  hồi lang thang trong sân trường và ước gì những ngôi trường ở thành phố cũng
  có cái sân chơi rộng rãi hay có được cái không khí trong lành như ở đây để
  các em học sinh chạy chơi, hít thở. Ngắm nhìn, ước mơ hão huyền chán tôi đến
  đứng ở cửa sổ của một phòng học để “dự giờ”. Trúng mấy lớp đang dạy những môn
  tự nhiên tôi chẳng hiểu gì, bước tiếp tôi nhìn thấy đề một bài thơ quen thuộc
  ghi trên bảng. Giờ văn đây rồi, tôi thầm reo lên và dừng lại. Lớp học không
  đông, chỉ hơn mười người nhưng cô giáo giảng say sưa, hào hứng như trước một
  giảng đường đông đúc, học viên chăm chú nghe dường như không quan tâm lắm đến
  sự có mặt không chính thức của tôi. Bài thơ này tôi từng dạy đi dạy lại nhiều
  lần lâu lắm rồi… Tôi định bỏ đi nhưng lại nấn ná, hình tôi bị cuốn vào lớp
  học. Cô giáo này dạy hay đây, cô cảm được bài thơ. Đó là một phát hiện vui
  sướng vì lâu nay tôi biết nhiều học sinh, kể cả các con tôi rất chán môn văn.
  Vì bản thân người dạy không cảm được cái hay cái đẹp của bài văn thì làm sao
  truyền thụ được điều đó cho người học? Sự dối trá thì không thuyết phục được
  ai. Chưa kể có những bài giảng văn được chọn dạy không phù hợp với lứa tuổi,
  các em không hiểu nổi nên đâm ra chán ghét văn chương. Tệ hơn nữa là người ta
  “chính trị hóa” văn chương thay vì làm ngược lại để các em thích thú và dễ
  nuốt… Thế là tiết học hấp dẫn ấy giữ chân tôi đến cuối giờ, cũng là tiết học
  cuối cùng của buổi chiều. Đợi cô giáo ra khỏi lớp tôi đến chào cô và định
  khen cô  một câu.  
       - Chào  em ! Em
  giảng bài hay lắm, đến dạy ở đây lâu chưa ?  
  Cô
  nhìn tôi e dè. Trả lời như một học sinh nói với cô  giáo : 
       - Dạ thưa cô, được
  khoảng bảy, tám năm rồi… 
  
  - Vậy quê em ở đâu ? 
  
  - Dạ thưa cô  ở thành phố… 
      Tôi “à” lên một cách ngạc
  nhiên lẫn thích thú. Một phụ nữ còn khá trẻ, dáng dấp con gái thành phố lại
  chịu gắn bó với một nông trường giữa chốn núi rừng này quả là điều lạ. Vừa đi
  vừa trò chuyện tôi hỏi thăm về cuộc sống, công việc của cô ở đây và cô cũng
  hỏi thăm đôi điều về cái nghề viết lách của tôi và bảo rằng hồi nhỏ cô cũng
  từng mơ trở thành nhà văn. Cô hỏi thăm tôi về một vài nhà văn viết cho thiếu
  nhi mà hồi nhỏ cô hay đọc và rất ngưỡng mộ. Tôi bảo trong chuyến đi này có
  nhà văn K., cô thích gặp chị ấy lắm nhưng tiếc là chị đã đi thăm một nơi khác
  từ sáng sớm và nghe rằng đang kẹt ở nơi đó, chưa về với đoàn được. Chợt nhớ
  trong máy ảnh của tôi có mấy tấm vừa chụp chung với chị  ở thác Voi hôm
  qua, tôi mở ra và zoom  để cô  xem cho rõ. Chị ấy cũng là nhà văn
  tuổi thơ của tôi nhưng đến nay chị ấy vẫn còn khá trẻ. Trước khi định chia
  tay tôi hỏi tên, cô  xưng là Kim, và nói thêm, nhà ba mẹ cháu ở quận Ba
  đó cô, gần Hồ Con Rùa… Hả? Sao nghe quen quá vậy? Tôi cũng từng sống ở gần đó
  đến hai chục năm chớ ít đâu, trong một căn hộ ở tầng cao nhất của một cư xá
  và gọi nó bằng cái tên thơ mộng “Căn nhà trên đồi” trong bài viết về không
  gian sống của mình trên một tạp chí chuyên  về nhà cửa. Tôi cũng từng có
  một chị bạn sống ở khu Hồ Con Rùa, một cái hồ chẳng thấy con rùa nào cả. Tôi
  với chị làm cùng một cơ quan, sau đó chị về hưu, tôi tôi chuyển đi nơi 
  khác.Tuy không đến nhà nhau nhưng mỗi khi đi chợ, gặp nhau chúng vẫn hay nói
  chuyện về con cái, sức khỏe. Tôi biết chị có cô con gái tên Kim vì có lần chị
  kể về cô bé ấy khi cô còn học lớp 11 và định gởi cho ông xã tôi dạy kèm cho
  cô môn tiếng Anh, không hiểu sao đó cô bé không đến học. Nhưng lâu nay tôi được
  biết rằng cô  ấy đang ở rất xa và hình nhưng chị có điều gì đó giấu mọi
  người, thỉnh thỏang có gặp chị nhưng tôi không dám hỏi chuyện con gái chị.
  Không kìm được tôi hỏi vội: 
    
  - Có phải mẹ cháu tên Hoàng không ? 
     Có một điều gì đó làm tôi xúc
  động nên tôi không rõ cô gái đang bối rối hay mừng vui vì gặp được người
  quen. 
    
  - Dạ … 
      Kim lững thững bước đi còn
  tôi không nói được gì… Chợt điện thoại trong túi tôi reng lên một tiếng ngắn
  rồi im bặt. Thôi chết rồi, hết pin. Mới sáng nay còn đầy, tôi chỉ gọi có vài
  phút... Có lẽ do liên tục dò tìm sóng khiến máy mau hết pin. Tôi hốt hoảng
  xem đồng hồ, tôi đã trễ giờ hẹn ra xe để cùng về, từ đây ra nơi xe đậu ít
  nhất đi bộ mất hai mươi phút. Kim đưa điện thoại cho tôi mượn nhưng tôi có
  nhớ số của ai đâu. Nhạy cảm với ngôn từ bao nhiêu thì tôi rất khó thuộc những
  con số bấy nhiêu. Tôi ít thuộc số điện tho ại của ai, ngay cả số của tôi mà
  ai hỏi bất ngờ, đôi khi tôi cũng ấp úng một chút mới nhớ ra được… Trễ cho trễ
  luôn, tôi có ý nghĩ ở lại nên nhận lời ngay khi Kim mời : 
      - Hay cô nghỉ lại nhà cháu
  rồi sáng mai hãy về… 
      Chuyện một cô gái “mất
  tích” cách đây nhiều năm giờ lại xuất hiện ở đây khiến tôi bất chấp sự lo
  lắng của mọi người và tự trấn an rằng ai cũng biết tôi ở lại một nông trường
  thanh bình như thế này thì không thể chết đói hoặc phải ngủ bờ ngủ bụi. Tối
  đó tôi có tìm cách liên lạc được với khu nhà nghỉ của huyện để nhờ họ báo
  giùm với trưởng đoàn của tôi nhưng sau này tôi mới biết không hiểu sao lời
  nhắn ấy lại không đến được… 
*** 
       Mấy ngày qua di
  chuyển liên tục, miên man qua không biết bao nhiêu là đồi chè, rẫy cà phê
  ngút ngàn, những cánh rừng mới trồng lẫn những cánh rừng bị tàn sát trên diện
  rộng và chắc là còn bị như thế về lâu về dài. Nhà thơ P.  có sáng kiến
  chụp hình kỷ niệm với một cánh rừng đang hấp hối, tôi thấy hay nên cũng bắt
  chước. Tôi chợt nhớ đến những câu hát của Trịnh Công Sơn và nghĩ rằng ông
  không chỉ là một nhạc sĩ tài hoa, là một nhà thơ với ý tưởng lẫn cách dùng
  câu chữ đầy sáng tạo, mới lạ và sang trọng mà còn là một nhà tiên tri khi
  viết ra những câu hát cách đây vài chục năm lại ứng nghiệm vào hiện thực hôm
  nay. Chẳng hạn ông từng biết thành phố Sài Gòn sẽ bị ngập nước kinh khủng mỗi
  khi trời mưa nên đã viết “Sài Gòn mưa rồi chợt nắng” và “phố bỗng
  là giòng sông uốn quanh”. Chuyện phá rừng hồi ấy chưa đến nỗi nào nhưng
  ông đoán đúng chóc “Rừng đã cháy và rừng đã héo, em hãy ngủ đi. Rừng đã
  khô và rừng đã tàn em hãy ngủ đi…” Tôi quá thương xót cho những cánh
  rừng. Giá có nhiều tiền tôi sẽ bỏ ra mua vài cánh để dành, bảo tồn cho con
  cháu mai hậu còn biết thế nào là rừng chứ. Nhạc sĩ ấy còn biết trước nước
  mình sẽ gia nhập tổ chức WTO nữa cơ. Vâng, đi đâu loanh quanh cho đời mỏi
  mệt. Thật là một thiên tài đa dạng… Ngồi nhiều trên xe, ngoài những lúc
  cười đùa, trêu chọc bạn bè tôi không làm được gì nên cũng oải lắm, lại không
  được nghỉ  trưa theo thói quen nên tối về đến nhà nghỉ tắm táp xong lên
  giường là tôi híp mắt lại dù cô bạn nhà văn cùng phòng hơi khó ngủ và chỉ
  muốn tỉ tê trò chuyện. Nhưng về đến nhà Kim, ăn uống xong, khi bọn trẻ ngủ
  say, hai cô cháu mới vào nằm ở chiếc giường bên cạnh, người tôi cứ tỉnh như
  sáo dù giọng kể của Kim đều đều… 
      -  … Khi cái thai được
  hơn bốn tháng thì mẹ cháu mới biết. Nó quá lớn để phá bỏ, bệnh viện khuyên giữ
  lại để khỏi ảnh hưởng đến sức khỏe và sinh mạng của cháu. Cháu tuy hoảng loạn
  nhưng không muốn bỏ đi giọt máu của mình. Mẹ cháu khóc ròng vì đứa con gái
  duy nhất quá dại dột, trong khi anh trai của cháu đang học ở nước ngoài, cha
  cháu đang đi công tác ở Hà Nội. Mẹ dàn xếp cho cháu rời nhà trước khi ba cháu
  về. Ba cháu nghiêm khắc lắm cô à. Ông ấy quá bận rộn vì những chuyện lớn lao
  nên không có thời gian quan tâm đến con cái. Nhưng mỗi khi anh em cháu có
  biểu hiện gì không đúng ý ông, lập tức mẹ cháu bị kết án “Con hư tại mẹ”. Mẹ
  luôn sợ ba cháu dù nhiều khi bà không có lỗi. Anh trai cháu cũng từng dính
  vào ma túy may là mẹ cháu phát hiện kịp thời để chữa trị và đẩy ra nước ngoài
  du học, giống như đi tỵ nạn vậy.Theo kế hoạch, cháu lên sống trong gia đình
  một người quen của mẹ ở đây, sau khi sinh xong cho đứa bé để cháu rảnh rang
  làm lại cuộc đời… Sinh được hơn mươi ngày, có một phụ nữ ngoài bốn mươi sống
  đơn thân, đang làm việc ở một nông trường được bí mật giới thiệu đến nhận đứa
  bé về làm con nuôi. Mẹ cháu lúc ấy có lên đây để chuẩn bị tinh thần cho cháu,
  nhưng cháu gần như ngất xỉu khi người ta đưa tay đón cháu bé… Thế là kế hoạch
  phải dời lại vì sợ ảnh hưởng đến sức khỏe của cháu và bầu sữa căng của cháu
  khiến ai cũng thấy quá nhẫn tâm khi con bé phải rời vú mẹ. Mẹ cháu thất vọng
  ra về còn cháu càng lúc càng thấy rằng mình không thể sống thiếu con. Chị
  Giàu, tên người phụ nữ ấy, trở lại mấy lần cũng không đạt được giấc mơ làm
  mẹ… Nhưng cũng vì thế mà chị trở nên thương cảm cháu. Mỗi tuần chị thường đến
  thăm cháu bé và gợi ý cháu lúc nào cứng cáp có thể xin vào làm việc ở nông
  trường, chị sẽ giúp đỡ. Thực sự lúc đó cháu không muốn trở về  thành
  phố, cháu chẳng là cái gì ở đó nữa, nhất là ba mẹ cháu rất khó chấp việc cháu
  không có chồng mà có con. Giải pháp của chị đưa ra quá tốt cho cháu nên mẹ
  cháu đồng ý.  
       Ở nông trường này, từ
  khi mới mở đã quy tụ nhiều số phận, nhiều người làm lụng rất giỏi nhưng thất
  học, có người từng vướng vào tội lỗi, tuy vậy khát vọng làm lại cuộc đời của
  họ thật mãnh liệt. Một lớp bổ túc văn hóa được mở ra, nhiều người muốn đi học
  nhưng thiếu người dạy. Khi ban giám đốc nông trường đọc bản khai lý lịch của
  cháu, họ chú ý ngay vì thấy cháu khai đã  học xong chương trình phổ
  thông. Ban đầu cháu e ngại vì người đã hư hỏng như mình thì còn dạy dỗ ai,
  thế nhưng một cô gái quen sung sướng như cháu ra lao động chân tay làm sao
  chịu nổi, đành liều ra đứng lớp. Cháu nhận ra rằng những học viên ở đây tuy
  lớn tuổi nhưng cũng ganh điểm nhau như  bọn học trò trẻ con khiến cháu
  thấy họ thật dễ thương, gần gũi với cháu. Họ cũng run khi bị truy bài mà
  không thuộc, cũng hãnh diện khi được điểm cao hay cô giáo khen ngợi… Con gái
  cháu được hai bà mẹ chăm sóc, hồi ấy chị Giàu chưa làm phó giám đốc, chỉ giữ
  một chức vụ nhỏ trong nông trường, nhưng bấy nhiêu cũng đủ cho cháu có một
  chỗ dựa về vật chất lẫn tinh thần... Năm con gái cháu ba tuổi, cháu được cử
  đi học tại chức ở trường sư phạm của tỉnh. Thời gian này nhiều người theo
  đuổi cháu lắm cô à. Có ông cán bộ cao cấp ở tỉnh mê cháu đến mức đòi bỏ vợ
  lấy cháu nhưng cháu sợ lắm, họ bày ra đủ trò để chiếm đoạt cháu. Hình như
  cháu càng sợ họ càng thích hay sao ấy. Nhưng rồi cháu cũng nghiệm ra rằng cái
  đích của bọn đàn ông là chỉ muốn lên giường với cháu mà thôi. Có người chức
  vụ, danh vị hẳn hoi, lừa cháu vào phòng làm việc, thô bạo lột hết quần áo của
  cháu, vật vã hôn hít, liếm láp cháu không chừa một chỗ nào vậy mà không làm
  gì được cháu, cô có tin không? Cháu quyết liệt chống trả, cháu cấu cắn, vùng
  vẫy la hét khiến ông ta mất hứng. Bây giờ nghe chuyện mấy cô gái bị hãm hiếp
  cháu ít tin lắm, khi người phụ nữ quyết tâm chống trả thì bọ dâm tặc  ấy
  không làm được gì đâu, trừ khi bị giết hay bỏ thuốc mê. Cháu mà có quyền lực,
  cháu ra lệnh tử hình hết mấy thằng cưỡng bức tình dục, bọn hiếp dâm. Hồi đó cháu
  dại thiệt nhưng bọn cháu yêu nhau. Nhưng vì anh ấy còn trẻ quá, cháu lại dễ
  dãi nên anh ấy chán… 
  Lúc
  này tôi chen vào được một câu : 
    
     - Chưa thấy ai độ lượng với người làm dang dở đời mình, bỏ rơi khi mình đang mang
  thai như cháu… Nhưng cho cô hỏi thiệt, nếu yêu nhau sao các cháu không cưới
  nhau khi lỡ như thế ... 
      
   Giọng Kim trầm hẳn xuống, cô nói rất nhỏ: 
       - Vì khi đến với anh
  ấy cháu đã lỡ dại một lần… Cháu cứ tưởng anh cũng đâu còn “trong trắng”gì,
  nhưng anh lại không chấp nhận khi biết cháu không còn cái  “lễ vật”
  ấy... 
      Không biết để an ủi cô hay
  khẳng định thêm sự dại dột của cô  mà tôi lại nói : 
       - Nhiều năm giữ mục
  tư vấn về tình yêu – hôn nhân trên một tờ báo lớn, nhận được rất nhiều thư
  của độc giả, cả nam lẫn và nữ, cô nhận ra rằng tâm lý của đàn ông thật lạ, cứ
  muốn phá hủy cái thứ mà họ kiếm tìm…  
      Trong ánh đèn ngủ mờ ảo,
  tôi thấy mặt Kim dường như nhăn lại vì đau đớn.  
      Cô kể tiếp:    
      - Rồi những cô gái ở nông
  trường xôn xao vì có một thành viên mới… Tuy họ không nói ra nhưng cháu cũng
  đoán hẳn là đó là một đàn ông còn trẻ hoặc đẹp trai, có một sức hấp dẫn nào
  đó. Cháu biết vì cách họ rất giống như mỗi khi xem phim hay thấy trên tivi có
  ai đẹp trai là họ trầm trồ, rồi ngẩn ngơ. Còn cháu, từ lần vấp ngã ấy cháu
  rất sợ những người đàn ông đẹp trai. Nhưng trong một lần tò mò cháu cũng tìm
  xem thử người ấy ra sao. Lúc ấy cháu thấy như đất sụt lở dưới chân, máu trong
  người cháu như đông hết lại. Cô đoán biết người ấy là ai không ?  
     Lúc đó cháu chỉ nghĩ được một
  điều, làm sao mình dẫn con tìm một nơi khác để sống. Nhưng  rồi cháu
  thấy mình làm vậy là hèn nhát, thế là cháu ở lại, nén hết mọi uất giận, khổ
  đau quặn trào để làm tốt công việc của mình. Cháu xem anh ta như không hề có
  mặt ở đó. Anh ta cũng giả lơ như không hề quen biết cháu. Có lần anh ta cùng
  ban lãnh đạo nông trường đến dự giờ thăm lớp đúng tiết dạy văn của cháu, cháu
  hoảng hốt vô cùng. Nhưng không hiểu sao thay vì mất bình tĩnh, cháu lại sôi
  lên, cháu đã dạy say sưa, hết mình giống như được hưởng một ân huệ cuối cùng
  trong đời. Sau tiết dạy, được mọi người khen quá trời nên cháu cũng có chút
  hả dạ. Nhưng khổ tâm nhất là những lúc vì công việc, họp hành cháu phải đối
  diện với anh ta. Rồi những lúc lớp mẫu giáo nghỉ, không có ai gởi con, con bé
  theo lẩn quẩn bên cháu, cũng may không ai nhận ra nó rất giống anh ta. Có lần
  cháu thấy anh ta len lén nhìn con bé nhưng không dám đến gần khiến cháu càng
  khinh. Và cháu quyết định xin chuyển đến một đơn vị khác nhưng không được ban
  giám đốc chấp thuận vì không có ai thay công việc của cháu, họ bảo chờ. Đến
  nước này cháu làm đơn xin nghỉ việc. Lúc ấy anh tìm gặp cháu và hẹn một buổi
  nói chuyện  riêng, cháu không đồng ý gặp nhưng anh vẫn cứ đến, cháu cứ
  ngồi như một cục đá, không thèm nói một lời... Chỉ mình anh ta nói. Những lời
  nói ấy như những nhát cuốc xới vào cái bờ mà lâu nay cháu cố công dựng lên
  quanh mình và cố thủ trong đó. Bao nhiêu thống khổ, nhục nhã như một túi bùn
  vỡ ục ra, tuôn tràn theo nước mắt. Sau đó về nhà cháu còn khóc rất nhiều.
  Nhưng rồi sau cơn khóc như thác lũ ấy lòng cháu trở nên khô cạn, vô cảm khi
  đối diện anh ta. Khi ấy trong con mắt mọi người, anh ta đang theo đuổi cháu,
  ai cũng nói vào vì cho rằng bọn cháu rất đẹp đôi. Đặc biệt là con bé quấn
  quýt anh ta  một cách kỳ lạ, cháu không thế hiểu nổi. Nhưng anh bảo rằng
  bây giờ anh đến với cháu không phải chỉ vì con mà vì anh bắt đấu thấy yêu
  cháu, một tình yêu mới, hoàn toàn khác trước, chính anh cũng bất ngờ vì điều
  đó. Anh bảo hôm đầu tiên dự giờ của cháu anh biết rằng phải tìm cách “cua”lại
  cháu… 
      Đứa con trai nhỏ ú ở trở
  mình tìm mẹ, Kim vội sang giường của hai đứa nhỏ lên tiếng dỗ con và cháu bé
  lại ngủ say. Trẻ con nằm ngủ trông thật đáng yêu. Ngắm nhìn con trẻ bao giờ
  cũng thật hạnh phúc. Tôi đưa ra một nhận xét mà từ lúc mới vào nhà đã nhận ra
  : 
      - Hèn chi hai chị em chúng
  trông rất giống nhau.  
  
  Kim cười: 
      - Ở đây ai cũng bảo hai đứa
  con cháu khác cha sao giống nhau như đúc. Nhưng cháu vẫn giấu điều bí mật ấy.
  Anh ấy bảo sau đợt đi công tác này về anh sẽ làm lại thủ tục khai sinh cho
  con bé để nó mang họ cha… Hồi đó cháu cho nó mang họ mẹ… 
       Vì thức quá khuya
  khiến tôi khó dỗ giấc ngủ trở lại, một phần vì lạ chỗ và câu chuyện của Kim
  khiến tôi cứ suy nghĩ, liên tưởng đến nhiều vấn đề. Tôi rón rén dậy uống nước
  trong khi Kim và hai đứa nhỏ ngủ say. Nằm xuống định cố ngủ một chút lấy sức
  để mai còn tiếp tục đi, tiếp tục cười giỡn nhưng tôi lại tỉnh hẳn khi trong
  đầu lóe lên một ý tưởng, đây là câu chuyện mình có thể viết để nộp theo đơn
  đặt hàng của trưởng đoàn như ngay từ đầu anh đã nói “Quý vị cố gắng nộp bài
  vào giữa tháng năm, trễ lắm là vào cuối tháng năm”. Vì thế mà tôi cứ im lìm,
  ra vẻ bí mật khi bị mọi người tra vấn “Đêm qua đi đâu vậy?”.  
15
  - 5 - 2008 | 
12 | 
| 
13 | 
      Sau tết
  Đoan Ngọ, vải chín ửng khắp vườn. Loại trái này vào cuối mùa tuy trái nhỏ hơn
  nhưng ngon ngọt hơn và màu chín hiện ra bên ngoài vỏ cũng đẹp một cách kỳ lạ
  bởi sự pha trộn màu không đều trải lên lớp vỏ xù xì khiến cho trái vải trông
  vừa ngon mắt, vừa ngon miệng ngay cả khi chưa bóc vỏ… Chưa có năm nào vải
  được mùa như năm nay. Ức Trai  tiên sinh ra lệnh cho đám gia nhân không
  được hái hết vải trên cành mà phải chừa lại trên khắp cả vườn, làm sao để cây
  nào trông vẫn trĩu quả. Không chỉ những loài hoa, mà vẻ đẹp của quả cũng
  khiến lòng ông hửng lên một niềm vui.   
          Từ
  ngày xa rời việc quan về ẩn dật nơi này, Ức Trai tiên sinh tưởng như thoát
  khỏi những phiền toái, phức tạp trong triều đình. Nhưng ông lại không thoát
  khỏi nỗi muộn phiền của lòng mình. Càng hòa mình vào thiên, quan sát cuộc
  sống của cây cỏ ông càng chiêm nghiệm sâu sắc về sự tồn vong, thịnh suy của
  cuộc sống, của một triều đại. Ông càng ngán ngẫm cho việc xâu xé, thu tóm
  quyền lực trong triều. Bao nhiêu công thần bị Lê Lợi bắt giam và bị giết,
  chính ông cũng bị người mà ông hết lòng phò tá ấy giam vào ngục tối, may mà
  giữ được mạng sống… Lâu nay tâm hồn ông có phần yên tĩnh hơn nhờ việc trước
  tác. Có lẽ đó chính là lối thoát, cũng là lúc ông được sống thật với con
  người của mình. Thi ca giúp tâm hồn ông trẻ lại, dạt dào cảm xúc. Năm nay
  tiên sinh gần  lục tuần, đã trót một đời người. Với dân thường, ở
  tuổi ấy, họ chuẩn bị lễ lên lão để sống cuộc đời của một ông già thực sự, an
  phận thủ thường, vui vầy với con cháu, với cảnh điền viên. Còn với ông, dù
  không cần làm lễ lên lão nhưng trong con mắt tôn kính của con cháu, của đám
  gia nhân, của dân chúng và những kẻ sĩ ưu thời mẫn thế, từ lâu ông đã là một
  ông già với tất cả sự cao qúy của nghĩa ấy vì những gì ông đóng góp cho sơn
  hà xã tắc. Một vị khai quốc công thần, một thi tài lồng lộng như sao Khuê, họ
  xem ông như một thần nhân. Với họ, Ức Trai tiên sinh là một con người ưu tú
  của dân tộc mà dễ đến cả trăm năm, thậm chí nghìn năm mới được sinh ra… Cũng
  có lúc Nguyễn Trãi muốn mình thực sự già đi, để dễ sống hơn. Chả là lâu nay
  ông tập trung vào việc soạn thảo Quốc Âm Thi Tập để răn dạy con cháu và người
  đời sống sao cho hợp đạo lý. Mọi đau khổ, bất hạnh của con người cũng do việc
  sống trái với Đạo mà ra. Đạo cũng chính là quy luật của cuộc sống vậy... 
         
  Nhưng sáng nay có một việc xảy ra khiến Ức Trai tiên sinh cảm thấy tâm hồn
  mình bị xáo trộn. Như mọi ngày, sau buổi trà sớm, ông thăm đám hoa kiểng của
  mình rồi vào thư phòng đọc sách. Giữa buổi ông nghỉ ngơi một lát rồi đi dạo.
  Hôm nay ông muốn ngắm cho thỏa vẻ đẹp của những trái vải cuối mùa. Là một
  nghệ sĩ, ông hiểu rằng Tạo hóa chính là người nghệ sĩ vĩ đại  nhất, sáng
  tạo đến vô cùng và tận tụy nhất. Ngoài kiệt tác là con người, Ngài đã kỳ công
  tạo tác ra mọi thứ với trí tưởng tượng và óc thẩm mỹ kỳ diệu. Từ hình dáng
  màu sắc của những bông hoa, chiếc lá, từng loại cây trái, đến từng vẻ đẹp của
  những con cá, con tôm sống dưới nước cũng đều hoàn hảo, hài hòa và không
  trùng lắp. Mỗi tạo vật là một tuyệt tác và chỉ được tạo ra một lần duy nhất…
  Một nét bút của Tạo hóa, cả nghìn năm con người chưa bắt chước nổi. Tiên sinh
  vừa đi vừa suy nghĩ miên man. Nắng sớm tháng năm rực rỡ, chan hòa khắp vườn
  khiến tâm hồn u uẩn của ông có phần ấm lại nên đi một lúc, có lâu hơn thường
  lệ ông vẫn chưa thấy mệt. Bất chợt ông nhìn ra phía cổng có một nữ gia nhân
  đang chọn chiếu để mua của một người bán chiếu rong. Chuyện này vẫn thường
  xảy ra nên ông không để ý và định lui gót, vào thư phòng tiếp tục công việc.
  Nhưng chưa kịp vào, người nhà mua chiếu ban nãy đến trước mặt ông vòng tay
  cung kính: 
- Thưa ngài, có cô bán chiếu con
  vừa mua còn đứng ngoài kia, thấy quả vải nhà mình nhiều và tốt quá nên xin
  ngài ban cho một ít, để cô mang về làm quà cho cha mẹ.  
Ông ngoái nhìn, quả là cô bán
  chiếu còn đứng đó, có ý chờ đợi. Ông định gật đầu, bởi vải chín trong vườn
  lâu nay ông thường sai gia nhân đem biếu cho họ hàng thân tộc, chiêu đãi mọi
  người là chính. Bỗng ông đổi ý: 
- Thôi, ngươi cứ mang chiếu vào
  nhà đi, để ta đem ra cho họ…  
         Trên
  chiếc đôn ngoài hiên, sáng nay ông lão bộc đã chọn sẵn một mâm vải quả được
  cột thành từng chùm rất khéo để chủ nhân đãi khách vào chiều nay. Nguyễn Trãi
  chọn hai chùm vải ưng ý nhất rồi đi nhanh ra cổng. Chính ông cũng ngạc nhiên
  khi nhận ra sự nhanh nhẹn khác thường ấy của mình, trái với phong cách chậm
  rãi thư nhàn của ông lâu nay. Bởi người con gái bán chiếu trong bộ áo tứ thân
  đơn sơ và chiếc khăn mỏ quạ sùm sụp trên đầu như mọi cô gái quê khác, nhưng
  là người nhạy cảm với cái đẹp nên tiên sinh nhận ra đó là dung mạo của một mỹ
  nhân, vóc hình trẻ trung và thon lẳn. Thấy ông, cô gái gần như run lên. Ức
  Trai tiên sinh, với một giọng nói âm vang nhưng dịu dàng và ân cần rất mực để
  cô gái khỏi sợ, ông bảo: 
- Đây ta ban cho …  
Ông ngập ngừng không biết gọi cô
  gái là “ngươi” hay “nàng”, bởi tuy vẫn còn run rẩy, người con gái đưa hai tay
  đón nhận chùm vải chín mọng như nhận một ân huệ từ bậc thiên tài. Đôi mắt đen
  dài lúng liếng dưới lần khăn kia nhìn ông e ấp nhưng không kém phần dạn dĩ,
  lẳng lơ, rung động của một người nữ nhìn người đàn ông, tuy lớn tuổi nhưng
  phong thái sang cả, uy nghiêm mà vẫn chan chứa tình, người mà cô từng nghe
  tiếng từ lâu, vả lại dinh cơ này của Nguyễn Trãi đại thần, người dân nào mà
  không biết. 
- Em xin tạ ân ngài… 
       Chữ em ngọt ngào ấy
  của cô gái trẻ đẹp như một dòng nước mát rót vào lòng tiên sinh, giữa cái
  nắng bắt đầu lên cao, oi nồng. Ông tự hỏi, chẳng lẽ trước mặt cô không phải
  là một vị đại thần già nua, một bậc hiền triết mệt mỏi với thế thái nhân
  tình? Tiếng “em” ấy khiến ông không thể quay vào ngay. Tiên sinh hỏi tiếp: 
-  Vậy quê cô em ở đâu … 
          Cô
  trả lời nhưng ông không kịp ghi nhớ vì bận tâm hỏi tiếp một câu nữa: 
         -
   Vậy năm nay cô em được bao nhiêu xuân xanh rồi? 
         - 
  Dạ thưa ngài, em vừa đến tuổi trăng tròn lẻ… 
    Ông hơi mỉm cười vì một cô bán chiếu
  cũng nói năng văn hoa gớm, chắc cô cũng biết ông là một nhà thơ. Cô này thông
  minh đây. Có thể nghi ngờ điều này, nhưng một điều ông chắc chắn, đó là cô
  gái đẹp, đẹp lắm. Đôi mắt đen láy, lấp lánh dưới một hàng mi rợp mát, làn da
  trắng nõn ửng hồng vì nắng. Chiếc yếm nâu, cũ và chật không ép được vồng ngực
  căng, đầy sức sống… Nhan sắc này nếu được sống trong nhung lụa, được kẻ hầu
  người hạ và nhất là được khai tâm mở trí bằng chữ nghĩa thì chẳng thua kém
  những bậc nữ lưu cao quý, những quận chúa, mệnh phụ phu nhân trong triều
  đình. Nghĩ thế ông không ngần ngại hỏi tiếp : 
        - Thế cô em
  được mấy con rồi? 
        Đôi mắt cô gái
  càng sáng lên khi được hỏi câu này, như một thí sinh được vị giám khảo hỏi
  đúng vào câu mà mình đã chuẩn bị kỹ: 
       - Dạ thưa ngài, em
  còn chưa có chồng, làm chi có con ạ. 
      Người hỏi cũng thấy hài
  lòng không kém gì người trả lời. Thấy đứng lâu ngoài đường, nói chuyện với
  một cô gái dân dã thế này không tiện nên Ức Trai tiên sinh đành phải từ biệt
  cô với lời dặn.  
        - Khi nào dệt
  được chiếu đẹp, mang đến cho ta xem nhé.    
          Quả
  là Ức Trai tiên sinh chưa bao giờ tự tay chọn chiếu cho mình. Dù cuộc đời ông
  từng trải qua thăng trầm, có lúc phải xa quê hương, khốn khó, không được sống
  đúng với vị thế cao quý của mình. Nguyễn Trãi sinh ra ở đất Thăng Long, mẹ
  ông là một tiểu thư dòng tôn thất, con gái yêu của quan Tư đồ Trần Nguyên
  Đán. Ông là kết quả của một cuộc tình duyên say đắm và dám vượt khỏi lễ giáo
  nghiêm khắc thời ấy. Mẹ ông lỡ có thai với người học trò nghèo, biết đó là
  một cái tội phạm thượng nên người học trò ấy phải trốn đi. Quan Tư đồ biết
  được và độ lượng tác hợp cho họ nên vợ nên chồng. Sau này cha của ông là
  Nguyễn Phi Khanh mới thi đỗ tiến sĩ. Nguyễn Trãi từ nhỏ được sống trong dinh
  phủ với ông ngoại. Trang viên rộng lớn, nơi Ức Trai tiên sinh lui về ẩn dật
  thường gọi là Lệ Chi viên cũng là cơ ngơi lâu đời của một giòng họ danh giá
  bậc nhất, là nơi vui thú khi quan tể tướng Trần Nguyên Đán về hưu. Vì thế
  việc Nguyễn Trãi đứng nói chuyện, ban tặng phẩm vật cho một cô gái bán chiếu
  ngoài đường, chưa biết rõ lại lịch khiến đám gia nhân xì xầm, đến tai cả con
  cháu ông.  
    Nỗi xao xuyến của Ức Trai trước
  cô gái đẹp tuy mãnh liệt nhưng ông nghĩ rằng việc ấy sẽ qua. Ông lại rơi
  vào nỗi cô đơn và chỉ chú tâm vào việc soạn sách, làm thơ là chính. Nhưng
  thật bất ngờ, chưa đến một tuần trăng sau, cô gái bán chiếu ấy lại đến và xin
  dâng lên Ức Trai tiên sinh một đôi chiếu rất đẹp. Gia nhân dâng lên cho ông
  xem, ông rất ưng ý nhưng khi gia nhân trả tiền cô không nhận. Nghe thế, tiên
  sinh bảo người nhà vào kho lấy ban cho cô một tấm lụa thì cô xin nhận. Lần
  này ông mới biết được tên cô, Nguyễn Thị Lộ và nắm rõ quê quán của cô gái.  
     Thị Lộ về rồi, mấy ngày sau
  Nguyễn Trãi chưa hết ngẩn ngơ khi nhận ra sự thay đổi của mình. Trong ông
  tràn dâng một sức sống mới, giống như thời trai trẻ. Vì sao? Vì trong đôi mắt
  cô gái ấy, tiên sinh thấy mình không già, cái cách liếc mắt đưa tình, cái
  cách e ấp làm duyên của cô khi đứng trước ông đã nói lên điều đó. Vẻ thanh
  xuân của cô như san sẻ bớt tuổi già của ông. Còn sắc đẹp ư? Đó quả là một
  liều thuốc thần cho hầu hết đàn ông. Người đàn bà đẹp thường khiến nỗi khao
  khát yêu đương ở đàn ông dấy lên mãnh liệt. Thảo nào không hề ngẫu nhiên mà
  hai chữ sắc dục lại đi đôi với nhau. Khi những cuộc gặp gỡ của Nguyễn Trãi và
  Thị Lộ mỗi ngày một nhiều thì người trong gia đình, những gia nhân, công bộc
  trung thành lâu năm, có người sống từ thời cụ quan họ Trần cũng tỏ ý bất mãn
  khi biết Ức trai tiên sinh định cưới một người vợ lẽ kém ông quá nhiều tuổi,
  chỉ đáng con cháu, lại xuất thân trong một giai tầng thấp kém, có lẽ bao đời
  không biết đến chữ nghĩa thánh hiền. Nhưng họ không không thể không công nhận
  rằng cô gái ấy có đủ tinh khôn, ma lực để làm Ức Trai tiên sinh mê mệt, bỏ
  qua mọi lời can gián. Trước khi đưa Thị Lộ về điền trang, để nâng cao giá trị
  cô gái sắp chung chăn gối với mình Ức Trai đã ra mấy câu thậm dở mà tương
  truyền là cuộc xướng họa đầu tiên giữa tiên sinh với Thị Lộ, để chứng tỏ
  người phụ nữ ấy cũng có thi tài. 
Cô ở đâu mà bán chiếu gon 
Hỏi thăm chiếu ấy hết hay còn 
Xuân xanh chừng độ bao nhiêu tuổi 
Chồng có hay chưa, được mất con? 
     Và bài họa cũng là của ông:  
Quê ở Tây Hồ bán chiếu gon 
Cớ sao ông hỏi hết hay còn 
Xuân xanh vừa độ trăng tròn lẻ 
Chồng còn chưa có, có chi con 
      Văn tài Ức Trai có thể chế
  tác ra những bài xướng họa hay hơn gấp nhiều lần, nhưng ông phải hạ thấp mình
  xuống như thế cho vừa với con gái dân dã, chỉ quen đối đáp trong những buổi
  ngồi dệt chiếu hay giã gạo …  
    Một người như Ức Trai tiên sinh, từng
  cùng Lê Lợi xây dựng đường lối chính trị, quân sự, đấu tranh ngoại giao với
  giặc, người từng thảo bản “Thiên cổ hùng văn”, được đời đời truyền tụng … thì
  việc thuyết phục những người thân, giúp họ vượt qua sự lo lắng, e ngại để ông
  lấy Thị Lộ chỉ là chuyện nhỏ. Và Thị Lộ đã không làm Ức Trai thất vọng, cô
  rất thông minh, tiếp nhận ngay được những bài học đầu tiên từ người chồng già
  dạy. Cô cũng rất thích thú với văn chương thi phú và những giai thoại văn
  chương. Có dịp đàm đạo với Thị Lộ, không ai nghi ngờ rằng, chỉ một thời gian
  ngắn, từ một cô gái bình dân, mù chữ đã lột xác thành một bậc nữ lưu quý
  tộc mà vẫn tràn đầy sức sống, sự sinh động của người lao động. Đó là nền tảng
  để sau này Nguyễn Trãi dám hạ mình xin cho cô được sung chức “Lễ Nghi Nữ Học
  Sĩ” trong triều, một thứ hư khoa vượt xa thực học của Thị Lộ, để tăng lên sự
  môn đăng hộ đối cho cuộc hôn nhân chênh lệch về nhiều mặt ấy. Có lẽ đó là lần
  đầu tiên và duy nhất trong đời Ức Trai làm một việc trái với lòng lành của
  mình, nhưng ông lại chặc lưỡi, tự đánh lạc hướng lương tâm rằng, việc ấy
  chẳng hại gì ai. 
      Mặc dù Ức Trai tiên sinh
  từng nhiều lần cưới vợ, như những người đàn ông cao sang, danh vọng thời ấy.
  Nhưng tất cả những bà vợ kia, tuy gốc gác danh gia vọng tộc hay bình dân thì
  họ đều có một đặc điểm rất giống nhau trong chuyện chăn gối. Đó là họ gần như
  hoàn toàn thụ động khi ái ân cùng chồng. Còn Thị Lộ, chỉ sau một thời gian
  ngắn làm vợ, người đàn bà trẻ này không chỉ biết hưởng ứng, hòa điệu cùng ông
  trong khúc nhạc ái ân mà còn biết cách chủ động, gợi tình và đẩy chồng lên
  cao trào… Có lẽ lâu lắm rồi, Nguyễn Trãi thấy mình sung mãn đến như vậy. Ông
  hài lòng người vợ trẻ về nhiều mặt, không như lo lắng của mọi người. Chỉ một
  điều tiên sinh lấy làm lạ, là từ khi về sống ở Lệ Chi viên, Thị Lộ chưa một
  lần về thăm nhà, dù ông có ý khuyến khích. Nhưng Thị Lộ vẫn tỏ rõ là một
  người con hiếu thảo. Nàng vẫn sai người mang bạc vàng về cho cha mẹ tu bổ lại
  nhà cửa, tậu thêm ruộng vườn, cưới vợ cho em. Khi nhà Lê vời Nguyễn Trãi ra
  làm quan trở lại, bổng lộc được phục hồi thì anh em, họ hàng Thị Lộ cũng hiển
  vinh theo, được phong chức quan lớn, quan nhỏ tùy theo mức độ thân sơ với
  mình. Trong ngoài Lệ Chi viên đều biết uy quyền và sự ảnh hưởng của Thị Lộ
  với quan Thừa Chỉ Viện hàn lâm Nguyễn Trãi. Bản thân nàng được lui tới triều
  đình nhờ chức danh Lễ Nghi Nữ Học Sĩ cũng có tác dụng tích cực tới vị trí của
  người chồng. Vị vua trẻ tuổi lúc ấy là Lê Thái Tông cũng say mê Thị Lộ, không
  chỉ vì vẻ yêu kiều mà còn vì sự thông minh, ứng biến tài tình của nàng.
  Nguyễn Trãi biết điều nhưng vẫn phải làm ngơ. Vả lại việc vì vua trẻ tuổi
  biết xét lại, biết công trạng, tài năng của ông đã xuống chiếu phục chức cho
  ông. Với Ức Trai đó là một ân huệ quá lớn, giải được phần nào oan ức lẫn minh
  chứng được danh dự của ông trong con mắt những người ganh ghét chỉ muốn vùi
  dập ông lâu nay. Ngay cả ông biết rằng, Thị Lộ, dù không có việc gì vẫn cứ ở
  lại trong cung nên có điều tiếng xì xầm, ông đắng lòng nhưng vẫn phải chịu
  đựng. Khi ra làm quan trở lại, tuổi cao, việc lớn, Nguyễn Trãi luôn muốn hết
  lòng với sự tín nhiệm của vua nên lúc nào cũng mệt mỏi vì làm việc quá sức,
  thức khuya, lao tâm khổ trí vì dân, vì nước, vì ơn cao dày của Thiên tử…
  Chuyện ấy không phải không ảnh hưởng đến khả năng chăn gối của ông, với một
  người vợ trẻ phơi phới xuân tình. Ông biết mình không đáp ứng đủ nhu cầu dục
  tình của vợ. Quan ngự y là người thân thiết với Nguyễn Trãi, có giúp ông bài
  thuốc nổi tiếng “Nhất dạ ngũ giao”, tiên sinh có dùng nhiều nhưng thực tế thì
  “ngũ dạ nhất giao” ông cũng không làm nổi. Thuốc thang nào cũng chịu thua
  trước luật sinh, lão...  Nên dù Thị Lộ ở đêm trong cung, nhiều khi ông
  lại thấy dễ chịu. Ngay cả trước đây, đám gia nhân xì xầm, khi có dấu hiệu của
  một tên trộm đột nhập vào Lệ Chi viên, hay rình rập ở khuê phòng của Thị Lộ,
  không chỉ một lần nhưng vì xem xét thấy không mất gì nên không làm to
  chuyện.  Chỉ có Ức Trai tiên sinh thấy lo trước việc bí ẩn ấy… 
*** 
     Mùa hạ năm đó, vua đi duyệt võ ở
  Chí Linh. Lệ Chi viên nhận được tin vui là trên đường trở về, nhà vua cùng
  đoàn tùy tùng sẽ nghỉ lại ở gia trang một đêm. Từ chủ nhân cho đến đám gia
  nhân của trang viên rộn rã trước vinh dự lớn lao này. Họ trang hoàng, giăng
  đèn kết hoa, tỉa tót cây kiểng, đánh bóng những bộ lư đồng và ướp xạ xông
  hương cho các gian phòng mà vua sẽ chọn để nghỉ đêm. Khi xa giá vua đến nơi,
  mọi người mới biết chuyến đi này không có thị nữ theo hầu, nếu có thì chỉ là
  những thị tì làm công việc phục vụ bên ngoài, nên không ai khác hơn để nâng
  giấc mình rồng là người vợ lẽ xinh đẹp của Ức Trai tiên sinh, vốn cũng là bạn
  tri âm của nhà vua trẻ lâu nay. Nhưng bất hạnh thay đó lại là giấc ngủ sau
  cùng của ngài.  
*** 
       Đó là một vụ án lịch
  sử, oan ức và đau lòng, làm ray rứt nhiều đời sau, cho cả người chết và người
  bị xử tội. Nguyễn Trãi và Thị Lộ bị kết án âm mưu giết vua, riêng Nguyễn Trãi
  bị tru di tam tộc.  
      Trong lòng thần dân và cả
  những đời vua Lê nối ngôi sau này đều biết Nguyễn Trãi bị oan. Một bậc anh
  tài, đức độ như ông giết vua để làm gì, ông không bao giờ có ý nghĩ ấy, cả
  lúc bị thất sủng. Thị Lộ thì càng không, vì đó chính là lúc cô gái quê, ít
  học nhưng đầy tham vọng ấy đạt đến đỉnh cao danh vọng, chỉ nhờ vào sắc đẹp và
  chút khôn ngoan, toan tính. Chính Thị Lộ làm một cuộc đổi đời nhanh chóng cho
  mình và cả giòng họ mình, họ hàng nhà cô ai mà không ngưỡng mộ và trĩu nặng
  ân sủng với bà phu nhân quyền quý vốn là con em của họ. 
       Khi Thị Lộ gánh chiếu
  đến Lệ Chi viên, cô đã hơn mười bảy tuổi, một năm trước đó nhà cô đã nhận lễ
  dạm ngõ của một người con trai nghèo cùng làng. Đó là một cuộc hôn nhân đặt
  để, như hầu hết những cuộc dựng vợ gả chồng thời ấy. Gã trai trẻ ấy khỏe
  mạnh, cao lớn nhưng Thị Lộ không ưng vì gã nghèo là lại có tính hung hăng di
  truyền. Cô từng biết cha gã đánh mẹ gã chết đi sống lại vì những lý do vu vơ,
  nhất là khi say rượu. Anh em gã cũng có cái thói vũ phu ấy. Nhạy cảm, khôn
  sớm, Thị Lộ biết mình đẹp và hiểu rằng đó là sức mạnh của nữ nhi, vì người
  đàn ông nào cũng háo sắc, càng giàu sang phú quý họ càng tăng thói háo sắc
  háo dâm.    
      Đã nhiều lần đi ngang Lệ
  Chi viên, Thị Lộ len lén nhìn vào chốn quyền quý ấy với một lòng thèm muốn vô
  hạn. Được sống trong ấy, dù với vị trí nào cũng là cao sang với mình lắm rồi.
  Cô  cũng biết tiếng vị quan lớn từng làm quan trong triều về đây ở ẩn
  lâu nay. Những  ông quan dù về hưu đều muốn có thêm vợ, khi người vợ
  trước già, cũ đi một chút là họ tìm vợ mới. Thị Lộ từng hy vọng vào nhiều
  cổng quan phủ khác hé mở cho mình nhưng cô chưa gặp may. Đó cũng không 
  phải lần đầu gia nhân của Lệ Chi viên ra mua chiếu hay đặt chiếu nhưng Thị Lộ
  không bao giờ thấy mặt được chủ nhân. Mỗi sáng, gánh chiếu ra đi, Lộ đều thắp
  hương khấn vái mong được gặp gỡ một người đàn ông quyền quý nào đó và được
  lọt vào mắt của ông ta.  
     Vận may đã đến với Thị Lộ khi cô
  gặp được một văn nhân vốn nhạy cảm với cái đẹp, dù cái đẹp ấy được dấu trong
  quần áo nghèo nàn. Việc Nguyễn Trãi muốn cưới cô làm lẽ khiến gia đình cô
  nghe như tiếng sét ngang tai.  Việc đó ngoài sức tưởng tượng nhưng họ
  cũng thấy ngay nguy hiểm cho cô gái. Hề, gã chồng chưa cưới của Thị Lộ biết
  chuyện này chắc chết cả nhà. Nhưng rồi nhờ có vàng bạc, họ cũng thỏa thuận
  được với Hề. Nhận mấy nén vàng, gã đồng ý nhượng vợ lại cho người khác. Mọi
  việc tưởng như êm đẹp, Thị Lộ về trang viên sống đời mệnh phụ. Thế nhưng
  thỉnh thoảng hắn vẫn tìm cách ghé qua nhà cha mẹ cô gây chuyện, nhằm kiếm
  thêm mấy nén bạc để uống rượu. Nếu không hắn dọa sẽ đến trước trang viên, nói
  cho mọi người rằng Thị Lộ là quân lộn chồng. Dù gì cũng đã ăn đồ dạm ngõ của
  hắn.  Chính vì thế mà từ khi về nhà chồng, Thị Lộ dù rất nhớ cha mẹ cũng
  không dám bén mảng về thăm. Cô luôn nằm mơ thấy mình mặc áo thêu, đeo vòng
  ngọc, ngồi trong kiệu hoa lộng lẫy, có kẻ hầu người hạ về quê, cho dân làng,
  phường bạn dệt chiếu, bán chiếu ngày xưa của mình lác mắt. Nhưng đó cũng chỉ
  là trong mơ. Thị Lộ luôn sợ gặp lại Hề. 
     Vàng bạc cũng không làm nguôi mối
  hận mất vợ ở Hề. Có lần hắn lén trèo vào trang viên, tìm đến khuê phòng của
  Thị Lộ, nhưng bị động hắn tìm cách thoát nhanh. Như bị ma quỷ dẫn đường, dù
  sợ nhưng  gã cũng cứ mò đến gia trang. Nhiều lúc gã rình thấy được cảnh
  vợ chồng họ ân ái, hắn điên lên muốn nhào vô bóp cổ Ức Trai cho rồi,
  nhưng nghĩ lại hắn không dám. Từ đó Hề thông thuộc lối vào ra trang viên
  một cách an toàn. Thị Lộ cũng linh cảm có hơi hướng Hề bên ngoài phòng loan
  nên luôn đề phòng, sợ Ức Trai tiên sinh biết sự thật. Chính những lúc vào
  cung là lúc Thị Lộ thấy yên ổn nhất, lại được ở bên mình rồng, một vị vua
  trai trẻ, phong tình.  
     Hề biết sẽ có việc lớn ở Lệ Chi
  viên, khi thấy nơi ấy giăng đèn kết hoa. Rồi cảnh binh mã rầm rộ xuất hiện,
  binh lính kiểm soát chặt chẽ khắp nơi, các vị quan địa phương ra lệnh cho
  người dân không được bén mảng đến  gần trang viên. Nhưng từ xa trên một
  đồi sim, Hề cũng nhìn thấy xa giá cùng đoàn tùy tùng của vua xuất hiện với
  trống đánh cờ giong rợp trời. Không  kìm được tò mò, đêm khuya hắn len
  qua những bụi rậm, vườn cây mò dần đến trang viên. Lúc ấy bọn lính hầu ngủ
  gục. Như một con rắn, hắn trườn vào theo lối bí mật quen thuộc của mình,
  không một tiếng động. Tất cả như chìm trong giấc ngủ, duy chỉ  trước một
  sảnh lớn có hai người lính đứng gác. Hắn biết đó là nơi vua nghỉ ngơi. Hề men
  qua khuê phòng của Thị Lộ, không có nàng ở đó. Còn ánh đèn trong thư phòng,
  hóa ra Nguyễn Trãi còn thức đọc sách. Vậy Thị Lộ ở đâu? Trong thâm tâm, người
  đàn bà ấy vẫn còn là của hắn. Hề thấy như sôi lên. Như một cái bóng, hắn liều
  lĩnh vòng ra phía sau căn phòng có lính gác. Qua khe của chiếc cửa sổ tròn
  nhỏ, bằng gỗ chạm trổ hình chim hạc rất tinh xảo, nhìn vào, hắn  thấy
  một cảnh mà nếu sau đó còn sống, hắn sẽ nhớ đời. Mình rồng đang ở trần trùng
  trục, phủ lên thân thể ngọc ngà của Thị Lộ, cũng không một mảnh vải che thân.
  Cả hai người ra sức tận hưởng lạc thú với tiếng kêu phát ra từ Thị Lộ như
  tiếng mèo cái lúc động đực. Thù hận, ghen tuông, hắn lồng lộn như một con
  thú, chỉ muốn cắn xé tình địch, còn hơn lần từng nhìn thấy Nguyễn Trãi và Thị
  Lộ trong một cảnh tương tự. Từ lần ấy hắn luôn mang theo một liều độc dược
  trong người, để dành khi cần đến. Nhưng  sau đó Thị Lộ vào cung, hắn
  chưa có dịp gặp lại cảnh đó, đủ để kích thích lòng ghen tuông cho hắn dám
  nhúng tay vào tội ác. Lần này thì hắn bắt gặp vua với nàng, cái cách dâm ô
  của nàng mới ghê gớm làm sao. Hắn gầm lên trong lòng “Con dâm phụ!”. Hắn nhìn
  xuống ngạch cửa, hắn biết quá rõ bề cao cái ngạch cửa này, chỉ khoảng hơn một
  gang tay. Hắn thử một lần rồi. Nhưng hôm nay sức ép của hận thù khiến hắn ép
  mình nhỏ lại một cách không ngờ. Hai kẻ say sưa trong hoan lạc nào có
  hay gì, vả lại họ yên tâm có lính gác, đây là một vùng đất thái bình trong
  một triều đại đang thời thịnh trị. Lọt vào được bên trong rồi, ngồi thụp
  xuống trong một góc, Hề nhìn thấy cái bình ngọc và chén ngọc trên bàn, Hề
  hiểu đấy là đồ dùng riêng của vua, lập tức hắn lấy ra trong người một cái gói
  nhỏ bằng đầu ngón tay, mở mấy lớp lá chuối khô, rồi rắc thứ bột màu xám vào
  bình, vào chén. Loại độc dược này chỉ cần lỡ vấy ngón tay cho vào miệng cũng
  đủ chết người. Xong việc nhưng hắn không thể chui ngạch trở ra được, hắn
  thấy mình to lớn quá. Không sao, hắn nhanh trí đến cửa sổ, nhẹ nhàng hất cái
  then gỗ, vọt ra và biến đi trong đêm tối.   
    Xét xử vụ án này, các quan lớn, quan
  nhỏ của Tòa Đại Hình đều biết Nguyễn Trãi bị oan. Suốt đêm ấy ông đọc sách và
  ngủ thiếp đi vào lúc sáng sớm. Vả lại không  ai dại gì lại để vua chết
  tại nhà mình. Nhưng tang chứng khá rõ ràng là nhà vua có dấu hiệu bị đầu độc.
  Ai hại ông? Bởi Ức Trai tiên sinh không dù phải được tất cả mọi người yêu
  mến, vì người tài thường bị ghen ghét, nhưng ai cũng nể phục tài năng,
  đức độ của ông. Chỉ trừ ông có cái tội quá yêu những phụ nữ đẹp, nhưng
  đó là chuyện chung của các đấng mày râu, ai mà nỡ ghét.  
     Những ngày cuối cùng trong ngục
  chờ ra pháp trường bị xử trảm cùng với ba họ, Nguyễn Trãi suy nghĩ nhiều về
  công, về tội của mình. Ông thấy mình không có lỗi gì với dân, với nước. Suốt
  cuộc đời ông đã dốc sức, hết lòng cho sự độc lập của sơn hà, sự thịnh vượng
  của xã tắc. Tư tưởng nhân nghĩa của ông luôn hướng về nhân dân. Nhưng một
  thiên tài, một bậc minh triết như ông phải thọ tội, một trọng tội thế này ắt
  ông đã phạm một sai lầm cực lớn. Rồi ông cũng lờ mờ nhận ra rằng một bậc văn
  tài như ông phải giúp triều đình dựng nước, chăn dân là đúng. Nhưng ông
  sai khi ra tham chính, làm quan, hưởng bổng lộc của triều đình, đứng về phía
  nhà cầm quyền và thân thiết với họ. Mà lẽ ra vai trò cao quý của ông, một nhà
  văn hóa lớn, phải là đối trọng với người nắm giữ quyền lực trong tay, để cảnh
  tỉnh, giúp họ thấy được những cái sai của mình mà sửa. Cái sai thứ hai của
  ông, là khi tuổi đã cao, sức đã xuống đi lấy một người vợ quá trẻ, chỉ đáng
  tuổi con cháu, lại thiếu một nền tảng văn hóa lẫn giáo dục từ tấm bé. Hai
  điều sai lầm ấy đã đưa ông đến mối bất hạnh khủng khiếp nhất của một kiếp
  người. Nhận ra điều đó, lòng Ức Trai tiên sinh thanh thản hơn, ông hiểu rằng
  mọi sai lầm đều phải trả giá. Trong những khoảnh khắc cuối cùng, giấc ngủ trở
  nên bình yên và hồn mộng của Nguyễn Trãi thường trở về Lệ Chi viên, với những
  ngày tháng u nhã và thái hòa, được sống với thơ, có hoa cỏ làm bầu bạn … | 
 
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét