Thứ Tư, 18 tháng 3, 2015

Huế, Trận đánh Mậu Thân – Chương 3: Bắt đầu đánh chiếm từng nhà Ty Ngân Khố và Bưu Điện (3)






Vài lời trình bày:
Trước khi vào Chương 3, tôi xin nói vài điều về trường hợp tôi.
            Các Thủy Quân Lục Chiến Mỹ đã núp ở phía trường Trung Học Đệ Nhị Cấp Bán Công Huế để tấn công vào Ty Ngân Khố (người Huế thường gọi nôm na là Kho Bạc). Một người lính TQLC Mỹ, 19 tuổi, đã tử trận ở sân cỏ của ngôi trường nầy.
            Đây là ngôi trường tôi đã dạy học ở đó 10 năm. Sau khi tình hình an ninh vãn hồi, tôi đi dạy lại, và được nghe ông cai trường thuật lại cái chết của người lính ấy, một cái chết rất đáng thương.
            Khung cảnh của trường sau trận đáng năm Mậu Thân, làm cho một nửa học trò của tôi, trai cũng như gái, đeo khăn tang khi đi học trở lại. Đó là lý do khiến tôi “tự ý bỏ viên phấn đi cầm súng”.
            Cũng vì câu chuyện đó, tôi đặt thêm cho Chương 3 nầy một đầu đề mới:
“Người Lính Mỹ Chết ở Sân Cỏ Trường Bán Công  Huế”.
kính cẩn.
Phần 1:
Của người dịch.
            Tôi học đại học năm đầu tiên vào niên khóa 1958-59, sau ba năm làm precepteur tại nhà một người bà con. Rời khỏi nơi sống tạm nhưng khá yên ổn ấy, nỗi lo cơm áo hằng ngày đè nặng lên vai tôi. Tôi ở lang thang nhiều nơi, tìm những nơi nấu cơm tháng rẻ nhứt, chỗ ở rẻ nhứt vì tôi không tìm ra một công việc gì khác có thể giúp tôi, ngoại trừ một ít tiền nhuận bút nhờ cộng tác với tờ Rạng Đông của giáo sư LHM. Những người đã có uy tín trong giới báo chí còn chưa sống nỗi với nghề cầm bút, huống gì tôi, mới chỉ là một “Mầm non văn nghệ”. Tôi mong cho chóng tới hè để về quê, thị xã Quảng Trị, sống với mẹ, bớt lo chuyện cơm áo.
            Nhưng niên học tới, gánh nặng đè trên vai tôi lại có phần gia tăng. Mẹ tôi đã già, muốn nghỉ việc. Các anh chị đều có gia đình riêng. Tôi có ba đứa em: Hai đứa em gái, một cô đã lấy chồng, tạm yên phần nó. Một đứa vừa thi hỏng trung học, nói: “Sang năm em ở nhà, tự lo học để thi lại”. Riêng “Hùng móm” mới vừa đậu trung học, hạng bình. Trước mặt anh chàng nầy, ngôi trường Quốc Học mở ra tươi sáng, đang chờ anh ta bước vào. Việc ăn ở học hành của Hùng là gánh nặng trên vai tôi, ngoài phần tôi tự lo cho bản thân mình.
            Gần hết hè, tôi vào Huế sớm để kiếm một chỗ dạy học. Lúc bấy giờ, tôi có thể xin bổ dụng làm giáo sư dạy giờ tại một vài trường trung học xa Huế. Nhưng ngay tại Huế thì không có nhu cầu. Tôi không thể xa Huế, một là vì việc học của Hùng cần có tôi bên cạnh, hai là tôi cũng không muốn gián đoạn việc học của tôi vì phải đi xa. Tôi không quen ai, thấy khó xin một ít giờ dạy tại các trường tư ở Huế. Tôi có nhờ giáo sư LHM xin dạy ít giờ ở trường Bình Minh gần cầu Thanh Long do cha Lập làm hiệu trưởng, nhưng khi tôi gặp ông ấy lần thứ hai thì ông lắc đầu, không hy vọng gì. Trước tình trạng bế tắc như thế, tôi làm một cái đơn, một bức thư thì đúng hơn, kể lể hoàn cảnh của tôi và xin dạy ở trường Trung Học Đệ Cấp Bán Công Huế. Đây là trường Đệ Nhị Cấp, chỉ có mấy lớp Đệ Nhứt Cấp, làm sao tôi có thể có giờ dạy ở đây được. Nhìn thành phần giáo sư ở đây, tôi thêm thất vọng. Toàn là những bậc “Lão Tiền Bối”: Cụ Đinh Thành Chương, cụ Lâm Toại, cụ Lê Trung Chi, các ông Cao Xuân Lữ, Trần Điền… là những bậc thầy của tôi.
            Chẳng qua, trước tình trạng không có lối thoát, tôi chỉ làm một công việc cầu âu.
            Tôi không có nhà ở Huế, mượn tạm địa chỉ người chị dâu tôi để tiện liên lạc. Một tuần lễ sau, khi tôi ghé lại nhà chị tôi, Mỹ Châu, cô em gái của chị, hỏi tôi:
            – “Trường Bán Công kêu anh đi dạy, anh biết chưa?”
            Tôi nói chưa. Cô ta bảo:
            – “Anh qua trường gấp đi kẻo người ta mời người khác mất”.
            Tôi đạp xe thật nhanh đến trường. Đoạn đường dài ba cây số bị nuốt đi thật nhanh. Khi tôi dựa chiếc xe vào vách tường, bác cai trường chưa kịp khóa cổng thì tôi đã nhảy ba bước đứng ngoài hành lang. Tôi vuốt lại tóc, sửa lại cái áo trắng hơi ngã màu “cháo lòng”, vuốt lại cái quần kaki màu xanh biển, lấy khăn tay chùi bụi bám vào đôi giày “xăng-đan” cũ, bước vào cửa chính. Trước mặt tôi là ông Nguyễn Văn Hai, một người đang mang trên vai một lô chức vụ: “Giám Đốc Nha Đại Diện Giáo Dục”, “Dân Biểu Quốc Hội” và Hiệu Trưởng ngôi trường nầy. Tuy nhiên, tôi cũng không ngại lắm vì mấy năm trước, ông ấy là hiệu trưởng trường Quốc Học (khi ấy còn mang tên Khải Định) và tôi đã gặp ông vài lần vì công việc báo chí của trường. Tôi đứng thẳng, chào: “Thưa thầy!”
            Bên cạnh bàn ông, ông Châu Trọng Ngô, giáo sư Toán của tôi mới chỉ cách đây hơn một năm. Hai người đang thảo luận công việc gì đó. Ông Hiệu Trưởng nhìn tôi hỏi:
            – “Cậu là Hoàng Long Hải?”
            Tôi trả lời: “Thưa thầy, vâng”.
            Ông ta nói: “Cậu chờ ta một chút”. Tôi thấy hơi vui. Biểu chờ tức là còn có hy vọng. Với những học trò ông có cảm tình, ông thường tự xưng ông bằng “ta”.
            Chưa đầy một phút, ông ta ngưng thảo luận với ông Châu Trọng Ngô, hỏi tôi:
            – “Cậu học gì bên đại học?”
            – “Thưa thầy, con học luật và văn khoa”. Tôi nói theo đúng lễ nghĩa hồi ấy: Gọi bằng thầy và xưng con, dù thầy còn trẻ.
            Ông ta nói ngay:
            – “Học làm chi cho nhiều. Bỏ văn khoa đi. Học luật thôi, sau dễ kiếm việc. Học luật dễ lắm, chỉ cần một tháng trước ngày thi, học riết vào mà thi, còn cả năm lo đi dạy”.
            Ngưng một chút, ông ta nói tiếp:
            – “Hiện có ba lớp Việt Văn Đệ Ngũ, hai lớp Việt Văn Đệ Tam, cậu dạy hết đi. Được không?”
            Tôi mừng khấp khởi. Chừng đó giờ dạy, đủ cho tôi và hai đứa em sống và học hành thoải mái. Tôi trả lời:
“Thưa thầy, được”.
            Cụ Võ Mão, giám thị, ngồi phía bàn của cụ, nhìn ngang với bàn hiệu trưởng, nói:
            – “Chút nữa có hai giờ ở lớp Đệ Ngũ 2. Thầy coi có dạy ngay được không. Không thì tôi cho học trò về”. Ngưng một chút, ông cụ nói tiếp: “Học trò về giữa buổi là phiền lắm”.
            Tôi vội trả lời:
            – “Tôi dạy được!”
            Ông Châu Trọng Ngô, giáo sư, còn đứng bên cạnh bàn ông Hiệu Trưởng, e ngại hỏi:
“Hải xem có dạy được không? Chưa chuẩn bị gì cả”.
            Tôi là học trò của ông, biết tính ông rất cẩn thận, bài dạy ông soạn rất kỹ nên ông ta mới nói thế. Tôi trấn an:
            – “Không can chi thầy. Vô lớp, giảng lại chương trình cho học trò, giới thiệu sơ qua những tác phẩm, tác giả sắp sửa học cũng đã cả tiếng đồng hồ rồi. Rồi còn chuẩn bị cho bài mới, có lẽ không dư giờ bao nhiêu”.
            Ông ta nói, vẫn giọng ôn tồn muôn thuở:
            -“Vậy thì Hải vào phía trong uống nước, chờ chuông reo thì theo cụ Mão vào lớp”.
            Sau nầy tôi nhận ra rằng tôi được giao nhiều giờ dạy chẳng phải tôi tài cán gì cả. Ông Nguyễn Văn Hai, Hiệu Trưởng là người quê ngoại ở Quảng Trị, họ Hồ làng Cổ Thành. Ông rất thương những người cùng quê mẹ của ông. Có lần ông nói với tôi: “Học trò Quảng Trị thuộc vùng giới tuyến, đất đai nghèo nàn lại bị chia cắt. Tâm lý chúng phức tạp, nghịch ngợm, ưa phản kháng nhưng học chăm”.
            Tôi vào phòng uống nước, vuốt tóc lại cho gọn, rồi lấy ly uống nước trà. Nhìn lên tấm gương soi, tôi thấy thích thú bởi một câu ai viết một cách nắn nót, cẩn thận dán lên phần trên cùng tấm gương soi: “Sĩ phu ba ngày không đọc sách, soi gương thấy mặt đáng ghét, nói chuyện lạt lẽo khó nghe”. – Hoàng Đình Công. Tôi cũng là người mê sách. Khi chuông reo đổi giờ, tôi bước ra cửa chính văn phòng. Cụ Mão đứng chờ tôi ở đó, tôi theo cụ lên lầu trên. Lớp Đệ Ngũ 2 ở ngay giữa lầu.
            Khi tôi đưa mắt nhìn quanh lớp thì học sinh ngưng không thì thào nói chuyện nữa. Tôi không “khớp” nhưng hơi ngại. Học trò Đệ Ngũ, khoảng từ 13 đến 15, 16 tuổi, kém tuổi thầy không bao nhiêu. Xem ra thì có mấy anh lớn con ngồi phía sau cùng còn hàng đầu có hai chị em CTTN. Minh Nghĩa và Bửu Trí nhỏ tuổi và nhỏ con nhứt, ngồi lọt thỏm trong cái ghế Macadi (Học trò ở đây ngồi ghế Macadi như ở đại học) trông như con gấu vải đặt vào cái ghế nhỏ trong phim ciné.
            Tôi nói sơ qua về bài giảng sắp tới và nói chuyện thơ về “Phong trào thi ca lãng mạn tiền chiến” cho học trò nghe. Ai nấy đều im lặng. (Xem “Một Chút Tình Thu”) Khi tôi bắt đầu nói tới “Cõi âm trong thơ”thì chuông reo hết giờ. Tôi phủi phấn bảng bằng cách xoa hai bàn tay vào nhau, chuẩn bị bước ra khỏi phòng. Không vở, không sách, không một mảnh giấy, suốt hai giờ nói chuyện thơ, tôi hơi mệt. Một học sinh ngồi ở đầu phòng nói vừa đủ nghe: “Đi dạy hai tay không, như một nghệ sĩ”. Câu nói đó ám ảnh tôi suốt mấy năm, nhứt là nhiều khi tôi vào lớp với hai tay không và khi xem bức hí họa trên báo Sổ Tay Sư Phạm do Đ.C. vẽ. Câu chú thích trong hình vẽ là: “Thầy giáo phải là một kịch sĩ”. Tôi nghĩ khác thế. Nếu là một thầy giáo dạy môn văn chương, thì thầy phải là một nghệ sĩ chứ không hẵn là kịch sĩ mà thôi. Kịch sĩ còn có đạo diễn. Nghệ sĩ là người tự mình làm đạo diễn cho mình, bằng tâm hồn của mình. Và cái tinh hoa của “người xưa” được diễn đạt lại cho “người đời sau” bằng tâm hồn nghệ sĩ ấy. Những người học với tôi giờ đầu tiên chiều hôm ấy, sau nầy, trong lĩnh vực văn học, báo chí có người rất thành công: Đó là nhà thơ Hoàng Xuân Sơn, nhà báo Ngô Vương Toại, nhà văn Hoàng Ngọc Tuấn, và một số người thành công trong lãnh vực khoa học kỹ thuật.
            Tôi tưởng tôi chỉ dạy ở ngôi trường nầy vài năm sau khi tôi học xong và “Hùng Móm”, em tôi vào đại học, có thể tự lo liệu cho Hùng được. Thế mà cuộc đời đưa đẩy, tôi dạy ở đây mười năm. Trong thời gian ấy, năm nào tôi cũng chuẩn bị một chuyến rời trường đi xa, nghe như có tiếng gọi giang hồ ở cuối thiên nhai mà không đi được, cho đến Tết Mậu Thân.
            Sau tết Mậu Thân, học trò lục tục đi học trở lại. Nhìn bọn chúng, tôi bỗng mất tinh thần. Lớp nào cũng vậy, hơn một nửa nam sinh mang băng tang đen trên áo còn nữ sinh thi bịt “khăn chế” ngang đầu. Đứa mất cha, đứa mất anh, đứa mất chị… Con gái tuổi 15, 17 quấn khăn tang ngang đầu là một hình ảnh đau đớn não nề. Câu thơ của Xuân Diệu “Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang” chỉ có thể là cái đẹp trong văn chương, còn trong đời thực đó là một hình ảnh đau thương xoáy vào tận đáy lòng nhân ái.
            Đi dạy lại chưa đầy một tuần, tôi bỏ lớp xuống văn phòng, nói với anh Ấu Đức Tài, hiệu trưởng, rằng tôi nghỉ dạy, chuẩn bị nhập ngũ. Ai cũng chưng hửng vì tôi đang được hoãn dịch. Mấy người bạn thân xúm lại hỏi tôi, tôi không nói thẳng ý tôi là “muốn chống Cộng bằng bóp cò súng chứ không bằng phấn bảng” (Câu tôi hay nói đùa với bạn bè) vì sợ mất lòng họ, cho họ là không “gan” như mình, nhưng ai cũng cho rằng tôi điên. Bỏ dạy trình diện nhập ngũ trước khi hết hạn kỳ hoãn dịch, mà còn có thể xin tái hoãn dịch được nữa, là một hành động điên rồ.
            Tôi gọi điện thoại cho người em rể đang làm việc ở Quân Y Viện Nguyễn Tri Phương, hẹn có rảnh lái xe qua đưa tôi vào trình diện phòng Tuyển Mộ Nhập Ngủ Thừa – Thiên / Huế.
            Trong khi chờ người em tới, tôi bước ra bãi cỏ trước sân văn phòng. Thợ hồ đang xây lại chỗ tường bị bắn thủng, phía ngó qua bên kia đường Hoàng Hoa Thám là Ty Ngân Khố.
            Bác Nguyễn Tốn, cũng quê ở Quảng Trị, cai trường, đang đứng đó, kể cho tôi nghe:
            – “Một thằng lính Mỹ rất trẻ chết ngay chỗ ni (nầy)”.
            Thấy tôi đưa mắt hỏi, bác nói tiếp:
-“Từ chỗ ni, nó phóng qua cái lỗ ni, qua bên tê (kia) đường. Nó bị đạn bắn vô đầu. Một thằng khác cỏng nó về đây, rồi nó nằm chết ngay chỗ ni, trên cỏ”.
            – “Sao bác biết rõ vậy?” Tôi hỏi.
            Bác cai trường nói:
            – “Mấy bữa đó, tui với vợ con tui núp phía sau “ga-ra”. “Ga-ra” ni mái đúc, không sợ pháo kích. Một thằng lính Mỹ còn trẻ lắm, khoảng 18, 19 tuổi, buổi sáng hôm nớ (ấy) nó ngồi nghỉ ở con đường hẽm giữa “ga-ra” với lớp Đệ Nhị. Nó ngồi dựa lưng vô tường, tay cầm tấm hình, nó gọi chi đó, rồi khóc. Tôi hỏi thằng con trai tui. Thằng con tui nói: “Nó kêu mạ ơi! “Hi! Mom”. Tiếng Mỹ là “mạ ơi” đó. Có lẽ người trong hình là mạ nó”. Một lúc sau, thấy mấy đứa dỏ (nhỏ) con tui lấp ló, nó kêu lại cho mấy miếng “sô-cô-la”. Rồi lấy mấy hộp thịt hộp, mứt, cho mấy đứa dỏ. Thấy mấy đứa dỏ còn thèm, nó nói hết rồi, còn hẹn ngày mai đem cho nữa.
            “Nhưng khoảng xế trưa thì có lệnh tấn công Việt Cộng núp bên Ty Ngân Khố. Nghe lệnh, thằng lính leng teng chạy ra, mình mang balô nặng trịch. Nó theo mấy thằng tê, chui qua lỗ hàng rào, phóng qua bên tê, rồi bị đạn vô đầu. Thiệt tội nghiệp cho thằng lính Mỹ, chết còn quá trẻ!
            Người xưa nói: “Nhân chi tương tử, kỳ ngôn giả thiện”. Thằng lính Mỹ không biết văn chương, không nói một cách bóng bẩy như Lưu Bị. Nó vừa khóc gọi mẹ vừa chiến đấu. Nó gọi bằng một lời chân thật nhứt: “Mom”. Đó là tiếng gọi Mẹ. Mẹ là nơi người ta sinh ra mà cũng là nơi người ta trở về. Mẹ là chân nguyên. Ra đi từ nơi mẹ, là ra đi từ chân nguyên, và chết là trở về với chân nguyên, với mẹ. Số phận con người! Đáng thương thay!
            Thằng lính Mỹ bên kia Thái Bình Dương qua chết nơi nầy. Chết cho ai? Cho quyền lợi tư bản Mỹ, cho quyền lợi của nhân dân Mỹ, hay cho quyền lợi của nhân dân Miền Nam Việt Nam. Nhìn vào lăng kính nào chúng ta cũng thấy có lý và không có lý cả, nhưng nếu nhìn vào mặt nhân bản thì những cái chết của người lính Mỹ trên đất nước nầy, hay của chính người lính miền Nam chết ngay trên quê hương của họ, há không phải là để bảo vệ tự do, chống lại một chế độ độc tài tàn ác hay sao? Và không ít những người học trò của tôi, nghe theo lời thầy dạy trong câu thơ “Chinh Phụ Ngâm”: “Xếp bút nghiên theo việc đao cung” đã bỏ mình trên chiến trường đâu đó.
            Trong ý nghĩa bảo vệ tự do, chống lại một chế độ độc tài tàn bạo thì những cái chết đó là có lý tưởng, là những hy sinh cao cả thật sự, vinh quang thật sự cho cả nhân loại chứ không phải chỉ riêng cho ai, cho một dân tộc nào. Đó cũng là ý nghĩa của sự gần gũi giữa những người khác màu da, khác chủng tộc đứng chung một chiến tuyến vậy.
            Trong suy nghĩ đó, tôi bước lên ngồi trên xe để người em rể đưa đi trình diện nhập ngũ, nghe như có lời kêu gọi của một chuyến phiêu bạt phương xa, mà lòng không còn một chút đắn đo, suy nghĩ.
                                                                                                                Người dịch
Phần 2: Dịch từ sách của Keith W. Nolan
Các đồng sự nói rằng trung tá Ernest C. Cheatham, Jr. là sĩ quan khéo léo nhứt mà họ đã từng phục vụ. Đó là điều họ muốn nói tới ông ta.
Ông ta người cao lớn, 6 fít, một cựu cầu thủ bóng bầu dục chuyên nghiệp, hăng hái, tài ba, can đảm của một cấp chỉ huy quân đội. Ông là người có trách nhiệm cao theo phương cách của tướng Patton (thường gắn cặp kính che mắt trên mũ sắt), ông ta quan tâm sâu sắc đến các TQLC trẻ dưới quyền chỉ huy của ông. Trong tiểu đoàn người ta gọi ông là Big Ernie.
Ông ta bị vỡ mộng. Ba trong bốn đại đội của ông: Fox, Golf và Hotel đang chiến đấu ở Huế. Trong khi ông ta thì bị kẹt lại ở Phú Bài mà không biết việc gì đang xảy ra cho binh sĩ của ông. Ông ta quấy rầy Trung Đoàn Trưởng, đại tá Robert D. Bohn, và cuối cùng, ngày 3 tháng Hai, ông ta được lệnh nắm lại tiểu đoàn. Họ tổ chức một đoàn xe. Cheatham và trung sĩ tham mưu trên một chiếc xe Jeep, ban tham mưu tiểu đoàn thì chen nhau trên những chiếc xe Jeep có gắn máy truyền tin. Lính bổ sung, ban Chỉ Huy, Đại Đội Công Vụ, Văn Phòng thì lên xe GMC. Một chiếc có trí súng đại liên 50 đi đầu để giữ an ninh. Cũng trên GMC trong chuyến đi có đại tá Stanley Smith Hughes, vừa mới được chỉ định làm Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn TQLC số 1, chịu trách nhiệm chỉ huy và kiểm soát Lực Lượng Đặc Nhiệm thành phố Huế.
Đoàn xe tiến ra QL. 1, lên hướng bắc vào lúc sáng sớm. Lại cũng là câu chuyện cũ: Bầu trời xám xịt, không có dấu hiệu gì về phía địch, không có bóng người. Họ vượt qua sông Phú Cam (An cựu), hướng về phía MACV và bị quân CSBV tấn công. Từ trong các tòa nhà, AK-47 bắn ra như mưa. TQLC 1/ 1 ở một bên, bắn trả. Đoàn xe tiếp tục di chuyển. Một chiếc xe Ontos trên đường bị giật mạnh vì trúng đạn B-40. Phía tay mặt súng bắn dữ hơn, phía sau là gần nhà thờ công giáo.
Khoảng 1 giờ chiều, họ vào tới MACV.
Đại tá Hughes gọi ngay Gravel và tức thời lập bộ chỉ huy trong câu lạc bộ sĩ quan trong MACV. Hughes là người được chọn đúng để chỉ huy cuộc hành quân. Quê ở tiểu bang Nữu Ước, người chắc nịch, da hơi đen – có mang huyết thống da đỏ – ít nói, thân mật. Năm 1944, khi còn là một trung đội trưởng trẻ, ông đã được thưởng huy chương Hải Quân do chỉ huy thêm hai trung đội sau khi các sĩ quan bị tử thương trong một cuộc tấn công dữ dội vượt qua một con suối ở mũi Gloucester. Khi làm trung đoàn trưởng, ông được mọi người kính trọng.
Tại Bộ Chỉ Huy Hành Quân, Hughes và ban tham mưu trung đoàn đặt bản đồ xuống và cố xem xét coi thử ở Huế đang xảy ra chuyện gì và phải ứng phó như thế nào. Tướng LaHue và những người ở LLĐN X-Ray không có tin tình báo chắc chắn. Thực ra, chẳng ai nắm chắc tình hình địch. Có một điều Hughes hy vọng được là những gì ông hiện có trong tay để ứng phó ngay tại mặt trận. Buổi chiều ngày 3 tháng Hai hôm đó, trong tay ông ta có: Đại đội Fox, Đại đội Golf và Đại đội Hotel 2/ 5 do trung tá Cheatham chỉ huy.
Hầu hết Đại đội A và Trung Đội Công vụ 1/ 1do trung tá Gravel chỉ huy.
Toán súng cối và đại bác không giật lấy từ Đại Đội Công Vụ của tiểu đoàn; xe vận chuyển súng chống chiến xa của chi đội; Chi Đoàn Chiến Xa số 1; bốn chiến xa còn lại của Chi Đoàn 3 Chiến Xa thuộc Sư Đoàn 3/ TQLC, xe trang bị đại liên 50 của Pháo Đội D, Tiểu Đoàn 1, Trung Đoàn 44/ Pháo Binh và Trung Đội Pháo Dã Chiến của VNCH.
Nhân viên Toán Cố Vấn số 3 tại MACV, thủy thủ tàu Hải Quân ngoài bến tàu sông Hương, một số nhân viên mới được gởi tới tăng cường, một số TQLC thuộc Tiểu Đoàn Quân Vận số 1 giữ nhiệm vụ chuyển vận giữa Huế và Phú Bài. Một số ít đơn vị thuộc QĐ/ VNCH.
Lệnh của đại tá Hughes là quét sạch Cộng Quân tại khu nam thành phố Huế, nửa mặt trận bên kia sông, trong Thành Nội, do tướng Trưởng và QĐ/ VNCH chịu trách nhiệm, không có sự hỗ trợ của bộ binh Hoa Kỳ. Với ý đồ như thế, đại tá Hughes vội vàng vạch kế hoạch. Cheatham gánh một trách nhiệm nặng nề, đẩy lùi quân địch từ MACV dọc theo sông Hương tới ngã ba sông An Cựu, chỗ khúc sông nầy nối với sông Hương (khu trường Pellerin – ngd). Trục hành quân chính cho Đại đội 2/5 là dọc theo đường Lê Lợi, đường nầy chạy song song với sông Hương, (chỗ khúc đường nầy hơi cong là bộ Chỉ huy của quân Cộng Sản và hầu hết quân lính họ tập trung ở đây). Đơn vị 1/ 1 của Gravel hành quân cùng Đại đội 2/ 5 dọc theo sông An Cựu, giữ an ninh QL. 1 giao thông với MACV. Trong hai nhiệm vụ nầy, nhiệm vụ Gravel dễ hơn vì đơn vị của ông thiếu quân số trầm trọng. Vã lại, so ra thì Gravel tính tình cẩn thận hơn. Sự thật, trước khi được tăng cường, – trước khi Bộ Chỉ Huy biết chắc những gì xảy ra ở Huế, LLĐN đã thúc đẩy ông ta tiến nhanh và hoàn thành nhiệm vụ. Họ nghĩ ông ta đã làm hết sức mình.
Đại tá Hughes ra lệnh Quân đội VNCH quét sạch địch ở hậu tuyến TQLC, tiêu diệt những tay bắn sẻ còn trốn lại, chịu trách nhiệm giúp dân tỵ nạn, thường dân bị thương tích xảy ra khi phải cận chiến từng nhà một.
Cheatham và Gravel đứng trong phòng hành quân khi đại tá Hughes ra lệnh. Cheatham hơi chần chừ một chút, chờ thêm tin tức.
Chờ gì nữa. Chẳng có thêm tin tình báo hay gì khác. Đại tá Hughes biết ý, nói: “Nếu muốn có gì thêm thì anh chẳng được gì hết”. Giống như mọi người đến Huế, Hughes chỉ có những tin tức đại khái. Ông ta nói thêm: “Anh phải tự lo liệu lấy, bằng cách nào đó thì cách. Còn như thượng cấp có gì thì tôi sẽ lo cho anh”.
Nghe vậy, Cheatham đội nón sắt lên đầu, tay với cây súng M-16 rồi đi ra mặt trận. Mấy phút sau, Tiểu đoàn 2, Trung đoàn 5 TQLC đụng giặc.
Trung tá Cheatham đặt Ban Chỉ Huy bên kia đường, ngang với MACV, trong một ngôi nhà của viện Đại Học Huế. Các Đại đội Fox, Golf và Hotel đang đóng chung quanh ngôi nhà nầy. Khu vực của họ chỉ có chừng đó. Trước mặt là quân Cộng Sản BV, thỉnh thoảng nổ súng. Bên phải là đường Lê Lợi và sông Hương. Bên trái là đại đội 1/ 1. Phía trước, bên phải, địch đang nắm hết mấy con đường, có khoảng 11 khu nhà và chín cái nằm sâu bên trong. Cứ mỗi một đường đi, mỗi góc đường, cửa sổ, ngã tư là có thần chết ngự trị ở đó. Phải đánh chiếm từng khu một, từng nhà một, từng viên gạch một. Họ có thể xoáy được bản đồ ở cây xăng Shell, Ty Cảnh Sát và nhân viên quân sự tại MACV. Cheatham, ba đại đội trưởng, chín trung đội trưởng chia nhau ba cái bản đồ. Mục tiêu đầu tiên nằm ngay trước mặt: Ty Ngân Khố, sát ngay đó là Bưu Điện. Quân CSBV đào hầm núp ngay bên trong. Họ không có ý định phân tán hay rút lui như họ thường rút lui trong vùng quê hay trong rừng rậm.
Hạ sĩ Dan Arkie Allbritton, 20 tuổi, 4 tháng làm tiểu đội trưởng, thuộc Trung đội 3, Đại đội Fox. Anh ta lùn, mang kiếng, quê ở Arkansas, nói giọng mũi, có Chiến Thương Bội Tinh với dấu tích ở mấy cái sẹo sau lưng vì bị mìn ba tháng trước tại An Hòa. Lần đầu tiên vào Huế, Allbritton nghe một anh trung sĩ nói họ đã quét được mấy tay bắn sẻ.
Chỉ trong mấy ngày, câu trả lời của anh là: Chuyện nhảm nhí.
Ngay trong những ngày đầu, Trung đội 3 kiểm soát được khu vực quanh MACV và khu Đại Học. Ở đây cũng có một chiến xa của QĐ/ VNCH, đậu sát tường. Allbritton quan sát, đùa giỡn với mấy người lính Việt Nam phía sau chiếc xe tăng, bắn vài tràng đạn trên pháo tháp trước khi các tên bắn sẻ làm được gì, rồi toác miệng cười với TQLC.
Cuối cùng thì có lệnh. Tuy nhiên, hạ sĩ Allbritton, hạ sĩ Carter, và những người còn lại trong Trung đội 3 còn gặp may. Trung đội 2 được chọn đi đầu. Họ quan sát Trung đội 2 TQLC đi quanh các bức tường rồi biến mất ở đầu đường, phía bên trái, tiến về ty Ngân Khố và Bưu Điện. Chỉ trong mấy phút, cả con đường súng nổ dậy lên.
&
Trung úy Donald A. Hausrath, Jr. trung đội trưởng Trung đội 3, được lệnh tiến lên, giúp Trung đội 2 rút lui. Hai chiếc xe tăng của TQLC di chuyển thật chậm phía trước, trên con đường rộng có hai hàng cây bai bên. Từ trên mái những căn nhà phía trước quân CSBV bắn xuống. Đạn rớt và kêu lụp bụp chung quanh. TQLC lom khom núp sau hai chiếc xe tăng, đi từng bước một, quan sát rất cẩn thận, đầu cúi xuống tránh đạn. Carter thấy một anh TQLC da đen nằm bên lề đường. Chung quanh súng vẫn nổ. Carter nghĩ, Chúa ơi, Trung đội 2 chắc bị quét sạch cả rồi.
Xe tăng bắn trả bằng đại liên 50 và đại bác 90ly. Vài TQLC núp sau xe tăng cũng bắn phụ vào. Thiếu úy Hausrath cùng với những người khác cố kéo những người bị thương hay chết vào phía sau xe tăng. Trong trung đội, những người còn sống núp vào trong các ngưỡng cửa hay các con hẽm, bắt đầu tháo lui. Có ai đó quăng một anh TQLC còn trẻ, đã bất tĩnh lên lưng chiếc xe tăng, ngay trên đầu Carter. Bất thần, một quả B-40 bắn vào pháo tháp, trượt qua trên mình anh lính bị thương, mảnh đạn văng ra. Anh lính TQLC bị rớt xuống khỏi chiếc xe tăng, tỉnh dậy và rên. Một chân anh ta bay mất.
Họ bỏ hết cả người bị thương và chết lên xe tăng rồi vừa lùi vừa bắn dữ dội. Súng cối từ ban chỉ huy đại đội bắn tới yểm trợ. Đó chỉ mới là một sự thử thách ngắn ngủi và đẫm máu. Đại úy đại đội trưởng bị thương nhẹ vì mảnh đạn B-40.
Những người bị thương được chuyển về trạm xá. TQLC lui về ẩn núp trong những ngôi nhà và các bờ tường, ngay nơi họ vừa xuất phát. Carter đang đứng nơi đó thì trung úy Hausrath nắm lấy anh ta:
- “Carter, có phải anh là người bắn hỏa tiễn. Anh được xác nhận năng lực rồi phải không?”
- “Vâng, đúng, thiếu úy.” Carter trả lời. “Tôi là chuyên viên về hỏa tiển. Đó là khả năng chuyên môn quân sự của tôi.” (MOS)
- “Được rồi, anh là người bắn hỏa tiển của chúng tôi.”
Một cây súng bắn hỏa tiễn 3.5 inch, na ná cây bazooka cũ, được mang tới. Carter được lệnh mang cây súng xuống đường, nơi họ vừa mới bị chận đánh tơi bời, đục một lỗ ngay trong sân, phía bên phải. Kế hoạch là đưa Đại đội Fox vào trong một cái sân trước, rồi đánh chiếm từng nhà cho tới khi vào ty Ngân Khố, như thế là mở được an ninh cho các con đường trong khu vực nầy. Một chiếc xe tăng bắt đầu tiến tới, Carter đi lom khom bên cạnh, giữa bức tường và chiến xa. Anh ta vác khẩu súng trên vai, súng nạp sẵn một viên đạn. Carter nhắm mục tiêu, bắn, cái cổng sắt ngang bức tường bay mất.
Phần còn lại của đại đội tiến tới trước, núp bên những cái lỗ trên tường. Họ bắt đầu chiếm từng nhà. Carter thì mở cửa nhà bằng đại bác, TQLC thì quăng lựu đạn, rồi tiến vào nhà kiểm soát. Địch không bắn trả. Sự việc kéo dài khoảng 15 phút.
Carter khom lưng xuống, lại nạp đạn khi anh thấy một vài TQLC của đại đội 2 tiến vào bờ tường một cái sân nhà khác (mỗi sân nhà cách nhau bằng một bức tường). Họ đẩy một anh lính qua cái sân nhà bên cạnh. Vừa khi đầu anh lính ló lên khỏi đầu tường là súng AK- 47 của những tên bắn lén không biết núp ở đâu bắn lốp bốp. Anh lính té ngược lui, đạn trúng mặt. Anh ta chỉ kịp kêu lên “Mẹ ơi”, rồi chết.
Carter bắn toang cánh cửa ngôi nhà bên cạnh. Rồi anh ta cùng với một anh hạ sĩ khác chạy nhanh vào. Chẳng có ai hết. Họ phóng qua bức tường trước mặt. Carter từ từ mở cánh cửa sổ và nhìn ra bên ngoài, tim muốn ngừng đập. Tại “ban-công” căn lầu hai tòa nhà bên cạnh có 3 lính CSBV đứng đó. Họ đội nón cối có gắn sao đỏ phía trước, gần đến nỗi có thể thấy được mặt nhau. Anh ta hơi ngại. Nếu bắn, không chắc an toàn cho vị trí của trung đội gần đó. Carter gọi anh hạ sĩ: “Ê! Nhìn đây nầy. Tom, có mấy thằng cùi đây nầy.”
- “Nói với tao làm quỷ gì? Bắn đi.”
Cú bắn đó thật dễ. Carter tháo cây M-16 và để lên vai. Anh ta nhắm một tên mặc kaki và bóp cò. Anh nầy té ngược lui. Carter nhắm lẹ qua anh thứ hai, anh nầy té qua “ban-công” xuống đất. Người thứ ba biến mất.
Carter nhăn răng cười với bạn, nhắm một chút nước bọt vào mấy đầu ngón tay và ngửi ngửi đầu nòng súng.
Mặt trời lặn, suốt đêm súng ba hồi nổ, ba hồi ngưng.
Đêm đó, Cheatham gọi tên các đại đội trưởng. Sáng ra, ông ta nói, toàn bộ tiểu đoàn sẽ tập trung tấn công Ty Ngân Khố và Bưu Điện. Đại đội Fox của đại úy Downs thì chiếm khu vực hai ty Ngân Khố, Bưu điện; Đại đội Hotel của đại úy Christmas chiếm ty Y Tế, nằm bên phải của Đại đội Fox; đại uý Meadows và Đại đội Golf của ông ta vì bị hao hụt hết 1/ 3 trong những ngày đầu nên được chọn làm trừ bị.
Với cố gắng bảo tồn vẻ đẹp và tính lịch sử của thành phố Huế, tướng Lãm và chính phủ ở Saigon yêu cầu bộ Chỉ huy TQLC hạn chế xử dụng vũ khí nặng, có nghĩa là không dùng bom, hoặc đại bác của hải quân, không dùng vũ khí gây hỏa. TQLC đối đầu với một lực lượng địch cao hơn về quân số, công sự chuẩn bị kỹ, bảo vệ kín, trang bị vũ khí tự động, đại bác không giật, súng cối và hỏa tiển. Chỉ có xe tăng là khí cụ TQLC có mà quân CSBV thì không. Lại có báo cáo quân CSBV xử dụng một số đại bác được gắn trên thiết vận xa của QĐ/ VNCH do họ chiếm được.
Tình hình rất tồi tệ cho phía TQLC đang tham chiến ở đây, từ người đại đội trưởng 30 tuổi cho tới anh binh nhì 18 tuổi có nhiệm vụ chiến đấu trên từng đường phố.
Cheatham nói với các đội trưởng một cách vắn tắt: “Các anh phải đào chuột từ trong hang của nó.
&
Buổi sáng ngày Chủ nhật, 4 tháng Hai, trời buồn rầu u ám, và lạnh. Súng lại nổ trên đường phố.
Đại úy Christmas cùng xạ thủ đại bác, trung sĩ Frank, A. Thomas, Jr. chỉ huy Đại đội Hotel tiến tới. Trung đội 1 tìm cách chiếm ngôi nhà sát ty Y Tế (Nhà thuốc Tây Lê Đình Phòng – ngd), trung đội ba chiếm ngôi nhà bên kia đường nhưng bị quân CSBV bắn dữ dội. Họ tháo lui, hai người bị thương. TQLC thảy lựu đạn khói xuống đường để che địch nhưng súng địch phía mặt hông bắn rất sát, xuyên qua màn khói. TQLC của Đại Đội Golf từ các cửa sổ của viện Đại Học (Morin cũ – ngd) bắn xuống. Đại úy Christmas và xạ thủ đại bác hội ý với trung đội trưởng, quyết định đưa cây đại bác 106 ly không giật lên để bảo vệ việc băng qua đường. Họ thả trái khói, quan sát tình hình, và toán xạ thủ 106 ly làm việc. Viên đạn bắn xuống đường, khói đen bốc lên, quân địch cúi đầu núp trong mấy phút. Thế là đại đội vượt qua bên kia đường.
Họ chiếm ty Y Tế. Súng nổ trong giây lát, một TQLC và một chục CSBV chết.
Lính TQLC leo lên mái nhà, chiếm các cửa sổ, và bắt đầu tác xạ vào phía hông ty Ngân Khố và Bưu Điện. Ở bên trái, Đại đội Fox đang đánh nhau với địch.
&
Thiếu úy Hausrath và trung đội đang ở phía trước. Carter đục một lỗ ở bức tường sân trước ngôi trường hai lầu của giáo hội Catholic (Thực ra đây là trường Trung Học Đệ Nhị cấp Bán Công Huế, đối diện ty Ngân Khố, bên kia đường Hoàng Hoa Thám – ngd) và các TQLC vội vàng chui qua đó tiến tới bức tường đối diện. Bên kia đường, ngay trước mặt là Ty Ngân Khố. Từ trên lầu ty Ngân Khố, quân CSBV bắn xuống đường như mưa, đạn vải lụp bụp trên tường và sân cỏ của ngôi trường. Ty Ngân Khố được xây vững chắc như một nhà kho gồm hai tầng, chung quanh là bức tường cao 8 bộ, sân có hàng cây.
Quân CSBV cố thủ bên trong.
Đại úy Downs và người mang máy truyền tin của anh ta vào được trong trường. Viên đại úy muốn một toán hỏa lực tấn chiếm kho bạc nên gọi Carter phá tường cho họ tiến vào. Carter ôm đại bác 3.5 nhưng phía nầy sân trường lại không có cửa. Anh ta phải bắn thủng một lỗ trên tường, cát gạch đổ xuống đường. Rồi anh ta phá một lỗ nhỏ ở bức tường trước của ty Ngân Khố, cẩn thận nhắm vào một điểm cách xa 15 bộ, chỗ quân CSBV từ trên lầu bắn xuống có thể bị cây và tấm bia đá cản tầm bắn của họ. Việc đó phí công.
Vừa khi toán hỏa lực đổ xuống đường, quân CSBV bắn như điên khùng. Các TQLC núp vào bờ tường, đạn bay qua đầu và dội trên mặt đường ngay sau lưng họ. Một anh lính trẻ tên là Washburn ló đầu lên bờ lỗ tường và ngọ nguậy. Bỗng người anh ta giựt mạnh và chùng xuống – anh ta bị địch bắn vào đầu. Mấy người khác vội vàng kéo anh ta ra khỏi cái lỗ đó. Anh ta còn hơi thở yếu nhưng đồng đội không thể mang anh ta quay lại bên kia đường mà không lảnh đạn.
Dọc theo bờ tường trường học, hạ sĩ Allbritton và tiểu đội của anh bắn như điên, cố gắng hỗ trợ cho toán hỏa lực. Phía quân CSBV cũng bắn dữ dội.
Toán trưởng hỏa lực, hạ sĩ Thomas R. Burnham quê ở Pennsylvania, chạy lom khom dọc theo tường, gần Allbritton, trông có vẻ chán nản. Bernie Burnham là con người huyền thoại của tiểu đoàn. Trước hết, anh ta 31 tuổi, từng chiến đấu ở Triều Tiên nhưng khi chiến tranh chấm dứt thì anh ta còn ở trong trại huấn luyện. Rồi anh ta làm thợ điện. Khi chiến tranh Việt Nam hâm nóng trở lại thì anh đăng lính qua Việt Nam. Bốn tháng trước, trong khi Cộng Sản tấn công Nông Sơn, anh ta đè mình lên một trái lựu đạn. Lựu đạn không nổ, anh ta sống một cách gan lì – Anh có được Hải Quân Chiến Công Bội Tinh – và là thần tượng của những anh TQLC 18, 19 tuổi trong trung đội, là người mà người khác nhờ cậy được.
Một lần nữa, hạ sĩ Burnham lại chứng tỏ thiên tài của anh.
Anh ta ló đầu lên lỗ tường rồi phóng thẳng xuống đường. Ai ai cũng nổ súng bắn che cho anh ta. Đạn của quân CSBV rơi chung quanh. Anh nằm sát vào bờ tường ty Ngân Khố, rồi nhắc bỗng Washburn lên vai chạy ngược lui bên nầy đường. Toán hỏa lực đứng dậy chạy trối chết theo anh ta trong khi anh ta chạy trong đám lửa đạn, nhào vào phía trong bức tường trường học. Nếu có thì giờ thì đám lính đồng đội la to hoan hô anh. Washburn chết tại sân cỏ trường học trước khi kịp chuyển về MACV.
Burnham thực hiện kỳ công đó khi Allbritton thấy một phóng viên và người mang máy quay phim dọn đồ quay về. Họ nói là họ trở về ban chỉ huy. Allbritton biết họ là dân sự và không nên có mặt ở đây làm anh ta thêm bực mình. Mấy TQLC hỏi anh nhà báo người Úc sao không quay trở lui giống như những người Mỹ, anh ta nói là sợ, không dám đi một mình.
Carter lại ngồi xổm bên cạnh bức tường với cây súng đại bác 3.5inch. Anh ta biết là anh có cây súng quái quỉ nầy và phải làm gì đây. Anh ta nghĩ là nên quay lại ngôi trường, đặt súng trên lầu hai mà bắn nát họng mấy thằng cùi bên kia đường.
Carter gọi to cho Hausrath và nói ý định của anh.
Trung úy Hausrath đang ngồi nghỉ bên bờ tường, gọi lại:
-“Làm thử đi, coi chừng bị bắn.”
Carter giỡn trở lại: “Trung úy muốn vậy hả?”
Carter và trợ viên khi thì bò, khi trườn, rồi chạy về phía ngôi trường. Bụi, đất, gạch đá văng tung tóe quanh hai người. Lính đang ngồi nghỉ, không ai bắn trả địch. Họ lại đứng lên, súng lại nổ. Phải hai chục phút họ mới băng qua được sân cỏ. Rồi họ xông vào một cái cửa lớn. Carter lấy làm lạ tại sao anh ta không bị thương. Họ đi ngang qua chỗ đại úy Downs và người mang máy truyền tin rồi theo cầu thang lên lầu hai. Tầng nầy dài, một phía là cửa lớn làm theo kiểu Pháp, phía kia có khoảng 15 cửa sổ ngó qua ty Ngân Khố. Carter đặt súng lên vai, hơi cúi mình xuống, anh trợ viên tra đạn vào nòng. Xong, Carter tiến ra cửa sổ, để mắt vào ống nhắm, bấm cò.
Viên đạn nổ bên phía ty Ngân Khố (Kho bạc).
Carter lại cúi mình xuống, trợ xạ thủ nạp đạn, rồi hai người lần ra hành lang, cho đạn bay qua cửa sổ. TQLC mang súng M-60 chạy lên cầu thang tiếp sức. Họ kê súng lên ngưỡng cửa sổ và bắn vào những chỗ họ thấy họng súng của địch ló ra bên phía ty Ngân Khố, xác định mục tiêu cho Carter. Thêm nhiều TQLC chạy lên lầu nữa, bắn liên tu, vỏ đạn đổ thành đống trên sàn nhà. Carter tiếp tục bắn. Anh ta không biết đã bắn bao nhiêu quả đạn nữa, có lẽ cả trăm. Địch cũng bắn lách cách bên ngoài làm cho Carter sợ, nhưng đồng thời anh ta cũng thấy vui. Lính TQLC vừa bắn vừa chưởi thề: “Đ. mẹ, trả lại cho chúng nó đi.”
Allbritton ngồi xổm đằng sau mấy cây cột bằng gạch, dùng M-16 bắn như mưa qua bên kia đường. Bất thần đạn bắn trúng vào cột làm văng mảnh ximăng vào mặt anh ta. Anh ta nhảy qua chỗ mới, gở nón sắt xuống, nhổ ximăng trong miệng ra. Anh ta nhìn lên thấy một TQLC đang núp phía sau, nhìn anh ta nhăn răng ra cười, nói lè nhè: “Mày biết không, Arkie, có thể được thêm một chiến thương bội tinh nữa đó.”
Cheatham chạy vòng quanh các tòa nhà trong trường chỉ huy cuộc đấu súng, cố làm thế nào để chiếm cho được ty Ngân Khố. Anh ta gọi máy, chỉ cho một chiến xa mục tiêu phía trước. Chiếc chiến xa ló đầu ra khỏi hai khu nhà hai bên, trước khi bắn được phát súng thì một quả B-40 nổ ngay trước mũi xe tăng. Tài xế dọt xe lui, càn lên đống kẽm gai. Cheatham chưởi thề, rồi gọi toán đại bác không giật 106 ly tới bắn mấy phát đạn làm vỡ bức tường.
&
Đại úy Harold Ernie Pyle hết sức bối rối. Trước khi đoàn xe đi Huế với ban chỉ huy của Đại đội 2/5, sĩ quan liên lạc không quân của Trung đoàn 1 TQLC có báo cho anh ta biết vài qui định khi vào Huế. Nếu gọi không yểm thì anh ta chỉ được hỗ trợ súng với loại đạn 7. 62ly và 20ly, hỏa tiễn 2.75 inch. Anh ta nghĩ, quỉ thiệt, bọn lính bộ có nhiều vũ khí hơn thế, điều họ cần là bom 500 cân Anh, bom lửa. Vào Huế, anh ta đã từng thấy máy bay oanh tạc Skyraider của Không Lực/ VNCH thả bom trong Thành Nội, vậy mà TQLC/ Mỹ thì bị cấm. Anh ta muốn – nếu thời tiết tốt – cho mấy chiếc Phantoms tấn công Kho Bạc (Ngân Khố), giúp cho TQLC chiếm mục tiêu được dễ hơn.
Nhưng không được vậy. Đại úy Pyle thấy đại úy Tom Fine, sĩ quan kiểm soát không yểm đi theo với vai trò như một sĩ quan bộ binh. Họ leo lên tầng hai viện Đại Học (lầu Morin ngd) và tìm hướng cửa ngó ra ty Ngân Khố. Họ mở một cánh cửa làm theo kiểu Pháp, núp ở hành lang và bắn qua Kho Bạc.
Họ thấy đại liên địch núp trong ty Ngân Khố bắn xuống đường. Đó là chỗ Đại Đội Hotel phải tiến tới. Và đó cũng là điểm gay go cho đại đội Fox. Đại úy Pyle đi tìm Cheatham.
Cheatham và sĩ quan quản trị, thiếu tá Ralph J. Salvati xuất hiện. Cheatham nhìn một lúc rồi gọi toán xạ thủ đại bác 106 ly. Toán nầy cho xe chở súng lên. Thiếu tá Salvati giúp họ đưa cây súng lên cầu thang và đặt vào góc phòng. Họ nhìn vào ống ngắm để định vị trí và bắn vài tràng đại liên 50. Xạ thủ nới giây buộc rồi tất cả bọn họ chạy lui núp sau hành lang. Xạ thủ lại kéo mạnh sợ giây, súng nổ, toàn bộ căn phòng rung rinh. Khi bụi tan đi, họ quay lại phòng. Trần nhà thủng một lỗ và cây súng 106 thì bị lấp dưới lớp vữa và gạch. Kế hoạch của Cheatham thành công: Phía dưới đường, tiếng súng của địch im bặt.
Thiếu tá Salvati nắm cây súng Thompson chạy đi quan sát xem Đại đội Fox hành quân như thế nào. Ông ta thấy đại úy Downs ở trong trường học. Anh ta thất vọng. Súng của TQLC chỉ bắn trúng vào tường ty Ngân Khố, quân CSBV thì có một xạ trường rất tốt. Mặc dù toán súng cối 81 ly của đại đội nằm trong sân trường Đại Học rót đạn trúng mái nhà nhưng tuồng như không mấy hiệu quả. Salvati biết ông ta không thể ở lại với ban Chỉ Huy Đại Đội được nữa nên gọi mấy TQLC cùng lấy 1 khẩu đại bác không giật 3.5 inch, ở lại với Đại Đội Fox. Toán xạ thủ nầy núp phía sau bức tường và bắt đầu tác xạ vào Kho Bạc.
Từ vị trí của mình, Carter bắn thêm một phát đại bác nữa, anh trợ thủ nạp đạn, Carter lại thò ra cửa sổ. Carter nhớ ra trợ thủ chưa đóng cơ bẫm. Anh cúi xuống, vói tay đóng cơ bẫm thì một trái B-40 bay vù vào, xuyên qua cửa sổ và nổ ầm trong hành lang. Bụi cát, đất, đá kiếng bể bay đầy hành lang trường học. Carter nhoài người lui phía sau cánh cửa lớp. Rồi anh ta nằm yên, không còn cảm giác gì về thân thể mình nữa, cũng không nghe mà cũng không thấy. Tất cả mọi thứ chỉ có một màu xám xịt. Điều anh ta làm được là tự nói thầm: “Chúa ơi! Chắc tôi chết.” Anh ta có cảm tưởng như đang kẹt trong một cái hầm đá, có một chút ánh sáng ở cuối hầm mà thôi. Anh ta tự nói thầm với mình nếu tay còn nhúc nhích được, đầu còn lắc lư được là chưa chết. Anh ta thử lắc đầu nhưng không được. Có tiếng la to: “Đem nó ra khỏi đây, chắc nó chết rồi.” Có ai đó nắm vào cổ tay anh ta lôi đi. Carter quẫy người, lắc đầu rồi ngồi dậy. Tay anh ta đau vì mảnh đạn. Toàn cả hành lang đầy khói và mảnh tường vỡ. TQLC chạy lên chạy xuống cầu thang mang người bị thương đi.
Vài người phía sau Carter rên lên, anh ta giật đầu nhìn lui. Phụ xạ thủ ngồi trong đống vữa, hai má dính máu, mảnh kiếng vô trong mắt. Carter không biết làm sao, không dám đụng vào mắt anh ấy. Anh ta lấy hộp giấy đựng phần ăn C và lanh lẹ quấn quanh đầu người bị thương.
Những người bị thương nhẹ lại bắt đầu trở ngược lên cầu thang. Toán xạ thủ M-60 lại nổ súng. Carter bước trên đống vữa đi tìm cây đại bác 3.5 inch của anh và lại bắt đầu bắn.
&
Trước khi tới phiên, khi ông ta còn trong ban Chỉ Huy Đại Đội, thiếu tá Salvati đã biết xử dụng súng phóng lựu đạn cay E-8. Đó là một loại thiết bị cao 2 bộ, có thể phóng trái đạn ra xa tới 250 mét. Thứ lựu đạn khói hiện được ném vào ty Ngân Khố tạo ra không đủ khói và tan rất nhanh. Ông ta nghĩ loại E-8 có thể đem ra xử dụng được. Ông ta nhớ trong khi MACV có cất giữ, chưa xử dụng tới.
Ông ta rời trường học, đi tìm Cheatham và nói với ông nầy ý định xử dụng loại vũ khí đó. Ông đại tá cho là ý hay. Salvati gọi tài xế, nhảy lên xe jeep, lái về MACV. Có vài quân nhân VNCH đang đứng gần nơi cất E-8. Họ trố mắt nhìn khi thấy Salvati vụt mấy cây súng phóng nầy lên thùng xe kéo sau xe Jeep.
Trở lại trường học, Salvati cùng với vài TQLC mang mặt nạ vào và chạy vào sân trường mang theo vũ khí E-8. Họ đặt súng phóng xuống, canh cho đạn vượt qua đầu tường, lọt vào Kho Bạc rồi họ chạy lui sau bức tường.
Salvati kéo giây cò, không có gì hết. Quái gì đây?
E-8 có thể cho nổ bằng cò điện nên Salvati chạy kiếm một hộp pin. – Ở đâu đó, ông ta cũng chẳng nhớ – xong quay trở lại sân trường và nối giây. Quả đạn nổ và bay qua Kho Bạc. Chất hơi không làm chết người bắt đầu xịt tóe ra khắp tòa nhà, bay ra khỏi cửa sổ và các khe hở. Lính CSBV không có mặt nạ chống hơi cay.
&
Đại úy Downs gọi Carter xuống, đại đội đang tấn công, anh ta phải yểm trợ hỏa lực bằng đại bác 3.5 inch. Carter vác súng kèm theo mấy viên đạn chạy xuống sân trường. Anh ta quỳ xuống và nhắm mục tiêu. Không thấy kẻ địch bắn anh. Anh ta đoán là họ đang chờ và sẽ nghiền nát đại đội ngay trên mặt đường. Phát súng đầu tiên của Carter phá toang cổng kho bạc, bay vào cửa chính, nổ, một cánh cửa rơi xuống. Phát thứ hai làm cánh cửa còn lại bay đi nốt. Anh ta bắn thêm một quả khói lân linh vào trong cửa rồi chạy tới bờ tường bắn trái khói xuống đường. Gió thổi khói bay ngược về phía ty Ngân Khố. Trong sân trường, đại úy Downs chuẩn bị binh sĩ tấn công.
Allbritton và tiểu đội nằm sát bờ tường, mang mặt nạ, giữ chặt súng M-16, chờ. Có người la to: “Tiến lên.” Họ đứng lên chui qua các lỗ trên tường và chạy như điên, băng qua bên kia đường. Chạy, chạy, chạy… vượt qua sân trước, qua cánh cửa bị sập, qua cửa Kho Bạc, toát mồ hôi! Allbritton cùng đồng đội quăng lựu đạn, rồi xông vào, bắn ngang hông.
Họ chạy vào hành lang, có một phòng bên phải, một phòng bên trái. Allbritton kêu hai người bắn yểm trợ cho anh ta rồi chạy tới cánh cửa cuối hành lang. Cửa nầy bị kẹt vì gạch cát đổ xuống. Có tiếng chân chạy sau cánh cửa, có tiếng người chạy từ trên cầu thang xuống. Có tiếng nói Việt nam. Allbritton la to, chỉ, xạ thủ M-60 bắn vào cửa. Họ quăng thêm lựu đạn. Cánh cửa bung ra. Người người chen nhau chạy lên cầu thang, bắn loạn xạ. Allbritton vượt cầu thang chạy ra một phòng nhỏ, ném lựu đạn, bắn M-16. Chẳng có ai ở đây cả.
Vỏ đạn AK-47 rơi trên sàn một phòng nhỏ trên cao.
Allbritton thấy mảnh E-8 trên sàn. Anh ta bước ra cửa sổ. Tường nhà dày 2 bộ, giống như công sự, đạn khó qua nổi. Anh ta nhìn qua kẻ hở. Địch thấy rõ ngoài đường và sân trường học. Đúng là một xạ trường lý tưởng. Anh ta bước lui, vừa đi vừa lẫm bẫm: “Đồ chó đẻ. Đồ chó đẻ!”
Hạ sĩ Burnham gom góp người trong tiểu đội lại ở trong lầu 1. Lính CSBV rút đi rồi, qua ngã mấy ngôi nhà và sân sau. Burnham chạy vào hành lang, bắn theo họ như điên. Có một người lính CSBV bị thương đang bò trong hành lang. Burnham trút hết băng đạn vào ngực anh nầy, trả giá. Trong ít phút, ty Ngân Khố và Bưu Điện được an toàn.
Lính TQLC đi băng qua đường. Đếm xác địch nằm trong đống gạch vụn. Mấy TQLC chớp mấy gói vàng thẻ và mấy gói bạc. Chẳng ai nói gì. Carter giúp đưa mấy người bị thương vì lúc nãy họ băng qua đường và bị CSBV bắn. Rồi anh ta đi quanh tòa nhà, thấy một cây B-40 bị bắn vỡ, mấy cái bao và thư rơi trên nền nhà. Trên lầu, có mấy hỏa tiển không nổ dính trong vách tường. Trong một văn phòng có mấy bức tranh vẽ còn treo trên tường, hình một cặp vợ chồng mới cưới và đồ chơi trẻ em nằm lẫn trong đám gạch cát vụn. Anh ta tìm một chỗ và chợt ngủ thiếp đi.
&
Sáng sớm, vài TQLC đánh thức Carter dậy, biểu anh vác đại bác tới Bưu Điện gấp. Có khoảng một chục CSBV núp trong căn nhà nhỏ, gọi không chịu ra. Căn nhà nhỏ nầy cách Bưu Điện khoảng 15 bộ, gần quá nên Carter không bắn được, mảnh đạn có thể văng ngược lui trúng anh ta. Anh ta leo lên mái, ra tới rìa, và nhắm. Anh ta bắn ba phát, cửa xoắn lại. Một TQLC Trung đội 2 quăng vào một trái lựu đạn cay. Lính CSBV từ trong tuôn ra, vừa ho vừa khóc. Súng máy nổ.
Xong, Carter tụt xuống. Một trong các trung sĩ khen anh ta giỏi và hỏi anh ta có bị bắn sẻ phải không? Carter nói vâng. Anh ta nghe tiếng súng nhưng vẫn cứ tập trung vào việc bắn. Anh trung sĩ cho biết đề nghị Carter được tưởng thưởng Anh Dũng Bội Tinh Ngôi Sao Đồng. Nghe thế, Carter thấy hơi thích.
Về sau anh ta chẳng bao giờ nghe nói tới huy chương, cũng chẳng bao giờ anh ta thấy anh trung sĩ đó nữa; có người nói là đã tử trận.
Cuộc chiến đấu trên đường phố Huế vẫn còn tiếp tục./
Huế, Trận đánh Mậu Thân – Chương 4: Đánh chiếm từng nhà (tiếp tục)
Description: U.S. Army Patrol During Offensive on HueTừ Trường Janne D’ Arc tới Nhà Thờ
            Trong cuộc chiến tranh xử dụng mìn bẫy, TQLC nếu có ai bị thương nhẹ cũng hy vọng được nghỉ đôi ba ngày tại trạm nghỉ trước khi trở lại chiến trường. Tuy nhiên, trong cuộc chiến trên đường phố Huế, bác sĩ và y tá tại trạm xá MAC.V đã phải khó khăn khi khuyên thương binh khoan trở lại chiến trường. Mấy anh lính trẻ khi bị thương về trại nghỉ một lúc rồi quay trở lại trạm xá, nói với y tá bây giờ họ đã khỏe, để được ra đơn vị trở lại. Trung úy Ray Smith, đại đội trưởng Alpha 1/ 1 thế cho Batcheller, sau khi cuộc chiến chấm dứt vài tuần lễ, viết thư cho đại úy cũ của anh ta như sau: “Nếu ai ở với TQLC tại Huế trong những ngày đó, không thể không thương họ. Vài người lính của tôi bị thương nơi chân và tay, đi cà nhắc vòng quanh để tìm tôi xin được ở lại, không phải tải thương. Họ chiến đấu thật dũng cảm, rất hòa thuận với nhau, và không khi nào tôi nghe một lời than phiền. Đó là tinh thần TQLC trong trận đánh Huế.”
Một trong những yếu tố quan trọng nhất là thái độ năng nổ dậy lên từ ngày họ rời chiếc xe bus ở trường huấn luyện. Họ thấy họ là chiến sĩ, là kẻ thắng, và là “Những Phần Tử Tinh Túy”. Họ có lòng tin tưởng cấp chỉ huy, – từ những người chỉ huy cấp tiểu đoàn cho tới anh trung sĩ hay trung úy, thiếu úy trẻ chỉ huy trung đội. Tất cả những ai ngay bên họ trên đường phố, cùng nhau chiến đấu, cùng bị thương vong. Các người lính trẻ TQLC cũng tự hào đặc biệt vì họ là bộ binh, và cảm nhận trái ngược với lòng tự hào là không ai tệ hơn người lính chiến. Thêm vào đó họ có niềm tự hào căn bản về binh chủng TQLC Hoa Kỳ và đất nước họ.
Nhưng niềm tự hào đó chỉ được giải thích một phần. Lý do cao thượng vì tự do cho Miền Nam VN không là động cơ thúc đẩy người lính TQLC xông pha lửa đạn để cứu một đồng đội bị thương. Một nhà chính trị ở quê nhà ca ngợi các thanh niên của chúng ta ở ngoại quốc không thể là lý do để cho một người lính từ chối di tản sau khi bị thương một hai lần. Ba, má và apple-pie chỉ là một việc không đáng kể với một người lính TQLC muốn giữ cân bằng giữa một trong những hành động kinh khiếp nhất trong chiến tranh Việt Nam. Điều gì trong những yếu tố đó đã xẩy ra ở Huế đơn giản chỉ là tình chiến hữu.
Có một ít kinh nghiệm nhân bản so sánh được trong tình thương đồng đội và anh em của người lính TQLC khi họ chiến đấu. Nó không phải là vấn đề gốc gác như thế nào, màu da ra sao, học hành tới đâu, hoặc cha mẹ giàu có như thế nào. Tất cả vấn đề là người sống chung trong tiểu đội, trung đội. Toàn bộ vấn đề là giúp đỡ nhau, chia xẻ với nhau, giúp nhau bảo toàn tính mệnh khi súng bắt đầu nổ. Đêm đêm, họ ngủ chung với nhau trong một hầm chiến đấu, cùng nhau chịu đựng cái nắng như thiêu như đốt hay cái giá lạnh của những cơn mưa phùn gió bấc, ì ạch lội qua những đám ruộng sình và cùng chiến đấu chống kẻ thù chung. Trong chiến đấu, mỗi người lính TQLC đánh giặc hết sức mình vì họ không thể để cho bạn mình ngã xuống. Hy sinh, không có gì thắc mắc. Đó là chân lý của họ trong cuộc Thế Giới Chiến Tranh thứ Hai, trong Chiến Tranh Cao Ly và một lần nữa, trong Chiến Tranh Việt Nam.
Nhưng ở Huế, có một khúc quanh đặc biệt: Hận thù. Trước khi đánh nhau, có thể người lính TQLC chưa bao giờ thấy một anh lính CSBV hay Việt Cộng trong trận đánh. Điều họ biết là việc giết chóc tàn ác và việc làm thương tật ghê gớm bằng mìn bẫy. Họ đã nếm mùi kinh hãi mà chẳng làm gì chống lại được. Họ thấy thất vọng trong việc đi tuần trên một con đường mà chẳng phát hiện được gì hết, bị bắn sẻ từ trong làng bắn ra mà không được bắn trả vì sợ thương vong cho người dân. Tuy nhiên, ở Huế, họ cảm nhận được những gì họ đang làm: Mặt đối mặt với kẻ thù – Họ có thể giết kẻ thù. Đại úy Pyle từng nói: “TQLC ở Huế thành công. Đó là thời điểm trả lại cái thua ở An Hòa.”
Tinh thần cao là động cơ tốt đẹp cho việc thành công của người lính TQLC. Tiểu đoàn trưởng Gravel nói: “Sự đóng góp lớn nhứt của những người lính ấy, không phân biệt cấp bậc, đã hoàn thành ở một mức độ ít thấy. Chẳng hạn như những trung úy đại đội trưởng, các trung sĩ trung đội trưởng, hạ sĩ và tiểu đội trưởng đã hoàn thành tốt đẹp trách nhiệm của họ. Binh sĩ của tôi làm được nhiều điều, nhiều phương cách mà quí vị không thể hy vọng nơi những người lớn tuổi hơn và chín chắn hơn, thực hiện chính xác những công việc hết sức nguy hiểm… Tôi không lo lắng gì hay chỉ lo chút ít vì tôi biết, tôi cảm nhận những gì họ làm, họ thực hiện là hết sức tốt đẹp mà không cần chỉ dẫn gì nhiều.”
Dale Dye, phái viên báo chí Sư đoàn 1 TQLC đã tìm hiểu cẩn thận và kết luận như sau: “Hầu hết chúng ta đều có băng cứu thương để băng bó những vết thương nhỏ. Chúng ta đều bẩn thỉu dơ dáy mà tôi nghĩ chắc giống như những tay kẻ cướp người Mê-Xi-Cô, nhưng với TQLC thì đó là cái dơ dáy trong sự huy hoàng. Tinh thần của họ là tinh thần đặc biệt của người lính TQLC trong bất cứ một cuộc chiến đấu gian khổ nào. Họ chưởi thề, họ khóc và họ nguyền rủa mọi thứ từ cấp chỉ huy cho tới người lính CSBV hay nguyền rũa ngay cả khí hậu khắc nghiệt. Nhưng tôi nghĩ tinh thần là một ngôn từ không đúng, không nói được hết. Đó là một thứ cay đắng giai dẵng, là điều quyết định để thấy việc đánh nhau chẳng là gì cả. Chúng ta quá chán nãn, bị căng ra quá lâu do những thúc ép triền miên và tất cả chúng ta đều yếu đuối cam chịu. Tôi không nghĩ bất kỳ ai trong chúng ta nghĩ rằng mình sẽ còn sống sau cuộc chiến đấu, tôi không nghĩ ai trong chúng ta sẽ trở thành đê tiện bằng cách nầy hoặc bằng cách khác.”
Bên cạnh tình chiến hữu, các TQLC Mỹ ở trận đánh Huế có một điểm chung – ghét quân CSBV và Việt Cọng. Vấn đề nầy không phải nhìn theo nhãn quan chính trị, mà phần lớn là vì cá nhân. Đó là vì bạn bè họ chết một cách thảm khốc. Vì vậy, họ cho rằng quân địch là những kẻ dơ dáy, ti tiện và bướng bỉnh. Vì vậy, họ có bị giết cũng không có chi ân hận và về sau có thể trở thành một câu nói đùa. Đó là điều không thể không quan tâm hay từ chối, làm ngơ. Nhưng người ta có một cảm nhận khác đối với kẻ thù – một sự quan tâm bất đắc dĩ – Đó là những người Việt Nam ốm yếu, nhỏ bé chiến đấu rất mãnh liệt và ít khi chịu thua cuộc. Trung sĩ Dye cũng kết luận như vậy: “Quân CSBV ở Huế là một thứ con hoang tận tụy và chiến đầu cừ. Chúng nó thì cố thủ trong khi chúng ta thì di động suốt ngày và chuyển qua tấn công vào ban đêm. Chúng ta thường phải tìm cách lấy lại khu vực mà chúng ta đã giành được ngày hôm trước vì ban đêm quân CSBV đã chiếm lại, chúng ta không đủ quân để bảo vệ những gì giành được. Tôi nghĩ rằng người lính CSBV vừa quá khích mà cũng vừa hèn nhát.

            Về điều tôi nghĩ, đáng nguyền rủa là có quá nhiều những tên quá khích. Tuy nhiên, sự thực rõ ràng là chúng ta giỏi hơn họ.”
&
            Y Sĩ Hải Quân Robert C. Hamilton nhận nhiệm vụ tại Đại đội Bravo, Tiểu đoàn Quân y số 1, Sư đoàn 1/ TQLC, có đến thăm thành phố Huế trước khi trận đánh Huế bắt đầu. Ngày Chủ Nhật trước Tết, ông ta cùng tài xế của ông và một sĩ quan trẻ đặc trách công tác Dân Sự Vụ thực hiện một chuyến du ngoạn Huế. Họ uống cà-phê ở một tiệm cà-phê ngoài trời; chụp hình trong Đại Nội cho đến khi lính canh đến đuổi họ đi và cạn cốc với đại úy Stephen Bernie trong câu lạc bộ MAC.V. Ông nầy là y sĩ tại trạm xá tại đây.
Mọi việc đều hết sức bình thường. Y sĩ Hamilton nghĩ qua đêm Tết đầu tiên ở Phú Bài với mấy người lính TQLC của ông và y tá Hải Quân trong khi hỏa tiển nổ.
Sau đó, tướng LaHue gọi ông ta, yêu cầu ông tường trình sự việc tại trạm chỉ huy của ông. Lúc đó là khoảng nửa đêm, điện bị mất. Tuy nhiên Hamilton tìm được một người tài xế TQLC gốc da đỏ, dám lái xe trong bóng đêm đen như mực đưa ông ta vào Bộ Chỉ Huy. Cũng từ đó, Hamilton là sĩ quan quân y của LLDN X-Ray. LaHue giải thích cho ông ta hay có chuyện lôi thôi ở Huế nhưng ở đó chẳng có đơn vị nào có y sĩ cả. Bằng một sự trùng hợp kỳ cục, các y sĩ tham dự một hội nghị về y học ở Đà-Nẵng khi Tết bắt đầu nên họ không trở về đơn vị kịp. Tướng LaHue hỏi Hamilton có thể làm gì được bây giờ.
Hamilton trả lời có thể gọi một toán gồm 20 nhân viên trợ y của Tiểu đoàn 1 Quân Y ở Đà-Nẵng. Tuy nhiên, ông ta nói nếu tình hình không quá nghiêm trọng thì ông cùng với ít y tá đến trạm y tế MAC.V ở Huế để giúp Bernie chờ khi bác sĩ giải phẩu của tiểu đoàn tới. Tướng LaHue đồng ý.
Hamilton gặp sĩ quan Quân Vận để sắp đặt chuyến đi Huế rồi quay lại đơn vị để lấy y tá đi theo ông ta. Nhiều người không bằng lòng. Ông bèn ra lệnh cho y tá trưởng ở lại coi sóc mọi việc khi ông vắng mặt. Rồi ông ta tìm một y tá trẻ, giải thích với anh nầy tình hình mọi sự. Anh nầy hỏi Hamilton có đi Huế không, nếu đi thì anh ta xin đi theo. Hamilton nói rất vui nếu y tá nầy cùng đi với ông. Xong, ông ta chọn anh y tá nầy cùng hai người nữa, một ông già của đại đội, người được họi là Pappy Reinhart.
Sáng ngày 4 tháng Hai, họ lên đường. Hôm đó, có hai chuyến xe đi Huế. Họ theo chuyến đầu, khoảng 30 xe GMC chở đồ tiếp liệu và đạn dược. Nhân viên ẩm thực và thư ký cầm M-16 đi theo giữ an ninh. Đó không phải là chuyện không bình thường. Châm ngôn của TQLC là mỗi người một tay súng, dù đảm trách công việc gì chăng nữa. Hamilton ngồi trên thùng xe GMC chở đầy lựu đạn M-26.
Vừa qua khỏi sông Phú Cam (An Cựu), qua chợ An Cựu thì từ những toà nhà hai bên đường, quân CSBV nổ súng.
            Hamilton ngồi trên một thùng chở lựu đạn trong khi lính bếp và văn phòng kê súng lên lưng ghế bắn trả; tài xế cho xe chạy nhanh hơn. Họ tới MAC.V, xe chạy vào trong, Hamilton cùng các y tá nhảy xuống xe. Y sĩ Bernie cười đón họ và đứng vòng quanh nói chuyện với nhau. Hamilton cảm thấy an tâm khi được ở trong những bức tường thành nầy.
            Bất thần địch quân pháo kích bằng hỏa tiển.
            Đạn pháo bay qua bức tường nổ trên mái một toà nhà, mảnh đạn và đá cát bay xuống họ. Chẳng ai phản ứng gì kịp đành đứng chịu trận. Khi Hamilton đưa mắt nhìn quanh, ông ta thấy chỉ có một y tá không bị thương. Bernie thì bị một mảnh đạn nhỏ nơi tay, một người trong nhóm họ là một nhân viên dân sự của chính phủ bị chảy máu đầu vì mảnh ngói vỡ, máu ra nhiều, người ta vội vàng đưa ông vào phòng cứu cấp.
Hamilton, 34 tuổi, bác sĩ thực hành ở Chicago, bị động viên sáu tháng trước, nhận được vài sự chào đón nồng nhiệt khi tới đây. Hôm nay chỉ mới là ngày đầu tiên: Hamilton, Berinie, và tất cả y tá còn lại của TQLC, các y sĩ băng bó chăm sóc cho tất cả các TQLC bị thương đang nằm ở đây rồi khi có thời gian nghỉ ngơi, Hamilton tới câu lạc bộ của đại tá Hughes ở bộ Chỉ huy. Người ta cho biết chuyến xe chiều hôm đó, sau chuyến của Hamilton đã bị phục kích dữ dội.
Chuyến xe buổi chiều do trung úy Terry Charbonneau, 25 tuổi, quê ở Detroit, trung đội trưởng Trung Đội 2, Đại đội Charlie, Tiểu Đoàn Quân Vận số 1, Sư Đoàn 1 TQLC chỉ huy.
Tại trại Evans của Kỵ Binh 1, anh ta lúng túng vì một trung đội xe vận tải từ một đại đội khác tới trong khi một tướng lãnh biểu anh ta tìm cách giải quyết việc tài xế xe tải thiếu hụt. Charbonneau phải nhờ tới hậu cứ tiểu đoàn quân vận đóng ở Giạ Lê, nhưng tài xế và xe ở trại nầy lại kẹt ở Phú Bài. Thực ra thì anh ta cũng chẳng làm gì được hơn. Trong dịp Tết, trung đội của anh được phái đi chung với các đơn vị khác và hiện đang kẹt ở Huế. Một vài xe GMC từ căn cứ tiếp liệu đến với một số ít lính tăng cường trên xe. Có người không có nón sắt và áo giáp. Anh ta hỏi thì họ cho biết trong kho hết nón sắt và những thứ khác không đáng quan tâm lắm. Anh ta biểu họ vào trạm xá xin mượn nón sắt trong đó để đi Huế.
Charbonneau biết đại úy đại đội trưởng Đại Đội Alpha, anh nầy tổ chức đoàn xe bằng người của Đại Đội A và B và vài người trong Trung Đội 2 TQLC của chính anh ta. Anh ta đi kiếm đại úy nầy và hỏi đoàn xe anh ta đi đâu? Huế. Charbonneau muốn đi cùng, nhưng viên đại úy hỏi anh ta có biết ở Huế đang đánh nhau không? Anh ta biết. Lala, nhân viên anh ta vừa được thưởng Anh Dũng Bội Tinh Ngôi Sao Bạc cũng muốn đi. Viên đại úy nhìn anh ta, nói: “Được rồi, anh sẽ là người đi sau”. (Chịu trách nhiệm an ninh mặt hậu đoàn xe). Charbonneu nhận lãnh trách nhiệm và cùng mấy người trong nhóm lên chiếc xe thứ hai, ngồi cạnh tài xế, xạ thủ đại liên 50 và hiệu thính viên. Đằng sau anh ta, trung đội y tá trên chiếc xe chót, một xe cần trục. Hai chục chiếc xe chở đầy đạn dược, thực phẩm, y tế, v.v… cùng nhân viên văn phòng, hỏa đầu quân, thợ máy, nhân viên tiếp liệu đi theo với nhiệm vụ giữ an ninh.
Họ lên đường lúc quá trưa một chút. Viên đại úy ngồi trên xe Jeep đi đầu. Chạy trên QL 1. Họ chẳng thấy ai. Dân chúng núp trong nhà. Có một thằng bé Việt Nam đứng bên đường, hoàn toàn một mình. Khi đoàn xe đi qua thằng bé đưa ngón tay cái lên ra hiệu số 1 (tốt).
            Charbonneau nghĩ rằng đó là ấn tượng đẹp. – thằng bé và gia đình nó sẽ gặp khó khăn lớn nếu Việt Cộng thấy nó làm như thế. TQLC nhìn xuống sàn xe, chẳng ai cười vì họ không biết gì đang đợi họ đây. – Và đưa tay ngoắt lại thằng bé.
Gần tới cầu An Cựu, xe dừng lại. Charbonneau lo lắng chờ đợi. – một chếc xe GMC đang nghiêng xuống đường – bèn bước ra khỏi xe. Anh bước qua bên lề đường vói nhìn lên trước. Mấy chiếc xe đầu đang chạy chậm chậm. Anh ta tự hỏi không biết có việc gì rồi quay lại xe và cầm máy gọi viên đại úy. Bất thần có tiếng nổ dữ dội. Chiếc xe của viên đại úy bị cháy. Tiếng súng nhỏ nổi lên.
Tiếng của sĩ quan quản trị đại đội (qua hệ thống bộ chỉ huy quân vận) bất thần xen vào trong máy điện đàm. Ông ta nói với trung úy Charbonneau rằng ông đang đảm trách công việc, yêu cầu tiếp tục di chuyển.
Phía trước, các xe GMC rú hết máy vượt qua cầu, xe Charbonneau tiếp theo. Anh ta biểu tài xế dừng lại bên chiếc xe Jeep đang cháy rồi nhảy xuống xe tìm viên đại úy và người tài xế trong khi khẩu đại liên 50 bắn yểm trợ cho anh ta. Charbonneu không tìm thấy ai hết. Trước mắt họ, đoàn xe tiếp tục đi vì vậy anh ta phải nhảy lên xe chạy cho kịp. Đoàn xe chạy tới, gặp một bùng binh có trạm xăng Shell bên đường rồi tiếp tục qua một đoạn hai bên là ruộng. Và rồi – Charbonneau không thể tin được – quân CSBV chạy xuyên qua đám ruộng, bắn vào các xe vận tải. Mọi người bắn trả lại. Cây đại liên 50 trên xe Charbonneau nã đạn, TQLC trên các xe chạy phía sau dùng M-16 bắn lốp bốp về phía địch. Toán hỏa lực thì phản công bằng đại bác M-79. Nước và bùn văng lên ở các đám ruộng. Quân CSBV chúi đầu vào các đường rãnh, đường hầm, không bắn lại nữa.
Đoàn xe cứ lo bắn để chạy, phía trước, hai bên hông và đằng sau.
            Mấy hôm trước, mồng một Tết, Charbonneau đã lái xe đi Huế, khi dân chúng đang làm lễ năm mừng mới. Anh ta có cho dân chúng rượu vang, kẹo. Bây giờ thì thành phố vắng hoe, mặt tiền các cửa hàng chất đầy củi cây vì quân địch dựng công sự chiến đấu. Quân địch làm công sự như vậy hai bên đường cho tới khu MACV, phía ngoài cổng thì hẹp lại như cái cổ chai. Charbonneau nhìn lui, không thấy chiếc xe cần cẩu chạy theo sau. Anh ta bèn chạy lui nói với toán hỏa lực quay lui tìm chiếc xe nầy. Một người lính trong bọn tỏ ý chán nãn, anh ta không muốn chạy giữa lằn đạn một lần nữa.
– “Gắng lên.”
Người lính gần như muốn xin lỗi:
- “Chúng tôi là xạ thủ vũ khí chống máy bay.”
- “Chúng ta không thấy chiếc máy bay nào. Anh có thể bắn chúng nó. Đi đi.”
Anh lính lái xe lách ra khỏi đoàn xe đang ngừng, tìm cách quay lui thì chiếc xe cần cẩu trờ tới. Viên đại úy bị mảnh đạn ở sau lưng. Tài xế của ông ta thì phía trên mắt cá chân bị rách đong đưa mấy miếng da, xạ thủ cũng ở đây, gò má bị mấy vết sứt và người y tá có bộ râu như ghi-đông xe đạp xử dụng súng tiểu liên Thompson đang cúi xuống chăm sóc cho những người bị thương nầy. Có mấy miếng gỗ được dùng chèn thùng nước xe bị bắn bể. Mấy người lính VNCH mang cáng tới cho một người bị thương. TQLC mở cáng ra, thận trọng đặt người tài xế lên đó rồi nhẹ nhàng khiêng vào trạm xá.
– “Lẹ đi, anh lính nằm trên cáng nói, tôi sắp chết rồi đây. Nhanh lên.”
Charbonneau bước vội vào trạm xá theo tài xế. Y Sĩ Hamilton khám và chích cho anh ta một mũi thuốc. Người lính TQLC nhìn chằm chằm vào chân anh ta. Hamilton lấy kéo cắt mấy miếng da tòn ten đi.
Charbonneau quay lại sân trong MACV. Vài TQLC hỏi anh ta bao giờ thì trở lại Phú Bài. Chẳng ai biết gì cả. Có mấy chiếc xe tải bị hỏng, chiếc thì bể vỏ xe, chiếc chảy bình nước. Các thợ máy đang sửa xe thì có pháo kích. Đạn hú và nổ trong sân. Ai nấy tìm chỗ núp. Charbonneau lăn xuống gầm một chiếc xe tải trước khi kịp nghĩ ra đạn súng cối nổ sát mặt đất. Thêm mấy loạt đạn bắn vào nữa nhưng chẳng ai bị thương, chỉ làm cho một chiếc xe GMC thủng lỗ chỗ mà thôi.
Tới tối, Charbonneau, viên đại úy bị thương, y tá, và một số TQLC mang những người bị thương băng qua một lỗ nơi vách tường để đi vào trong tầng đầu của một tòa nhà chờ trực thăng đến tải thương. Y tá hỏi anh tài xế bị thương ở chân cần chích thêm morphine cho đỡ đau không.
Rõ ràng người nầy đang đau nhưng anh ta lắc đầu. “Không.” – Anh ta nói, anh không muốn ghiền. Anh thường chịu đau đã quen.
Charbonneau nghĩ thật là mai mỉa. Trước kia anh lính nầy bị bắt gặp ngủ gục khi đang gác và bị giữ ở Việt Nam vì hút cần sa nhưng bây giờ thì lại chứng tỏ can đảm khi đang bị thương.
Cuối cùng có tin trực thăng tới bãi đáp ngoài bờ sông, phải đem thương binh đi, theo con đường thường đi; trời đang mưa và sương mù. Hai chiếc Sea Knight từ hướng Phú Bài bay tới, không bật đèn. Máy bay nhận thương binh xong bay đi liền. Đại úy đại đội trưởng Đại Đội Alpha, mặc dầu đang bị thương, quyết định ở lại. Ông ta quay lại MAC.V cùng Charbonneau lo chuẩn bị đoàn xe tải.
Buổi sáng. Họ lại đem thương binh ra bãi đáp. Thỉnh thoảng trực thăng tới nhưng chỉ chuyển ai bị thương nặng đi trước. Một anh TQLC, thân mình bị băng bó bốn nơi, khấp khiểng ra tới bãi đáp ngồi chờ với những người khác trong đám cây cọ và bao cát làm công sự. Sĩ quan phi hành nói có một chiếc trực thăng khác đang trên đường bay tới. Khi Charbonneau thấy đó là chiếc trực thăng Quân Đội Mỹ đang bay tới hướng họ – không phải máy bay của TQLC – hạ xuống, anh ta bèn chế giểu anh sĩ quan phi hành. Anh nầy bèn nói cho biết có nhiều trực thăng của TQLC bị bắn hạ, không có cách nào khác. Chiếc máy bay vừa đậu lại thì anh thương binh bị băng 4 chỗ cùng những người khác lên tàu, một viên trung úy bị băng quanh đầu tới máy bay.
Người trưởng toán phi hành đuổi người lính ra khỏi máy bay, nhường chỗ cho viên trung úy. Charbonneau nhìn chằm chằm vào viên trung úy ấy một lúc và nghĩ: “Với tên nầy thì trước đàn bà và trẻ em, y muốn được trước. Trông y hoàn toàn lúng túng và sợ hãi.”
Chiếc máy bay cất lên. Charbonneau nhận ra rằng anh vừa chứng kiến một cảnh tồi tệ của con người có cấp bậc và đặc quyền ưu tiên: Viên trung úy trông có vẽ bị thương không nặng lắm. Truyền tin báo cho biết khoảng hai giờ đồng hồ nữa sẽ có trực thăng tới. Nghe vậy, anh TQLC nói anh sẽ chờ tại MAC.V. Charbonneau nói với người lính anh ta sẽ dìu anh lính về nhưng anh ta cám ơn rồi khập khểnh bước đi.
Mấy ngày sau, viên đại úy bị thương ra lệnh cho Charbonneau trở về liên lạc với tiểu đoàn. Anh ta trở về bằng tàu Hải Quân, đi chung với vài người dân Việt Nam, các TQLC tử trận và cái chân của người tài xế đựng trong cái bao.
Mãi đến ngày 4 tháng Hai, trung tá Gravel vẫn còn ở tại MAC.V. Ông ta chẳng có gì nhiều để lựa chọn. Toàn bộ tiểu đoàn ở Huế, ngoài ban tham mưu và các trung đội thuộc Đại Đội Alpha 1/ 1 thiếu hụt quân số và binh sĩ thương vong. Ngày 2 tháng Hai, hai trung úy Smith và tiền sát viên của Alpha, Perkins – cố về lại tiểu đoàn bằng chuyến xe của Đại Đội Hotel 2/ 5. Khi qua An Cựu thì bị phục kích, các thùng đạn trên xe bị đổ và đè chết Perkins. Sĩ quan kia, trung úy Ray. L. Smith, trung đội trưởng Trung đội 2 chỉ huy đại đội Alpha thay cho Gunny Canley.
Sáng ngày 4 tháng Hai, Gravel quyết định tiến công.
            Mục tiêu bây giờ là trường Janne D’ Arc và nhà thờ (nhà thờ nhà nước – tên thường gọi – ngd), cách MAC.V khoảng một trăm mét. Gravel biết có lực lượng quân CSBV ở đây. Buổi sáng ngày 1 tháng Hai, dân chạy nạn đổ vào MAC.V thật đông, trong số có vài bà xơ người Việt. Gravel nói chuyện với họ bằng một thứ tiếng Pháp không được gãy gọn lắm do học được khi còn ở trường cấp ba. Các bà xơ nhỏ bé ăn mặc áo tu đen trắng nầy cho biết quân CSBV đã chiếm nhà thờ. Họ nói: “Ít cũng có khoảng một trăm người, chia làm bốn, ở trong các lớp học và trong phòng ngủ của các bà “xơ”. Tiến đánh lực lượng nầy gồm có hai trung đội rưởi của Đại Đội Alpha, do Smith và Canlay chỉ huy.
TQLC tiến vào mục tiêu, quân CSBV bắn như mưa. Lính bị thương khi họ chạy vòng qua góc nhà hay tấn công vào cửa. TQLC bắt đầu dùng chất nổ C-4 và hỏa tiển tấn công để phá hủy vách nhà và sân tường thành những lỗ có thể tiến quân qua được. Đó là một cố gắng bền bĩ và chậm. Cuối cùng. Họ tấn công thẳng vào địch quân. Các lớp học nầy là một khu tứ giác lớn, ở giữa là sân rộng.
            Nhà thờ nằm cạnh bên lớp học, giữa những hàng cây xanh.
            Trung úy Smith và Canley cho quân tiến lên, bắn vào vị trí địch. Hai người dẫn đầu, chạy từ chỗ núp nầy tới chỗ núp khác, vừa chạy vừa la xung phong và điện đàm với Gravel qua máy truyền tin. Hạ sĩ Jackson dừng lại với tiểu đội. Hỏa tiển B-40 do địch bắn nổ liên tiếp, mảnh bay lung tung. Chưa bao giờ anh ta nghe hỏa tiển nổ nhiều như vậy. “Chúa ơi! Thiệt là cảnh kinh hoàng!” Anh nghĩ thế. Hai quả đạn nổ trên mái nhà, làm vài người bị thương. Ở phía bắc, nơi Đại đội 2/ 5 đang tấn công vào ty Ngân Khố, trận đánh đang gay cấn. Hơi cay của Đại Đội 2/5 xử dụng bay ngược về phía Đại Đội Alpha làm cho cuộc tấn công bị ngưng lại.
            Gravel đang ở trên máy, nói với bạn:
            – “Ernie Cheatham, đừng bắn hơi cay nữa”.
            – “Xin lỗi ông bạn già.”
Các trung đội tấn công, xông vào nhà thờ, bất thần lựu đạn nổ âm ầm vào toán hỏa lực tiên phong. Mấy TQLC vừa chết vừa bị thương. Lựu đạn nầy từ trên mái quăng xuống.
Địch núp trên nóc nhà thờ.
TQLC phải bò ngược trở lại điểm xuất phát.
            Smith gọi máy hỏi Gravel: “Chúng tôi làm gì bây giờ?”
            Gravel nghĩ tới các bà xơ đang tạm trú ở MAC.V với lòng biết ơn, nhưng ông ta không có cách chọn lựa nào khác:
            -Bắn trốc mái đi.
            Smith điều một chiếc tăng lên và bắt đầu tác xạ. Một toán đại bác không giật cũng lên, hòa âm ầm ầm cùng đại bác xe tăng. Nhà thờ rung rinh, ngói, gỗ bay khỏi mái. Cột và cửa sổ mặt tiền đổ sụp xuống thành đống. Địch trên nóc nhà thờ đều chết cả. TQLC lại tấn công, bắn đục tường để lấy đường vào bên trong, diệt các toán CSBV trong các phòng học và các phòng ngủ nhỏ của các xơ. Địch chiến đấu từng thước đất một. Thật là một cuộc đổ máu kinh hoàng. Chẳng còn lệnh lạc gì nữa hết. Toán hỏa lực chạy vào các lớp học, bắn như điên như cuồng, quăng lựu đạn nổ ầm ầm. Khói bay mù mịt, tiếng la hét, vôi vữa bay khắp nơi, xác người nằm ngỗn ngang. TQLC thấy mình đã chiếm được cánh bên nầy của trường học, bắn nhau với địch đang núp ở cánh bên kia, cách nhau bằng sân trường. Trung sĩ Gonzalez, hôm qua đã bị thương hôm nay vẫn chiến đấu, đá bung cửa một lớp học, xộc vào trong cùng với mấy TQLC của Trung Đội 3. Từ hai cửa sổ phía trước, hỏa tiển B-40 bay tới. Gonzalez cầm hỏa tiển LAWW lên nhắm. Anh ta bắn ít nhất 10 trái hỏa tiển, lửa và khói bùng lên ở vị trí quân CSBV. Súng ngưng nổ.
            Thêm một ngày Gonzalez chiến đấu.
            Quân địch rút khỏi nhà thờ và trường Janne D’ Arc. TQLC vào chiếm đóng. Kiểm điểm quân số: TQLC hai người chết, 20 bị thương.
Hạ sĩ Jackson cùng với binh lính của anh ta tiến vào một trong các phòng học, bỗng phòng bên cạnh có một tiếng nổ kinh hồn làm rung rinh cả tòa nhà: Địch ở bên kia bắn qua một quả B-40. Hạ sĩ Jackson cùng mấy người lính TQLC chạy băng qua hành lang đầy đặc khói, xông vào một phòng khác. Tấm sắt ở trên của sổ văng vào trong lớp. Hai TQLC bị thương té xuống và – Chúa ơi! Gonzalez nằm dài trên nền nhà, ruột lòi ra. Bụng anh ta trúng một trái hỏa tiển. Jackson không muốn để anh ta lại một mình trong đống vữa, gạch vụn – Anh ta không muốn quân CSBV có cơ đụng đến thân thể bạn anh, anh cùng hai TQLC khác kéo Gonzalez tới một cánh cửa bị đổ. Rồi họ chạy lui phía sau trường học, băng qua khỏi ngôi nhà thờ nhỏ nơi Gravel đặt bộ chỉ huy tạm.
Gravel nhìn lên. Kinh ngạc. Trung sĩ Gonzalez, người lính TQLC tuyệt vời đã chết. Họ đặt xác Gonzalez phía sau ngôi nhà thờ nhỏ cùng với những người bị thương khác. Có hai phóng viên báo chí đang đứng ở đây, họ chụp hình các người chết và bị thương. Họ đang nói chuyện đùa, Jackson nghĩ có lẽ họ là người Pháp. Jackson cũng chẳng thèm lưu tâm, chạy trở lui với trung đội của mình.
Gravel bắt đầu tiến lên nữa, tìm một vị trí an toàn. Ông ta thấy hai tu sĩ cùng TQLC chạy tới nhà thờ của trường Janne D’ Arc. Các tu sĩ nầy vừa được giải thoát khỏi tay quân CSBV. Gravel lấy làm lạ tự hỏi tại sao họ vẫn sống được – TQLC thường tự động bắn vào những ai mặc đồ đen. Mặt các tu sĩ nầy thì trắng: Một là người Pháp, người kia là Bỉ. Các tu sĩ hết sức giận dữ, một người thì có vẻ sốc vì súng đạn, người kia thì thét vào mặt Gravel vì nhà thờ bị bắn sụp.
            Ngoài việc xin lỗi, Gravel chẳng biết làm gì hơn. Ông ta cũng biết chẳng còn chọn lựa nào khác. Ông ta đi băng qua đám gạch ngói đổ và nhìn lên mái nhà thờ. Quân CSBV phá vở mái hiên bằng gỗ, Gravel nghĩ bọn địch đeo đẳng quá lâu ở đây, và thế là qua một buổi chiều đánh nhau dài dằng dặc, tốn hao xương máu.
            Trung sĩ Gonzalez đánh giặc giỏi và bây giờ thì anh ta đã qua đời!
Buổi chiều khi hai trung đội rưởi của Đại Đội Alpha đang đánh nhau với địch ở trường Janne D’ Arc, thì các binh sĩ còn lại thuộc Trung Đội 1 bị mắc kẹt ở Quảng Trị lên đường về Phú Bài. Ở đây, họ nhập với Đại Đội Bravo 1/ 1 và tiến ra QL. 1.
Xe chất đầy đạn dược, không còn chỗ ngồi, hạ sĩ Edward F. Neas của toán súng máy Trung Đội 1 chỉ còn chỗ đứng mà thôi. Nếu có gì được xem là điển hình cho người lính bộ binh TQLC trong chiến tranh Việt Nam thì có thể xem Neas là một con người thích hợp với điều đó. Quê ở Queens, to con, gồ ghề, tóc đen, 19 tuổi, bỏ trường năm 16 tuổi, vì hay cãi lại cha mẹ, vào TQLC năm 17 tuổi, tình nguyện qua Việt Nam năm 18 tuổi vì muốn làm một cái gì đó, xăm hình con phượng hoàng, quả địa cầu và mỏ neo (huy hiệu TQLC) lên bắp tay và viết mấy chữ DTK (Down To Kill) vào lưng áo giáp. Anh ta ghét quân CSBV chỉ vì họ bắn vào anh và bạn bè anh, và đánh giặc thật hay chỉ vì anh ta là TQLC. Khi được về hậu cứ thì anh ta nghe radio, uống vài loon bia và hút thuốc với bạn bè.
Tới gần sông An-Cựu, đoàn xe chạy qua những chiếc xe tăng do Mỹ sản xuất đã bị hư hỏng, đâm đầu vào các ngôi nhà gạch hai bên đường, súng đại bác bị bung khỏi pháo tháp, rớt xuống bên cạnh. Có vẽ như những xe nầy bị B-40. Neas và bạn anh im lặng, căng thẳng, nhìn ra hai bên đường, súng sẵn sàng trong tay. Bất thần có mấy tiếng nổ, tiếng súng nhỏ từ trong những dãy nhà hai bên đường bắn ra. TQLC bắn trả, xe dọt nhanh tối đa. Neas tưởng như xe chạy có hai bánh hướng nhanh về MAC.V. Vào tới nơi, phóng xuống xe và họ sẵn sàng đứng vào vị trí dọc các vách tường. Quanh khu MAC.V đầy xác quân CSBV, kẻ thì vắt trên hàng rào, nhiều xác nằm dài trong sân, có xác mắc trong kẽm gai, cứng đơ và đã sình.
Neas nghĩ: “Chúa ơi, trông như trong một cuốn phim chết tiệt.”
Có người báo cho biết: “Đại úy Batcheller bị thương nặng, trung úy Perkins chết, trung sĩ Gonzalez chết, bác sĩ Brooklyn cũng chết.”
            Neas bị xúc động mạnh. Kẻ thù đã giết mất những người giỏi nhứt. Nhưng Neas tự an ủi, ít ra cũng còn Canley, những người bị thương và tất cả mọi người.
Chỉ mới 6 tuần trước, đại đội thực hiện một cuộc tấn công quân CSBV trong các hầm hố ở Cồn Tiên. Neas lom khom đằng sau một chiếc xe tăng khi chiếc xe nầy tiến tới. Một trong các xạ thủ đại liên bị đạn vào ngực. Y tá chạy lên, cũng trúng đạn và ngã xuống. Neas thấy Canley chạy vượt qua chỗ anh ta, ôm lấy người y tá bị thương bây giờ trông rất tơi tả, rồi nhanh như chớp quay trở lại, vừa chạy vừa bắn mà chẳng bị chợt da một chút nào.
Neas rất tin những người chỉ huy Trung Đội 1. Thiếu úy William R. Donnelly là một người dẻo dai, tóc vàng, vừa mới được gắn loon ra trường tại học viện Annapolis. Vì Neas và những người lính khác mới 18, 19 tuổi trông anh ta còn trẻ nên họ đặt cho Donnelly biệt danh là “Chú Bé”. Trong trung đội cũng có một anh trung sĩ, trung sĩ Josef Burghardt, 21 tuổi, dáng người rắn chắc, đẹp trai và thông minh. Anh ta từ Nam Tư di dân đến Mỹ hồi 5 tuổi, và muốn tạo sự nghiệp trong TQLC. Anh ta xăm một cái hình lớn biểu tượng cho TQLC/ Hoa Kỳ trên bắp tay. Năm 1966-67, anh đến Việt Nam một lần, khi ở Sư đoàn 9, được thưởng Anh Dũng Bội Tinh Ngôi Sao Đồng – như anh ta thường nói, chẳng nghĩa lý gì cả -, khi anh ta cùng đồng đội phản kích một cuộc tấn công của Cộng Sản sau khi đã bị thương.
Neas yêu mến Burghardt; anh ta là một TQLC giỏi, một người bạn, một hạng người có thể tin tưởng hết lòng. Cả Trung Đội 1 ai cũng có lòng tin anh ta như vậy.
Thiếu úy Donnelly và trung sĩ Burghardt không có thì giờ nghỉ ngơi một chút sau khi sắp xếp đơn vị lại tại MAC.V. Viên thiếu úy được lệnh đưa trung đội của anh ta, một trung đội lấy từ đại đội Bravo và hai cái xe tăng nhỏ có trí súng đại bác đi tìm xác hai TQLC bị giết ở phía đông MAC.V, quanh sân vận động Huế. Họ đã để lại hai xác chết nầy trên đường. (TQLC có truyền thống là không được bỏ xác đồng đội lại sau khi rút đi).
TQLC tiến ra, vòng theo các đường phố và con hẽm, không ai biết chắc việc gì sẽ xảy ra. Trước đây, họ chưa bao giờ chiến đấu trong thành phố. Mọi người ai cũng căng thẳng thần kinh. Bất thần có bóng người di chuyển phía trước, thập thò ở cái hố bên đường. Tức khắc, hai TQLC quỳ xuống và nổ súng, chiếc xe tăng có gắn đại bác đi đầu cũng nổ súng. Mấy bóng người gục xuống. Khi TQLC tiến lên, họ bối rối vì quang cảnh trước mặt: Dưới đáy hầm và bên lề đường là xác mấy người Việt Nam mặc đồ dân sự. Có thể đó là quân CSBV xâm nhập ngụy trang dân sự. (đơn vị 1/ 1 đã gặp rắc rối vì tình trạng nầy) hoặc cũng có thể họ là người dân thường thật sự.
Dù sao thì cũng có vài TQLC chẳng quan tâm lắm.
Cuộc tuần tiểu tiếp tục. Có tiếng súng AK nổ phía trước. Ngay phát súng đầu tiên, Burgdardt và Neas nằm sát xuống đất, bên chiếc xe đại bác đi đầu. Xe quay súng về phía căn nhà nhỏ nằm
Có người phát hiện ra mấy cái xác họ đang đi tìm nên bốn TQLC chạy lên trước để nhận xác. Súng AK và B-40 lại nổ khiến ba người té xuống đường, bị thương. Thiếu úy Donnelly và trung sĩ nhứt James R. Bresnahan cùng Dagley, cả hai thuộc Đại Đội Bravo chạy lên trước. Lính TQLC bắn như điên để che cho những người nầy. Cách khoảng mấy chục thước phía trước, địch bắn tới, đất như bị cào lên chung quanh. Donnelly bị mấy mảnh đạn hỏa tiển, nhưng ba người nầy vừa khom mình chạy vừa bắn để kéo mấy người bị thương lui.
Trung đội tập trung người bị thương và bắn ngược lại phía đường cũ: MAC.V. Thiếu úy Donnelly đem trung đội tiến ra hướng tây để tham chiến cùng những người còn lại trong đại đội. Họ vào một ngôi nhà lớn và Donnelly thấy mình đang đứng hàng đầu. Anh ta điện đàm với trung úy Smith, người muốn anh ta rút lui. Tuy nhiên, lúc ấy trời đã tối, di chuyển trong đêm rất nguy hiểm. Vì vậy, trung đội ở lại. Chỉ còn có 19 người. Donnelly gọi điện cho Smith bắn súng cối yểm trợ cho anh ta.
Trung sĩ Burghardt trải qua một đêm ngồi bên cửa sổ, nhìn qua đám ruộng và hàng cây phía bên hông. Thỉnh thoảng hỏa châu bắn lên, rọi xuống đường và các đám ruộng đầy nước. Ngay ở đây, nhìn qua cửa sổ, anh ta thấy quân CSBV. Họ đi từng đoàn, từng đoàn phía bên kia ruộng lúa, giống như đàn kiến, hướng về phía biển. Họ không mang súng, nhưng pháo binh hay súng cối cũng không được gọi tới tác xạ vào họ. Suốt đêm, quân CSBV an toàn di chuyển, không bị hề hấn gì, mang người chết và bị thương ra ngoài thành phố và mang đồ tiếp tế vào. Burghardt nghĩ: “Thiệt là ngu xuẩn.”
Hôm đó, đại tá Hughes ở trong MAC.V khi có pháo kích. Sau đó, có tin báo cáo là cầu An Cựu đã bị đặc công địch phá sập. Như thế, con đường bộ từ Phú Bài đi Huế bị cắt đứt. (Có vài cây cầu khác nữa nằm phía tây cầu An Cựu, cũng trên sông đào nầy, một nhánh sông từ sông Hương chảy vào, nhưng tất cả cầu nầy còn nằm trong tay địch). Đó là tin xấu, nhưng địch cũng không may gì. Họ đã để một thời gian quá lâu mới phá cầu. Đó là chỗ hỏng lớn trong kế hoạch hành quân của họ. Cây cầu đã giúp đưa các Đại đội A/ 1/ 1 và G/ 2/ 5 vào MAC.V ngay ngày đầu tiên, cứu được nơi nầy, thiết lập điểm phòng ngự, chuẩn bị cho cuộc tấn công của Hoa Kỳ. Cầu nầy giúp đưa thêm vào Huế nhiều binh lính và tiếp liệu. Đến khi quân CSBV phá cầu An Cựu thì đã có 5 đại đội ở Nam Huế. Xem xét tình hình địch, Gravel thấy có lý do để mỉm cười.
Sáng hôm sau, thứ Hai, ngày 5 tháng Hai, hai Đại Đội Alpha và Bravo bắt đầu tiến chiếm các ngôi nhà dọc theo ruộng lúa. Hạ sĩ Neas cùng toán súng máy chạy qua một con hẽm, bắn vào các cửa sổ ở những ngôi nhà trước mặt họ. Quân CSBV bắn lại như mưa.
Trung sĩ Burghardt vẫn còn ở trong căn nhà lớn với hạ sĩ Norris Brennen, anh nầy là tiểu đội trưởng súng máy, đang bắn qua bên kia đường. Burghardt gọi máy cho Donnelly báo rằng cần thêm hỏa lực hỗ trợ. Anh ta biểu Brennan tránh xa các cửa sổ cho đến khi họ có thể xử dụng xe tăng được hay sẽ làm gì đó rồi rút ra khỏi hành lang. Anh ta mới đi được có mấy bước thì nghe Brennen bắt đầu nổ súng trở lại. Rồi anh ta nghe có tiếng vũ khí đụng lách cách trên sàn nhà. Burghardt vội quay lại phòng. Brennan là người chậm chạp, để súng cướp cò trúng mặt, máu tuông ra.
Neas đang trí súng vào thành cửa sổ để bắn thì thấy mấy TQLC đang ở phía dưới đường vội vã khiêng một người ra cửa. Đó là Brennan, đầu anh ta băng kín. Còn sáu tuần nữa thì anh ta hết phiên ở Việt Nam, nhưng anh bị xuất huyết cho tới khi chết.
            Có nghĩa là bây giờ hạ sĩ Neas làm tiểu đội trưởng.
Vài phút sau, tiếng xích sắt xe tăng kêu leng keng dưới đường. Xe dừng lại, pháo tháp quay chậm chậm về phía ngôi nhà có quân CSBV ẩn núp, bắn mấy phát. Đại bác 90 ly nổ bum lên, người chỉ huy bắn đại liên 50 vào các cửa sổ, gạch ngói bay lung tung, khói lên cuồn. Địch chạy ngược lui cửa sau, trợn tròn mắt kinh hoàng, không bắn được phát súng nào, chạy vượt qua khoảng sân sau. Burghardt chạy tới cửa sổ tầng lầu 2. Cách khoảng mấy chục thước, quân CSBV đang bò. Vài người giật bắn lên và rơi xuống vì trúng đạn. Số khác chạy thoát được. Burghardt nổ súng nhưng cũng không chắc anh ta có gặt hái được gì.
Cuối cùng, anh ta ngưng bắn, mang súng M-16 chạy xuống cửa sau nơi quân CSBV chạy ra. Một lính địch nổ súng. Anh ta bắn lại một tràng, địch ngã ngay xuống sân. Rồi một tên phóng ra, anh ta bắn hạ, lại một tên nữa phóng ra, anh bắn hạ, cứ thế mà anh ta đã hạ được nhiều địch quân.
Một lúc, tình hình yên tĩnh trở lại. TQLC hé nhìn qua các khe cửa, Họ thấy có 9 địch quân chết nằm chồng lên nhau mà các đồng chí của họ không kéo đi được. Gravel thấy tự hào về thành quả đó. Quả thật đơn giản là quân CSBV không thể nào đương cự nỗi với những người lính TQLC trẻ trung của ông ta.
Các thương binh TQLC vẫn tiếp tục chiến đấu hoặc được đưa vào trạm xá trong MAC.V. Lúc tình hình lắng dịu, y sĩ Hamilton tới bộ chỉ huy của đại tá Hughes. Ông ta đang đứng đó thì có bức điện gởi tới cho đại tá Hughes. Mấy TQLC phát hiện quân CSBV trong một ngôi chùa và xin phép bắn súng cối vào ngôi chùa ấy. Hughes làm theo chỉ thị về cuộc chiến ở Huế, nên gọi điện xin phép bộ chỉ huy LLĐN của tướng LaHue ở Phú Bài, rồi từ đây chuyển cho bộ tham mưu tướng Robertson tư lệnh Sư đoàn 1 TQLC ở Đà Nẵng. Từ đây, điện lại chuyển cho bộ tham mưu tướng Cushman. Hai giờ sau, Hughes nhận được lệnh cho pháo kích ngôi chùa nhưng kèm theo lời khuyến cáo giảm thiểu tối đa sự hư hại ngôi chùa cũng như những kiến trúc quanh chùa. Tới khi TQLC bắn đại bác không giật vào chùa thì quân CSBV đã rút mất rồi.
Hôm sau, ngày 6 tháng Hai, trung sĩ Burghardt leo lên tầng trên của ngôi nhà lớn khi anh ta nghe la có quân địch ở phía sân sau. Anh ta chạy tới cửa sổ nhìn xuống thấy có một Việt Cộng và hai quân CSBV đang núp dưới mấy cây dừa ở trong sân, lặng lẽ quan sát vị trí của TQLC. Họ không biết là họ đã bị phát hiện. Burghardt đưa súng lên nhưng vì lá dừa che nên không trông rõ địch. Anh ta mang súng chạy xuống tầng dưới tìm một cửa sổ khác trông ra. Bây giờ anh ta thấy rõ. Họ đang ngồi quay lưng về phía anh. Anh ta từ từ đưa súng lên vai và nhắm bắn. Một lính CSBV đâm đầu gục xuống gốc cây. Phát thứ hai: Anh kia rơi phịch lui sau. Cả trung đội nổ súng: Tên địch thứ ba và lá cây như bị xé nhỏ ra.
Dù vậy, họ không phải thanh toán hết đám địch trong khu nầy.
Một lúc sau đó Burghardt đang đứng ở tầng dưới nói chuyện với trung úy Donnelly thì có tiếng nổ lớn phía sau bức tường họ đang đứng. Hai người lính TQLC đang đứng ở đây, tai bị vưng lên, phủi bụi và chùi máu phía sau cổ. Một mảnh đạn xuyên qua áo giáp và mũ sắt. Anh ta nhận ra quân CSBV đã dùng ngay chính hỏa tiển của họ để bắn.
Hai người đều được Chiến Thương Bội Tinh nhưng không ai chịu di tản cả.
            Trong tuần đầu tiên chiến đấu trên đường phố, Đại đội 1/ 1 lấy làm vui vì đã hoàn thành nhiệm vụ trong trận đánh Huế. Từ ngày đầu tiên, Gravel đã gọi điện tiếp xúc với bán Phi Đội Cat Killer của Không Quân Hoa Kỳ, họ đang đóng gần MAC.V và đang bị quân CSBV bao vây. Họ đào hầm trong nhà, đặt mìn claymore chung quanh nhà, chờ giải cứu. Mỗi khi Đại Đội Alpha hay Bravo tiến gần tới họ thì họ bị địch bắn rất gắt. Họ có một bản đồ và thông báo vị trí địch cho Gravel. Mỗi khi địch bắn vào nhà hay bắt đầu quấy rối bên ngoài thì họ chỉ điểm vị trí địch cho Gravel. Do đó, Đại đội 1/ 1 bắn súng cối vào vị trí địch, đẩy địch ra chỗ trống để dễ tác xạ. Được ít ngày, pin trong máy của họ bắt đầu yếu đi. Do đó, Gravel nói với họ gọi hạn chế giờ lại để báo cáo tình hình mà thôi. Một hôm, họ nghe được trong máy tiếng nói như thì thầm. Gravel biểu họ cố giữ liên lạc bằng việc lắc ống nói. Không Quân cố thả pin xuống cho họ nhưng lại lạc dấu. Cuối cùng Đại đội 1/ 1 chiếm lại được ngôi nhà và giải cứu họ. Đó là kinh nghiệm giữa 1/ 1 và toán phi công Cat Killer. Sau Huế các phi công nầy hết lòng giúp binh lính của Gravel.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét