Chủ Nhật, 10 tháng 8, 2014

Thơ Cao Tần : tâm trạng người di tản







Cao Tần, thơ người di tản buồn

Nguyễn Mạnh Trinh

Cao Tần Là một thi sĩ xuất hiện một cách bất ngờ trong thời điểm vô cùng đặc biệt. Lúc đó, là những năm đầu kế tiếp sau cuộc di tản của mấy trăm ngàn người Việt lưu lạc sang xứ người. Trong hoàn cảnh bắt đầu của một cuộc sống xa lạ, khởi đi từ những nỗi niềm mang theo, văn chương ở hải ngoại đã nảy mầm từ những tâm tư thương nhà nhớ nước của người Việt tị nạn sau một cuộc đổi đời. Cao Tần là một nhà thơ xuất hiện sớm nhất và cũng là một nhà thơ nổi bật nhất trong thời kỳ ấy. Vốn là một nhà văn đã thành danh ở Việt Nam và cũng là một ký giả có lối viết phiếm luận sắc bén, thơ Cao Tần đã được để ý từ những bài thơ đầu tiên.

Năm 1977, gần hai năm sau ngày 30 tháng tư năm 1975, trên tờ báo Bút Lửa có đăng mấy bài thơ của một thi sĩ danh tánh lạ hoắc ký tên Cao Tần. Những bài thơ ấy mới xuất hiện đã nổi bật ngay và gây một hiện tượng xôn xao cho độc giả. Nhiều người liên tưởng tới như những bài thơ của T.T Kh. đã tạo thành một nghi vấn cho văn học Việt Nam mà còn mù mờ chưa rõ ràng. Quả thực những bài thơ trên Bút Lửa ấy đã gây kinh ngạc cho độc giả. Mãi về sau này, mới biết Cao Tần là bút danh của nhà văn Lê Tất Điều hay nhà báo Kiều Phong, một người đã là một cây bút quen thuộc của hai mươi năm văn học miền Nam…

Ông sinh ngày 2 tháng 8 năm 1942 tại Hà Đông. Di cư vào Nam năm 1954 và di tản sang Mỹ năm 1975. Trước khi di tản ông là một nhà giáo và cũng là một ký giả ở Sài Gòn. Đã xuất bản truyện dài Đêm Dài Một Đời đã đoạt giải thưởng của Trung Tâm Văn Bút Việt Nam, và các tập truyện ngắn Khởi Hành, Kẻ Tình Nguyện, Quay Trong Gió Lốc, Phá Núi, Người Đi, Những Giọt Mực.

Lý do mà những bài thơ đầu tiên mang tên Cao Tần được chú ý thật là giản dị. Bởi tâm sự của Cao Tần khi làm thơ cũng là tâm trạng chung của những người Việt di tản lúc ấy. Với ngôn ngữ vừa bi hùng vừa tha thiết, diễn tả lại một tình trạng tâm lý của những người còn xa lạ với cuộc sống mới và tiếc nuối những tháng ngày của cuộc đời xưa cũ. Lúc ấy, một nền văn học lưu vong đang dần dần hình thành. Ở những ngoái nhìn quá khứ và băn khoăn từ những bước chân đi đến tương lai. Ai mà chẳng cùng chung suy tư và ở những câu thơ Cao Tần lại gợi lên từ tâm cảm yêu nước nhớ nhà và ngôn ngữ mẹ đẻ đã thành thân yêu vô cùng trong những ngày bắt đầu tạo dựng một cuộc sống mới ở xứ người...

Có lẽ hồi trước 1975, nhà văn Lê Tất Điều cũng không làm thơ và sau này khi loạt thơ Cao Tần chấm dứt ông cũng ngưng làm thơ. Tại sao ông chỉ làm thơ trong khoảng thời gian đó?

Có lẽ chỉ có một mình tác gỉa mới có thể trả lời câu hỏi khó này. Trong một cuộc phỏng vấn của đài phát thanh Á Châu Tự Do RFA do Mặc Lâm thực hiện thì ông giải thích “Tự nhiên tôi không có cảm hứng viết truyện ngắn nữa. Thế rồi thơ nó lôi cuốn bởi vì trong bài thơ công việc sáng tác nó ngắn hơn nó không đòi hỏi thời gian nhiều...”

Nhà văn Võ Phiến có viết đại ý là Cao Tần làm thơ như người kể chuyện và đó chính là một yếu tố để thơ ông gần gũi với cuộc sống hơn và tạo sự chú ý của độc giả.

Trong bài đề tựa tập thơ Cao tần do nhà xuất bản Văn Nghệ phát hành, nhà văn Võ Phiến nói rằng thơ của Cao Tần kết cấu như truyện và là những truyện ly kỳ nữa nên gợi được sự tò mò muốn tìm hiểu của người đọc. Và ông nêu ra vài thí dụ bài thơ Kho tàng kể về chuyện của một anh chàng tị nạn Cù Lần...

Nội dung của bài thơ cũng chỉ là một anh chàng tị nạn lúc nào cũng kè kè bên mình một cái túi không một phút nào rời xa. Bạn bè tưởng là anh chàng biển lận nên đè anh ta xuống để mở cái túi bí mật kia ra. Và cũng chẳng có gì ngoài một lạng vàng, chiếc khăn tay và những danh thiếp cũ. Nhưng là cả một kho tàng của một người di tản và nhắc lại người và cảnh đã xa. Vàng thì nhắc đến người mẹ:

“... miệng túi mở ra kho tàng rơi tung toé một lạng vàng trong giấy gói đơn sơ một đứa hét “vàng này thằng em bé không mại đi mày tính để đem thờ “Sư chúng mày, vàng đem theo bốn cục ông bán ba, bắt gọn mấy trăm đô còn cục này tàn đời ông cóc bán lúc lên đường bà cụ dúi tay cho”
Còn khăn tay thì nhắc đến người vợ bây giờ đã xa cách ngàn trùng:

“...một chiếc khăn tay cũ xì cũ xịt mầu nâu già thêu mấy chữ xanh xanh “giẻ rách gì đây hở thằng chết tiệt “Khăn vợ tao trao ngày khoác áo nhà binh”
và những tấm danh thiếp, ôi những tấm giấy làm nhớ lại những tên đường những tên người đã vào xa xưa:

”đáy túi nhỏ thì đầy danh thiếp cũ những tên người tên tỉnh đã xa xưa những dòng vội ghi hẹn hò gặp gỡ những đường quen không trở lại bao giờ …Với danh thiếp những tên đường đã đổi những số nhà chớp mắt đã tang thương những chốn hẹn ngàn năm không trở lại những tên đời tơi tả khắp quê hương.”
Đọc xong bài thơ này chúng ta thấy thế nào?
Phải nói là rất xúc động anh Trinh à! Nhưng có khi chỉ cảm thấy thôi chứ diễn tả ra cái hay thế nào thì khó lắm. Phải có một lúc, đợi xúc cảm lắng xuống thì dễ dàng để thất bài thơ này độc đáo ra sao...

Chúng tôi cũng như những độc giả khác, chỉ cảm thấy rung động thôi và cũng phải loay hoay suy nghĩ để may ra có thể tìm được những điều mà mình cho là tâm đắc và tuyệt diệu. Bài thơ sống động quá với những ngôn ngữ đời thường mô tả những cuộc đối thoại chuyên chở được ý tình mà tác giả muốn đề cập đến. Có một chút diễu cợt nhưng chỉ là cảm giác thoáng qua để thay vào đó là sự thương cảm. Chỉ một túi nhỏ tầm thường của người di tản vỏn vẹn có thế mà sao lại coi như một kho tàng vô gia được ? Bởi vì những vật thể này không còn đơn thuần là vật thể nữa mà nó chứa đựng cả một trời quê hương và nhắc lại những người thân đã xa và những nơi chốn đã khuất biệt. Câu chuyện kể bằng thơ chỉ giản dị như thế nhưng lại gây ra sự xúc động đến vô bờ cho người đọc. Bởi nó đánh động đến tâm sự chung nên đầy ắp những chia sẻ…

Một bài thơ khác mà nhà văn Võ Phiến nhắc đến như một bằng chứng đơn cử cho lập luận của mình. Như bài ”Ta làm gì cho hết nửa đời sau”. Hình như đã có nhiều người lưu vong thốt lên lời nói đó mỗi khi bị ray rứt vì chuyện nước chuyện non...

“Dăm thằng khùng họp nhau bàn chuyện lớn gánh sơn hà toan chất thử lên vai chuyện binh lửa anh em chừng cũng ớn dọn tinh thần cưa nhẹ đỡ vài chai...”
như trong một cơn đồng thiếp, một chàng hào hùng;

“một tráng sĩ vung ly cười ngạo mạn nửa đời xưa ta trấn thủ lưu đồn nay đất khách léo lê đời rất nản ta tính sẽ về vượt suối trèo non sẽ có lúc rừng sâu bừng chuyển động những hùm thiêng cựa móng thét rung trời và sông núi sẽ vươn mình trỗi dậy và cờ bay trên đất nước xinh tươi...”
Và một chàng khác, thì lại muốn làm tượng thần tự do hỏa thiêu thân xác chính mình để làm đuốc soi đường cho những oan hồn bị trầm luân trong đáy nước bao la:

”Một tráng sĩ vô êm chừng sáu cối thần tự do giờ đứng ở nơi nào? Ta muốn đến leo lên làm đuốc mới Tự đốt mình cho lửa sáng xem sao Thần tự do giơ hoài cây đuốc lạnh Ta tiếc gì năm chục ký xương da Sẽ làm đuốc soi tìm trong đáy biển những oan hồn ai bỏ giữa bao la”
Và kết cuộc, chỉ là một cơn say, một tỉnh dậy giữa nỗi buồn của những người thấy mình bất lực giữa thế thời, mộng ước lớn mà bàn tay thì qúa nhỏ:

”... sàn gác trọ những tâm hồn bão nổi Những hào hùng uất hận gối lên nhau Kẻ thức tỉnh ngu ngơ nhìn nắng mới Ta làm gì cho hết nửa đời sau.”
Thật là cảm khái. Thật là cay đắng với những nỗi niềm của những kẻ sinh bất phùng thời lớn lên và trưởng thành trong những nghiệt ngã của đất nước chiến tranh. Thực trạng sao buồn quá! Câu hỏi như một tiếng than… Ta làm gì cho hết nửa đời sau?… Những thân phận lưu vong. Những nỗi niềm nhược tiểu.

Mỗi người tị nạn đều mang theo những kỷ niệm trong ký ức. Có những người vẫn còn vương vấn đến tận bây giờ. Có những buồn phiền, có những ray rứt. Nhà thơ Cao Tần có bài thơ nào diễn tả tâm trạng ấy trong nhiều bài thơ. Chúng ta thử đọc bài thơ Chốn Tạm Dung xem. Bản thân tôi đã sống ở đây ba chục năm, thế mà có lúc cũng có những nỗi niềm trống vắng như thế. Thơ nói lên tâm cảm của những người nhiều khi thấy mình bơ vơ giữa cuộc sống và kỷ niệm của nơi chốn xưa của đời sống cũ vẫn cứ bàng bạc hiện hữu:

“nhà tôi ở toòng teng đỉnh đồi buổi mai đi làm thấy đời xuống dốc sau lưng sương ngập cao lưng trời trước mặt thông sầu reo đáy vực bắt đầu ngày bằng một chút vui hát nghêu ngao trong lòng xe rỗng tuếch bài ca quen bỗng chợt quên lời chút kỷ niệm còm lại mất khơi khơi tiếng Việt trong ta ngày bỗng héo hồn Việt trong ta ngày mỗi khô dốc mở như đời ta trước mặt sương kín như đời ta năm xưa...”
Một ngày qua một ngày. Ra đi khi lúc vừa mờ sáng và trở về khi phố đã lên đèn, khúc ca sầu xứ mãi mãi ám ảnh. Trải qua bao nhiêu cuộc đổi dời. Bao nhiêu là nỗi muộn phiền. bao nhiêu là ray rứt. Người tị nạn có một mẫu số chung, của khởi hành đi vào cuộc đời mới với tất cả năng lực của mình nhưng vẫn canh cánh bên lòng nhớ mong về quê hương đất nước:

“chiều về lên dốc thân tơi tả một quả hoàng hôn phủ kín trời mình mới ngoi lên ngày đã ngả đêm phờ lăn lóc ngủ thay chơi giữa đỉnh sương mù thông đáy vực ngược xuôi ngơ ngẩn một linh hồn còng lưng gánh nốt đời lưu lạc nặng trĩu nghìn cân nhớ nước non.”
Cái độc đáo của thơ Cao Tần là dùng những ngôn từ thật sống động, những ngôn ngữ tạo nhiều hình ảnh như: “kỷ niệm còm“, như “quả hoàng hôn”, như “mất khơi khơi”. Xử dụng những ngôn từ ấy thành thơ chính là một dụng công để thi ca có máu huyết xương thịt của đời sống thực, của suy nghĩ thực…

Người tị nạn tuy hôi nhập vào dòng chính nhưng vẫn còn ám ảnh bởi quê hương cũ của đất nước xưa. Có một lúc nào thơ Cao Tần biểu lộ tâm cảm ấy.

Đọc bài thơ Cảm Khái chúng ta nhận ra ngay lập tức. Tấm thẻ căn cước, tờ chứng chỉ tại ngũ nhắc lại một thời xa xưa. Một cách hóm hỉnh pha lẫn đau xót, tác gỉa nhận thấy hình như những tấm hình trên căn cước đều lam nhem xấu xí, không biết có phải là số phận tiền định xui khiến như vậy:

“hình căn cước anh nào mà chẳng xấu tên chụp hình như một lão tiên tri triệu mặt ngây ngô bàng hoàng xớn xác cùng đến một ngày gãy đổ phân ly nhìn hình chim in trên tờ chứng chỉ chợt nhớ câu thơ Gãy cánh đại bàng ngàn lẫm liệt tan trong chiều rã ngũ muôn anh hùng phút chốc hóa tang thương...”
và những câu cảm khái mà chúng ta trong những ngày lưu lạc thường hay thấm thía:

“Hỡi kẻ trong hình mặt xanh mày xám người sắp thành tên mọi Mỹ rồi ư hỡi thằng chiến binh một đời dũng cảm mày lang thang đất lạ đến bao giờ Ôi trong ví mỗi người dân mất nước Còn một oan hồn mặt mũi ngu ngơ Ôi trong trí mỗi anh hùng thuở trước Còn dậy trời lên những buổi tung cờ.”
Có người nhận xét rằng mỗi bài thơ của Cao Tần đều mang theo một thông điệp gửi gấm cho người cùng cảnh ngộ và gửi trả lại quê hương. Trong hai mươi bài của tập Thơ Cao Tần, hình như hầu hết các bài đều diễn tả được một tâm sự đặc thù của người bỏ xứ ra đi.

Thư Quê Hương là
“Gửi cho anh viên sỏi nhỏ bên đường Anh sẽ đọc ra trăm nghìn lối cũ Gửi cho anh vài nhánh cỏ quê hương anh sẽ đọc đất trời ta đã thở...”
Chuyện Thần Tiên là:

”Ta muốn điều chi cuối đời lưu lạc Này bà tiên vừa hỏi giấc mơ ta hãy đem hết những đổi đời tan tác gói giùm vào cơn mộng dữ đêm qua”
Chiều Bát Phố là:

”Chỉ gặp toàn Tây một chiều bát phố Tiếc sao xưa cả nước chẳng quen nhau Quen cả nước? Ra đường chào gẫy cổ Và chắc gì nay nghĩ lại không sầu Nhưng quen cả nước chắc lòng sẽ nhẹ Khi đi có chào may bớt xót xa Ôi xóm mưa ơi có khi nào đổi kiếp Tôi về thành chim hót trước hiên nhà.”
Mai Mốt Anh Về là:

”nếu mai mốt bỗng đổi đời phen nữa Ông anh hùng ông cứu được quê hương Ông sẽ mở ra ngàn lò cải tạo Lùa cả nước vào học tập yêu thương Cuộc chiến cũ sẽ coi là tiền kiếp Phản động gì cũng chỉ sống trăm năm Bồ bịch hết không đứa nào là ngụy Thắng vinh quang mà bại cũng anh hùng”
Và còn nhiều bài thơ khác với những ý tưởng khác, thông điệp khác. Giở từng trang thơ, để thấy những ngôn ngữ linh hoạt, những chữ lóng, những ngôn từ dân giã, tất cả làm nổi bật một phong vị có lúc như diễu cợt, có lúc như ngông nghênh, mà có lúc là tình cảnh “ở ngoài cười nụ ở trong khóc thầm”. Người tị nạn đã trải qua những đoạn đời, đã qua nhiều nghịch cảnh, sẽ thấy thấm thía biết bao nhiêu với tâm cảm người thơ. Nếu nói thơ Cao Tần là biểu hiện sống động một thời kỳ của người Việt di tản đầu tiên thì cũng chưa đầy đủ mà phải nói rằng thơ Cao Tần đã làm hồi sinh lại một thời đại văn học lưu vong ở hải ngoại…

nguồn Phù Sa


Mai mốt anh về
(trích)
Mai mốt anh về có thằng túm hỏi
Mầy qua bên Mỹ học được củ gì
Muốn biết tài nhau đưa ông cây chổi
Nói mầy hay ông thượng đẳng cu li.
Ông rửa bát chì hơn bà nội trợ
Ông quét nhà sạch hơn em bé ngoan
Ngày ngày phóng xe như thằng phải gió,
Đêm về nằm vùi nước mắt chứa chan.
Nghệ thuật nói bỗng hóa trò lao động
Thằng nào nói nhiều thằng ấy tay to
Tiếng mẹ thường chỉ dùng chửi đổng
Hay những đêm sầu tí toáy làm thơ...

Ta Làm Gì Cho Hết Nửa Đời Sau?
(trích)
dăm thằng khùng họp nhau bàn chuyện lớn
gánh sơn hà toan chất thử lên vai
chuyện binh lửa anh em chừng cũng ớn
dọn tinh thần: cưa nhẹ đỡ ba chai.
một tráng sĩ vung ly cười ngạo mạn
nửa đời xưa ta trấn thủ lưu đồn
nay đất khách kéo đời rất nản
ta tính sẽ về vượt suối trèo non...
một tráng sĩ vô êm chừng sáu cối
thần tự do giờ đứng ở nơi nào ?
ta muốn đến leo lên làm đuốc mới
tự đốt mình cho lửa sáng xem sao...
bình minh tới một chàng bừng tỉnh giấc
thấy chiến trường la liệt xác anh em
năm tráng sĩ bị mười chai quất gục
đời tha hương coi bộ vẫn êm đềm.
sàn gác trọ những tâm hồn bão nổi
những hào hùng uất hận gối lên nhau
kẻ thức tỉnh ngu ngơ nhìn nắng mới:
ta làm gì cho hết nửa đời sau?


biển chiều
Tác giả: Cao Tần
Chiều nay ra biển ngồi ngơ ngẩn
Nhúng hai giò trong nước Thái Bình Dương
Ðể hơi ta dạt về bờ Ô Cấp
Chạm thân ái vào lưng đất mẹ tang thương

Có bạn nào đang rắp tâm vượt thoát
Nhớ rằng ta luôn cầu nguyện cho người
Láng đời chót đã tan trên chiếu bạc
Thì sá gì thêm một chuyến ra khơi

Thở thật dài vào thinh không bát ngát
Theo gió về động lá cánh rừng xa
Này thằng lì còn chơi miền gió cát
Trong kiêu dũng mày cho gửi chút hồn ta

Có thằng bạn nào tàn đời học tập
Cõng gông xiềng lê lết một thân đau
Này biển chiều sóng xô ào lớp lớp
Những tiếng đời phiêu bạt khóc thương nhau.

(tháng 6, 77)

bông giấy
Tác giả: Cao Tần
Tưởng ta nhớ chú lắm sao
Này cây bông giấy bên rào năm xưa
Chẳng qua trời đổ cơn mưa
Thì thương cành mọn đong đưa một mình.
(tháng 12, 77)

cảm khái
Tác giả: Cao Tần
Trong ví ta này chứng chỉ tại ngũ
Mất nước rồi còn hiệu lực hơi lâu
Chiều lưu lạc chợt thương tờ giấy cũ
Tái tê cười: giờ gia hạn nơi đâu

Trong ví ta này một thẻ căn cước
Hình chụp ngay đơ rất mực cù lần
Da nhợt nhạt như bị đời nhúng nước
Má hóp vào như cả tháng không ăn

Mười tám tuổi thành công dân nước Việt
Tên chụp hình làm ta xấu như ma
Thằng khốn nạn làm sao mà nó biết
Ta sẽ thành dân mất nước tan nhà

Hai mươi mốt tuổi ta đi làm chiến sĩ
Bước giày đinh lạng quạng một đời trai
Vừa đánh giặc vừa lừng khừng triết lý
Nhưng thằng này yêu nước chẳng thua ai

Hình căn cước anh nào mà chẳng xấu
Tên chụp hình như một lão tiên tri
Triệu mặt khôi ngô bàng hoàng xớn xác
Cùng đến một ngày gẫy đổ phân ly

Nhìn hình chim in trên tờ chứng chỉ
Chợt nhớ câu thơ Gẫy cánh đại bàng
Ngàn lẫm liệt tan trong chiều rã ngũ
Muôn anh hùng phút chốc hóa lang thang

Quanh mình xôn xao chuyện thay quốc tịch
Ngậm ngùi bày dăm giấy cũ coi chơi
Thời cũ ố vàng rách rời mấy mảnh
Xót xa đau như bỗng qua đời

Hỡi kẻ trong hình mặt xanh mày xám
Người sắp thành ten mọi Mỹ rồi ư
Hỡi thằng chiến binh một đời dũng cảm
Mày lang thang đất lạ đến bao giờ

Ôi trong ví những người dân mất nước
Còn một oan hồn mặt mũi ngơ ngơ
Ôi trong trí mỗi anh hùng thuở trước
Còn dậy trời lên những buổi tung cờ

tháng 6, 77 


câu cá
Tác giả: Cao Tần
Ta đã vượt muôn dặm dài biển cả
Ðường tử sinh lui tới cũng đôi lần
Bỗng bình minh này ngồi thuyền, câu cá
Trôi dật dờ như lá trên hồ xanh

Hỡi chú cá rong chơi miền nước biếc
Ta vượt đường muôn dặm chẳng tìm nhau
Bày đặt buông cần mà quên thương tiếc
Cho đời êm, qua được mấy giờ đau

Nói nghe coi này cổ thụ ven hồ
Kể từ những trăm năm dài đứng đó
Có gặp khi nào một kẻ xác xơ
Lòng sầu hận hơn kiếp người da đỏ

Ðời đang bão khi không chìm lặng ngắt
Như cành khô nằm chết đáy sông sâu
Ðời đang dậy sóng thần lên bát ngát
Bỗng vùi yên đáy biển một thân tàu

Và móc đời lên cần câu vớ vẩn
Ðem dìm chơi trong đáy nước rong rêu
Tuổi chưa nặng hồn đã chừng ngơ ngẩn
Lòng vàng khô hơn chiếc lá đưa vèo?

(tháng 11, 77)

chiều bát phố
Tác giả: Cao Tần
Chiều đi bát phố gặp toàn Tây
Bỗng tiếc xưa không làm quen cả xóm
Tự trách mình ngu hơn con cầy
Đáng kẹt lại cho thằng Cộng tóm

Bác xích lô mỗi sớm qua nhà
Đầu óc như ta lo cơm lo áo
Co cẳng cà phê quán cóc la cà
Chửi bới lăng nhăng nội các anh Thiệu

Em điếm rẻ tiền hành nghề Gò Vấp
Anh tìm vui hoang em hát cải lương
Ôm nhau dửng dưng rời nhau hấp tấp
Lòng vẫn chung mang nỗi sợ sa trường

Nhớ ông thầy tu nghiêm trang cúng lễ
Cả đời ta không lảng vảng vào chùa
Sao cùng thấy đời sầu một bể
Cùng tỉnh queo trước chuyện hơn thua

Nhớ kẻ ngất ngư gặp mình ngoài phố
Hai thằng lạ hoắc chẳng thèm ngó nhau
Giờ nghĩ lại: ôi, như ta, nó khổ
Hay vui cùng đất nước sướng, đau

Giờ nghĩ thân ta chỉ còn có vợ
Vợ trót bỏ quên bên kia bán cầu
Ngày ngày phất phơ giữa rừng mũi lõ
Tìm người tình Việt chưa biết tìm đâu

Chỉ gặp toàn Tây một chiều bát phố
Tiếc sao xưa cả nước chẳng quen nhau
Quen cả nước ? ra đường chào gẫy cổ
Và chắc gì nay nghĩ lại không sầu

Nhưng quen cả nước chắc lòng sẽ nhẹ
Khi đi có chào may bớt sót xa
Ôi ! xóm xưa ơi khi nào đổi kiếp
Tôi sẽ về thành chim hót trước hiên nhà .

tháng 2, 77

chốn tạm dung
Tác giả: Cao Tần
Nhà tôi ở toòng teng đỉnh đồi
Buổi mai đi làm thấy đời xuống dốc
Sau lưng sương ngập cao lưng trời
Trước mặt thông sầu reo đáy vực

Bắt đầu ngày bằng một chút vui
Hát nghêu ngao trong lòng xe rỗng tuếch
Bài ca quen bỗng chợt quên lời
Chút kỷ niệm còn lại mất khơi khơi

Tiếng Việt trong ta ngày mỗi héo
Hồn Việt trong ta ngày mỗi khô
Dốc mở như đời ta trước mặt
Sương kín như đời ta hôm xưa

Giang hồ một túi bài ca cũ
Hát nhảm cho qua nốt tuổi già
Qua những bình minh còn ngái ngủ
Còn như chưa lạc mất quê ta

Giữa đỉnh sương mù thông đáy vực
Trên đường chênh chếch nắng mênh mang
Trôi xuôi một mảnh hồn lưu lạc
Ðã chán nhân gian ở cuối đường

Chiều về lên dốc thân tơi tả
Một quả hoàng hôn đỏ kín trời
Mình mới ngoi lên ngày đã ngã
Ðêm phờ lăn lóc ngủ thay chơi

Giữa đỉnh sương mù thông đáy vực
Ngược xuôi ngơ ngẩn một linh hồn
Còng lưng gánh nốt đời lưu lạc
Nặng trĩu nghìn cân nhớ nước non.

(tháng 5, 77)

chú nào nghe mái tôn xưa
Tác giả: Cao Tần
Chú nào đi đường ta bình minh này
Có nhớ chào dân xóm ta dậy sớm
Có nghe thơm mùi bụi mới đầu ngày
Trong lá hoa tươi mừng nắng lớn

Chú nào trưa nay ngồi trên đồi ta
Thở gió thông khô quen từ kiếp trước
Đếm nắng hoa sao nở đầy trên hồ
Trưa thật tuyệt vời, đẹp hơn mơ ước

Chú nào ngồi trước hiên nhà ta chiều nay
Nghe mưa Sài gòn rạt rào thơm mát
Sau một ngày nắng lóa chín tầng mây
Những mái tôn mưa cười ran hạnh phúc

Chú có biết yêu thương vài nụ hồng
Đã thắm tươi trên giàn che cổng gỗ
Mưa mênh mông xa đến cõi vô cùng
Vỗ rộn ràng vui trên từng lá nhỏ

Chú nào đêm nay kê đầu gối đó
Thở hương nồng hạnh phúc của trần gian
Có biết nói nghìn năm sau vẫn nhớ
Vẫn hai vai êm ấm mãi hơn nàng ?

tháng 12, 77

chuyện thần tiên
Tác giả: Cao Tần
có bà tiên hiền hỏi chàng lưu lạc
con ước mơ chi cuối cuộc đời này?

ta ước khi không bừng tỉnh giấc
thấy bình minh muộn nắng đầy hiên
một khung cửa sổ trời xanh ngắt
đầu sân xao xác tiếng chim quen

đường phố ngất ngây mùi bụi mới
những vòm cây biếc lá me tươi
quán cóc sở ta bè bạn đợi
rất tưng bừng đấu hót những buồn vui

chợt nhớ lại, ồ, đêm qua khiếp quá
mình đã mơ một giấc thật kinh hoàng
mơ thấy cả một quê hương đổ vỡ
mình lên đường ngơ ngẩn kiếp lang thang

sẽ vội vã trên đường lao tới sở
nghe xôn xao tiếng Việt ở quanh mình
giữa phố bụi mù lại mơ cây cỏ
xanh khắp quê hương giấc mộng thanh bình

ta muốn điều chi cuối đời luân lạc?
này bà tiên vừa hỏi giấc mơ ta
“hãy đem hết những đổi đời tan tác
gói giùm vào cơn mộng dữ đêm qua”

tháng 8, 77

gửi Xuân Hiến
Tác giả: Cao Tần
Đốt thế giới văn chương hào sảng ấy
Gửi cho ông làm bạn cõi thiên đường
Tôi chỉ giữ bên mình thanh kiếm gẫy
Lên núi ngồi vạch đất vẽ quê hương

tháng 10, 82

kẻ trở về
Tác giả: Cao Tần
Thằng bạn đòi về trên tầu Thương Tín
Hoan hô đảng và tranh đấu rất chì
Giờ được tin vùi thây Yên Bái
Thôi còn chê trách nó mà chi

Nó tưởng được về hôn con, ôm vợ
Bước rưng rưng trong những phố phường xưa
Ôm vợ, hôn con ngă'm trời đât cũ
Chỉ một lần thôi rồi tịch cũng vừa

Nhớ nó xưa chọc trời, xô núi
Thân nam nhi ngang dọc cõi bờ
Bỗng di tản ra thân lúi xúi
Trong trại xếp hàng chầu cơm như mơ

Trong trại sáng giật mình khóc nức
Đêm bụng đầy nhóc rượu tìm quên
Gọi vợ trong mơ, gào con lúc thức
Nằm thì trằn trọc, đứng thì điên

Nó chợt đòi về trên tầu Thương Tín
Anh em xúm xít khản cổ can hoài
Thằng bạn cười buồn, tác phong lính chiến
"Thôi coi đời tao là con củ ... khoai"

Thấy nó lên tầu biết xong một kiếp
Nhưng hy vọng hão vẫn nguyện như thường
Cầu nó bình an thấy con thấy vợ
"Khổ như thằng này chắc đất trời thương"

Nó bước xuống tầu giữa rừng cán bộ
Về quê hương mà như lạc tinh cầu
Rồi trôi dạt trên nghìn dặm khổ
Rồi âm thầm đổ giữa rừng sâu

Mày có linh thiêng qua đây tao cúng
Một chầu phim X, một quả tắm hơi
Thiên đàng mày hụt thì tao đang sống
Cũng ngất ngư đời như ... con củ khoai

Tháng 2, 77

kho tàng
Tác giả: Cao Tần
chàng cù lần có cái túi nhỏ
suốt bốn mùa giấu giếm như điên
anh em sùng, nghĩ thằng này chơi khó
thủ cẳng tí tiền, len lén tiêu riêng

hết chuyện chơi một chiều đông lạnh cóng
đè thằng em ra cướp túi coi chơi
gác trọ rung rinh như thuyền biển động
thằng em kêu như sắp sửa xong đời

miệng túi mở kho tàng rơi tung toé
một lạng vàng trong giấy gói đơn sơ
một đứa hét :"vàng này thằng em bé
không mại đi, mày tính để đem thờ ?"

"sư chúng mày, vàng đem theo bốn cục
ông bán ra bắt gọn mấy trăm đô
còn cục này tàn đời ông cóc bán
lúc lên đường bà cụ dúi tay cho"

một chiếc khăn tay cũ xì cũ xịt
màu nâu già thêu mấy chữ xanh xanh
"giẽ rách gì đây hở thằng chết tiệt ?"
"khăn vợ trao ngày khoác áo nhà binh"

đáy túi nhỏ thì đầy danh thiếp cũ
những tên người tên tỉnh đã xa xưa
những dòng vội ghi hẹn hò gặp gỡ
những đường quen không trở lại bao giờ

trả túi thằng em, cả bầy bỗng xệ
cù lần xấu hổ chửi như ca
cái túi nhỏ tưởng đầy lòng ti tiện
hoá đem theo muôn vạn mảnh quê nhà

cù lần dọa đêm nay đâm chết hết
ôi, ví dầu chú mở được tim anh
chú cũng thấy một kho tàng thắm thiết
với khăn tay nhàu nát chữ thêu xanh

với danh thiếp những tên đường đã đổi
những số nhà chớp mắt đã tang thương
những chốn hẹn nghìn năm không trở lại
những tên đời tơi tả khắp quê hương

tháng 10/77

mai mốt anh về
Tác giả: Cao Tần
Mai mốt anh về có thằng túm hỏi
Mầy qua bên Mỹ học được củ gì
Muốn biết tài nhau đưa ông cây chổi
Nói mầy hay ông thượng đẳng cu li

Ông rửa bát chì hơn bà nội trợ
Ông quét nhà sạch hơn em bé ngoan
Ngày ngày phóng xe như thằng phải gió
Đêm về nằm vùi nước mắt chứa chan

Nghệ thuật nói bỗng hóa trò lao động
Thằng nào nói nhiều thằng ấy tay to
Tiếng mẹ thường chỉ dùng chửi đổng
Hay những đêm sầu tí toáy làm thơ

Ông học được Mỹ đất trời bát ngát
Nhưng tình người nhỏ hơn que tăm
Nhiều đứa hồn nhiên giống bầy trẻ nít
Còn hồn ông: già cốc cỡ nghìn năm

Bài học lớn từ khi đến Mỹ
Là ngày đêm thương nhớ nước mênh mang
Thù hận bọn làm nước ông nghèo xí
Hận gấp nghìn lần khi chúng đánh ông văng

Nếu mai mốt bỗng đổi đời phen nữa
Ông anh hùng ông cứu được quê hương
Ông sẽ mở ra nghìn lò cải tạo
Lùa cả nước vào học tập yêu thương

Cuộc chiến cũ sẽ coi là tiền kiếp
Phản động gì cũng chỉ sống trăm năm
Bồ bịch hết không đứa nào là ngụy
Thắng vinh quang mà bại cũng anh hùng

phiêu bồng
Tác giả: Cao Tần
Cho ta làm lại cuộc đời
Thì ta lại vẫn ra khơi như thường
Vật vờ vượt sóng trùng dương
Kiếm đời di tản nghìn cơn nhục nhằn
Mai này tính sổ trăm năm
May chăng lời được cái thân phiêu bồng.

ta làm gì cho hết nửa đời sau
Tác giả: Cao Tần
dăm thằng khùng họp nhau bàn chuyện lớn
gánh sơn hà toan chất thử lên vai
chuyện binh lửa anh em chừng cũng ớn
dọn tinh thần : cưa nhẹ đỡ ba chai

rừng đất khách bạt ngàn màu áo trận
xong hiệp đầu mây núi đã bâng khuâng
hào khí bốc đủ mười thành chất ngất
chuyện vá trời coi đã nhẹ như không

một tráng sĩ vung ly cười ngạo mạn
nửa đời xưa ta trấn thủ lưu đồn
nay đất khách kéo đời rất nản
ta tính sẽ về vượt suối trèo non...

sẽ có lúc rừng sâu bừng chuyển động
những hùm thiêng cựa móng thét rung trời
và sông núi sẽ vươn mình trỗi dậy
và cờ bay trên đất nước xanh tươi’

một tráng sĩ vô êm chừng sáu cối
thần tự do giờ đứng ở nơi nào ?
ta muốn đến leo lên làm đuốc mới
tự đốt mình cho lửa sáng xem sao ...

thần tự do giơ hoài cây đuốc lạnh
ta tiếc gì năm chục ký xương da
sẽ làm đuốc soi tìm trong đáy biển
những oan hồn ai bỏ giữa bao la’...

bình minh tới một chàng bừng tỉnh giấc
thấy chiến trường la liệt xác anh em
năm tráng sĩ bị mười chai quất gục
đời tha hương coi bộ vẫn êm đềm

sàn gác trọ những tâm hồn bão nổi
những hào hùng uất hận gối lên nhau
kẻ thức tỉnh ngu ngơ nhìn nắng mới :
ta làm gì cho hết nửa đời sau ?’

tháng 3.1977

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét