TL: Từ hôm nay mình xin post dần tiểu thuyết "Trư cuồng" (Nhật ký
lợn) của nhà văn Nguyễn Xuân Khánh, dành cho những ai yêu thích văn học.
Vì không được xuất bản nên tiểu thuyết này không đến tay bạn đọc. Hy
vọng được làm vui lòng bạn bè và thêm ai đó yêu mến tác giả và tác
phẩm.
Thiên
chi đạo: tổn hữu dư bổ bất túc
(Đạo trời: bớt chỗ thừa bù chỗ thiếu)
Phản
giả Đạo chi động
(Quay trở lại
(cái Quân Bình), đó là cái Động của Đạo)
Lão Tử
L’homme
n’est ni ange ni bête,
et le malheur veut que qui veut faire l’ange fait la bête
(Con người chẳng thiên thần cũng không thú vật,
song khốn thay ai đó muốn làm thiên thần
thì thành ra lại là thú vật)
Pascal
Phần I
Nhật ký này là của ông Nguyễn
Hoàng; ông Nguyễn Hoàng làm nghề viết báo, kiêm nghề nuôi lợn.
Có lẽ, khi làm nghề cầm bút, ông đã
phạm một cái ”húy” gì đó nên bị thất sủng, phải về nghỉ hưu, tuy chưa đến tuổi.
Ông là người tỉ mỉ, lại vì mắc bệnh nghề nghiệp nên thích ghi chép. Ông đã ghi
lại khá tường tận, thú vị công việc chăn nuôi của mình.
Xét thấy nhật ký này có điều hay hay,
nên cố sưu góp lại để các bạn cùng đọc.
Ngày…
Tháng…
Nhà
tôi đã có ba chú lợn ỉn khoảng 10 cân mỗi con rồi, hôm nay tôi lại mua thêm một
chú lợn rất đặc biệt: Chú Lợn Bò.
Chú lợn này chỉ nhỉnh hơn cái phích lít rưỡi một chút.
Lông nó mầu hung vàng, có một chút óng ánh, giống như mầu cỏ tranh vàng khô vào
mùa lá rạc ở Tây Bắc. Mắt nó như thơ dại, ngơ ngác như mắt bò, đôi mắt có vẻ đần
đần, nhưng đẹp. Người chủ bán hàng giới thiệu với tôi một cách hoang đường: Các
nhà khoa học đã làm thí nghiệm thành công, họ đem tinh trùng của bò thụ tinh
cho lợn; kết quả thu được một con thú nửa bò nửa lợn.(1)
Nó biết ăn cả cỏ, ăn cả cám. Giống này được các nhà chăn
nuôi sành sỏi và tài ba rất mê, bởi vì nó tăng trọng rất nhanh, có thể nói phi
thường, và nó có thể đạt tới trọng lượng ba trăm ki lô gam, thậm chí năm trăm …
Nghe lời giới thiệu có vẻ siêu khuếch đại tôi liền vỗ tay đánh đốp vào tay ông
lái lợn và cười hơ hớ. Cả chủ hàng và khách hàng đều có chút khoái nhau, cái
tiếng cười hơ hớ ấy, và cái bắt tay ròn rã ấy, cái kiểu giới thiệu hoang đường
ấy cộng hợp với nhau làm cho cuộc mua bán trở nên dễ dàng thoải mái. Tôi hí
hửng suốt dọc đường từ chợ tỉnh Phúc Yên về Hà Nội; hí hửng vì vớ được con lợn
tốt bằng một giá rất hời.
Thậm chí tôi còn dám tự khen
thưởng mình bằng cách sà vào một quán nhậu ở bến đò Chèm để uống một chén rượu
với dăm củ lạc.
Khi tôi định thả con Lợn Bò vào chuồng, vợ tôi theo ra xem, cô ta nói
rất mê tín:
- Ông không được thả. Người ông gày đét, ăn uống cảnh
giả, tay ông không mát. Để tôi thả cho, lợn mới hay ăn chóng lớn.
Tôi lắc đầu sốt ruột, đưa cho bà vợ lắm điều
của tôi chiếc bao tải dứa trong đó đựng con Lợn Bò quí giá. Khi chú lợn lông
vàng sợ hãi ngơ ngác từ cái bao chui ra, vợ tôi tròn mắt ngạc nhiên:
- Lợn gì mà kì quái! Lông đỏ như con sâu dóm!
Cơn hứng của tôi như bị dội một gáo nước
lạnh; tôi cáu kỉnh vặc lại:
- Lợn quí đấy! Bà biết gì chăn nuôi hiện đại mà dẻo miệng
chê bai.
- Hiện đại! – Vợ tôi bĩu môi, nhưng biết tính tôi khi đã
thích cái gì là lập tức lên cơn như mê như dại, nên cô ta chẳng dám dây với tôi.
Còn tôi,
thực sự lúc này tôi đang lên cơn mê lợn. Đời tôi đã khối lúc lên cơn: cơn bộ đội,
cơn viết báo, cơn gác đêm, cơn lý tưởng, cơn mê gái, cơn thợ may, cơn đọc sách…
Vậy thì, giờ đây tôi lên ”cơn mê lợn” cũng chẳng có gì
lạ. Mà chẳng cứ gì tôi, có thể nói, hiện nay cả Hà Nội lên cơn mê lợn. Cao trào
nuôi lợn đang dâng; giới nuôi lợn dạo này rất vinh dự, bởi vì không những chỉ
có người nghèo nuôi lợn, mà có cả những vị quyền cao chức trọng nuôi lợn. Người
ta kể ra: ông bí thư nhà máy gạch N mới bán đôi lợn đại bạch trên hai tạ; ông
thứ trưởng bộ X cũng nuôi bốn con lợn F1, lai giống Landrat, to như bốn con bê;
ông T thành ủy viên, cứ đi làm về là vội thay ngay quần áo và cởi trần trùng
trục, chỉ mặc độc chiếc quần đùi và xông thẳng vào mê say cùng đàn lợn đẹp như
tranh của mình; rồi cả ngài chủ tịch K, hễ mỗi lần đánh xe con đi công vụ nông
thôn là khi về thể nào trong cốp xe cũng lỉnh kỉnh những bao ngô, bao gạo, bao
thức ăn gia súc, và những rọ lợn giống buộc đằng sau xe mốt cô vích thì tấu lên
một khúc nhạc eng éc, rền rĩ, rùng rợn, nhưng vui tai đối với người Hà
Nội.
Ngày … tháng …
Con Lợn Bò đúng
như một con sâu dóm so với đàn lợn cũ của tôi. Nó đứng ở một xó chuồng, sợ sệt,
lủi thủi, ngơ ngác, hèn mọn. Trông mà thương! Lũ lợn ỉn, khi tôi đổ thức ăn vào
máng, liền xông ra, tranh nhau sốc lấy sốc để. Còn chú Lợn Bò thì đứng im đần độn
bọt mép sùi ra thèm thuồng. Khi quá thèm, nó cố vượt qua nỗi sợ, và mon men đến
gần máng; lập tức cả đàn ba con lợn ỉn ngừng ăn xông ngay lại, con cắn tai, con
húc bụng, con đấm mõm. Chú Lợn Bò run lập cập, vội vã rút lui trở về xó chuồng,
cái xó tối tăm nhất, bẩn thỉu nhất, nơi đọng phân rác, nơi hôi thối, một thứ
chuồng xí của các chú lợn ỉn; và cũng chỉ đến lúc ấy, lũ lợn ỉn mới buông tha
Lợn Bò.
Tôi vốn là
tay hiệp sĩ, thấy sự bất bằng chẳng tha; tôi tức giận vì lũ lợn ỉn cậy mạnh
hiếp yếu; sẵn cái chổi tre trong tay, toi vụt cho mỗi chú ỉn mấy quất vào mông.
Nhưng kết quả chẳng ăn thua gì; lần thứ hai, chú Lợn Bò lại mon men đến gần máng,
lần này ba chú lợn ỉn có lẽ vì tức giận bị tôi trừng trị nên đã tấn công Lợn Bò
dữ dội hơn. Rút kinh nghiệm đợt trước, chú Bò vội vã rút ngay vào nơi hang ổ
tối tăm của mình để thoát hiểm. Hỡi ôi! Nơi tối tăm bao giờ cũng là nơi cư ngụ
của những kẻ hèn mọn. Cái qui luật người ấy cũng đúng cả với loài lợn.
Tôi ngẫm
nghĩ, định trừng trị lũ lợn ỉn một lần nữa, nhưng đầu óc tôi bỗng dưng lóe
sáng: hãy cứ để mặc cho lũ lợn hục hặc với nhau, cuối cùng thể nào đôi bên cũng
thích ứng được với nhau. Ha ha! Tuyệt! Chí phải! Hãy để cho triết học tâm lý
học thấm nhuần đến tân chuồng lợn. Triết học thích ứng, thực dụng nguồn gốc tận
bên Mỹ; tâm lý học ứng xử của ông Watson cũng mang nguồn gốc Mỹ, nay đang được
chiêm nghiệm ở cái xó chuồng lợn của một nhà báo thất thế đi vào nghề chăn nuôi
ở một hẻm nghèo Hà Nội. Thú vị thật!
Nghĩ vậy,
nên tôi buông chổi, quay vào bếp, tìm một lỗ hổng kẽ vách, để quan sát đàn lợn.
Kìa! Lũ lợn
ỉn đã no nê phè phỡn, con nào bụng cũng căng tròn như trống. Chúng rời khỏi
máng, ủn ỉn, đủng đỉnh đi về ổ, tức là nơi cao ráo sạch sẽ nhất trong chuồng
lợn, chỗ đó tôi đặt một chiếc tải và một ôm rơm thơm tho ấm áp. Và chúng ngủ,
mắt nửa hé nửa nhắm; chúng vừa ngủ vừa ì ạch thở.
Chú Lợn Bò
lấm lét nhìn bọn ỉn, rồi từ từ, ngập ngừng tiến lại máng ăn. Con ỉn lang chợt
ho, chú Bò lùi phắt lại, nhưng sau đó, thấy im ắng, lại tiếp tục mon men đến
máng, chú khẽ khàng liếm láp chỗ cám thừa, vừa ăn vừa liếc nhìn lấm lét.
Vẫn im lặng!
Tốt quá! Chú vội tranh thủ sốc lấy sốc để. Tộp! Tộp! Tộp! Con ỉn lang choàng mở
mắt khi nghe tiếng chú Bò gia tốc ăn hối hả. Nó định đứng dậy, nhưng có lẽ no
quá hóa lười, nên nó lại thả người nhắm mắt. Tộp! Tộp! Tộp! Chú Lợn Bò lúc này
chẳng cần giữ ý tứ nữa, nó ăn xả láng, nó
” vét đĩa ” xả láng, nó háu ăn đến
mức một cọng rau trong máng cũng chẳng còn. tôi nghĩ: có lẽ nên đặt cho con lợn
mới cái tên ” Bò - Vét - Đĩa“.
Ngày … tháng …
Tôi ra thư
viện đọc sách về lợn. tôi đi sưu tầm, mua, mượn hàng chồng sách về nhà để đọc.
Có thể kể tên các cuốn sách: Giải quyết thức ăn cho lợn; Đạm và sự tăng trưởng
của lợn; Những biện pháp trong chăn nuôi gia súc; Hỏi và đáp về nuôi lợn lai
kinh tế; Những nguyên tố vi lượng trong chăn nuôi; Chuyên đề lợn ỉ; Chuyên đề
lợn Móng Cái v.v …
Có thể nói không gian, thời gian của tôi đang
bão hòa chất lợn. Tôi sai con đi mua nứa về làm chuồng bèo; tôi phá hoang mấy đám
đất đầu trâu mõm bò ở tận cuối hẻm để gơ dây khoai lang; tôi đi xin cô em tận
nhà máy gỗ cầu Đuống một số tấm gỗ bìa bắp, và hai cha con tôi vất vả hì hục
thồ cả ngày mới đem được hết gỗ bìa về nhà, để chuẩn bị làm một cái chuồng lợn
thật đúng qui cách. Tôi phân công cả nhà vào chiến dịch nuôi lợn của tôi. tôi đảm
nhiệm việc chăm sóc, cho lợn ăn, quét dọn chuồng lợn hàng ngày. Thằng con lớn
là sinh viên đại học, thi thoảng phụ giúp tôi. Thằng con thứ hai đảm nhiệm bèo
bã rau xanh. Thằng con thứ ba hàng ngày đi nhặt nước gạo. Thằng con thứ tư và
bà mẹ hàng ngày thái bèo. Còn vợ tôi, đi làm suốt ngày nên được miễn việc sưu
dịch cho lợn. Tôi nói đùa với cả nhà:
- Chúng ta là những anh hùng nuôi lợn.
Nghe oai
chưa!
Ngày … tháng …
Giá cả hàng hóa của Hà Nội leo thang vùn vụt. Tôi
ghi chép lại đây những con số đày ý nghĩa với cuộc sống gia đình tôi:
Su hào, một đồng
một củ – Khoai lang, 22 đồng một yến – Mỳ 85 đồng một yến – Rau muống lợn 1 đồng
5 hào một mớ – Bèo Nhật bản 4 hào một mớ – Bèo tấm 5 hào 5 nắm tay – Cá giếc 12
đồng một cân – Bơm xe 2 hào một bánh – Trà chén 2 hào một chén…
Ôi chao!
Toàn tiền là tiền. Tiền tiêu như rác. Một nắm bèo cũng có giá. Trong khi đó,
lương tôi được hơn 60 đồng, lương vợ tôi 70 đồng. tôi mê sảng đi vì lo tiền.
Trong nửa năm, hai vợ chồng tôi đã bán dần bán mòn các vật dụng: cái quạt máy,
chiếc xe đạp Phượng Hoàng, cái quần lụa, hai mét si mi li, cái phiếu vải của
con, ba chục trứng gà…
Chỉ những
con số ấy cũng đủ biện hộ cho công việc nuôi lợn, mê say lợn của tôi. Có thể
nói ”cơn lợn” của tôi là tất yếu, nó là con đường cứu sống gia đình tôi.
Ngày … tháng …
Tôi còn có
thể nói: lợn đã mở rộng thêm quan hệ con người. Nhờ nuôi lợn, đời tôi đã thêm
những người bạn mới.
Hôm nay,
buổi sáng, khi cho lợn ăn xong, tôi thay quần áo, đủng đỉnh sang nhà Lân uống
nước.
Nhà Lân là
một túp lều, một thứ nhà ổ chuột bên dòng cống đen sì của Hà Nội, mà người ta đã
đặt cho một cái tên mĩ miều: sông Kim Ngưu (Trâu vàng), còn tôi, tôi gọi nó là
dòng suối đen. Lân là một thương binh, anh sinh viên trường đại học tổng hợp đó
đã xung phong vào bộ đội vào những năm đầu của thập kỷ 60. Lân đã nằm trong
chiến trường miền Nam suốt cuộc kháng chiến chống Mỹ, năm 1975 anh mới chuyển
ngành về một cơ quan. Cuộc sống cơ quan quá bon chen, bê bối làm anh chán ngán,
xin về nghỉ ở nhà nuôi lợn. Có lúc, anh đã chua chát nói:
- Sống với lũ lợn còn thấy vui
hơn.
Những ngày
gian khổ còn lưu lại cho anh một kỉ niệm quá ư vật chất, một cơ thể ốm yếu gày
gò, và một bộ óc lúc nào cũng như lửa đốt. Con người anh, lúc cởi trần, giống
như một bộ xương được bọc một lần da mỏng, bộ xương quá mảnh dẻ để chống đỡ một
cái đầu to quá kích cỡ, ở đó ta bị hút
ngay vào một đôi mắt rất sinh động. Đôi mắt hơi to, hơi sếch; có lúc cảm
giác như thứ mắt bị ma ám. Khi anh cất giọng nói một điều gì sôi nổi, lúc ấy đôi
mắt như mở rộng thêm và bị nhiễm điện, một dòng điện nhấp nháy khi tăng khi
giảm làm cho ánh mắt lúc rực rỡ lúc dịu dàng; thứ mắt mang nhiều sắc độ ấy là
thứ mắt không dấu diếm, thứ mắt trực cảm của những con người đã quá ê hề cuộc
sống, thấy không cần phải mặc một chiếc áo khoác ngụy trang nào dù sặc sỡ, dù
nhiệm mâu đến đâu …
Căn lều của anh sặc sụa mùi
lợn, mùi lợn toát ra từ một đàn lợn cả to cả nhỏ gần chục con; mùi lợn còn toát
ra từ những bộ lòng lợn mà sáng nào, chiều nào anh cũng kiên nhẫn vớt từ dòng
cống đen sì lên. Anh nói:
- Cái dân Việt Nam mình thật kì dị. Nghèo khổ nhất mà
cũng lãng phí nhất. Từ Lò Lợn, mỗi ngày người ta đổ xuống cống hàng tạ lòng
lợn. Lòng lợn nối đuôi nhau lều bều diễu hành bơi trên dòng nước đen sì trông
vừa thảm thương vừa man rợ …
Một người đàn bà nghèo khổ ở cuối hẻm đã
lén lút vớt những cỗ lòng về, rửa sạch đi bằng xà phòng, rồi đem luộc lên, mang
ra quán bia bán cho những con ma men cùng với những bát mắm tôm tím biếc, những
quả ớt đỏ chót và những cọng húng nhổi thơm lừng…
Lân đã thở
dài khi kể với tôi chuyện đó với một ánh mắt run run hấp hối. Và từ phát hiện
ấy, anh đã nghĩ ra một cách nuôi lợn độc đáo: nuôi lợn bằng những cỗ lòng phế
thải lều bều trên sông. Từ hôm ấy, Lân dựng thêm một túp lều nhỏ sát ngay dòng
cống; đó là nơi sản xuất thức ăn gia súc của anh; ta bắt gặp ở đây một bếp lò
than và những thùng phuy, những vại, những hố đào xuống lòng đất và lát bằng
những mảnh nilông rách.
Qua Lân, tôi
mới hiểu dòng cống cũng có qui luật nước chảy của nó, nước cống cũng dâng lên
hạ xuống theo giờ trong ngày, cũng như
nước thủy triều dâng lên hạ xuống theo qui luật sức hút. Hàng ngày, nước
cống cao nhất vào lúc 10 giờ sáng và 4 gìơ chiều, đó là giờ các bà nội trợ rửa
rau vo gạo, và người Hà Nội giặt giũ làm vệ sinh thân thể; cũng vào giờ đó những
cỗ lòng từ Lò Lợn ra bị mắc kẹt vì nước cạn nay được giải phóng; những cỗ lòng
phả phê nước tung tăng bơi lội như những con rắn trắng lặn ngụp, ve vẩy trong
dòng nước đen sì. Đúng vào giờ ấy, Lân hăm hở như một chiến sĩ phục kích chờ
giặc, anh cởi trần, mặc quần đùi, lội đứng ở chỗ nông gần bờ, tay cầm một chiếc
vợt đan bằng dây sắt, cán bằng cây nứa dài, và anh cắm cúi kiên nhẫn vớt…
Công việc vớt
lòng của anh vất vả nhất vào dịp những ngày lễ lớn, hội lớn như mồng một tháng
năm, mồng hai tháng chín và tết nguyên đán; vào những ngày ấy người Hà Nội ăn
thịt nhiều và Lò Lợn cũng lãng phí nhiều. Những ngày nhiều phế thải ấy, Lân hậm
hụi làm việc như một người tù khổ sai bẩn thỉu, hôi thối, quần quật từ sáng cho
đến tận đêm. Đầu tiên, anh tháo phân, rửa sạch lòng ngay trong dòng nước đen,
sau đó để vào những rổ sồng cho dóc nước. Những thứ dễ hủy như gan, phổi anh đưa
lên bếp đun ngay, còn những thứ lâu bị hủy như lòng già lòng non anh đem muối,
muối nghĩa là đem trộn nó với bã rượu rồi đem đổ đầy những thùng phuy, những
vại, những hố có lót ni lông. Khi một ngọn khói đen bốc lên từ túp lều, tức là
xong việc. Lân xin những chiếc lốp xe đạp hỏng về đun; cái thứ cao su hỏng ấy
khi cháy tạo ra một ngọn khói đen nhánh, đặc quánh, chỉ cần một thoảng gió khẽ tạt
làm nghiêng ngọn lửa là một con rắn khói đen đã quấn ngay vào mặt vào ngực tạo
nên những vết đen khó kỳ cọ trên da. Những lúc chui ở bếp chế biến ra, Lân
trông thật thảm hại anh như một con quỉ bẩn thỉu, với làn da đen xỉn nhễ nhại
mồ hôi; nhưng trái lại, sao lúc ấy đôi mắt anh người đến thế nồng ấm đến thế, đôi
con mắt với tia nhìn long lanh, đôi con mắt thỏa mãn, sung sướng. Những khi ấy,
nếu tôi sang, anh vội vàng cầm búi giẻ rách khéo léo lau mặt, lau tay, lau ngực
và anh rủ tôi ra chuồng lợn, ngắm lũ ỉn; những lúc ấy, chúng tôi thường im
lặng, đốt thuốc lên hút; và khi những điếu thuốc phì phèo trên môi đã cháy quá
nửa, anh mới ngẩng đầu lên nhìn tôi rồi cười.Trên khuôn mặt vàng sạm của anh,
một nụ cười hiếm hoi phô bầy hai hàm răng trắng đều và đẹp. Nụ cười khắc kỉ ấy
nhìeu khi làm tôi bối rối.
Lân suốt
ngày ở trong lò chế biến thức ăn, hoặc ở bên chuồng lợn, ít khi thấy anh ló mặt
ra đường, đến nỗi có lúc tôi phải bỡn:
- Anh say mê lợn quá. Phải tặng
cho anh danh hiệu ”Nghệ sĩ lợn” mới đúng.
Lân hóm hỉnh:
- Có lúc vợ tôi phát ghen lên đấy. Một đêm, bà ấy bảo:
”Ông nên kê giường ra ngủ với lợn có lẽ hơn”. Thật oan cho tôi. Bởi vì tôi mê
bà ấy quá nhiều nên mới phải lăn lưng ra nuôi lợn chứ. Từ khi tôi ở chiến
trường về, năm năm ở với bà ấy thì đẻ luôn một mạch năm cô con gái…
Hôm nay,
trông thấy tôi , Lân đã reo to mừng rỡ:
- Cứ mong mãi. Có trà ngon đãi ông đấy. Trà Thái, loại
cực kỳ.
Lân nhóm bếp dầu đun nước, anh hâm ấm
chén cho nóng khi chờ nước sôi. Anh xoa tay, vui thú:
- Tôi đã bán được con lợn ”Tên lửa” rồi. Con này tăng
trọng vượt mức. Mỗi tháng tăng 25 cân.
Tôi mỉm cười. Mỗi con lợn của Lân đều
mang một cái tên rất chiến tranh: con ”Tên lửa” là con tăng trọng nhanh, con
”Lính thủy đánh bộ” là con ưa ăn loãng, con ”Thần sấm” là con rú gào suốt ngày đòi
ăn, con ”Xung kích” là con phàm ăn … tôi trìu mến nhìn người bạn hiền lành cả đời
làm lính ấy. Ngoài một mảnh đạn còn nằm trong phổi làm anh hay ho túc tắc, cuộc
đời chiến trận còn theo anh kéo dài dấu vết vào đàn lợn. tôi vẫn nói đùa Lân:
- Đàn lợn của cậu sặc mùi thuốc súng.
Hôm Lân sang xem tướng cho con lợn Bò,
con lợn sâu dóm của tôi, anh bảo:
- Con lợn này rồi sẽ có một tương lai rất huy hoàng. Sau
vài tháng nữa, anh thử chiêm nghiệm lời nói của tôi xem sao. Bây giờ nó còn nhỏ
bé, nhưng nó sẽ có một tiền đồ rất vẻ vang – Lân cười - Đáng lẽ ra, anh phải đặt
tên cho nó là ”Xe tăng cọp” mới đúng. Cái tên ”Bò vét đĩa” của anh nghe sặc mùi
dân sự …
Lân chế nước sôi vào ấm trà. Anh rót thứ
nước thơm phức, vàng quánh ấy vào chén cho tôi, rồi mời mọc ân cần:
- Uống đi. Uống mừng thắng lợi của tôi. Con ”Tên lửa” chỉ
trong ba tháng đã tăng từ 25 đến 100 cân. Chưa lứa nào tôi nuôi được con lợn tăng
trọng nhanh như thế. Tính ra sau ba tháng, trừ chi phí còn lãi hơn hai nghìn
bạc. Có khoái không anh? tôi đã sắm cho các cháu mỗi đứa một bộ quần áo.
Lợn còn dẫn tôi đén với người
bạn thứ hai độc đáo không kém gì Lân. Đó là Tám Bách Khoa. Tám là một giáo viên
cấp ba, dạy sinh vật. Anh này nuôi lợn ít thôi, nhưng lại say mê nghiên cứu về
lợn. Tám nói với tôi:
- Ở nước ta, hiện nay, ai nuôi
lợn là người đáng quí trọng, bởi vì nuôi lợn là một công việc kiếm sống lương
thiện nhất. (Ngay cả những ông lớn, dù lợi dụng đặc quyền mua rẻ con giống và
thức ăn, thì việc nuôi lợn của họ cũng đáng khuyến khích hơn chuyện ăn cắp
trắng trợn hoặc tham nhũng). Anh biết không, ngày xưa, nghề dạy học của tôi vẫn
được suy tôn là nghề cao quí nhất, lương thiện nhất, nhưng thực ra ngày nay
những điều đó thay đổi rồi. Có lẽ ta phải cần rộng lượng, bởi vì quan niệm của
con người về nghề dạy học đã bị thực tế làm biến đổi, bởi vì tri thức đang dần dần
biến thành hàng hóa. Người có tri thức cũng giống bà bán thịt, cô bán gạo, chị
bán bách hóa. Một bài toán, một ý tưởng cũng giống như một miếng thịt bò, một
cân gạo, một chiếc áo. Thịt tăng giá ư? Gạo tăng giá ư? Vải tăng giá ư? Vậy thì
một bài toán đại số của tôi, một bài văn làm mẫu của tôi, một đề luyện thi tủ
của tôi cũng phải tăng giá, nếu không, các thầy cô sống bằng gì? Đấy bây giờ
người ta lập luận về nghề thầy giáo như vậy đó.
Tôi thầm
nghĩ về Tám: ”Anh chàng này hơi gàn, nhưng đáng yêu”. Lân bảo, hồi còn là học
sinh Tám rất ít nói, và vẫn bị anh em cho là gàn. Hồi ở chiến trường B, Tám đã
bị bom B52 của Mỹ chôn sống, lúc được anh em moi lên, Tám chết luôn cho một
ngày một đêm. Vì bận đánh giặc, người ta chưa kịp chôn anh, khi Tám sống lại bò
ra giao thông hào tiếp đạn, anh em sợ hãi hét lên tưởng Tám là quỉ nhập tràng.
Từ đó Tám ít nói hơn trước, và nhiều khi kì dị hơn trước. Có người bảo Tám tâm
thần, song những hành vi của Tám trong những phút gay cấn nhất ngoài chiến trận
lại tỏ ra vô cùng sáng suốt. Và một điều kì lạ nữa đã xảy ra khi Tám từ chiến
trường trở về trường đại học, luận án ”Những cây cỏ có tính kháng sinh ở vùng
Trường Sơn” của anh đã được công nhận loại ưu. Và hiện nay, đề tài nghiên cứu
khoa học của Tám là cuốn ”Bách Khoa Toàn Thư về Lợn”. Lân nói với tôi rằng Tám đang
định dùng một cách tiếp cận rất mới mẻ đối với đề tài lợn, đó là một cách tiếp
cận vừa khoa học vừa văn học. Nói theo ngôn ngữ của Tám thì đó là cách tiếp cận
nằm trên giao tuyến của hai phương pháp khoa học và văn học. Có ý kiến cho rằng
ý nghĩ của Tám là độc đáo, tài năng; nhưng cũng có ý kiến cho rằng Tám là một
thằng điên.
Ngày … tháng …
Tôi hỏi Tám:
- Tại sao anh lại dùng cách tiếp cận Khoa học – Văn học?
- Tôi thích những đường nét rõ ràng rứt khoát, nhưng tôi
hiểu trong tôi còn có những vết nhòe mờ. Tôi thích một giai điệu đẹp, uyển
chuyển, rực rỡ như một vườn hoa mùa xuân, nhưng thú thật có lúc nghe một tiếng
u ơ trẻ nhỏ lòng tôi chợt run rẩy sung sướng. Một âm thanh chưa thành âm thanh
ấy có khi còn đẹp hơn cả một giai điệu đẹp.
- Tôi chưa hiểu …
- Cần dè dặt với cái kì bí – Tôi biết mãi mãi trong óc
tôi vẫn có những miền bóng mờ và cả một vương quốc tối lòa mà tôi như người mù
bước đi dò dẫm.
- Sao ý anh bồng bềnh khó nắm?
Cách tiếp cận mới… Định nghĩa của nó…
- Đó là bước đi dè dặt, bước đi của người.
- Có lẽ tôi đã loé hiểu một chút gì.
- Những con số, đó là ân nhân của chúng ta hôm nay; nhưng
còn ngày mai? Có khi nào một ân nhân lại biến thành kẻ chôn vùi chúng ta không?
Có khi nào miếng cơm ta ăn lại trở thành thuốc độc tàn hại đời ta? Có khi nào
người yêu ta mê đắm lại trở thành kẻ thù và đôi tay ngọc ngà lại như chiếc
thòng lọng siết quoanh cổ ta mỗi ngày một chặt? Có khi nào nọc độc rắn lại trở
thành tiên dược?
Ôi! Định nghĩa! Một định nghĩa làm đầu
óc tôi phải sưng tấy lên để tìm ra những đường nét lẩn trốn của nó. Phải chăng
cách định nghĩa của người điên?
Ngày … tháng…
Sáng sớm, vợ
tôi bảo:
- Anh ơi! Hết gạo rồi. Anh cố xoay hai chục để em mua yến
sắn cho con ăn.
Tôi gắt um lên:
- Ăn gì mà như thuồng luồng! Tháng này đã đong thêm hai
yến mì mà vẫn thiếu. Giết ai ra tiền bây giờ?
Vợ tôi cũng cáu kỉnh:
- Ai ăn? tôi ăn à? Anh hỏi con anh ấy: đứa nào ăn? Nếu
anh không muốn cho con ăn thì khâu mồm chúng nó lại.
Nghe tiếng
vợ chồng tôi vặc nhau, lũ lợn tưởng đến giờ ăn, bỗng rít lên cả đàn. Giọng đồng
ca lợn nghe mà nẫu ruột. Tôi còn chục bạc, hôm qua đã đi mua năm đồng bạc cua
về làm mắm cho lợn ăn rồi. Vậy bây giờ xoay tiền ra sao? Vặc với tôi xong, vợ
tôi hầm hầm dắt xe ra cửa. Tôi nhẫn nhục, quay ra sân, pha cám lợn. Và trong
khi tôi cho lợn ăn, thì thằng con lớn của tôi cầm đàn ghi ta, hát một bài dân
ca Pháp:
... Xa em
rồi, tim tôi sầu úa …
... Xa em
rồi, chìm trong biển nhớ …
Tiếng lợn đòi
ăn, hòa với tiếng ghi ta nỉ non, nghe mới thật nẫu lòng. Tôi cho lợn ăn xong,
vào nhà, thì thấy thằng con của tôi đã nằm dài đọc một cuốn sách triết học Ấn Độ:
”Nhất nguyên thế giới“; một cuốn sách rất siêu linh nói rằng ta và thế giới là
một; có thể nói cuốn sách là một vết cắt rạch đôi sơn hà, nói lên cái khác giữa
triết phương đông và triết phương tây, nói rằng triết phương tây băm vằm thế
giới ra làm muôn mảnh để soi để ngắm; à… cũng có thể nói cuốn sách muốn ngụ ý
tôi với lợn chẳng qua là một … Nhưng mà … Tôi còn đâu bụng dạ để suy ngẫm tới
những lẽ đời thâm thúy đến như thế. Lòng tôi như đang trong cơn bải hoải. Tôi
mệt mỏi bước vào nhà, nói như van xin với thằng con:
- Linh ơi! Mày không thấy sốt ruột sao? Giờ này, mà mày
vẫn nằm dài đọc triết học sao?
Linh uể oải:
- Bố cứ yên chí.
- Yên chí! – tôi đai lại một cách chán ngắt.
Tôi bỗng buồn thiu, trèo lên gác xép,
kéo chăn đắp, nằm dài để cho lòng dịu xuống để cho khuất mắt, để cho những bực
bội lắng đọng, rồi hòa tan trong im lặng. Và tôi chập chờn, nửa mơ, nửa ngủ.
Trong phút chập chờn đó, tai tôi bỗng vẳng nghe như thấy tiếng của Tám nói trầm
trầm:
- Ta hãy sống như con lợn ỉ … Hãy chỉ biết ăn - Ăn toàn bèo cũng được.
Cứ ăn cho đến lúc cái bụng ta to bằng cái thúng, và thế
là cảm giác no nê, thỏa mãn, hạnh phúc sẽ đến. Tuyệt đối chớ nên suy nghĩ, vì
suy nghĩ là mầm tai ương … Đấy, lý thuyết sống bây giờ là thế.
- Anh định nói mỉa tôi sao? Thôi câm lặng đi hỡi anh
chàng bẻm mép, hỡi triết gia lợn.
Và tôi bực dọc, ngồi nhỏm dậy. Không
trông thấy thằng Linh đâu. Chắc nó cũng chán đọc sách rồi, và lại đi chơi rông
dài với bọn bạn. tôi buồn. Buồn thì ra xem lợn ngủ - đó là thú giải trí của
tôi.
Trong
chuồng, ba con lợn ỉn mỡ màng, bụng căng như ba cái trống, đang cưỡi lên nhau
mà ngủ. Ba con lợn dáng thỏa thuê phè phỡn, nằm tênh hênh ngáy pho pho. Ba con
lợn đen và loang, nhưng lông thưa để lộ làn da bóng, mọng và hồng lên như quả
bồ quân … Còn con lợn Bò – vét- đĩa thì thảm hại, răn rúm, lông xù vàng quạch, đang
nằm phía dưới gần chỗ cứt đái, nó cố ghếch mõm vươn tới cái ổ rơm, mong hưởng
một chút hơi ấm thừa.
A! Khá
thật! Chú Bò – vét - đĩa đã quỵ luỵ và lân la để được phép nằm dưới chân bọn
lợn ỉn rồi. Con lợn Bò dạo này đã có tí chút da thịt. Bụng nó bụng ngựa nhưng đã
to phinh phính. Nó chịu khó ”vét đĩa” thật. tôi quan sát và nhẩm ước lượng. Này
đừng coi thường, có lẽ nó đã ”vét đĩa” được mmột lượng thức ăn gấp đôi lần
những chú lợn ỉn. Thức ăn thừa ở máng, trước khi nó về, mỗi bữa còn thừa rất
nhiều, nay sạch sành sanh.
Tôi đang mải say sưa ngắm đàn
lợn, bỗng thấy tiếng thằng Linh nói phía sau. tôi quay lại. Cậu sinh viên của
tôi, từ dưới hồ lướt thướt bước lên, giọng tươi tỉnh:
- Này, bố xem … Con đã bảo là
bố cứ yên chí. Bố tính, chừng này cua và ốc, có đáng giá hơn chục bạc không?
Bốn cân ốc, mỗi cân đồng rưỡi, vị chi là sáu đồng. Gần trăm con cua cũng ngót
nghét mười đồng.
Tôi lặng im,
cúi đầu. Còn thằng Linh, sau khi thay quần áo, lại tiếp tục leo lên giường và
quần nhau với ông triết học.
Ngày … tháng …
Ngày mồng
một tết, vợ tôi đánh đổ nước mắm; mẹ tôi bảo đó là điềm xấu, quả nhiên dạo này
vợ chồng tôi hay cãi nhau. Mẹ tôi thỉnh thoảng cứ hay nhắc lại, cho rằng nguyên
nhân chính của những vụ lộn xộn eo óc là do Tết đổ nước mắm. Thằng Linh thì hài
hước hơn bà, nó bảo năm nay là năm khỉ, loài nhăn nhó, năm của những gia đình
lủng củng bê bối.
Vợ tôi đi
làm suốt ngày, chiều tối về, lại sắn quần vào cuốc đất ở những chỗ đầu trâu mõm
bò cuối hẻm, nơi có những ao tù đặc
quánh nước cống, và những đàn muỗi vo ve như ong ngay cả ban ngày. Ở ruộng về,
khi cả nhà ngồi vào mâm, thì vợ tôi lại đủng đỉnh gánh nước giặt rũ. Thành thử
hôm nào cũng phải phần cơm bà ấy. tôi rất bực về chuyện này. Đi làm cả ngày
chẳng nhìn thấy mặt chồng, mặt con; có bữa cơm là lúc gia đình tụ họp, lại còn đủng
đỉnh, chẳng thèm ăn. Hết con lớn mời, lại con bé mời… Có lẽ cô không thiết đến
cái gia đình này nữa?
- Tôi lăn xương, sả thịt ra đến thế này mà anh còn bảo
tôi không thiết đến gia đình. Còn anh
anh thiết đến ai? Lúc nào cũng lợn, lợn, lợn. Anh thử ngẫm xem, anh còn
coi lợn hơn cả vợ anh nữa chứ.
Cái giọng dài ra của cô ấy, rồi khuôn
mặt tái lại, rồi ánh mắt sáng lên lạnh ngắt làm không gian nhà tôi bỗng nhiên
ắng lại rồi như sưng tấy lên. Nỗi bực bội bỗng nhiên dâng lên trong tôi. Nỗi
bực bội làm lòng tôi run rẩy nhưng tôi cố kìm giữ, tôi cảm thấy nó nghẹn ngào
trong họng. tôi lại leo lên gác xép nằm dài, mắt trừng trừng mở to nhưng chẳng
thấy gì hết. Mẹ tôi im lặng, vợ tôi cũng im lặng, con tôi cũng im lặng. Không
gian đầy quá, đầy ứ - đầy một cái gì đó mà tôi không hiểu, nhưng tôi cảm thấy
nó rất vật chất. Có lẽ cả nhà tôi đều cảm thấy nó nên không ai dám cất lời. Có
lẽ ai cũng sợ tiếng nói của mình, âm thanh của mình sẽ như một giọt nước, và
chỉ cần một giọt nước nhỏ xíu ấy thôi là cái đầy ứ đó sẽ tràn. tôi thức trắng đêm,
mắt trừng trừng nhìn vào miền tăm tối nhất của đêm đen bên trong tôi. Phải chăng
tôi đang đi tìm tên gọi của cái ứ đầy đó. Tên ngươi là chi? Đêm đen trả lời tôi
bằng tiếng rì rầm như sóng biển ru rím tôi vào giấc ngủ dịu dàng. Và tôi thở
dài, nhắm mắt …
Ngày … tháng …
Tám, ông triết gia lợn đến thăm.
Nhà nghiên cứu về lợn ngồi uống nước, trầm ngâm
thỉnh thoảng lại liếc mắt nhìn quanh quẩn như suy ngẫm về một điều gì đó.
tôi cũng ngồi trầm ngâm như anh. Bỗng nhiên, hình như Tám phát hiện được một điều
gì đó. Thấy anh gật gù. Rồi anh nói một mình:
- Đúng rồi!
Tôi giật mình:
- Anh bảo đúng cái gì?
Tám ghé vào tai tôi, thì thào:
- Ô nhiễm!
- Anh bảo sao?
- Ô nhiễm – Tám vẫn nói khẽ.
- Tôi vẫn chưa rõ … - tôi nhíu mày hỏi lại. Còn giọng Tám
thì có vẻ buồn rầu. Lần này anh nói với tôi rõ ràng hơn:
- Tôi bảo nhà anh bị ô nhiễm.
Tôi sửng
sốt vì ý nghĩ có vẻ điên của Tám. Tám ngồi trầm ngâm thêm một phút, rồi hỏi như
tra khảo:
- Nhà ta, có ai bị ốm không?
- Không.
- Quái thật! phải có chuyện gì đó …xảy ra mới đúng chứ.
Anh nghĩ kỹ xem, ít lâu nay trong nhà có chuyện gì lạ không?
Tôi cười:
- Vợ chồng có chút to tiếng … nhưng ổn rồi.
Tám lắc đầu:
- Không phải
chuyện ấy. Ý tôi hỏi có ai ốm không?
- Không – tôi ngạc nhiên về sự
gặng hỏi của Tám. Tôi trả lời rứt khoát – Cả nhà đều khỏe cả
- Quái nhỉ!
Tám vẫn có vẻ không tin. Anh kéo tôi đứng
dậy, xuống bếp rồi ra thăm chuồng lợn. Anh chê bai:
- Chuồng lợn của anh sát nhà quá.
- Đất hẹp, ai chả làm thế.
- Không có lợi đâu – Tám nhìn tôi, cầm tay tôi rồi nói ra
vẻ quan trọng – Hoàng nên nghe mình. Nên chuyển chuồng lợn ngay ra chỗ khác.
Tôi cười mỉm:
- Anh định đặt hướng, tìm đất
cho chuồng lợn như kiểu thầy địa lý tìm đất để mả?
- Chứ sao?
Tôi ngạc nhiên nhìn Tám không hiểu anh đùa
hay thật. Vẻ mặt nghiêm túc của Tám làm tôi không thể nào nói đùa được nữa. tôi
hiểu Tám đang quan tâm tới gia đình tôi thực sự tôi phải tìm lời giải thích cho
bạn tôi yên tâm:
- Đã đành nuôi lợn sát nhà
không vệ sinh, nhưng anh thử nhìn chuồng lợn của tôi … Sạch sẽ đấy chứ? Làm gì
có mùi hôi vào nhà … Lúc nãy, anh nói ô nhiễm làm tôi sợ hãi quá … Anh cho rằng
… mùi lợn ô nhiễm … nguy hiểm …
- Chứ sao! Nguy hiểm! Tám gật đầu công nhận.
Nhìn đôi mắt kì lạ của Tám, tôi lắc đầu
không dám tranh cãi tiếp với anh chàng gàn dở ấy nữa.
Ngày … tháng …
Lĩnh lương
hưu được trăm tám, tôi cắt ra một trăm đong cám bã cho lợn. Vợ tôi bảo - Con
mấy hôm nay phải ăn sắn trừ bữa đấy. Phải để tiền đong thêm mì sợi cho chúng. Ăn
sắn mãi là bủng beo ra đấy.
Tôi giảng
giải:
- Em đừng lo. Chả mấy chốc đâu, chỉ ba tháng nữa sẽ có
tiền bán lợn. Nuôi lợn phải cho nó ăn, thì cuối cùng mới có tiền em ạ.
Vợ tôi bĩu môi:
- Lúc nào cũng chỉ lợn với lợn.
tôi nói thật, anh nên bán ngay cái lũ lợn quỉ quái ấy đi. Lúc nào cũng rú rít đòi
ăn … Ôi! tôi nhức đầu … Mà không chừng nó lăn quay ra cả lũ … là đi đời bao
nhiêu vốn liếng chắt bóp …
- Cô không tin tôi …
- Tôi tin anh ư? Cái ngữ học trò dài lưng tốn vải như anh
mà nuôi lợn có lãi, thì xin cứ chặt đầu tôi đi.
Tôi mềm dẻo:
- Cô đừng nên bàn ngang. Người như tôi mà không nuôi nổi
mấy con lợn thành công hay sao?
Vợ tôi có vẻ bực bội:
- Thế … anh định treo mồm lũ trẻ lên hết hay sao?
Giảng giải mãi không xong, tôi đâm bực
nói ngang:
- Ừ! Cứ treo mồm hết chúng nó lên.
Vợ tôi lắc đầu:
- Anh điên rồ rồi! Anh quí lợn hơn con anh sao?
Mặt nóng bừng, tôi nói bừa:
- Đúng! Lợn quí hơn người.
Thế là vợ
chồng tôi lại giận nhau. Cả ngày hôm nay, vợ tôi không thèm nói với tôi nửa
lời. Cả lúc đêm xuống, vợ tôi cũng nằm quay lưng lại. Khi bóng đêm sụp xuống, đó
là thời gian xoa dịu những cay cực đời người, đó là thời cơ để vá víu những
rách nát vợ chồng. Nhưng đêm nay, bóng tối đôn hậu dịu dàng cũng chẳng xóa nổi
giận dỗi vợ tôi.
Tôi nằm
thừ, vắt tay lên trán. Rồi nghĩ miên man; rồi tự nhủ thầm: ”Có thể ta thô lỗ
quá chăng? Cục cằn nữa? Trước kia, có lúc nào ta như thế? Cái anh chàng thanh
niên thanh nhã xưa kia đã biến mất tự lúc nào chẳng hay. Cái tế nhị xa xỉ đã
hàng ngày đánh vật cùng cái thô nháp cường tráng để cuối cùng thua trận, nó lùi
dần và chết chìm trong đêm dài vô thức, để thỉnh thoảng u ơ cựa dậy bằng những
câu mỉa mai bất lực, hoằc bằng những trắng đêm thao thức sám hối, như tiếc nuối
một cái gì đó không tên, không diện mạo, hoặc bằng những cơn rồ dại phi lý ngớ
ngẩn …”
Tôi tự phân
tích mình, tự đào sâu vào những kẽ nứt tâm hồn, tự nậy mở những vết thương mà
thời gian đã cố đắp những mảnh da non mỏng manh vốn có hiệu lực phủ lên mắt ta
một màng mờ giấc ngủ.
“Sao tôi cứ
trong mắt ra như thế này hở trời! Sao tôi cực đến thế này hở trời? Hình ngục
nan đào! tôi đã bị giam cầm bơ vơ trong một thế gian đông đúc. Chẳng ai thông
cảm với tôi lúc này hay sao? Ngay cả vợ tôi, người bạn đường cũng quay lưng
lại.“
Từ những
suy nghĩ toan tính xa vời, đầu óc của tôi bay tới những đám mây mung lung chua
chát, rồi cuối cùng trở về với những lo toan thường nhật.
“Ta trách
vợ ta ư? Ta có lỗi, hay cô ta có lỗi, hay chẳng ai có lỗi? Người ta cho ta về
hưu sớm. Thực ra, người ta chẳng muốn dùng ta nữa. Thời buổi đói kém, sáu chục đồng
bạc hưu gày còm ấy, ta nuôi sao nổi bốn đứa con với một mẹ già. Nhìn đứa con út
vêu vao, sớm đi học không cả bát cơm nguội, sao mà sót xa. Muốn kiếm tiền lắm
chứ. Đã hết mọi sĩ diện. Hết mọi ảo tưởng, hết cả những ý nghĩ viển vông trong
óc. Rất muốn làm một điều gì đó có ích, thiết thực. Muốn làm một nghề gì đó
bằng trí óc; nhưng viết thì chẳng được, dịch cũng chẳng ai giao. Muốn làm một
nghề gì đó bằng chân tay, nhưng sau ba mươi năm trời làm anh bộ đội và làm cán
bộ, sự khéo léo của đôi tay đã hết rồi, mà bắt đầu học nghề thì quá muộn. Cũng
có lúc muốn xuống đường, nghĩa là đi buôn, chạy áp phe, nhưng ba mươi năm trời
ấy cũng biến ta thành một con người sơ cứng, ngây ngô quá đỗi, mình không còn đủ
mềm dẻo, thớ lợ để thích ứng với một cuộc sống cạnh tranh, giành giật từng giây
phút. Vậy thì nuôi lộn là kế sách cuối cùng. Người ta bảo những người thanh
cao, càng lúc khốn khó càng biểu hiện sự thanh cao một cách toàn vẹn. Còn tôi,
lúc khốn khó này, tôi đã trở nên thô tục, cục cằn. tôi không phải kẻ thanh cao;
điều đó là hiển nhiên …
Trong giấc
ngủ, vợ tôi bỗng thở dài. Tội nghiệp! Sao sống với anh, đời em lắm thở dài?
Đêm hôm ấy,
tôi có một giấc mơ rất đẹp: giấc mơ lợn. tôi mơ thấy con lợn Bò của tôi biết
nói. Nó lớn rất nhanh. Nó sừng sững trước mặt tôi như con bê. Nó chồm hai chân
trước bíu lên cái gióng tre cũi lợn. Nó nói:
- Ông đừng lo. Ta ăn một miếng
cám, ta trả một cục vàng. Ta sẽ lớn nhanh không thể tưởng tượng. Rồi ông xem.
Ta sẽ đem lại cho ông nhiều tiền của … Và nhiều điều lạ.
- Sao lại điều lạ?
Tôi ngạc nhiên – Còn con lợn thì cuời.
Giấc mơ lợn kỳ cục thật. Thật vô lý và ngây ngô, nhưng chí ít giấc mơ ấy cũng đem
lại cho tôi một chút hy vọng, cũng xoa dịu được lòng tôi đôi phần.
Ngày
… tháng …
Ai cũng khen
con Bò - vét - đĩa lớn nhanh như thổi. Bao giờ nó cũng ăn đến phút cuối cùng và
cũng ” vét đĩa ” sạch sành sanh. Và đặc biệt, thỉnh thoảng, mắt nó lại nhìn lấm
lét. tôi chúa ghét lấm lét, nhưng tôi lại yêu con lợn Bò lấm lét của tôi. tôi
yêu nó vì cảm thấy có lẽ nó là cứu tinh của gia đình tôi. tôi chăm chú quan sát
cái sự lấm lét ấy, và phát hiện ra nhiều điều mới lạ. Mắt con lợn này đúng là
loại mắt bò, thứ mắt lơ đãng, thơ ngây, có thể là dại dột nữa. Người Ấn Độ
thường nói khen: ”Cô con gái ấy có đôi mắt đẹp như mắt bò”. Vậy thì theo phép
suy luận lô gích tam đoạn luận, mắt con lợn Bò của tôi ắt là phải đẹp. Thật là
một nghịch lý, một đôi mắt đẹp mà lại biết lấm lét! à! Ghê thật! Con mắt lấm
lét ấy cũng biết hận thù đấy. Có lúc tôi đã ghi nhận được những ánh căm thù
trong mắt con Bò – vét - đĩa; là lúc tôi bắt đầu đổ thức ăn vào máng và ba con
lợn ỉn hả hê tranh nhau nốc thức ăn, lúc ấy Bò - vét - đĩa đứng lặng im trong
xó sỉnh tăm tối của mình và giương đôi mắt bò mở to ra mà nhìn, đồng thời rãi
rớt trều ra quanh mõm. Những chú lọn ỉn cũng quái ác. Khi chúng đã no phềnh, và
con Bò bắt đầu vét đĩa, thì mỗi chú ỉn, trước khi vào chỗ nằm, thể nào cũng
phải đấm, dúi, cắn vài cái vào bụng, vào đầu hoặc vào tai con lợn Bò. Có thể đó
chỉ là sự ra oai, sự cho biết lễ độ, sự phân rõ đẳng cấp, vì vậy, những cú đánh
ấy thường không đau, ít tác hại. Vả lại, Bò ta cũng hiểu rõ thân phận của mình
nên không bao giờ chống trả, do đó cuộc chung sống hòa bình trong đàn lợn của
tôi vẫn tốt đẹp.
Ngày … tháng …
Người hàng
xóm hơi xa của tôi là ông chủ lò (tiếng xưa), còn nói theo ngôn ngữ ngày nay,
anh ta là ông quản đốc lò sát sinh. Một con người cao lớn, to béo như tây, đeo
kính dâm mầu phớt hồng, mắt kính Pháp, gọng vàng tây chính hiệu, nói chung một
cái kính rất mốt rất đắt. Anh ta ưa mặc quần soóc, mặc thế để khoe cặp đùi nhẵn
nhụi, trắng hồng, mỡ màng. Anh ta đi một chiếc xe máy Pháp kiểu mới nhất. Lẽ dĩ
nhiên anh ăn nói đàng hoàng, đối xử với hàng xóm rất đàng hoàng.
Anh đến
chơi, đề nghị thằng Linh con tôi, giúp anh việc kèm cặp học hành cho đứa con
thứ hai sắp sửa thi vào cấp 3. Anh rộng rãi bảo cùng tôi:
- Bác có cần mua tóp mỡ bồi dưỡng cho lợn không? Giá cung
cấp. Chỉ vài đồng bạc một cân thôi. Ăn tóp mỡ, lợn sẽ lớn rất nhanh … Mà, nếu
cần, tôi sẽ giúp bác mua cả phổi lợn nữa …
Thằng Linh hay tếu, nó cười to:
- Chú Hợi ạ, tóp mỡ thì cháu cũng thèm, chứ chả nói đến
lợn.
- Được
rồi! Nếu mày giúp chú, chú sẽ giả công bằng tóp mỡ.
Con tôi cười to. Và Hợi chìa tay ra:
- Thế nào? Xong chứ?
- Cháu xong ngay.
Hai chú cháu bắt tay. Cả nhà tôi cười
ròn, đúng là ròn như tóp mỡ.
Thật tuyệt.
Căn nhà của tôi lại sắp sặc mùi tóp mỡ lợn. Đêm nay, đi ngủ tôi còn mơ thấy mùi
ngầy ngậy của những tảng tóp mỡ. Cuộc đời kỳ lạ thật! Ngày xưa, tôi đã làm nghề
thầy giáo tư gia. Ngày đó, cậu gia sư phải đạo mạo nghiêm trang; đầu tháng, khi
trả tiền, người chủ nhà khi xưa vẫn đặt tiền trong chiếc phong bì thơm phức và
nói bằng một giọng thật khách sáo: ”Gọi là có một chút ít để cậu tiêu vặt.”
Còn ngày
nay, cuối tháng ông chủ sẽ đem chiếc cân ra, bốc nắm tóp mỡ lợn và cười nói
oang oang:
- Tháng này chú trả công cho cháu ba cân tóp mỡ nhé. Thế
nào? Muốn trả làm một kỳ hay hai kỳ?
Hoặc:
- Tháng này ít tóp mỡ quá. Thay thế một cân tóp mỡ bằng
ba cân phổi tưoi nhé? Xong chứ?
Cứ tưởng tượng ra cái cảnh đặc biệt, kỳ
dị ấy, đã thấy thú vị, và nụ cười đã bất giác nở trên môi.
Ngày … tháng …
Tôi đọc
những trang bản thảo còn tản mạn, cuốn ”Bách Khoa Lợn” của Tám. Đó là cuốn từ điển
viết theo chủ đề. Tám đã tạo ra những chữ hoàn toàn mới lạ như: Bái- trư -
giáo, Trư luận, Trư học. Có lẽ vào thời buổi đói khát nên chữ Thịt lợn được
tôi đọc trước tiên. Đây là một bữa cỗ ngôn ngữ, bữa cỗ trên giấy. Chúng ta gặp
ở đây những chế phẩm của thịt lợn từ đông sang tây: những pa tê, dăm bông, xúc
xích của người châu âu; rồi đến giò, nem, ninh, mọc của tổ tiên ta. Riêng giò
chả đã có giò lụa, giò hoa, giò xào, giò chả cầy, chả quế, chả rán, chả nướng,
chả băm viên, chả bì … tôi thật không ngờ riêng thịt lợn mà con người đã có hơn
một trăm cách chế biến. Cái món tiết canh, thứ chế phẩm độc đáo có một
không hai trên thế giới, thứ thức ăn Việt đã được nhiều người ưa thích nhất và
cũng bị nhiều người lên án và ghê tởm nhất, đã được giáo sư Tám dùng bút xem
xét kỹ lưỡng: ”Có lẽ đây là món ăn sống nguyên thủy nhất, cổ sơ nhất của loài
người từ thời hồng hoang còn sót lại chỉ riêng trên đất Việt. Tổ tiên chúng ta
ngày xửa ngày xưa, khi săn bắt được con thú, đã biết sử dụng triệt để; có lẽ
việc đầu tiên, khi con thú ngã xuống, là cắt cổ con vật và toàn thể bộ tộc thay
nhau xô tới, áp mồm vào cổ con vật mà hút, mà nuốt cái dòng nước đỏ loè, mằn
mặn, ngòn ngọt, âm ấm. Rồi việc đó được áp dụng cho cả con người, những tù
binh, những kẻ bị hiến tế. Tổ tiên ta đã đốt lửa lên, đánh trống bập bùng, rồi
nhảy nhót, rồi cắt cổ một tên tù binh nào đó và tất cả bộ tộc cũng xô vào mồm
bám chặt lấy cổ tên giặc mà hút, mà rít, mà nuốt cho đến khi tên địch đờ đẫn và
ngoẹo đầu xuống. Người Việt ta vốn là dân sành ăn, tinh tế trong ăn uống. Cái
món ăn kiểu hút cổ họng đó chắc chắn bất tiện và thiếu đàng hoàng. Ra chốn đình
trung, các cụ cần khề khà, cần rung đùi, cần chậm chạp vừa ăn cỗ vừa nghĩ mưu,
nghĩ mẹo. Chính vì vậy nên nhân tiết canh, rồi lá húng, rồi lạc rang giã nhỏ được
ra đời, để tạo ra món ăn có một không hai trên toàn vũ trụ.”
Khi đọc môn
tâm lý học quản lý của người Nhật, tôi biết ở bên đó, ở nhiều xí nghiệp đều có
”phòng hả giận” (desagressivity hall). Nguyên do là thế này, môn tâm lý học
phương tây cho rằng trong mỗi con người đều có một bản năng thô bạo cuồng điên.
Nếu không giải quyết, chất cuồng điên ấy sẽ tích tụ, và sẽ gây nhiễu loạn; vậy
thì mỗi xí nghiệp, đều cần phải có “phòng hả giận” , đó là gian phòng trong đó
có những găng bốc, những đao kiếm, những bao cát, những hình nhân; và người
công nhân, sau giờ làm việc, hãy vào đấy mà đâm, mà chém, mà đánh bốc vào những
bao cát, những con nộm để đến cuối cùng mồ hôi toát ra và tất cả nỗi bực bội
của kiếp nhân sinh cũng hả theo.
Người Nhật
quá sùng phương tây, họ quên mất ở phương đông, cụ thể là ở Việt Nam, còn có
món tiết canh, một món ăn giải nhiệt, hả giận cực kỳ. Đông y có nói: Tiết vị
hàn, mát, có thể giải nhiệt, chữa được chứng phong cuồng. Tôi khuyên người Nhật
nên mở những quán tiết canh thay cho ”phòng hả giận”. Sau giờ làm, người công
nhân vào quán, ăn món ăn hả giận đó, mồm sẽ nhoe nhoét đỏ, và nỗi phiền muộn
tích tụ cũng sẽ được tiêu tan…”
Tôi đọc xong
mục tiết canh lợn, thấy ngồ ngộ, môi chợt nở nụ cười không cưỡng nổi. Và tôi bị
hút vào cuốn Bách Khoa.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét