Để
tưởng nhớ Anh Lê Thơm, một vị Huynh Trưởng, cũng là một chiến hữu, một
người bạn đã vĩnh viễn ra đi lúc đang bị biệt giam trong ngục tù của lũ
quỷ đỏ cướp nước.
Nguyễn Chí Mẫn
Tùy
từng vùng, từng khu, từng nơi họ bị giam giữa, những người tù “ không
bản án” sang ngày bị mất nước đều dùng các cụm từ đặc biệt mỗi khi đề
cập đến lũ quỷ đỏ cai tù, kẻ thù của họ có nhiều người gọi những Người
tù này là “tù cải tạo”, nhưng hầu hết họ đều tự gọi họ là tù “không bản
án” vì họ đâu có bị kẻ thù cướp nước mang ra xét xử, kêu án gì đâu mà
vẫn phải bị giam giữ, lưu đày dài dài, không biết được ngày mãn án trong
ngục tù, trong biệt giam.
Từ
lúc bị đưa ra tận ngoài “miền Bác Xã Hội Chủ Nghĩa”, vùng rừng núi
trùng điệp Hoàng Liên Sơn, anh em chúng tôi, những Người tù “không bản
án” trong Liên trại 4 (chung quanh Hồ nước Thác Bà) gọi các tên bộ đội
cai tù là lũ “bò xanh” vì quân phục của chúng màu xanh lá cây.
Sau khi bị chuyển về đến trại giam huyện Thanh Chương, Nghệ tĩnh để bọn công an “quản lý”, chúng tôi gọi bọn này là lũ “bò vàng” vì chúng mặc sắc phục vàng khè.
Ở
ngoài Hoàng Liên Sơn, chúng tôi bị giam trong các “láng trại” bằng cây
rừng, nứa, giang, dầu, còn ở trại Thanh Chương này, các nhà đều được xây
bằng đá xanh, xi măng, mái lợp bằng tôle, chung quanh toàn khi trại
giam được bao bọc bởi một bức tường cao vời vợi, cũng được xây bằng đá
xanh; và chót vót còn có một lớp kẽm gai. Đứng ở ngoài , nhìn bao quát
trại giam này thì nó giống như một lâu đài thật kiên cố, màu xám xịt ở
mmột nước nào đó bên trời Âu, vào thời Trung cổ.
Trong
trại này có mười dãy nhá đá dành cho hai thành phần tù nhân “cư trú”:
thành phần tù chính trị (là chúng tôi) còn được gọi là Tù Z; và thành
phần tù hình sự (là những kẻ đã phạm tôi sát nhân, đâm cha chém chú,
hiếp dâm, trộm cắp). Mỗi dãy nhà đá đều được ngăn cách nhau bởi các bức
tường cũng được xây bằng đá xanh với xi măng, cao khoãng ba thước. Nhà đá chỉ có một cửa ra vào bằng sắt, được mở vào
buổi sáng và đóng khóa lại lúc chiều sau khi điểm danh và kiềm soát
nhân số của từng đội lao động “cư trú” trong nhà . Ở trong mỗi nhà có
chổ dành riêng cho việc tiểu và đại tiện, chổ này được gọi là “phòng vệ
sinh”, có một cửa thông hơi được chắn ngang bởi ba thanh sắt tròn
(“phòng vệ sinh” còn được gọi là “buồng”)
Buổi
sáng, trước khi mở cửa nhà đá cho chúng tôi ra ngoài rửa mặt đánh răng,
tên cán bộ bò vàng trực trại vào trong nhà, đi một vòng, lẩm nhẩm đến
số người hiện diện tại đây xem thiếu đủ thế nào, so sánh với nhân số ghi
trong sổ tay của hắn.
Buổi
chiều, trước khi vào nhà đá (mà chúng tôi thường gọi đùa là “vô
chuồng”), chúng tôi phải xếp hàng dọc ở phía ngoài sân, từng người bước
vô cửa, vừa đi vừa đếm số thứ tự của mình, theo vị trí đã đứng trong
hàng, trong khi tên bò vàng trực trại “ trụ trì” ngay ngưỡng cửa, theo
dõi và kiểm soát. Sở dĩ những chi tiết trên đây được đề cập tỉ mỉ vì
chúng rất cần thiết liên quan đến cuộc vượt ngục sau này.
Ngoài mười dãy nhà đá, trại giam Thanh Chương còn có hai căn nhà đá khác được xây cất đặc biệt, rất đặc biệt, được gọi là “khu biệt giam”.
Năm
1981, có hai Vị Linh Mục Tuyên Úy Công Giáo bị tống vào khu biệt giam
ngay từ lúc hai Ông vừa bị chuyển về trại Thanh Chương này. Có thể lũ bò
vàng nhận được lệnh trên của Thưọng cấp phải “cách ly” hai Vị này trước
khi họ đến đây. Kẻ thù nơm nớp lo sợ họ rỉ tai, xách động chúng tôi để
bạo động chống phá chúng chăng? Do đó, chúng nhốt hai Ông vào khu biệt
giam cho…chắc ăn!
Bình
thường, những người bị tống giam vào khu nhà đá đặc biệt này (chúng tôi
hay tù hình sự) đều là những người đã “vi phạm nội quy của trại”, tù
mức độ nặng nhẹ mà bị lũ bò vàng “kêu án”. Những điều nghiêm cấm trong
bản nội quy đã do chúng “vẽ rồng vẽ rắn” hồi thời cố lũy nào đó, rồi tùy
hứng đem ra áp dụng để trừng phạt tù nhân, tống họ vào khu biệt giam
trong một thời gian tùy theo “bản án”.
Còn
trường hợp của hai Vị Linh Mục này thì khác: vừa bị chuyển đến đây, họ
liền tức khắc bị đẩy vào biệt giam. Chúng tôi ai nất đều hiểu rằng hai
ông này sẽ “cư trú” trong đó vô thời hạn; và đều nghĩ rằng nếu để họ
phải sống bị cô lập, bị ”cách ly” mãi với anh em chúng tôi thì chắc chắn
hai Ông đều sẽ không “thọ” lâu, sẽ được chúa gọi về với Ngài rất sớm.
Chúng tôi thường gọi tình trạng của hai vị Linh Mục này là “ở tù trong tù”.
Vì
không thể cứ nhắm mắt làm ngơ, cứ để hai Ông lủi thủi mãi trong khu
biệt giam như vậy, nên có một số anh em chúng tôi âm thầm tìm cách liên
lạc, đua tin và thỉnh thoảng, tùy khả năng của mỗi người khi được “thăm
nuôi” hay khi nhận quà cáp từ gia đình gởi bằng bưu điện, tìm cách gói
cột thật kỹ chút ít “tặng phẩm” rồi ném liệng vào cho hai Ông để gọi là
”cùng nhau chia xẻ”.
Công
việc đưa tin “yểm trợ”, nhóm nào “phụ trách” thì chỉ có nội bộ nhóm ấy
biết rõ mà thôi, vì “nếu bị xì ra, nếu bị bể”, để cho bọn chó săn
ăng-ten đánh hơi được, rồi báo lên lũ bò vàng, chắc chắn cả nhóm ấy sẽ
cùng nhau vào nhà đá biệt giam, đút chân vào cùm sắt, nằm “nghỉ xả hơi”
một thời gian nào đó mà kẻ thù tùy nghi, tùy hứng bắt buộc phải “thi
hành bản án” do chúng đưa ra.
Tôi
là thành viên của một trong các nhóm kể trên. Nhóm tôi gồm có ba đứa.
Các ngày nghỉ khỏi phải đi cày cuốc, lao động (thường là vào ngày chủ
nhật), nếu thời tiết tương đối tốt, thuận tiện cho việc quan sát lũ bò
vàng tuần tra kiểm soát trại, đề phòng bị chúng chộp ót quả tang lúc
đang liên lạc với hai Ông Linh Mục, chúng tôi mới “ra tay” và phân nhiệm
như sau: Một đứa trực tiếp “đưa tin”, hai đứa còn lại đứng canh chừng,
làm “lính gác giặc”, báo động ngay khi thấy có tên bò vàng nào xuất hiện
từ xa để cả nhóm kịp thời tản mác, rút lui và “lặn thật sâu” biệt tăm
biệt tích, rời khỏi khu cấm địa càng nhanh càng tốt.
Tôi
giữ nhiệm vụ canh chừng, quan sát, báo độngvà đứng lẫn quẫn ở một góc,
trong khi anh chàng “đưa tin” lượm một cục sỏi nhỏ, liệng qua bức tường
đá, rồi rơi trên nóc tôle của can nhà biệt giam, gây nên một tiếng động nho nhỏ. Chừng
nửa phút sau, khuôn mặt một ông Linh Mục nhô lên khỏi bức tường. Vì bức
tường đá này cao trên hai thước, tôi nghĩ rằng ông linh Mục ấy phải
đứng trên vai của bạn mình mới có đủ chiều cao để ló đầu lên cho chúng
tôi thấy. Thời gian trao đổi tin tức không lâu quá một phút. Tuy ngắn
ngủi nhưng chính trong khoãng thời gian này, hai tên “lính gác giặc” gồm
tôi và một đứa bạn phải hết sức thận trọng, đề cao cảnh giác, dồn hết
sự chú tâm trong nhiệm vụ quan sát và báo động. Sau đó, cả ba đứa phân
tán mỗi đứa một nơi. Chúng tôi luôn luôn bảo với nhau rằng: “Phải đánh
nhanh và rút gọn”. câu này chúng tôi đã học được trong các bài chiến
thuật trong quân trường và cũng đã từng áp dụng trong thực tế ở ngoài
chiến trường, lúc chưa bị mất nước.
Nếu
sinh hoạt trong trại giam không có gì “đặc biệt” trong suốt cả tuần lễ,
chúng tôi không cần phải mạo hiểm “đưa tin” cho hai vị Linh Mục.
Thỉnh
thoảng, nếu được “cải thiện” đọt lá khoai lang hay rau cải luộc, chúng
tôi cũng tìm cách gói, cột thật kỹ một ít, rồi liệng qua bức tường đá
vào cho hai ông vì ở trong đó, có khi nào hai Ông được “cải thiện, cải
ác” gì đâu. (cụm từ “cải thiện”, chúng tôi được biết từ khi vào tù, cụm từ này kẻ thù dùng để nói “cho thêm”. Có khi chúng
xài chữ “bồi dưỡng”. Xin được nói cho rõ là cá nhân tôi rất “dị ứng”
với ngôn từ, cụm từ của lũ cướp nước. Chỉ trong những trường hợp bất đắc
dĩ,bất khả kháng, tôi mới “nhắc” lại chúng mà thôi.
Thời
gian sau đó, khi lũ bò vàng cho chúng tôi nhận bưu phẩm, quà cáp của
gia đình thì hoàn cảnh chúng tôi tương đối “dễ thở” hơn trong vấn đề nhu
cầu dinh dưỡng. Một sự việc đáng mừng cho hai vị linh Mục vì hai Ông
nhận được bưu phẩm còn nhiều hơn anh em chúng tôi, nhờ thân nhân và con
chiên “yểm trợ”. Có vài lần “đưa tin”, hai ông còn quăng ra cho chúng
tôi một số nhu yếu phẩm như đường cát và sữa bột trong các gói quà mà
hai Ông đã nhận. Mặc dù chúng tôi có cho hai ông biết rằng chúng tôi
cũng liên lạc được với gia đình rồi. Thằng bạn tôi, người có nhiệm vụ
thường xuyên liên lạc đưa tin trực tiếp trong những lần “tiếp cận” ấy,
thuật lại cho hai đứa chúng tôi (chuyên môn làm “lính gác giặc”) các lời
nói của vị Linh Mục như sau:
-
Nhờ các anh đem vài món này về chia cho những anh em kém may mắn, chưa
nhận được tin tức của gia đình. Chúng ta hãy cố gắng chia xẻ những gì
chúng ta có để cùng sống, cùng vượt qua thời gian khốn khổ, đọa đày này.
Xin Ơn Trên ban phước lành cho tất cả anh em !
Chúng
tôi thường dùng cụm từ “mồ côi” khi đề cập đến các người bạn mình, vì
những lý do nào đó mà chỉ có họ mới hiểu mới biết tại sao họ không có
tin tức, không thể liên lạc được với gia đình, với người thân của họ (
kể sao cho hết, nói sao cho vừa, đếm sao cho xiết số gia đình của những
thành viên trong chính quyền miền Nam đã phải ly tán sau ngày đất nước
bị lũ quỷ đỏ xâm lấn cướp mất, Thảm trạng này, nỗi uất hận, nổi nghẹn
ngào này, nổi khốn khổ này, ngàn đời sau chắn chắn khó ai quên được. Nếu
có ai đó, có thành phần nào đó xu hướng, hô hào cái chiêu bài hãy quên
đi quá khứ mà hướng về tương lai, chung sống với lũ quỷ đỏ thì kẻ đó,
thành phần đó không còn là con người nữa. Là người, phải có nhân cách,
lương tri và liêm sĩ).
Chúng
tôi luôn luôn tôn trọng và thông cảm những người bạn đồng cảnh bị “mồ
côi”; không bao giờ dám đề cập đến chuyện gia đình riêng tư của họ trong
các lần chuyện trò, tiếp xúc. Chỉ khi nào họ “xì ra” thì lúc đó, chúng
tôi mới hiểu, mới biết được hoàn cảnh tế nhị của họ mà thôi.
Buổi
sáng hôm ấy, như thường lệ chúng tôi đang chuẩn bị chờ tiếng kẻng báo
giờ xuất trại để đi lao động, bổng được lệnh “bày hàng” (trưng bày tất
cả những gì mình có) để bọn bò vàng khám xét, “kiểm tra tư trang”
Ai
nấy đều xôn xao, bàn tán:” có chuyện gì nữa đây?” theo kinh nghiệm qua
năm tháng tù đày, chúng tôi thừa hiểu mỗi lần phải “bày hàng” là mỗi lần
phải có một sự việc không bình thường xảy ra sau đó như: “biên chế nhân
số”, chuyển trại hay tiếp đón một số anh em từ nơi khác dến, Sau lần
“bày hàng” này, tất cả chúng tôi sắp xếp đồ đạc cá nhân gọn gàng trong
túi đeo lưng, xách tay rồi tập họp trong “hội trường”, một căn nhà thật
rộng lớn, không có vách, cột kèo bằng cây và nóc được lợp bằng lá “cây
cọ”, một loại lá cây đặc biệt dùng để lợp nhà (lá “cây cọ” rất bền bỉ
trong việc chịu đựng nắng mưa. Lá này, tôi đã thấy từ lúc mới bị đày ra
ngoài cùng Hoàng Liên Sơn).
Lúc bấy giờ, trong trại chỉ còn lại chúng tôi, còn tất cả tù hình sự đã xuất trại ra “hiện trường lao động”.
Sau
khi điểm danh tổng quát, khoảng một phần tư trong tổng số anh em chúng
tôi được gọi tên và đứng lên xếp hàng ở một khu riêng biệt trong hội
trường, trong số này không có tôi. Nhưng cả hai thằng bạn cùng nhóm liên
lạc đưa tin với hai ông Linh Mục lại có tên trong số người đang đứng
trong khu riêng biệt ấy. Tôi thầm nghĩ rằng: “hôm nay có chuyển trại”.
Rồi
lũ bò vàng ra lệnh cho số anh em này di chuyển ra khỏi hội trường với
đội hình hàng dọc, trực chỉ hướng cổng ra vào trại giam. Tôi ngồi nhìn
theo họ, nhìn đến lúc người cuối cùng bước ra khỏi cổng. Có thể đây là
lần cuối tôi thấy họ. Vì theo kinh nghiệm tù đày, hiếm khi bạn bè còn
tái ngộ sau mỗi lần chuyển trại.
Kiếp
tù đày, mỗi lần chia tay là mỗi tiếng thở dài, nếu có thời gian có cơ
hội thì cũng chỉ thốt lên được với nhau, kẻ ở người đi, đôi lời như:
“chúc may mắn, hãy giữ gìn sức khỏe”.
Hiếm
có ai dám hẹn ngày tái ngộ, vì là người tù không có bản án, không biết
ngày về thì nếu có gặp lại nhau lần nữa thì cũng ở trong tại giam mà
thôi!
Tôi
ước tính số anh em vừa chuyển trại lần này không dưới sáu mươi người,
có thể họ sẽ đến trại giam nào khác bằng xe cam nhông molotova; vì chung
quang vùng này, trại Đô Lương và trại Thanh Chương cách xa khoảng cách
ít nhất cũng khoảng ba mươi cây số. do đó, họ không thể đi bộ được bởi
thời gian di chuyển, vấn đề an ninh canh giữ (vì lũ bò vàng luôn luôn bị
ám ảnh, nơm nớp lo sợ họ luôn trốn dọc đường…)
Sau khi nhóm anh em chuyển trại đi rồi, những người còn ở lại, bị “biên chế”, phân chia nhân số lại thành các “đội mới”.
Anh
chàng “đội trưởng mới” của tôi bây giờ tên Phạm Đình L. xau61t thân
khóa 19 Trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt, cấp bậc cuối cùng trước ngày mất
nước là “Bò Tứ” tức Thiếu Tá.
Anh đã phục vụ ở “đơn vị 101”,
một cơ quan phụ trách ngành Quân báo trực thuộc Bộ Tổng Tham Mưu của
Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà. Trước ngày mất nước, tôi chưa từng nghe biết
đơn vị này, có thể vì tôi chỉ là một người lính tác chiến, không rành
nhiều về “tên tuổi” các đơn vị thuộc loại “mật”.
Đội
của chúng tôi, do Phạm Đình L. làm đội trưởng, cũng “phục vụ” tại “lô”
trồng mía. Sau khi “biên chế”, ổn định chổ ngủ nghỉ, tôi có ý định mon
men đến khu biệt giam để thông tin cho hai Vị Linh Mục biết về việc
chuyển trại vào buổi sáng vừa qua . Tôi vẫn hiểu rằng liên lạc với hai
Ông ấy bây giờ rất nguy hiểm vì trong nhóm đưa tin, chỉ còn lại mình tôi.
Theo
nguyên tắc chiến thuật, khi tấn công, phải có lực lượng bảo vệ hai bên
hông, còn được gọi là “cạnh sườn”; và cũng cần có lực lượng trừ bị ở
phía sau để xoay sở khi hữu sự. Lực lượng này rất cần thiết trong việc
“phản công” lúc đơn vị bị địch quân “bọc hậu” tấn công. Tôi biết rõ
nguyên tắc ấy vì đã từng áp dụng ngòai chiến trường nhưng lần này, vì
nóng lòng muốn đưa tin cho hai Ông nên tôi đã phạm sai lầm, không chịu
giữ cái nguyên tắc ấy, và hậu quả là tôi đã phải trả một giá rất đắc cho
sự sai lầm đó, quyết định “đơn thân độc mã” lò dò đến khu biệt giam.
Nhìn
trước ngó sau, không thấy tên bò vàng nào lẫn quẫn chung quang, tôi bèn
lượm một hòn sỏi nhỏ cở đầu ngón tay út và cũng như anh bạn tôi đã hành
động, tôi ném hòn sỏi đó bay qua bức tường đá rồi rơi trên nóc tôle của
nhà đá bên trong khu biệt giam, tôi nghe một tiếng động nhỏ; nín thở,
hồi họp đứng chờ, mắt mở thao láo nhìn vào chổ mà tôi đã thấy cái đầu và
mặt của vị Linh Mục xuất hiện mỗi lần anh bạn tôi đua tin lúc trước
trong khi tôi làm “lính gác giặc” quan sát, canh chừng , giữ an ninh
phía sau lưng anh ta. Bây giờ, một mình đứng chờ đưa tin tôi cảm thấy
hình như thời gian dài vô tận…rồi thình lình, mặt của vị Linh Mục nhô
lên từ phía bên kia bức tường đá, mừng quýnh tôi lên tiếng:
-Thưa
Cha, hồi sáng này có khoảng 60,70 người trong trại mình chuyển trại,
không biết họ đi đâu…tôi còn muốn nói tiếp, bỗng nhiên mặt của vị Linh
Mục thụp xuống bên kia bức tường đá nhanh như chớp, rồi tôi nghe một
giọng hét vang lên sau lưng tôi:
-Anh kia đang làm gì thế?
Tôi
vội quay người lại, cảm thấy choáng váng, hình như cơ thể tôi bị một
luồng khí lạnh nắc xâm nhập. Trước mắt tôi là một tên bò vàng mang súng
dài (loại AK của Cộng sản), tuổi ngoài 20, mặt mày sát khí đằng đằng.
hắn gằn giọng một lần nữa:
-Anh vừa nói chuyện với tên nào trong khu biệt giam?
-Báo cáo cán bộ, tôi đâu có nói chuyện với ai
Với
giọng nặng trịch “mùi rau má” (loại rau mọc quanh năm “tứ mùa” hoang dại
như cỏ chung quanh vùng này), tên bò vàng súng dài này gầm gừ, hỏi tôi
một lần nữa:
-Anh vừa nói chuyện với tên nào trong khu biệt giam?
(đến
đây, tôi xin nói rõ hơn về cụm từ “cái giọng nặng trịt mùi ra má”.
Trước kia, chúng tôi, thường gọi đùa rằng người ViệtNam có ba giọng: Rau
muống, ớt và giá sống,vì ở miền Bắc ăn nhiều rau muống nên có “giọng
rau muống”, ở miền Trung , ăn nhiều ớt nên có “giọng ớt” và ở miền Nam
ăn giá sống “thả cửa” nên có “giọng giá sống”. Có một lần, khi mới
chuyển về trại giam Thanh Chương, tỉnh Nghệ Tĩnh này, một tên bò vàng
súng dài, mặt mày non chẹt, miệng còn hôi sữa đã vênh váo “bô lô bô loa”
với anh em trong đội chúng tôi rằng:
- các anh đừng tưởng tôi mặc được bồ đồ là dễ dàng đâu, giòng họ tôi phải ba đời ăn rau má đấy!
Vừa
nói hắn vừa chỉ tay vào bộ sắc phục vàng khè của hắn. À ra thế, cả ba
đời bần cố nông, nghèo đến nỗi không có rau nào tộng vào bao tử ngoài
loại rau má mọc hoang đầy dẫy và cũng có thể vì đã đớp
loại rau này đời này qua đời nọ nên cái lưỡi của người dân chung quanh
cái làng cha sinh mẹ đẻ của tên tội đồ Hồ chí Minh bị “đớ” nên giọng của
hắn nặng trìn trịt “mùi rau má” chăng? một cái giọng rất khó nghe và
khó hiểu vì nó “nặng” quá! nhiều lúc anh em chúng tôi đứng ngớ ngưới,
không hiểu nổi lũ bò vàng sinh quán tại vùng này muốn nói gì với chúng
tôi.)
Xin
trở lại thời gian tôi bị tên bò vàng súng dài chất vấn về việc tôi đã
liên lạc với vị Linh Mục nào trong khu biệt giam. Sau câu hỏi gằn giọng
lần thứ hai của hắn, tôi đã lấy lại chút bình tĩnh và thầm nghĩ rằng:
nếu mình khai sự thật là đã liên lạc với người trong khu biệt giam,
không phải chỉ một mình tôi sẽ bị “kỷ luật” vì đã “vi phạm” nghiêm trọng
vào điều nghiêm cấm trong bản nội quy, mà luôn cả vị Linh Mục cũng sẽ
bị “dính chấu”. ông ấy chắc chắn sẽ bị ghép cùng chung với tôi, tuy
nhiên hơi khác biệt một chút là ổng đã liên lạc với “người ở bên ngoài
khu biệt giam”, còn tôi đã liên lạc với “ngưòi ở bên trong khu biệt
giam”. Do đó, tôi nhất quyết chối phăng việc mình đã nói chuyện với vị
Linh Mục, và vẫn lập lại câu trả lời hồi nãy:
-Báo cáo cán bộ, tôi đâu có nói chuyện với ai.
-Thế, anh đứng làm gì ở đây?
-Tôi đang đứng “hóng gió” cho mát.
hắn hằn hộc:
-Tôi đã nghe tiếng anh nói chuyện với tên nào đó trong khu biệt giam, anh tưởng tôi bị điếc à?
Vẫn
“trước sau như một”, tôi bảo với hắn rằng tôi chỉ ở tại chổ này để
“hóng gió cho mát” và đã không nói chuyện với ai cả, vì chỉ có mỗi mình
tôi hiện diện nơi đây mà thôi!
Hắn
cho tôi là “ngoan cố”, và ra lệnh cho tôi theo hắn đi đến phòng trực
của trại giam, nằm sát ngyoài cổng ra vào trại để “làm việc”
Đó
là căn nhà kích cở bằng một phần ba căn nhà đá dành cho chúng tôi ở. Nó
cũng được xây bằng đá xanh và nóc lợp tôle. Khi xuất trại để đi cày
cuốc, tôi đã đi ngang qua căn nhà này biết bao nhiêu lần rồi, nhưng chưa
có dịp “hân hạnh” bước vào bên trong. Bây giờ thì dịp ấy đã đến. Tôi
theo chân tên bò vàng súng dài, đi qua cửa căn nhà đá nhỏ này dùng làm
phòng trực trại giam. Tại đây có một cái bàn làm việc, một cái ghế ngồi.
Anh sáng bên ngoài xuyên qua hai cánh cửa sổ không có song sat. Nhờ ánh
sáng này tôi thấy được một tên bò vàng khác, đang ngồi trên cái ghế độc
nhất ấy.
Tên
bò vàng súng dài ra lệnh cho tôi đứng lại tại chổ sau khi vừa bước qua
cửa ra vào phòng chừng ba,bốn bước, rồi hắn đến rỉ tai, to nhỏ gì đó với
tên đang ngồi trên ghế. Vì ở khoảng cách khá xa nên tôi không thể nghe
được chúng thì thầm, trao đổi nội dung câu chuyện. Tôi nghĩ rằng tên
ngồi ghế là trưởng toán bò vàng có nhiệm vụ tuần tra canh gác mỗi ngày
trong trại giam. Sau một lúc nghe tên súng dài boá cáo nhỏ to, tên ngồi
trên ghế lên tiếng hỏi tôi:
-Anh hãy “thành thật khai báo” anh đã nói chuyện với ai trong khu biệt giam?
Tôi nhất định không khai sự thật và trả lời không chút do dự, ngập ngừng:
-Báo cáo cán bộ, tôi không có nói chuyện với ai cả. tôi chỉ đứng “hóng gió” một mình.!
Hắn bèn ra chiêu “dụ khị”:
-Hãy
“thành thật khai báo” anh đã “liên hệ” với tên nào trong ấy, rồi anh sẽ
được “khoan hồng” vì tội đã vi phạm nội quy (lũ quỷ đỏ dùng cụm từ
“liên hệ” thay vì “liên lạc” như người miền Nam Quốc Gia thường nói với
nhau)
Tôi nghĩ thầm: mầy tưởng bở rằng tao ngu lắm à? “thành thật khai báo” để “chết chùm” hay sao?
Rồi không chần chừ tôi cương quyết đáp lại:
-Báo cáo cán bộ, tôi không có “liên hệ” với ai cả nên làm sao biết tên người nào mà khai báo.
Đến
lúc này, tên bò vàng ngồi trênghế mới để lộ rõ cái bàn chất vô giáo
dục, cái bản chất “mất dạy” của lũ quỷ đỏ qua câu quát tháo, trở giọng
côn đồ:
-Địt mẹ, mầy không chịu khai báo? Mày “ngoan cố” thì ông cho mày chết.
Vừa thốt xong những lời mất dạy đầy hăm dọa nói trên, hắn liền đứng lên, rời ghế ngồi và hầm hầm tiến đến trước mặt tôi
Vẫn
nghĩ rằng tên này chỉ hù dọa làm tôi mất tinh thần mà khai sự thật, nên
tôi cố gắng tự chủ, giữ bình tĩnh, xem hắn sẽ hành động tiếp ra sao.
Buông thỏng hai tay, tôi đúng im lặng và chờ.
Khi
khoảng cách vừa tôi và hắn còn chừng nửa thước, tên bò vàng vung nắm
tay thoi vào mặt tôi. Cũng may vì đã đề phòng nên tôi kịp thời bước lui
và né tránh cú đấm ấy. nếu không thì mặt tôi đã phải “lãnh đủ” cú đấm đó
rồi.
Tôi vội la lên:
_Cán bộ không được quyền đánh tôi, chính sách của nhà nước không cho phép cán bộ sử dụng vũ lực với chúng tôi!
-Địt mẹ! không có chính sách gì cả! mày không chịu khai, chúng ông phải đánh cho mày khai!
Rồi hắn quay sang tên súng dài và ra lệnh:- Đồng chí hãy giúp tôi, bắt tên này khai báo!
Liền
sau đó, cả hai tên, đúa dùng súng A.K , đứa dùng tay chân xong vào để
“làm thịt” tôi. Đến lúc này, bản năng sinh tồn của tôi bắt buộc mình
phải tự vệ để sống còn…
…
Trước ngày mất nước, khoãng thời gian từ giữa năm 1966 đến đầu năm
1969, tôi được “biệt phái ngoại ngạch” sang phục vụ ngành Cảnh Sát Quốc
Gia tại Tổng Nha Cảnh Sát ở đường Võ Tánh Sài Gòn. Mỗi buổi chiều, sau
giờ làm việc, tôi được anh Vương Đình Thanh, một sĩ quan trong ngành,
giữ chức vụ trưởng ban võ thuật của tổng hành dinh, chỉ dạy môn võ thái
cực đạo vì anh cũng là võ sư, huấn luyện viên hai môn nhu đạo và thái
cực đạo. Mỗi kỳ thi “lên đai”, tôi đều ghi danh cùng với các thí sinh
trong ngành Cảnh Sát Quốc Gia tại võ đường mà ban giám khảo vào thời
gian ấy là các võ sư Đại Hàn. Do đó ‘vốn liếng” về môn thái cực đạo của
tôi cũng có thể “tạm đủ” để cho mình tự vệ trong những lúc cần thiết.
…Tuy nhiên, người ta thường nói: “văn ôn, võ luyện” Văn tôi không ôn; và võ tôi cũng không
tập luyện thường xuyên vì không có thời giờ, không có điều kiện vì phải
chu toàn nhiệm vụ của người lính tác chiến sau khi hết thời gian “biệt
phái ngoại ngạch”, trở về quân đội và “ba lô lên vai”. Do không được ôn
luyện nên phản xạ của tay chân tôi không còn nhuần nhuyễn và sắc bén
nữa, sau hơn cả chục năm không có dịp “múa máy”. Tóm lại, tôi đã bị “lụt
nghề”.
…Thêm
vào đó, sau ngày mất nước, trên bước đường bị tù đày, thiếu dinh dưỡng,
sức khỏe hao mòn, trước sự tấn công dồn dập của hai tên bò vàng khốn
nạn, phản xạ của tôi bây giờ thật thảm hại, vừa né tránh, gạt đỡ, tôi
vừa hét lên:
-Thằng Hồ chí Minh đã dạy tụi mày đối xử với tao như thế này à?
Nghe những lời tôi vừa quát, cả hai tên trở nên điên tiết vì tôi đã cả gan dám kêu tên “ông cố nội” của chúng bằng “thằng”, nên cố sức tấn công tôi tới tấp.
Bỗng tên tay không, lúc nãy ngồi trên ghế, hô to:
-Cả đồng chí nữa, hãy cùng chúng tôi đập chết tên ‘phản động” này!
Thì
ra, vừa có một tên súng dài mới bước vô phòng. Có lẽ tên này đã đi tuần
tra, kiểm soát ann ninh lòng vòng ở đậu đó chung quanh khu vực trại
giam, hết thời gian trực gác, mới trở về đây. Nghe chỉ thị của thượng
cấp, tên này “xung trận”, dùng bángA.K quơ lia, quơ lịa vào tôi. Lúc
nãy, một mình mà phải đối đầu với hai tên, tôi đã thấy yếu thế và mệt
mỏi rồi, bây giờ thêm một tên nữa, cán cân xem như nghiêng hẳn về phía
kẻ thù. Bị dồn vào đường cùng, tôi đành liều mạng: con người ta chỉ chết
một lần. vả lại, trong quá khưú tôi cũng đã một đôi lần
cận kề với cái chết trong những lần hành quân chạm địch, bị địch phục
kích, đã phải chống trả lại với lực lượng đông gấp bội của kẻ thù mà vẫn
chưa “hui nhị tỳ”, vẫn chưa “đi đon”, vẫn chưa “phủi cẳng lên bàn thờ”
mà ngồi, thì bây giờ, vì bản năng sinh tồn thôi thúc, tay chân tôi bỗng
nhiên trở nên linh động nhiều hơn trong các “thế” gạt, đỡ hay “phản
đòn”. Các “thế” này thường được gọi là “thế võ”, xuất xứ từ các thế đấu
luyện hay các thế thao tác trong các bài quyền của môn thái cực đạo. Tay chân tôi cử động theo phản xạ . tất cả những gì tôi đã học và thực tập ở võ đường , bây giờ cứ “tuôn trào” ra tứ
chi mình một cách rất tự nhiên, nhưng chỉ trong khoảng thời gian ngắn
mà thôi, vì “mãnh hổ nan địch quần hồ”, nhất là “mãnh hổ” này ốm tong
teo do thiếu dinh dưỡng, thiếu ôn luyện nên yếu xìu…
…Sau
khi tôi tỉnh lại thì thấy mình đang nằm trên chiếc giường tre ở “trạm
xá” của trại giam. Đứng chung quanh giường là ba tên bò vàng đã cùng
nhau muốn làm thịt tôi lúc nãy. Tôi nhớ lại những hình ảnh cuối cùng
mình đã thấy trước khi ngã xuống nền xi măng trong phòng trực của trại
giam…
Lúc
quần thão, tôi phải né tránh các cú phang “báng ngang báng dọc” của hai
cây súng A.K, mà không dám trực tiếp gạt đỡ vì biết rằng nếu tay mình
bị “lãnh” , bị trúng một đòn thì sẽ bị gãy ngay tức thì, tuy nhiên tên
bò vàng tay không súng, ngồi trên ghế lúc nãy thì tôi “quyết thua đủ”
với hắn. Tôi nghĩ rằng nếu mình có “đi đon”, hắn cũng sẽ rất khó sống,
mà nếu hắn còn sống, nhất định hắn sẽ không còn “lành lặng” tôi đã nắm
trong tay phần thua; và đến lúc này, câu “chết vinh hơn sống nhục” lại
trở về trong tôi. Câu này, chúng tôi thường khắc lên mặt trái của “tấm
thẻ bài” còn mặt chính thì có khắc tên họ, cố quân và loại máu của mình.
Đã không hy sinh trên chiến trường mà bây giờ bỏ mạng tại đây thì đó
cũng là số mạng, cũng không có gì là nhục, là hèn nhát…Tên không súng
vừa đưa tay, đấm vào mặt tôi thì bị tôi dùng một tay gạt tay hắn sang
một bên, còn tay kia của mình, tôi “phóng” hay ngón tay trỏ và giữa đến
cồ họng hắn. Trong “nghề” chúng tôi gọi đòn này “song chỉ” ( hai ngón
tay). Tôi đã đánh trúng mục tiêu, nhưng có lẽ vì yếu sức
và khoảng cách giữa tôi và hắn hơi xa nên “lực” của hai ngón tay tôi
không đủ sức để sát thủ. Từ miệng hắn vang lên một tiếng “khọt”. Hắn
khụy xuốngt. Tôi tưởng hắn nằm luôn trên nên xi măng, nhưng chỉ vài ba
giây sau, tôi thấy hắn lòm còm bò dậy…trong lúc còn phải đối đầu với hai
tên có súng, tôi liếc mắt, thấy tên vừa trúng đòn “song chỉ” hồi nãy,
đang cầm trong tay hai thanh gỗ dẹp dùng để cài cánh cửa ra vào phòng
trực mà “bửa” vào đầu tôi. Không kịp nhảy tránh, theo phản xạ, tôi đưa
cánh tay phải lên đỡ thì cổ tay lãnh trọn “cú bửa” chết người này. Một
tiếng “cốp” khô khan vang lên. Sự đau đớn khủng khiếp, tột cùng ở cổ tay
mình làm tôi nghẹt thở, vừa quỵ xuống hai chân, tôi lãnh thêm một cú đá
như trời giáng của một trong hai tên cầm súng A.K. tôi thấy hình như
bỗng có một đống lửa vừa bùng chá sáng lòa trước mắt, rồi bỗng chợt tắt
ngấm, tối đen. Trong tích tắc. Sau đó, tôi không còn thấy, không còn
biết, không còn cảm giác gì nữa…
Không
biết tôi bị bất tĩnh bao lâu và những ai đã khiêng tôi từ trong phòng
trực đến “trạm xa” này. Miệng mồn và cổ tay phải, làm tôi đau đớn khủng
khiếp. Có lẽ tôi đã bị gãy một, hai cái răng rồi. Đưa bàn tay trái lên
sờ hai bên mép, tôi “nghe” có máu đông đặc, dính khô. Liếc
nhìn cổ tay phải thì thấy có kẹp hai miếng nứa dẹp, ngắn cỡ gang tay,
băng vải băng màu ngà.(Nứa là loại tre vỏ mỏng, không đặc ruột). Bình
thường, trong “giờ lao động”, trạm xá này được chỉ huy bởi một nữa y tá
bò vàng, thị này có chọn một anh bạn trong trong tôi tên là Thanh, làm
“phụ tá”. Anh chàng này là “Bò Tứ” Không quân, “tài xế lái trực thăng”
rất đẹp trai. Nhưng bây giờ thì tôi không thấy sự hiện diện của hai nhân
vật ấy chung quang đây. Ánh sáng lờ mờ của bóng đèn điện cho tôi biết
rằng hiện đã chiều tối rồi.
Thấy
tôi vừa hồi tỉnh, tên bò vàng không súng nhìn thẳng vào mặt tôi, mắt
trợn từng và lên tiếng hăm dọa, với giọng đặc sệt “mùi rau má” của vùng
Nghệ Tĩnh này:
- Nếu
mày đi rêu rao đã bị chúng ông đánh đập, chúng ông sẽ giết mày luôn! Đã
“liên hệ” với khu biệt giam mà không “thành thật khai báo”, lại còn
ngoan cố, chống trả cán bộ trực trại, tôi vi phạm trầm trọng nội qui,
mày phải bị “kiên giam” một tháng là ít nhất đấy con ạ! (cụm từ “kiên
giam” hay “biệt giam” chỉ có một nghĩa).
Tuy
biết rằng thân phận mình bây giờ như cá nằm trên thớt, tôi vẫn trừng
mắt nhìn thẳng vào mặt hắn với tất cả nỗi căm hờn vì nghĩ rằng chúng khó
lòng “ dứt nọc” được mình do trên lộ trình tôi bị khiêng từ phòng trực
về trạm xá này, chắc chắn bạn bè, anh em trong trại cũng đã có người
nhìn thấy. Kẻ thù muốn thủ tiêu tôi sẽ không dễ dàng cho chúng thực
hiện…
Tên bò vàng sau đó ra lệnh cho tôi rời trạm xá, đi theo hắn, hướng về khu biệt giam. Hai tên đeo súng A.K lẽo đẽo theo sau…
Trời
đã tối, chung quanh vắng teo. Qua cổng khu biệt giam, tên bò vàng không
súng dùng đèm bấm soi đường đến cửa của một trong hai căn nhà đá trong
khu này. Trong chùm chìa khóa của hắn mang theo, hắn chọn một chìa. Đút
vào lổ khóa mở cánh cửa. Nhờ ánh sáng của cây đèn bấm quét qua quét lại,
tôi thấy trong phòng giam tối thui này có hai cái bệ xi măng cao chừng
bốn gang tay tựa như hai cái mả đá.
Mỗi
bệ cách xa nhau khoảng một thước. tên không súng ra lệnh cho tôi ngồi
lên một trong hai bệ theo chiều ngang, đưa một chân ra, “tra” vào một
cái còng ở cổ chân trên mắt cá. Loại còng này bằng sắt dầy nặng trịt tựa
như cái khoen tai khổng lồ gồm hai miếng sắt tròn và hai cái lổ để xỏ
thanh sắt tròn nhỏ cở ngón chân cái xuyên qua. Ở hai đầu của thanh sắt
tròn nhỏ này có dùi hai lổ nhỏ vừa để móc hai ổ khóa. Tóm lại, khi cổ
chân đã bị “tra” vào còng rồi thì người bị còng kể như “dính chấu” trên
cái mã đá này. Nếu muốn sử dụng cái giò khốn khổ ấy, phải mở hai cái ổ
khóa ở hai đầu thanh sắt tròn nhỏ để đi lại bình thường. Người ta dùng
cụm từ “còng tay” và “cùm chân”. Trường hợp của tôi là bị cùm một chân.
Sau
khi tra chân vào cùm, thanh sắt tròn có hai khóa ở hai đầu sẽ nằm cứng
ngắc. Người bị cùm chỉ còn có thể nằm ngữa hay ngồi mà thôi. Cũng may
cho tôi là chỉ bị cùm có một giò, nên khi bị quá mỏi lưng vì mãi nằm
ngữa, tôi có thể cố gắng xoay sở nghiêng lưng mình nằm một bên trong
khoảng một thời gian ngắn, rồi trở lại tư thến nằm ngữa. Tôi không hiểu
tại sao tôi lại may mắn chỉ bị cùm một chân, thay vì phải tra cả hai
chân vào cùm, chớ dâu phải chỉ còn một giò như Tôn Tẩn “xi cà que” trong
truyện Tàu. Tôi không bao giờ nghĩ rằng hắn lại “độ lượng” như vậy,
chín hắn đã muốn “làm thịt” tôi cơ mà! Đã bị gãy xương cổ tay, mất
một,hai cái răng, nếu bị dính chấu luôn cả hai chân vô cùm, không biết
tôi sẽ vượt qua nỗi thời gian bị cực hình này hay không?
Cái
may mắn thứ hai của tôi là thuộc vào “loại ròm” nên cổ chân không to
lắm. Vòng tròn cái cùm đã nhỏ mà xương cổ chân tôi lại còn nhỏ hơn! Do
đó, sự xoay sở chân bị cùm trong lúc thay đổi tư thế nằm ngữa sang nằm
nghiêng không làm tôi bị đau đớn ở mắt cá. Những người to xương, sau khi
ra khỏi khu biệt giam, đều bị sưng, lở hai cổ chân vì da bị trầy tóc,
rồi bị nhiễm trùng, do đã bị gong cùm siết quá chắc sau một thời gian
dài bị cực hình…
…Trước
khi cả ba tên bò vàng ra khỏi phòng biệt giam, tên không súng một lần
nữa lại giở giọng hăm dọa tôi, sau khi hắn đã bóp và kiểm soát xong hai ổ
khóa ở hai đầu thanh sắt tròn khóa cùm:
-Mày không “giữ mồm” thì sẽ khó sống đấy!
nằm
trên bệ xi măng lạnh ngắc, một chân trong cùm, hai mắt mở thao láo,
nhưng chẳng thấy được gì, vì trong phòng biệt giam bây giờ tối đen do
cánh cửa ra vào đã bị đóng kín sau khi ba tên bò vàng rời khỏi đây, tôi
cảm thấy hình như trong miệng mình tất cả răng cỏ đều lung lay. “rà” lưỡi
kiểm soát thì thấy có một khoảng trống giữa mấy cái răng ở hàm dưới, ít
nhất cũng đã có một cái bị gãy nên “vắng mặt”. Cỗ tay tôi hiện vẫn còn
đau nhức khủng khiếp.
Với tâm tư đầy hận thù, thù hận, tôi không biết mình đã ngủ thiếp đi lúc nào…
…mở
mắt thức giấc, tôi thấy có chút ánh sáng trong phòng giam nhờ ô cửa sổ
vuông nhỏ cở hơn một gang tay có song sắt. Ô cửa này ở trên cao, trong
vách tường đá, được xây để “thông hơi”. Tôi nghe có tiếng người lao nhao
vọng lại từ xa, không rõ ràng, rời bỗng có tiếng mở khóa cửa. Một tên
tù hình sự bước vào, một tay cầm một xấp lá tưoi, mỗi miếng to cở hai
bàn tay, còn một tay kia có một cái nồi mhôm nhỏ, đen thui, móp méo,
dung tích chừng hơn một lít, lớn hơn hộp nhôm “Guigoz” mà chúng tôi
thường dùng để nấu nướng, đựng nước hay thức ăn…(loại hộp
nhôm này của hiệu sữa bột “Guigoz” ở Hoà Lan, bày bán ở Miền Nam ngày
xưa. Sau ngày mất nước, loại hộp nhôm này đã được anh em chúng tôi sử
dụng vào không biết bao nhiêu việc trong cuộc sống hàng ngày của người
tù không bản án. Nếu được dịp, chúng tôi sẽ “tuyên dương công trạng”
hãng sữa bột Guigoz vì đã cho ra lò loại hộp nhôm đựng sữa quý báu ấy).
…Với giọng đặc sệt mùi rau má của vùng này, tên tù hình sự nói với tôi:
- Lá
cây này, anh hãy trải dưới đất trước khi ỉa. Anh hứng nước đái trong
cái nồi này. Khi ỉa xong, anh hãy gói phân lại cho gọn sạch.
Và
không chờ tôi kịp trả lời, hay hỏi han gì, hắn trở ra ngoài cửa, rồi
đem vào hai củ khoai lang (mỗi củ to cở ngón chân cái, dài chưa đến một
gang tay), đặt chúng trên nền xi măng, dưới chân tôi và một tô nước
bằng sành, dung tích khoãng nửa lít.
Tôi thử hỏi hắn:” Bây giờ là mấy giờ rồi?”.
Nhưng hắn vẫn im lặng, câm như hến.
Sau
khi tên tù hình sự trở ra ngoài, cửa phòng biệt giam đóng lại, tôi nghe
tiếng ổ khóa bên ngoài được bóp, bụng thì đói, nhưng miệng tôi không
thể “há” ra để cắn hay cạp được củ khoai lang, dù nó mềm xéo và lạnh
ngắc.
Rồi
ngồi trên bệ xi măng, một chân trong cùm, tôi hết sức thận trọng, dùng
bàn tay trái “bưng” tô nước đưa lên miệng để uống. Vì cảm giác đau rát,
và vị giác mằn mặn của máu trong mồm mình, tôi muốn phun trở ra ngụm
nước tôi vừa hớp, nhưng phải cố nín thở mà nuốt, bởi phun nước vung vãi
trên nền phòng giam này, làm thế nào tôi có thể lau chùi sạch khô được?
và hiện giờ thì trong người tôi đang lên cơn sốt. Chắc chắn là do vết
thương ở mồm miệng, ở xương cổ tay phải và hậu quả của các cú đấm đá vào
cơ thể lúc tôi gục xuống bất tỉnh.
Thình
lình tôi nghe tiếng loa phóng thanh được gắn ở “hội trường” cách khu
biệt giam hơn 100 thước, vang lên giọng nói, cũng đặc sệt mùi rau má của
vùng này, đọc bản thông báo “tội trạng và bản án” dành cho tôi. Nhờ
nghe được bản thông báo này mà tôi biết được giờ giấc hiện tại: bây giờ
là buổi sáng, tất cả tù Z (chúng tôi) và tù hình sự đang tập hợp ngoài
sân trại giam chờ xuất trại đi “lao động”, theo thứ tự từng “đội” . Lợi
dụng thời gian này, lũ bò vàng bèn dùng loa phóng thanh để phổ biến “tội
trạng và bản án” dành cho tôi, hầu đỡ mất giờ giấc cày cuốc, sự việc
thông báo này, đã từng xảy ra ở đây, nên tôi rất “nắm vững” giờ giấc.
Mở
đầu, bản thông báo nêu tên họ cùng “đơn vị” của tôi là đội”mía”, sau đó
là tôi vi phạm nghiêm trọng nội quy trại vì đã “liên hệ” với người đang
ở trong khu biệt giam, bị bắt quả tang, nhưng “ngoan cố”, không nhận
tội, không thành thật khai báo, lại còn dám kháng cự với cán bộ trực
trại và các cán bộ võ trng. Rồi cuối cùng, “bản án” dành cho tôi là : “
nhốt biệt giam trong thời gian ba tuần lễ đề làm gương cho tất cả “cải
tạo viên”. Tuy nhiên, trong bản thông báo, kẻ thù đã không dám nêu lên
lý do tại sao tôi cả gan kháng cự lại chúng và cũng không dám cho tất cả
anh em chúng tôi và tù hình sự biết rõ hậu quả của sự trả thù hèn hạ
của chúng đã làm cho tôi gãy xương cổ tay phải, gãy răng và thân xác bầm
dập. Bản chất của lũ quỷ đỏ là thế đó: dã man, dối trá, gian xảo và hèn
nhát…
Nhờ
cường độ ánh sáng bên ngoài, lọt qua ô cửa sổ thông hơi, nên tôi đoán
biết được đại khái giờ giấc và sinh hoạt trong ngày của bạn bè trong
trại giam. Hoàn cảnh của tôi bây giờ thật đáng với câu: “ở tù trong tù”.
Ngày
đầu tiên, nằm rồi ngồi, ngồi rồi nằm với một chân trong cùm, tôi cảm
thấy hình như đó là ngày dài nhất, ngày dài bất tận chưa từng có trong
đời mình. Từ lúc bị tù đày, chúng tôi bị kẻ thù bắt buộc lao động khổ
sai, làm việc bằng chân tay hành xác chúng tôi để không còn thời giờ vận
dụng trí óc hầu suy nghĩ đến các vấn đề mà chúng cho là “phản động”,
chống lại chúng. Nếu có thời gian nghỉ ngơi, chúng luôn luôn tìm cách
nhồi nhét những luận điệu tuyên truyền “rẻ tiền cở ba xu” về cái chủ
thuyết cộng sản, về cái chủ thuyết xã hội chủ nghĩa của quan thầy của
chúng qua các buổi “học tập chính trị” với mục đích duy nhất là tẩy não
chúng tôi. tất cả đều phải bị bắt buộc ngồi dưới đất, trong khu các tên
“thuyết trình viên” đứng sau bục thuyết trình, thao thao bất tuyệt, nó
không biết mệt, không ngừng nghỉ, nói như cái máy, nói như “réo mẹ”. Anh
em chúng tôi đều chắc chắn một điều là các tên “máy nói” này chỉ biết lập đi lập
lại những gì chúng đã học thuộc lòng, chớ thật sự, chúng không hiểu
những gì chúng nói với chúng tôi. Trong thời gian các “máy nói” mở hết
tốc độ, chúng tôi cư im thin tít, giả vờ chăm chú lắng nghe, tuy nhiên
ai nấy trong đầu mình tha hồ mà gọi tên tội đồ Hồ chí Minh và bè lũ cướp
nước của hắn ra để chửi bới bằng những cụm từ xấu xa nhất có thể tưởng
tượng hay đã có trong từ ngữ Việt Nam của ba miền Trung Nam Bắc…
Chúng
tôi dùng cụm từ “làm việc chân tay”, lao động trí óc”, còn kẻ thù thì
xài : “lao động tay chân, lao động trí óc”. Giờ đây, trong phòng biệt
giam này, tôi không còn phải làm việc chân tay nữa, mà tha hồ “lao động
trí óc” vì một chân đã bị cùm, còn một tay thì bị gãy, thôi thì phải
chịu khó nằm rồi ngồi dưỡng sức vậy! tuy nhiên, phải biết thận trọng gìn
giữ tâm cân bằng. nếu vận dụng trí óc quá mức, “quá tải” có thể sẽ bị
“tẩu hỏa nhập ma”, dẫn đến tình trạng rối loạn tâm trí, điên điên khùng
khùng. . Tình trạng này rất nhiều người, sau khi bị kẻ giam
nhốt một thời gian dài trong nhà biệt giam với cùm xích; và thật là
nguy hiểm khi ở vào trường hợp bị giam nhốt đơn độc, một mình trong
phòng giam kín như hoàn cảnh hiện tại của chính tôi.
Lúc còn trẻ, nhờ đã có dịp đọc qua các sách, truyện viết hay kể về chiến tranh, về gián điệp, tôi được
biết “đại khái” như sau: hậu quả của một người bị giam nhốt trong phòng
kín, tối tăm, chật chội, thiếu ánh sáng là người bị giam có thể mắc
phải chứng bệnh gọi là clautrophobia,một chứng bệnh “sợ
hãi không bình thường” khi người ấy ở trong phòng nào đó mà các cửa
không được mở toang, Cho dù ở trong phòng khách của nhà mình, ngươì bịnh
này cũng có thể cảm thấy ngộp thở khi các cửa sổ bị đóng lại. cách thức
phòng chống lại chứng bệnh kỳ quái ấy là cố gắng đừng bao
giờ nghĩ mình đang bị giam kín. Hãy để tâm trí mình vào những chuyện
khác, những chuyện đã xảy ra trong quá khứ hay hãy tưởng tượng những sự
việc có thể xảy đến trong tương lai. Tóm lại, người bị
giam nhốt hãy cố gắng quên cái hiện tại mình bị giam nhốt đơn độc. Lý
thuyết thì dễ, nhưng thực hành thì rất khó, không dễ chút nào…
Trở
lại thời gian ngày đầu tiên tôi bị cùm. Tôi thông cảm nghĩ gì khác
ngoài sự đau đớn của thể xác và cũng không tha thiết gì đối với việc ăn
uống. Đôi lúc bao tử cồn cào vì đói nhưng muốn nhai phần khoai lang luộc
của mình cũng không được vì miệng mồm sưng “tầy hoầy”, muốn há ra cũng
là một động tác khó khăn rồi. Hết nằm, rồi ngồi. hết ngồi rồi lại nằm.
Đau nhức và mệt mỏi quá, tôi lại ngủ thiếp đi lúc nào không hay biết…
Sang
buổi sáng của ngày thứ nhì, nhìn tên tù hình sự (của ngày hôm qua) vẫn
lại đem vào phòng biệt giam cho tôi khẩu phần khoai lang luộc, một tô
nước và một xấp lá cây tươi để sử dụng vào việc hứng chất “phế thải” từ
cơ thể tôi lúc đại tiện. nếu dùng cụm từ “bình dân học vụ, nắn gọn dễ
hiểu” thì xấp lá này có công dụng hứng phân, thay thế giấy khi tôi “ị”.
Trước
khi trở ra ngoài phòng giam, tên tù hình sự cầm theo cái tô nước mà hắn
đã đem vào cho tôi ngày hôm qua. Hắn vẫn câm như hến. Vả lại, tôi cũng
không muốn hỏi han gì với hắn nữa vì tôi hiểu rằng mình sẽ không bao giờ
“moi” được một tin tức cỏn con nào từ hắn bởi bọn bò vàng đã tuyển lựa,
sàng lọc kỹ lưỡng các tên tù hình sự trước khi sử dụng chúng trong việc
ra vào khu biệt giam. Thêm vào đó, chúng cũng không dại gì mà “liên hệ”
với các “phạm nhân” đang bị cùm để bị mất cái công việc nhẹ nhàng,
không chút mệt nhọc là chỉ đem khẩu phần ăn uống hàng ngày cho khu biệt
giam. Một điều nữa mà anh em chúng tôi ai nấy đều biết là bọn tù hình sự
luôn luôn xem chúng tôi là những ngươì ở bên kia chiến tuyến, vì chúng ở
dưới chế độ đỏ, chế độ Cộng sản cai trị bởi lũ quỷ đỏ, còn chúng tôi ở
trong chế độ Quốc gia, dân chủ. Do đó, dù đã phạm tôi cướp của, giết
người, đâm cha chém chú, bọn tù hình sự vẫn xem lũ công an bò vàng là
“bạn”, còn chúng tôi là “thù”. Tuy nhiên, nếu vì một lý do nào đó, tên
tù hình sự được phép ra vào khu biệt giam cả gan dám “liên hệ” với “phạn
nhân” rồi bị tên bò vàng trực trại bắt được quả tang, chắc chắn hắn sẽ
bị “kỷ luật” và hậu quả hắn sẽ “được” tra chân vào cùm, nằm trên “mả
đá” xi măng, cùng chung số phận với người mà hắn đã “liều mạng liên
hệ”. Riêng tên tù hình sự ra vào phòng tôi thì đâu có lý do gì để nói
chuyện với tôi, vì thế hắn ‘câm như hến” cũng là phải, và hắn cũng biết
rằng, trong thời gian hắn đem “đồ tiếp tế” cho tôi, tên bò vàng luôn
luôn ở bên ngoài quan sát hành động của hắn…
…Không
còn ngủ thêm được nữa sau khi cửa phòng đã được đóng lại và bóp khóa,
tuy một chân bị cùm, tôi cũng cố gắng làm những động tác cho máu huyết
lưu thông, không bị “kẹt” vì tư thế nằm ngồi quá lâu. Tuy nhiên, tôi chỉ
làm qua loa, “sương sương” mà htôi. Mồm miệng và cổ tay phải của tôi tọi đã bớt đau khá
nhiều so với ngày hôm qua. Riêng cổ tay vẫn vẫn còn kẹp hai miếng nứa
và quấn vải băng. Tuy còn đau, nhưng không thấy máu thấm qua lớp vải
băng. Theo kinh nghiệm , lúc tôi bị viên đạn súng A.K định
bắn xuyên qua xương ống quyển chân trái, , khiến xương này bị gãy, thì
giới Bác sĩ lúc ấy gọi là “gãy hở”, còn khi xương bị gãy, không có máu
chảy tùm lum, họ gọi là “gãy kín”. Trường hợp cổ tay phải bây giờ có thể
là “gãy kín”.
Cảm
thấy khá đói sau những động tác “làm nóng” cơ thể, tôi thử há miệng,
cắn một trong các củ khoai lang đang nằm trên bệ xi măng. Chúng là khẩu
phần ngày hôm qua và bữa nay của tôi. Tất cả có bốn củ. Bây giờ, tôi mới
hiểu rõ ràng là những ngươì trong khu biệt giam chỉ được hưởng phân nửa
“tiêu chuẩn” lương thực do lũ quỷ đỏ đề ra. Chúng bảo rằng nếu không
“lao động chân tay” thì sẽ bị cắt giảm “tiêu chuẩn” kể luôn cả trường
hợp bị bệnh đau, và nước uống cũng bị giảm theo: một ngày và một đêm,
tôi chỉ được một tô nước nửa lít. Nhai, nuốt xong một củ khoai lang, tôi
“tráng miệng” với vài hớp nước trong tô và thầm nghĩ:
-“
vô ít thì ra ít”. Đỡ mất công dọn dẹp sạch sẽ. Ý tôi muốn nói: ăn ít
thì sẽ “ị” ít vì tôi được biết rằng khoai lang là loại củ có hàm lượng
nước rất cao, nặng đến 80% trọng lượng của nó; và có rất ít tinh bột, do
đó ít bổ dưỡng. Ăn nhiều khoai lang sẽ đi tiểu nhiều chớ
“ị” thì rất ít. Khi bị cùm, việc đại tiện là cả một vấn đề khó khăn:
phải làm thế nào lấy các lá cây tươi to hơn bàn tay (mà tên hình sự
“cung cấp”), trải đúng ngay dưới chổ mình ngồi trên “mả đá” để hứng hết
chất thải được “phóng ra” từ trên cao gần một thước xuống, nếu rơi không
đúng mục tiêu (là các tấm lá trải dưới nên xi măng). chất thải chắc
chắn sẽ văng tung tóe và công việc lau dọn sạch sẽ, “thu dọn chiến
trường” sẽ vô cùng khó nhọc, mất nhiều sức lực vì cái chân bị “dính”
trong cùm. Cũng may mắn là tôi chỉ bị cùm một chân mà đã thấy việc xoay
sở khó khăn rồi, nếu bị tra cả hai chân thì không biếtg tình trạng tôi
sẽ như thế nào? Tôi tưởng tượng ngày xưa, mấy anh chàng lái máy bay mang
bom đi thả xuống mục tiêu địch đều là những người có biệt tài “ngắm,
phóng” dữ lắm, vì bản thân tôi,chỉ có khoảng cách gần xịt như vậy mà
việc “dội bom” cũng đã thấy khó trúng mục tiêu rồi, xin thành thật bái
phục, ngã nón chào thua các anh chàng phi công khu trục cơ oang tạc thuở
nào!
Sang ngày thứ ba trong nhà đá biệt giam, tôi nhất quyết không thèm quan tâm đến giờ giấc và hiện trạng của mình nữa,
tôi đã chọn cho mình các phương cách để cho thời gian trôi qua bình
thường mà tôi không bị “dồn ép tâm lý” . Qua các bài viết về khoa tâm lý
học ngày xưa, tôi còn nhớ có đề tài nói qua “hội chứng dồn ép tâm lý”
(refoulement mental). Để tâm lý suy nghĩ hay tưởng tượng mãi về một vấn
đề hay về một việc nào đó mà mình không thể bàn bạc, chia xẻ được với ai
thì sẽ bị dẫn đến tình trạng “bí lối”, còn được gọi là bị dồn ép tâm
lý. Vì thế, tôi đã tìm cho mình một cách để tránh bị rơi vào tình trạng
ấy: đừng quan tâm đến thời gian nào mình sẽ thoát cảnh tù đày này, hay
đừng nghĩ đến lúc nào, mong đến thời điểm sẽ được “Mỹ giải cứu” như các tin
rỉ tai, phao truyền. Tôi bèn “hướng” tư tưởng mình về quá khứ, về tuổi
trẻ, về những kỷ niệm vui buồn ngày xưa, về ngươì yêu đầu đời với tháng
ngày thương yêu ngọt lịm bên nhau, rồi đến buổi chia tay bội ước đầy cay
đáng vì nàng đã bị ảnh hưởng bởi luận điệu của gia đình cho rằng nếu
thành hôn với một anh chàng lính chiến bị “cọp liếm” như tôi thì sẽ một
sớm một chiều trờ thành “quả phụ nây thơ” nên nàng đã phụ tôi mà lấy một
anh Giáo sư được “miễn dịch”, khỏi phải đi lính cho “chắc ăn”! Tôi
nhớ về Đại uý Chung Thanh Tòng, vị chỉ huy đơn vị Biệt Động Quân tác
chiến đầu tiên của tôi, người thầy đã hướng dẫn và cho tôi nhiều kinh
nghiệm chiến trường quý báu trong đời binh nghiệp; tôi nhớ về lúc một
viên đạn súng A.K của địch đã xuyên qua và làm gãy xương ống quyển chân
trái tôi trong trận đánh ở lãnh thổ Lộc Ninh, Bình Long, khiến tôi phải
bị “xi cà que” chống nạng và gậy một thời gian. Tôi nhớ về “mùa hè đỏ
lửa” năm 1972 tại chiến trường An lộc, suốt thời gian tôi hân hạnh được
tham gia và chứng kiến các đơn vị của Quận lực Việt Nam Cộng Hòa quần
thảo, quyết chiến đấu sống mái với kẻ thù đỏ. Tôi nhớ về các bạn bè, các
chiến hữu của mình đã oanh liệt hy sinh…tôi đã sống lại với quá khứ của
mình, với tất cả kỷ niệm một thời của chính tôi; đã tự khơi cho tôi
những trạng thái vui buồn để quên đi thời gian đang bị “dính cùm”.
Cho
đến một hôm, thình lình tôi bỗng nghe tiếng lóc cóc, mở ổ khóa bên
ngoài cửa ra vào khu biệt giam. Do cường độ ánh sáng yếu ớt lọt qua ô
cửa sổ nhỏ thông hơi, tôi biết bây giờ đã xế chiều. Cánh cửa ra vào được
mở, một người dáng ốm yếu bị đẩy vô phòng giam. Nhìn kỷ, tôi nhận ra
ngay người ốm yếu này là anh Lê Thơm. Anh là một trong những anh bạn của
tôi. Tuy rất ngạc nhiên và giật thót người, tôi vẫn lặng thinh, nằm
ngữa trên bệ xi măng, đưa mát quan sát. Đi sau lưng anh là một tên bò
vàng và một tên tù hình sự. Tên này, tôi vẫn thấy mỗi buổi sáng vào đây,
đem khẩu phần ăn uống và lá cây tươi cho tôi sử dụng trong việc vệ sinh
đại tiện. Bây giờ hắn cũng mang theo mấy thứ lỉnh khỉnh ấy, không phải
để cho tôi (vì buổi sáng hắn đã đem vào rồi), mà dể cho “người khách”
mới vô.
Khác
với tôi chỉ dính một chân trong cùm, anh Lê Thơm bị tên bò vàng khóa cả
hai chân. Sau khi tên này cùng với tên tù hình sự ra khỏi phòng biệt
giam, tôi mới lên tiếng hỏi Lê Thơm:
-Anh bị “vụ” gì vậy?
Anh trả lời gọn lỏn:
-Trốn trại!
Thật sự, tôi chưa bao giờ ngạc nhiên như lúc này, sau câu trả lời của anh lê Thơm, tôi liền hỏi dồn:
-Anh “vọt” hồi nào?
-Mười mấy ngày rồi!
Tôi thầm nghĩ: “thì ra mình bị cùm mười mấy ngày rồi”
Vì
lúc tôi bị tống vào đây, chưa hề nghe anh Lê Thơm trốn trại cả và cảm
thấy mình như bất ngờ bị tuột tay từ trên cây rơi xuống vậy.
Không
ngạc nhiên, không bị bất ngờ sao được, bởi tôi đã ốm ròm, “cà tong cà
teo” , mà anh chàng Lê Thơm còn ròm ốn hơn tôi nữa, sức khỏe, sức khỏe
đâu mà dám “xâm mình” trốn trại, cả gan “vượt ngục”?
Sở
dĩ lúc ấy chúng tôi dùng cụm từ “trốn trại” là vì do thói quen gọi, nói
rằng “các trại cải tạo” khi vừa bị đày ra tuốt ngoài vùng núi non trùng
điệp Hoàng Liên Sơn. tại đây “các trại cải tạo” được chúng tôi dựng lên
bằng “vật liệu thiên nhiên của rừng núi” như cây, nứa, giang, dầu theo
lệnh của kẻ thù, lũ “bò xanh bộ đội. tuy hiên, khi chúng tôi bị chuyển
giao cho lũ bò vàng công an “quản lý” thì chúng tôi, những người ở Thanh
Chương Nghệ Tĩnh, bị giam trong “ngục” vì nơi chúng tôi ngủ nghỉ là
những dãy nhà được xây bằng đá xanh với xi măng, nóc lợp tôle và cửa ra
vào bằng sắt, chúng tôi không còn ở trong “láng trại” bằng cây, nứa ọp
ẹp nữa. Đúng ra thì phải dùng cụm từ “vượt ngục” thay vì “trốn trại” bởi
lý do nêu trên, nhưng tôi bắt buộc phải dùng từ những cụm từ thật sự đã
được sử dụng vào thời điểm xảy ta sự việc vì đây là “chuyện thật”,
không hư cấu, không tưởng tượng và cũng không thêu dệt, thêm bớt.
Vùng
này, dân cày lên sỏi đá, chỉ có rau má mọc quanh năm đâu dễ gì tìm được
thức ăn để mưu sinh thoát hiểm sau khi trốn trại. Hơn nữa, người dân ở
địa phương này từ lâu đã bị lũ quỷ đỏ tuyên truyền nhồi sọ tẩy não với
cái chủ thuyết cộng sản của chúng nên họ đâu có thiện cảm gì với những
người Quốc Gia đã từng là thành viên trong một chế độ dân chủ tự do. Do
đó, không địa lợi, không nhân hòa là không thể thắng lợi được, nghĩa là
không thể trốn thoát được. Tôi thầm nghĩa như vậy, tuy nhiên, dù sao tôi
vẫn cảm phục Lê Thơm, vì đã “xăm mình”, đã liều lĩnh hơn tôi, hơn một
số lớn anh em khác trong trại giam.
Đến lượt Lê Thơm hỏi lại tôi:
-Còn anh, tại sao “vô” đây?
-Vì đã liên lạc với “ông Cha” trong khu biệt giam!
Khi nhìn thấy tay tôi bị băng, anh thắc mắc:
-Tay anh bị gì vậy?
-Bị tụi nó “bề hội đồng”, tôi trả lời.
Sau
đó, tôi kể cho Lê Thơm nghe tất cả diễn tiến cùng sự việc đã xảy ra
khiến tôi phải dính một chân vào cùm suốt mười mấy ngày qua. Luôn tiện,
tôi tháo lớp vải băng cùng với hai miếng tre nứa cặp cánh tay và cổ tay
phải ra để xem thương tích mình hiện giờ như thế nào, vì từ khi vào đây
đến nay, tôi chưa dám làm việc này do sợ vết thương bị “động”. Tôi muốn
ngất xỉu khi nhìn thấy xương cổ tay mình : nó với bàn tay tôi không còn
thẳng, không còn trông bình thường, mà lại “cong cong” như cọng kẽm bị
uốn. Cái “mu” bàn tay tôi nó u lên, trông tựa như cái “mu rùa” vậy.
Thanh gỗ cài cửa mà tên bò vàng trưởng toán tuần tra đã sử dụng để giáng
vào đầu tôi, đã làm bàn tay và xương cổ tay “trật khớp”. Sau này, tôi
được biết nếu thương tích được chữa trị ngay thì sẽ không bị thương tật
đến suốt đời. (vết thù này, hận thù này khi nhắm mắt lìa đời, vẫn sẽ
không quên).
Kể
từ thời gian hai đứa chúng tôi, mỗi người nằm hay ngồi trên cái “mả đá”
của mình trong phòng biệt giam, anh Lê Thơm từ từ kể lại cho tôi nghe
các giai đoạn chuẩn bị trốn trại cùng với diễn tiến sau khi bị vượt
thoát được nơi bị giam cầm cho đến lúc anh bị bắt trở lại , rồi bị tống
vào đây, tra hai chân vào cùm. Cái bí mật đầu tiên mà anh Lê Thơm “bật
mí” cho tôi biết là không phải chỉ có một mình anh là người duy nhất đã
“chuồn” ra được khỏi trại giam này. Có tất cả bốn người đã
chuẩn bị thật tỉ mỉ kế hoạch trốn trại trong suốt thời gian ròng rả hơn
nửa năm trước đó mà tất cả anh em chúng tôi không ai hay biết và cả bọn
chó săn ăng-ten làm tay sai cho lũ bò vàng không tài nào đánh hơi được.
Anh Lê Thơm còn tiết lộ cho tôi biết nhóm bốn anh chàng “xăm mình” liều mạng vượt ngục gồm có anh và ba người khác là:
- Lê Văn Đại, Nguyễn Quốc Khánh và anh Xường.
Sở
dĩ tôi biết tên lẫn họ của ba người trong nhóm ấy vì họ đã từng ở chung
trong một đội lao động với tôi trước đó. Lúc ấy, Lê Văn Đại giữ chức
đội trưởng. Riêng anh Xường tôi chỉ nghe tên và biết mặt, chớ chưa có
thời gian ở cùng một đội.
về sơ lược, “lý lịch trính ngang” tôi đã biết được như sau:
- Lê Thơm: tốt nghiệp khóa 8 Liên Trường Võ Khoa Thủ Đức, cấp bậc cuối cùng là Thiếu Tá, nguyên Quận Trưởng quận Chợ Lách, Vùng 4 chiến thuật.
- Lê Văn Đại: tốt nghiệp khóa 14 Liên Trường Võ Khoa Thủ Đức. Nguyên Quận Trưởng (tôi không rõ quận nào) ở vùng 4 chiến thuật. cấp bậc cuối cùng là Thiếu Tá.
- Nguyễn Quốc Khánh: tốt nghiệp khóa 17 Liên Trường Võ Khoa Thủ Đức, binh chủng Thiết Giáp. Cấp bậc cuối cùng là Thiếu Tá.
- Anh Xường, binh chủng Biệt Động Quân. Chức vụ cuối cùng là Tiểu Đoàn Phó và cấp bậc là Đại Úy. (tôi không rõ các chi tiết khác).
Trong
nhóm bốn người thì có ba người được lũ bò vàng cho về “lao động” trong
tổ “cơ khí”. tổ này phụ trách sửa chửa, tu bổ cái máy điện của trại
giam, cùng vài công việc linh tinh khác ở khu nhà hành chánh của của
trại. Tóm lại, “tổ cơ khí” chuyên lo về máy móc. Ba người này là Lê
Thơm, Khánh và Đại. Người thứ tư trong nhóm là Xường, cùng ở chung một
nhà đá, nhưng thuộc đội lao động cày cuốc. Tại nhà tù Thanh Chương, mỗi
nhà đá “chứa” hai đội, hay tối thiểu một đội và một “tổ chuyên môn” như
trường hợp “đội mía” (mà tôi là đội viên) và tổ nhà bếp cùng cư ngụ
chong một nhà.
Trong
trại giam, mỗi nhà có hai người phụ trách việc giữ gìn vệ sinh chung
cho toàn nhà như phòng đại, tiểu tiện phải được quét, dội nước sạch sẽ,
đổ phân và rãi vôi trong các thùng mỗi buổi sáng sau khi các đội, các tổ
xuất trại lao động. Hai người này được gọi là “vệ sinh viên”, thông
thường thì các “vệ sinh viên” là những người ốm yếu, sức khỏe kém. Tuy
nhiên, cũng có vài trường hợp, mấy anh chàng mạnh cùi cụi “cọp nhai bảy
ngày không hết” mà vẫn chạy chọt với bò vàng quản giáo hay với đội
trưởng, tổ trưởng để giữ “chức vụ” vệ sinh viên cho đở cày cuốc qua ngày
qua tháng. Tôi không hiểu rõ những cách thức “chạy chọt, tiêu lòn” đó
như thế nào vì kẻ nào ở trong chăn thì chỉ có kẻ đó mới biết trong chăn
ấy rận rệp ra sao. Còn tôi, người ở ngoài chăn thì mù tịt.
Lê
Thơm và Xường được giữ chức vụ vệ sinh viên, lo việc dọn dẹp vệ sinh và
đến nhà bếp gánh thức ăn, nước uống mỗi ngày về cho anh em trong đội và
tổ của mình. Do cả ngày chỉ có hai anh chàng này ở nhà
nên họ được Đại và Khánh giao nhiệm vụ cưa ba song sắt tròn của cái cửa
sổ thông hơi trong phòng vệ sinh của nhà đá. Nếu không có ba song sắt
này chắn thì cái cửa sổ có chiều dài khoảng gang tay và cao chừng một
gang rưởi, với kích cở này, một người không “to con, lớn xác” cho lắm có
thể chui qua không mấy khó khăn. Vì trong tổ cơ khí có nhiều dụng cụ
sửa chửa máy móc, kể cả cưa sắt nên Đại và Khánh lén “nhím” một số khúc,
đoạn bị gãy, về đưa lại cho Xường và Lê Thơm sử dụng trong nhiệm vụ
phải cưa bức ba song sắt. Ngày qua ngày, kẻ thì làm “lính gác giặc”,
đứng loanh quanh ngoài cửa ra vào nhà đá để canh chừng các tên bò vàng
tuần tra trong trại giam, người thì lui cui trong “buồng vệ sinh” lo việc “gậm nhấm” từng ly của ba song
sắt, cưa đến đâu, Xường và Lê Thơm phải tìm cách thanh toán ngay lớp
bụi sắt rơi trên khung xi măng cửa sổ, đồng thời, họ phải dùng đất lấy ở
bên ngoài sân cùng màu với sang sắt, bôi phết lên dể ngụy trang đường
cưa hầu không bị phát giác bởi tên bò vàng trực trại vào nhà đá kiểm
soát hàng ngày; và nhất là hầu tránh sự đánh hơi, nghi ngờ, dòm ngó của mất
tên chó săn làm ăng-ten, chuyên môn rình mò rồi len lén đưa tin báo cáo
lên cho kẻ thù để lấy điểm mong sớm được chúng cứu xét “nhanh chống
khoan hồng, độ lượng cho trở về với gia đình” Lũ quỷ đỏ luôn luôn giăng
ra cái bẫy “củ cà rốt treo trước mõm lừa”, cái chiêu bài “khoan hồng độ
lượng” ấy để dụ những tên phản bội bạn bè, những tên đâm sau lưng chiến
hữu; và nực cười thay! Vì chỉ có những tên phản bội ấy “rơi tỏn” vào bẫy
của kẻ thù mà thôi!
Song
song vói việc cưa các song sắt, cả bốn người trong nhóm phải tích trữ
lương khô dự trù đem theo trong thời gian đào thoát. Mỗi lần được ăn cơm
(mỗi tháng một hay hai lần, thời gian còn lại, phải “đớp” khoai lang,
khoai mì, “bắp đá”, bo bo, bí đỏ, v.v…v.v…) Họ đều nhín lại một ít, đem
phơi ở một nơi thật kín đáo cho khô cứng, rồi “nhím” ở một chổ nào đó
cho đến khi “kiến tha lâu đầy tổ”.
Vì
chỉ được phát nước muối nên họ phải giao cho Xường và Lê Thơm tìm cách
đến nhà bếp, lén dấu lại cho nước bóc hơi dần dần, rồi gạn lấy muối bọt.
Vào
thời gian này, lũ quỷ đỏ cho phép gia đình, thân nhân chúng tôi 3 tháng
được gởi cho mỗi người trong tù một gói quà nặng 3 ký lô qua đường bưu
điện. Nhóm bốn người này, Lê Thơm là một trong những anh em không may
mắn vì không liên lạc thơ từ gì được với gia đình, do đó anh không nhận
được quà cáp gì cả. (chúng tôi thường gọi đùa những anh em không may mắn
này là “mồ côi”) Ngoại trừ Lê Thơm, cả ba người trong nhóm tìm cách
“trao đổi” số lượng mì ăn liền (loại nát vụn) nhận từ gia đình để lấy
“tiêu chuẩn” cơm của anh em khác mỗi lần được trại cho ăn. Số lượng cơm
được “trao đổi” này, hai anh chàng “vệ sinh viên” Lê Thơm và Xường có
nhiệm vụ đem phơi cho thật khô cứng, rồi giấu ở một nơi nào đó mà chỉ có
nhóm họ biết thôi. Ý định của họ là sẽ phải mang cơm khô và muối càng
nhiều càng tốt sau khi vượt thoát ra được khỏi trại giam vì hai món này
có trọng lượng khá nhẹ và chúng có thể giúp họ cầm hơi lúc đói mà không
cần lửa củi để nấu nướng.
Bây
giờ họ đã sẵn sàng tất cả trong kế hoạch trốn trại: cơm phơi khô, muối,
một vài đồ dùng cá nhân và quan trọng nhất là ba song sắt cửa sổ thông
hơi trong buồnvệ sinh đã được cưa xong (nhưng vẫn được ngụy trang rất
khéo nên chúng vẫn “đứng vững”, chỉ cần đẩy hay nhẹ là chúng sẽ “nằm”
xuống ngay) có thể nói công việc cưa ba song sắt ấy, rồi che giấu “vết
cưa” là cả một “công trình nghệ thuật”
Họ còn một chút ưu tư là không tìm đâu ra được một dụng cụ tối cần thiết, chắc chắn sẽ giúp họ trong thời gian vượt ngục. Đó là cái “địa bàn”. Tuy nhiên,
họ nghĩ rằng họ có thể “định hướng” để di chuyển nhờ ánh sáng mặt trời
lúc ban ngày; và ánh sáng mặt trăng lúc ban đêm họ nghĩ rằng họ chỉ cần
nhắm hướng tây mà “dọt” thì thế nào họ cũng sẽ đến Lào rồi qua Thái Lan,
Họ dự trù trong hai ngày nữa là sẽ đến “đêm trọng đại” vì kế hoạch của họ là sẽ biến vào đêm tối trời không trăng.
Tuy nhiên, mưu sự tại nhân, còn sự bất
thành là tại vì bị xui xẻo! chưa đến “đêm trọng đại” của nhóm bốn người
này thì lại xảy ra “ngày trọng đại” của tất cả anh em chúng tôi trong
trại giam: đó là cái ngày mà một số người đã bị chuyển đi trại khác, và
đó cũng là cái “ngày đại nạn” của thằng tôi (hậu quả sau cái ngày đại
nạn ấy là giờ đây xương cổ tay phải của tôi bị gãy và một chân dính
trong cùm) trong buổi sáng của cái ngày khó quên đó, anh chàng Xường bị
“biên chế” sang một đội lao động khác và đội này lại ở trong một nhà đá
khác, không cùng nhà với “tổ cơ khí”. Tổ này vẫn vẫn “nằm” tại nhà cũ,
nơi mà các song sắt trong buồng vệ sinh đã được cưa. Do
đó, nhóm bốn người, có một “trự” bị xé lẻ, phải ở nhà khác. Như vậy, vào
“đêm trọng đại”, chỉ còn có ba người ở chung trong một nhà; chỉ có
ba người này có thể chui ra khỏi cái lổ cửa sổ thông hơi trong buồng vệ
sinh mà thôi. nếu muốn cả bốn người cùng “dọt” một lượt trong đêm ấy
thì hình như “vô kế khả thi”. Họ không còn có thể hoãn lại thời gian đào
thoát được nữa vì ba song sắt bị cưa có thể sẽ bị phát giác bất cứ lúc
nào và hậu quả sẽ tai hại không biết đến đâu mà lường.
Xường
biết rằng nếu không gấp rút tìm ra được phương cách để ở “bên ngoài nhà
đá” trong “đêm trọng đại đó” thì chắc chắn mình sẽ không bao giờ có thể
còn cơ hội nào khác hầu “tháo củi sổ lồng”. Cuối cùng, anh đã tìm ra
được phương cách đêm đó phải ở bên ngoài nhà đá, thay vì phải ở “bên
trong” sau giờ “điểm danh” vào “chuồng” như thường lệ. Buổi chiều hôm
ấy, Xường có “rỉ tai” với ba anh chàng kia rằng:
-Hy vọng đêm nay sẽ có tôi cùng “dọt” với các anh!
Lê Thơm, Đại và Khánh cùng trố mắt nhìn Xường, nhưng không chịu giải thích thêm gì nữa, anh ta đi vội về phía nhà đá của mình…
Ở
trại giam Thanh Chương, vào khoảng bảy giờ chiều, chúng tôi phải xếp
hàng trước cửa ra vào nhà đá đẻ từng người một, vừ ađếm số thứ tự của
mình đang đứng trong hàng, vừ abước vô nhà, trong khi tên bò vàng trực
trại, tay vừa cầm cuốn sổ điểm danh, mắt vừa nhìn mặt từng người, sau
khi kiểm soát nhân số mỗi đội, mỗi tổ đã vào trong nhà đá “khớp” với
nhân số trong sổ điểm danh của mình thì hắn ra lệnh cho hai “phụ tá” của
hắn đóng cửa ra vào, rồi bóp khóa bên ngoài lại. Sau đó, hắn đi đến nhà
đá khác, tiếp tục nhiệm vụ điểm danh của mình trong khi hai “phụ tá” lò
bò theo sau lưng, hai “phụ tá” này gồm một người tù Z (chúng tôi) và
một tên tù hình sự. Cả hai “nhân vật” này đã được tuyển chọn rất kỷ sau
khi lý lịch của họ đã được lũ bò vàng nghiên cứu thật tỉ mỉ và được
chúng tin cậy…
Bây
giờ, tên bò vàng trực trại cùng hai “phụ tá” của hắn đã đến nhà đá của
Xường. Như thường lệ, tất cả anh em đều đứng xếp thành hàng dọc, sẵn
sàng từng người, vừa đếm số thứ tự của mình, vừa bước vô
nhà. Bỗng nhiên, ngay lúc ấy, từ buồng vệ sinh trong nhà đá vọng ra gọng
nói của Xường:
-Báo cáo cán bộ, tôi đang đi cầu.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét