| |
Vũ Ngự Chiêu, Ph.D., J.D. Thứ Hai, Ngày 4 tháng 1-2010 | |
Từng trang lịch sử, buông hờ hững, Xương máu còn tanh những dối gian NGUYÊN VŨ, 1985 Trong đời hoạt động của Hồ Chí Minh–ngoại trừ chuyến “đi biển” năm 1911–mỗi cuộc xuất ngoại đều có sứ mạng riêng. Chuyến đi Nga cuối tháng 6/1923 từ Paris–do Quốc Tế Cộng Sản [QTCS] dàn xếp–là chuyến cầu viện thứ nhất. Nó mở ra cho Hồ giai đoạn hoạt động suốt 22 năm kế tiếp như một cán bộ QTCS chuyên nghiệp [agitprop = political agitation and propaganda]. Chuyến qua Pháp từ ngày 30/5 tới 16/9/1946, Hồ đóng vai một quốc trưởng, hy vọng thuyết phục thế giới về chính nghĩa độc lập của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa [VNDCCH] (1945-1976). Chuyến đi này thất bại, vì Linh mục/Cao Ủy Georges Thierry d’Argenlieu và nhóm Gaullist chỉ coi Hồ như lãnh tụ một Ðảng, và lãnh thổ Việt Nam không quá vĩ tuyến 16, trừ thêm các khu tự trị cho sắc tộc ở thượng du Bắc Việt cùng vùng rừng núi phía tây Trung Kỳ. Tháng 12/1946, Hồ tấn công bốn vị trí trú quân Pháp ở phía bắc vĩ tuyến 16–Hà Nội, Nam Ðịnh, Vinh và Huế–khởi đầu giai đoạn thứ hai cuộc chiến kháng Pháp. Ðầu năm 1950, Hồ thêm một lần xuất ngoại cầu viện. Qua ngõ Bắc Kinh. Trước thập niên 1990, rất ít người biết chuyến cầu viện bí mật này. Những nghiên cứu cổ điển “nghiêm túc” nhất suy đoán rằng “một phái đoàn” đã đến Bắc Kinh và “có thể” ký một hiệp ước ngày 18/1/1950–đúng ngày Bắc Kinh nhìn nhận VNDCCH. Ngay Ðại tướng Võ Nguyên Giáp–tên thực Võ Giáp–từ năm 1994 và rồi 2001 mới đề cập đến “bạn” và chuyến cầu viện của Hồ; nhưng không trưng dẫn được những phụ bản tài liệu khả tín như phóng ảnh các công điện và văn bản liên hệ. (1) Nhân dịp tranh chấp giữa Hà Nội và Bắc Kinh trong giai đoạn 1975-1991, giới nghiên cứu được tiếp cận một số thông tin vượt ngoài dự tưởng–như Võ Giáp chỉ có công đứng ra nhận chiến công do tướng tá cố vấn Trung Công chỉ huy, từ chiến dịch Lê Hồng Phong II (9-10/1950) tới Ðiện Biên Phủ (1953-1954). Ðiều khiến những người thận trọng thắc mắc là tại sao Bộ Chính Trị và Quân Ủy Trung Ương Ðảng Cộng Sản Việt Nam [CSVN] chưa bạch hóa các tài liệu văn khố Ðảng và Quân Ðội Nhân Dân [QÐND] để phản bác hay xác nhận chứng từ của Chen Geng [Trần Canh], Liu Shaoqi [Lưu Thiếu Kỳ], Zhou En Lai [Chu Ân Lai], Luo Guibo [La Quí Ba], cùng các cố vấn khác mới công bố. Hầu hết những tài liệu lược dẫn trên đều có hạn chế về mức khả tín. Thứ nhất, với Bắc Kinh và Hà Nội, “lịch sử Ðảng” chỉ công bố những sự thực giai đoạn, hay nửa sự thực, phù hợp với mục tiêu chính trị và tuyên truyền nhất thời. Thứ hai, nhật ký hay hồi ký và truyền khẩu sử, tự chúng đầy chủ quan và khó tránh lầm lỗi. Ðó là chưa nói đến thú ngụy tạo chứng từ, được biện minh bằng nguyên tắc: chiến tranh hay chính trị phải biến trá. Có lẽ phải nhiều thập niên nữa, văn khố Việt Nam, Trung Hoa, Pháp, Nga Sô và Mỹ mới bạch hóa hoàn toàn, trả cuộc chiến Việt Nam, và liên hệ Hoa-Việt, vào chỗ đứng đích thực của chúng. Phương pháp làm việc tỉ đối giữa nhiều nguồn tài liệu văn khố [multi-archival] đã giải mật vào đầu thế kỷ XXI giúp tạm phác họa cái nhìn toàn cảnh vai trò tiền đồn của Việt Nam trong cuộc chiến tranh lạnh 1947-1991, mà chuyến xuất ngoại cầu viện Trung Cộng và Nga Sô năm 1950 của Hồ được coi như một dấu mốc quan trọng. Chúng cũng giúp phản ánh hiện tượng “Trung quốc hóa” hay “Mao-hóa” Ðảng CSVN (dưới danh nghĩa Ðảng LÐVN), và con đường “khúc khuỷu” [zigzag] mà Mao Nhuận Chi (Mao Trạch Ðông) muốn Ðảng LÐVN vượt qua. Hiện tượng Mao hóa thường bị che đậy này liên hệ và giải thích những dị biệt tồn đọng từ nhiều thế kỷ trong quan hệ Việt-Hoa, đưa đến “bài học Ðặng Tiểu Bình” Xuân Kỷ Mùi (17/2-16/3/1979), cùng tham vọng đất đai của Bắc Kinh từ năm 1956–lên cao điểm trong cuộc chiếm đóng quần đảo Hoàng Sa (Paracels) vào tháng 1/1974 do Chu Ân Lai chủ động, rồi đến cuộc tranh chấp Trường Sa (Spratlys) tại biển Ðông. (2) Nguồn tư liệu chúng tôi sử dụng gồm tư liệu văn khố Mỹ, Pháp, Việt thu thập hơn 30 năm qua, kể cả chuyến tham khảo Việt Nam năm 2004-2005. Hai tài liệu văn khố Pháp lần đầu tiên công bố là nghiên cứu “Le Parti communiste chinois en Indochine du Nord” của Nha Thanh Tra Chính Trị Ðông Dương, và “Les Communistes chinois et le Viet Minh (du Septembre 1945 à Septembre 1948) do Charles Bonfils soạn thảo.( 3) I. NGOẠI GIAO NHÂN DÂN: Từ khi Hồ tuyên bố độc lập với Pháp chiều 2/9/1945 không quốc gia nào thừa nhận VNDCCH. Pháp và Bri-tên chỉ coi VNDCCH như một “chính phủ sinh ra trong hỗn loạn,” bất hợp pháp. Dịp cuối tuần 22-23/9/1945, liên quân Bri-tên-Pháp ép buộc tù binh Nhật tham dự cuộc cướp chính quyền ở Sài Gòn–một tội ác chiến tranh [war crimes] theo công pháp quốc tế đương thời–rồi đánh đuổi Lâm Ủy Hành Chánh của Trần Văn Giàu khỏi các thành thị phía Nam vĩ tuyến 16 như “phiến loạn.” Mặc dù Trùng Khánh áp lực Paris và d’Argenlieu cử đại diện ký với Hồ và Vũ Hồng Khanh Hiệp ước sơ bộ 6/3/1946 tại Hà Nội, thừa nhận chính phủ Liên hiệp Kháng chiến VNDCCH là một “tiểu bang tự do” [Etat libre] trong Liên Bang Ðông Dương và Liên Hiệp Pháp; rồi, Marius Moutet và Hồ ký thêm Tạm Ước [Modus vivendi] 14/9/1946 tại Paris; d’Argenlieu cùng Jean Valluy quyết dồn Hồ vào tình cảnh “lang thang” trong rừng núi. Cuộc “tổng tấn công” 19/12/1946, là thế chẳng đặng đừng, dù bị diễn dịch như thái độ ưa chuộng bạo lực cách mạng của Ðảng CSÐD, và dùng làm chiêu bài [pretext] hầu cắt đứt thương thuyết, mở đường cho “một chí sĩ quốc gia” chân chính giúp Pháp tái khôi phục đế quốc tiền chiến. Từ năm 1946, các giáo sĩ Pháp–như Tổng Giám Mục Antonin Drapier, Giám Mục Quảng Châu Fourquet, Linh mục Vircondolet, Giám đốc Hội truyền giáo Hong Kong, và Yolle–cùng d’Argenlieu, Léon Pignon, và viên chức Bộ Pháp Quốc Hải Ngoại tái khám phá ra cựu hoàng Bảo Ðại (1926-1945) đang lưu vong ở Hong Kong. Cuối năm đó, Cao Ủy Emille Bollaert ký với Bảo Ðại Qui ước Hạ Long (6-7/12/1947)–mà điều khoản quan trọng nhất là Pháp sẽ tuyên bố cắt đứt thương thuyết với Hồ. (4) Sau nhiều tháng tranh luận, ngày 5/6/1948, Bollaert, Nguyễn Văn Xuân cùng đại diện ba miền (Nghiêm Xuân Thiện, Ðặng Hữu Chí [Bắc], Phan Văn Giáo, Nguyễn Khoa Toàn, Ðinh Xuân Quảng [Trung], và Trần Văn Hữu, Lê Văn Hoạch [Nam]) gặp nhau trên chiến hạm Duguay-Trouin, “dưới sự chứng kiến của đế Bảo Ðại.” Ra Tuyên ngôn chung (Déclaration Commune) ba [3] điểm; theo đó, xác định: “Nước Pháp long trọng nhìn nhận sự độc lập của nước Việt Nhưng chính phủ trung ương lâm thời của Xuân vô quyền lực. Ba kỳ đều có chính phủ riêng, do ba Thủ hiến cầm đầu. Mỗi Thủ hiến có các đơn vị phụ lực bản xứ, mà cấp chỉ huy biệt phái từ lực lượng Viễn chinh Pháp. Chính phủ trung ương chưa có quân đội riêng, ngoại trừ một tiểu đoàn Ngự Lâm Quân. Từ tháng 3/1949, Quân Ðội QGVN mới bắt đầu thành hình. Giữa năm 1950 tổng số chỉ có 56,742 người (27,778 chính qui + 28,964 Bảo An và phụ lực). Ðể đáp ứng nhu cầu, nhiều lớp huấn luyện cấp tốc sĩ quan và hạ sĩ quan cao cấp được tổ chức. Cuối năm 1950, QGVN có 300 sĩ quan, với hai Trung Tá. Nhưng chưa có Bộ Tổng Tham Mưu, hay Tổng trưởng Quốc Phòng “toàn thời gian.” Cấp chỉ huy đầu tiên là Pierre Nguyễn Ðệ, Ðổng lý Văn-Võ Phòng của Bảo Ðại từ ngày 1/6/1950. Ngày 1/10/1951, Quân đội QGVN chính thức thành lập. Năm 1951 lập được 4 Sư đoàn: SÐ 1 ở miền Nam; SÐ 2 ở Trung Việt; SÐ 3 ở Bắc; và SÐ 4 ở vùng Cao Nguyên. Dự trù lên tới 8 Sư đoàn nhẹ năm 1955. (6) Từ tháng 10/1950, Pháp cũng tiến hành việc sát nhập 75,000 phụ lực Ki-tô vào QÐQG do Mỹ tài trợ, như lời yêu cầu của Ngô Ðình Diệm, Ngô Ðình Thục và Phạm Ngọc Chi. (7) Ðiều khiến Pháp khó chịu nhất là phe Việt Nam chống Cộng–mà guồng máy tuyên truyền của khối Cộng Sản nguyền rủa là “ngụy,” “tay sai Pháp”–không ngừng đòi hỏi độc lập và thống nhất lãnh thổ. Trên sơ sở pháp lý, họ được nhân nhượng những gì Hồ và Ðảng CSÐD (lúc này đã giải tán, hay “rút vào bí mật” như Hồ tự biện minh ít năm sau) đã thất bại. Ngày 8/3/1949, dưới áp lực Mỹ và nhất là do viễn ảnh đầy dọa nạt từ chiến thắng của Ðảng CSTH, “Hiệp ước Elysée” ra đời. Ba ngày sau, 11/3, Paul Coste-Floret vận động Quốc Hội Pháp chấp nhận cho Nam Kỳ sát nhập vào Việt Nam–dựa trên Ðiều thứ 75 của Hiến pháp 1946: Một phần lãnh thổ của Cộng Hoà Pháp hoặc Liên Hiệp Pháp có thể biến đổi, do một Luật của Quốc Hội, sau khi đã tham khảo với Hội nghị địa phương và Hội đồng Liên Hiệp Pháp. Như thế, theo Ðiều 27 của Hiến pháp, không cần phải trưng cầu dân ý (referendum), mà chỉ cần biểu quyết của một Hội đồng Lãnh thổ Nam kỳ (Assemblée Territoriale de Cochinchine, HÐLTNK), với sự chấp thuận của Thượng Viện Liên Hiệp Pháp [Haut Conseil de l'Union Francaise]. Viên chức Pháp cũng giữ kín nội dung “Hiệp ước Elysée” cho tới ngày Bảo Ðại về nước, dự trù vào 25/4/1949 để có một “kích xúc tâm lý” (choc psychologique). (8) Ngày 24/4/1949–sau khi Hội Ðồng LTNK đồng ý tái nhập Nam Kỳ vào Việt Phần Hồ vẫn chủ trương “nước còn tát được vẫn tát.” Tháng 2/1947, Trần Ngọc Ranh gửi cho Bộ Hải Ngoại Pháp thư nghị hòa của Hồ, kèm theo tài liệu qui trách cho viên chức Pháp về chiến cuộc VN. Ngày 20/2/1947–sau khi Trung đoàn Thủ đô rút khỏi Hà Nội ra Phúc Yên, và HCM rời Hà Ðông qua Sơn Tây dưới sự che chở của dòng người tản cư mà Hồ dấy động qua khẩu hiệu “tản cư cũng là kháng chiến”–Hồ nhờ đại diện Hồng Thập tự quốc tế chuyển cho Lãnh sự Bri-tên một thư nghị hoà. Ðài phát thanh VM đọc thư Hồ gửi Thủ tướng Paul Ramadier và BT Hải Ngoại Moutet, kêu gọi thương thuyết. Theo Hồ, mục tiêu của dân Việt Ngày 12/4/1947, Phạm Ngọc Thạch–nhân chuyến đi Hong Kong thuyết phục Bảo Ðại nhưng thất bại–gửi thư cho Ðại sứ Edwin F. Stanton tại Hồ còn bí mật gặp Paul Mus ở Thái Nguyên tối 11/5/1947 để nghe điều kiện đầu hàng của Cao ủy Emille Bollaert, rồi lại gửi sứ giả qua Thái Lan tiếp xúc Mỹ, và Ðại sứ Pháp. Hồ cũng tạm thời chưa bày tỏ thái độ với Bảo Ðại, dù Bảo Ðại chuyển dần sang lập trường chống Cộng. Từ ngày 17/2/1947, những người ủng hộ Bảo Ðại đã thành lập tại Nam Kinh Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhứt Toàn Quốc “ngõ hầu đạt tới lý tưởng tối cao . . . tranh thủ Ðộc lập và Thống nhứt quốc gia, củng cố chánh thể Cộng hòa dân chủ, thực thi chế độ dân chủ chân chánh.” (Bản ký kết thành lập MTQGTNTQ; 10H xxx). Qui tụ Việt Nam Cách Mệnh Ðồng Minh Hội (Nguyễn Hải Thần), Việt Nam Quốc Dân Ðảng (Nguyễn Tường Tam), Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Ðảng (Nguyễn Hoàn Bích), Việt Nam Quốc Gia Thanh Niên Ðoàn (Trần Côn tức Văn Tuyên), và Ðoàn Thể Dân Chúng (Lưu Ðức Trung tức Lưu Bá Ðạt). Mặt Trận cử Thần, Tam, Bích và Côn xuống Hong-Kong gặp Vĩnh Thụy. Hơn một tháng sau, trong cuộc họp báo ở Hong Kong ngày 29/3, Bảo Ðại tuyên bố chính phủ HCM không đủ khả năng đại diện Việt Nam; và, Bảo Ðại chống lại Việt Minh. Tại buổi họp báo này, phổ biến tài liệu Mặt Trận Thống Nhứt Quốc Gia Việt Nam [Front d'Union Nationale du Viet-Nam], danh hiệu mới của MTQGTNTQ mở rộng–mới mời thêm được các tổ chức miền nam và trung như Việt Nam Quốc Gia Ðộc Lập Ðảng (Nguyễn Văn Sâm), Cao Ðài (Phạm Công Tắc), và Liên Ðoàn Công Giáo (Trần Văn Lý-Ngô Ðình Diệm). Mục tiêu của Mặt Trận mở rộng hơn, tức “thống nhất mọi tổ chức cách mạng, đảng phái chính trị, đoàn thể tôn giáo và xã hội để đấu tranh giành độc lập và thống nhất lãnh thổ, củng cố chế độ cộng hoà, dân chủ, hợp tác toàn diện với tất cả các quốc gia trên thế giới trên căn bản công bằng và tự do để vãn hồi trật tự thế giới.” Về Việt Mãi tới ngày 27/4/1949, khi nước đã cạn, ngọn lửa “thánh chiến chống Cộng” ngày càng bốc mạnh, và Mao đã chiếm Bắc Kinh, Hồ mới lên án tử hình Bảo Ðại, rồi công khai chống “đế quốc đầu xỏ Mỹ.” Ðồng thời xiết chặt quan hệ với Ðảng CSTH–qua những cuộc hành quân hỗn hợp tiêu diệt và ngăn chặn tàn binh Tưởng tràn vào Bắc Việt, hay đánh phá Thập Vạn Ðại Sơn, nằm sát biên giới Quảng Tây-Cao Bằng. (12) Tài liệu CSTH và CSVN mới giải mật giúp khẳng định điều mà quân báo Pháp và Tây Phương ờ biết từ lâu: Liên hệ giữa hai đảng CSTH và CSVN đã khởi đầu từ năm 1945-1946 qua mạng tình báo Trung Hoa hải ngoại ở Bangkok và Phnom Penh với các lưới nằm vùng Hoa kiều Chợ Lớn, Hải Phòng và Hà Nội. (13) Ðảng CSTH–bị đặt ra ngoài vòng pháp luật tại Ðông Dương từ năm 1939–bắt đầu tái hoạt động sau ngày Nhật đầu hàng. Tháng 8/1945, xuất bản tờ Việt Nam Báo ở Chợ Lớn, nhưng bị đóng cửa. Tháng 9/1945, CSTH thành lập một Ủy ban Ðảng hải ngoại tại Nam Ðông Dương, chi nhánh của Ủy Ban Chấp Hành Hải Ngoại phụ trách Thái Lan, India, Indonesia, Miến Ðiện [Myanmar], Malaya và Ðông Dương, với trụ sở đặt tại Bangkok (Thái Lan). Cơ quan này liên hệ trực tiếp với Yenan [Diên An]. Từ tháng 3/1946–sau khi cả Liên Bang Mỹ và Liên Sô Nga đứng ra hòa giải giữa Tưởng và Mao, đưa đến việc ký ba [3] tạm ước vào tháng 1/1946 (đình chiến, chính trị và hiến pháp, tái tổ chức quân đội)–cán bộ CSTH tái hiện ở miền Ðảng viên CSTH hoạt động mạnh nhất trong giới học sinh. Hiệu trưởng trường trường Nam Kiều, Vương Quan Nhựt, là một cán bộ cấp lãnh đạo. Chen Lee, quản lý Việt Nam Nhựt Báo, từng huấn luyện ở Diên An, giữ chức Tổng thư ký. Những phóng viên hải ngoại đều là CS, thuộc hãng thông tấn Kuo Tsi ở Hong Kong, Hua Shiang Pao [Hoa Thương Báo] ở Hong Kong, và hãng TASS của Nga. Sau loạt bài tấn công Tưởng Giới Thạch trên Việt Nam Nhựt Báo, Tổng Lãnh sự TH can thiệp, khiến Pháp đóng cửa báo ngày 23/11/1946. Chen Lee còn bị trục xuất vì thái độ bài Pháp. Chủ bút Quách Tương Bình, giáo sư trường Nam Kiều, bèn xin ra báo Việt Nam nhưng không được chấp thuận; nên in lại tờ nhật báo CS Yen Sha của Pnom Penh tại Chợ Lớn. Các biên tập khác hình như qui tụ tại tuần báo Toàn Dân ở Cây Mai, Chợ Lớn. Nhóm chỉ huy văn phòng liên lạc Pnom Penh gồm Trương Quan Hao, Lương Kiên, Trác Diệu Sô, Tô Ðại Hun, Ðặng Tất Toan. Cơ quan ngôn luận là Hiện Thực Nhật Báo. Môi trường hoạt động chính là giới công nhân và học sinh. Theo tài liệu TC, một cán bộ CSTH nằm vùng là Trương Dực, sinh ở Nam Việt, từng hoạt động ở Diên An. Năm 1938, vì bệnh phổi, trở lại Sài Gòn. Chủ nhiệm Tổng hội Liên Hiệp Giải Phóng Hoa Kiều. Giao du thân với Lê Duẩn, Lê Ðức Thọ. Năm 1951, được Vương Gia Tường gọi về nước, làm việc trong Ban Liên Lạc Trung Ương Ðảng CSTH (Tình báo hải ngoại). Thông dịch chính của HCM từ năm 1951. Sau này tham gia Hội nghị Tại miền Bắc, từ mùa Thu 1945, Hồ tiếp kiến cán bộ CSTH ở Hải Phòng và Hà Nội ngay trong Phủ Chủ tịch. Cán bộ CSTH có mặt ở Hải Phòng từ tháng 2/1946. Vì quân THDQ đang chiếm đóng miền Bắc, cán bộ CSTH hoạt động bí mật. Họ đến từ Giữa tháng 5/1946, Ủy Ban Bangkok gửi qua Hà Nội một đoàn đại biểu. Cầm đầu là Ken Ky, Ủy viên BCH Bangkok. Hai ngày sau, 17/5, Lou Hing, một cán bộ BCH Trùng Khánh cũng tới Hà Nội, với vị thế phóng viên Tân Hoa xã. Lou Hing giới thiệu nhóm Ken Ky với HCM và BCHTW Ðảng CSÐD [hoạt động dưới tên Hội Nghiên Cứu Chủ Nghĩa Mã Khắc Tư] [HNC/CNMKT]. Ngày 25/5/1946, Lou Hing rời Hà Nội qua Từ tháng 7/1946, có hai nhóm CSTH tại Bắc Việt. Một đặt văn phòng ở Hà Nội và Hải Phòng, trực thuộc Ban Liên lạc thường trực với chính phủ HCM, gồm Yu Te Ming, cố vấn tại Bộ Nội vụ; Tchao Yi Pe và Tchang Siao Po, cố vấn tại Bộ Giáo Dục; Tchang Pan và Lam Lin Ping, cố vấn Bộ giao thông. Tchang Yi Ping và William Lu hợp tác với tuần báo Tân Việt Nam của Ðặng Thái Mai. Một HNC/CNMKT Hoa-Việt cũng được tổ chức để chống lại tổ chức hữu nghị Hoa-Việt do phe Tưởng lập nên, với các đảng viên VNQDÐ và Việt Cách. (15) Dẫu vậy, Dalburo ở Thượng Hải–chi nhánh phụ trách Nam Á Châu của Ban Phương Ðông QTCS, do cơ quan tình báo Nga [Intercenter hay Mainburo] tài trợ–không hài lòng việc Hồ giải tán Ðảng CSÐD năm 1945, và từng lên án Hồ là phản bội. (16) Tháng 11/1946, sau một buổi họp ở Hải Phòng, cán bộ CSTH và Ðảng Dân Chủ Thống Nhất TH (PDU) gửi thư ngỏ cho HCM, tuyên bố theo đuổi những đường lối sau: Phản đối sự tàn ác của Pháp tại Nam Bộ; Phản đối những mưu toan biệt phân; Ủng hộ chính phủ VNDCCH; Không nhìn nhận chính phủ bù nhìn Nguyễn Văn Thinh [Cộng Hòa Nam Kỳ tự trị] do Pháp lập nên (từ ngày 2/6/1946); Phản đối việc không thực thi nghiêm chỉnh Hiệp ước sơ bộ 6/3/1946 và Tạm ước [Modus vivendi] Paris ngày 14/9/1946. Sau khi Việt Minh tổng tấn công đêm 19/12/1946, tiếp vận từ TH cho VM phần lớn là kinh tế. VM dùng quặng thiếc (étain), thuốc phiện và tiền mặt mua vũ khí từ Hoa Ðảng CSTH cũng tiếp trợ VM về chính trị và quân sự. Diệp Kiếm Anh hay “đồng chí Lộc,” (theo một tài liệu Việt) cầm đầu một phái đoàn quân sự CSTH có mặt tại Hà Nội vào thượng tuần tháng 12/1946 và sau đó theo Bộ Tổng Tư lệnh Việt Minh lên Tuyên Quang. Ngày 18/6/1947, cán bộ CSVN và CSTH hội thảo tại Tuyên Quang, cho phép bộ đội Hồng quân TH vào lãnh thổ Bắc Việt qua ngả Cao Bằng, trục xuất phần tử thân THDQ khỏi vùng VM kiểm soát, huấn luyện quân sự cho thanh niên TH chưa đăng ký, v.. v... Tháng 7/1947, các đồn biên giới của Pháp ghi nhận khoảng 270 bộ đội TC vượt biên, lập thành đoàn du kích Trung Hoa tại Tuyên Quang. Tháng 8/1947, Ken Ky cũng chỉ huy khoảng 400 bộ đội Trung Cộng vượt biên vào khu vực Thất Khê (phủ lị Trùng Khánh của tỉnh Lạng Sơn) và Cao Bằng (trị sở Khu Quản Ðạo hay Tiểu Khu thứ 2) sát biên giới Quảng Tây. Thất Khê là thị trấn phồn thịnh nhất của tỉnh, có đường thông tới cửa ải Thủy Khẩu (Long Châu, Quảng Tây). Ngày 12/6/1947, báo Thái Bình Dương bằng Hán ngữ ở Hà Nội trích dẫn báo cáo của Tòa Lãnh sự TH về sự hiện diện trong khu vực VM kiểm soát một tổ chức CSTH, dưới danh hiệu “Ủy ban Tiếp trợ Hoa kiều trong thời chiến tranh tại Việt Nam.” Thời gian này, Hồ còn duy trì liên hệ với Tổng lãnh sự Hà Nội. Thực tế, Tổng lãnh sự Hà Nội Yuen Tsi-kai từng giúp Vệ Quốc Quân an toàn rút khỏi Hà Nội, và đề nghị hai chính phủ THDQ cùng Liên Bang Mỹ đứng ra hòa giải. Ngoài ra có khoảng 4,000-5,000 tự vệ, chia làm 15 đơn vị. CSTH còn mở một trường học. Theo nhân chứng, Lý Ban [Lý Bích Sơn?], một Hoa kiều, cán bộ trung ương Ðảng CSTH phụ trách Mặt trận Hoa vận trong An Toàn Khu (Thái Nguyên-Tuyên Quang). Lý Ban còn phụ tá Lê Giản phát động phong trào “diệt đặc vụ” tức những toán tàn quân THDQ hay biệt kích, gián điệp ở biên giới Hoa-Việt. (18) Cuối năm 1947, những đơn vị CSTH lại hoạt động hầu như tự do ở vùng biên giới, và quân Tưởng–với 1,000 binh sĩ trú đóng theo 500 cây số biên giới–khó kiểm soát hay ngăn chặn. Qua năm 1948, nhiều buổi hội thảo quân sự giữa Việt Minh và TC diễn ra ngày 21/1 và 5/2/1948 tại Bi Nhi và Na Noi. Sau đó, bộ đội Việt Minh tham gia các trận đánh ở Lung Ping (26/2/1948), Pho Cap (7/3/1948), Long Ping, gần Long Châu (8/3/1948), Nà Lý (5/4/1958), Hai Yuen (9/4/1948), v.. v... Tình báo Pháp cũng ghi nhận việc tập trung quân VM và TC tại Thập Ðại Sơn. Từ cuối 1947, đầu 1948, giao tình giữa Việt Minh và viên chức THDQ xấu đi. Tháng 11/1947, Nguyễn Ðức Thụy bị bắt và chỉ được phóng thích ít tháng sau với số tiền hối lộ lớn. Viên chức THDQ cũng bắt giữ một phái đoàn thương mại VM và dẫn độ cho Pháp vào cuối tháng 4/1948. Lê Văn Hiến (1904-1997), cựu Bộ trưởng Tài chính và rồi Ðại sứ tại Lào, ghi trong Nhật Ký rằng từ năm 1947 vẫn giữ liên hệ với cả hai phe Trung Hoa. Nguyễn Lương Bằng (Cù Vân) qua lại Trung Hoa nhiều lần mua vũ khí, đạn dược, trả bằng tiền Ðông Dương, vàng bạc, thuốc phiện, gỗ cùng quặng mỏ wolfram, thiếc, kẽm, galène, antmoine [ở mỏ Bản Thi]. Hiến cũng nhiều hơn một lần gặp gỡ và tiếp vận cho quân CSTH tại vùng Lào Cai-Tuyên Quang. (19) Tài liệu Việt và Trung Cộng sau này đều xác nhận sự có mặt của lực lượng võ trang Trung Cộng tại vùng Việt Minh kiểm soát. Theo tài liệu Trung Cộng từ năm 1946, Hồ đã giúp các đơn vị TC ở Quảng Ðông chạy sang Bắc Việt tị nạn. Tháng 3/1946, khoảng 1,000 quân thuộc Trung đoàn 1 Quảng Ðông vượt biên giới qua Bắc Việt. Hồ cung cấp thực phẩm và thuốc men. Hồ cũng yêu cầu CSTH cho đơn vị trên huấn luyện một số cán bộ Việt Minh. Tháng 6/1946, văn phòng CSTH tại Hongkong gửi Zhou Nan [Chu Dù có sự khác biệt tới hai năm về thời gian quân Trung Cộng hiện diện trong lãnh thổ Việt Nam qua lời chứng các viên chức Hoa-Việt, có thể khẳng định hai bên liên hệ khá chặt chẽ, ít nhất ở mức độ địa phương. Liên hệ hai bên gia tăng theo mức Nam tiến của Hồng quân Trung Cộng. Tháng 4/1949, giữa lúc Bạch Sùng Hy và Lâm Bưu đại chiến ở Hà Khẩu (giáp ranh Lào Cai), Hồ sai Lê Quảng Ba (Ðàm Văn Mông, 1915-1988), Tư lệnh Liên khu Việt Bắc, và Chu Huy Mân (Chu Văn Ðiều, 1913-2006), v.. v.... chỉ huy một đơn vị qua Thập Vạn Ðại Sơn phụ giúp Hồng quân TH. Sau khi Mao tuyên bố thành lập CHND Trung Hoa (ngày 1/10/1949), lãnh đạo VNDCCH không ngớt bàn tán về tình thế và thời cơ mới. Cơ quan ngôn luận Việt Minh công khai loan tin về chiến thắng của Ðảng CSTH. Ngày 12/12/1949, báo Cứu Quốc đăng cả danh sách Ban chấp hành Trung ương Ðảng CSTH, đã được bầu ra ngày 24/9/1949. (21) Trong khi đó, từ tháng 12/1947, Công An Việt Minh bắt giữ một số người Hoa ở vùng Ðầm Hồng, Chiêm Hóa–cách Tuyên Quang hơn 60 cây số–vì tội đã chỉ điểm cho quân Pháp các kho tàng của Việt Minh. Ngoài ra, đa số sống bằng nghề buôn thuốc phiện lậu–vi phạm độc quyền của chính phủ Hồ.( 22) Từ khi chính phủ lâm thời trung ương của Nguyễn Văn Xuân thành lập ở Hà Nội tháng 6/1948, Hồ ngày càng ngả về hướng tân Quốc Tế Cộng Sản (Cominform). Nhiều nhân vật quan trọng VM và CSTH đi lại, xuất hiện ở Hoa Nam, Nam Ninh, Quảng Châu và Hong Kong. Cuối tháng 6/1948, công tác đội Hoa Kiều ở Ðầm Dương Tuyên Quang, do một nữ cán bộ CS điều khiển. Người cầm đầu công tác Hoa vận là Lý Ban, sau này lên chức Thứ trưởng Kinh tế; góp công vào kế hoạch Cải Cách Ruộng Ðất trong thập niên 1950, rồi bị thanh trừng năm 1979. (23) Năm 1949 đánh dấu một khúc quanh mới trong liên hệ Việt Minh và CSTH. Một mặt, Mao và Hồng quân đang thắng lớn, tiến vào Bắc Kinh tháng 2/1949; Tưởng từ chức, chạy sang Ðài Loan. Mặt khác, dưới áp lực Mỹ, Pháp khởi đầu thí nghiệm Bảo Ðại. Trong khi khối Kominform [Ban Thông Tin Quốc Tế, gồm 9 đảng CS Âu châu thành lập tháng 9/1947] nối tiếp nhau nhìn nhận chế độ Mao, chỉ riêng Hồ thái độ chưa rõ ràng. Sự chậm trễ này khiến có suy luận rằng Hồ nuôi một tâm ý khác. Thực ra, Hồ tạm thời theo chính sách “ngoại giao nhân dân” hơn ngoại giao chính thức, vì chưa tiện thách thức khối “trắng” (Mỹ và tư bản). Một tài liệu TC ghi tháng 10/1949, HCM sai Lý Ban và Nguyễn Ðức Thụy mang thư sang Bắc Kinh. Ðược Mao hồi âm vào hạ tuần tháng 11/1949, Hồ liền cử một phái đoàn phụ nữ đi thăm Trung Cộng. Ðồng thời, đích thân Hồ chuẩn bị bí mật qua Bắc Kinh. (24) Sau khi bẻ gãy chiến dịch mùa Thu 1947 của Pháp, Hồ ngả hẳn theo Cộng Sản. Ngày 6/1/1948, Hồ tổ chức lễ kỷ niệm 18 năm thành lập Ðảng CSÐD. Ngày 15/1, Hồ đề cử Stalin, Mao và Maurice Thorez chủ tọa danh dự Hội nghị trung ương mở rộng. Trong báo cáo chính trị, Trường Chinh có vẻ thuần thạo lý luận “hai phe” của Andrei Zhdanov–Nga cầm đầu “Dân chủ chống đế quốc,” chống lại phe “đế quốc phản dân chủ” Mỹ-Pháp phản động. Hội nghị cũng nghị quyết sẽ triệu tập Hội nghị Toàn quốc vào khoảng tháng 6/1948 để sửa lại điều lệ Hội NC/CNMKT và bầu Ban Chấp ủy trung ương mới. Tuy nhiên, trong hàng ngũ Bộ trưởng vẫn có người muốn ngả theo Mỹ, người thì sợ Mỹ và thân Mỹ. Riêng Võ Giáp chống Mỹ.( 26) Việt Minh còn khoa trương đang chuyển từ “phòng ngự” qua “cầm cự.” Ðể chống lại việc Pháp tiếp tục càn quét; lập chính phủ bù nhìn Bảo Ðại, dùng người Việt hại người Việt, sử dụng công giáo và thiểu số (Thái tự trị, Nùng tự trị, .. v...) Nghị quyết phân tán các đơn vị chủ lực, thành lập các đại đội độc lập, tiểu đoàn tập trung, và đẩy mạnh hoạt động võ trang tuyên truyền. (27) Dịp này, nhiều cán bộ Nam, Trung và ngoại quốc được gọi về Việt Bắc. Tuy nhiên, sau Hội nghị cán bộ lần thứ 5 họp từ 8 đến 16/8/1948, Hội NC/CNMKT vẫn giữ nguyên danh hiệu, vì chưa đúng thời cơ để ra công khai: Theo Lê Ðức Thọ, bên ngoài phản động quốc tế; bên trong, mặt trận Việt Minh và Liên Việt sẽ bị chia rẽ, một phần tư sản, địa chủ, Ki-tô giáo sẽ hoang mang, bọn phản động sẽ thọc gậy bánh xe. Bởi thế, Thọ chỉ thị cán bộ trong khi tuyên truyền, có thể nói đảng CS vẫn hoạt động, nhưng tránh tuyên truyền quá trớn tại vùng Ki-tô giáo và địa chủ. (28) Phần Mao và cộng sự viên có những lý do riêng để tuyển mộ Hồ vào cuộc thánh chiến tạm gọi là “Ðông Phương Hồng.” Việt Tuy nhiên, Mao tạm thời duy trì chính sách “ngoại giao nhân dân,” tức bí mật nối lại quan hệ giữa hai Ðảng CS, hơn thiết lập quan hệ giữa hai chính phủ. Ðại diện Ðảng CSÐD được mời tham dự Hội nghị Công đoàn Thương mại Thế Giới ở Bắc Kinh trong tháng 11-12/1949. Tại Hội nghị này, Thiếu Kỳ hứa giúp đỡ các phong trào cách mạng, giải phóng đất nước tại Á Châu. Phát biểu sau Thiếu Kỳ, đại diện Hồ tuyên bố kinh nghiệm và mẫu mực cách mạng giải phóng Trung Cộng là “kim chỉ nam” cho Việt Trong thời gian qua Liên Sô để dưỡng bệnh từ 6/12/1949 cho tới ngày 17/2/1950, đồng thời thương thuyết Hiệp ước hữu nghị Nga-Hoa mới (14/2/1950), Mao tỏ ý muốn công nhận chế độ Hồ, nhưng Stalin sợ rằng chỉ gây thêm khó khăn, cô lập cho VNDCCH. Cuối cùng, Stalin nhượng bộ, đồng ý cho Mao công nhận Hồ trước, Moksva [Mat-scơ-va] và Kominform sẽ theo sau. Chính sách ngoại giao chung của Mao thời gian này tóm gọn trong cuộc nói chuyện với Ngoại trưởng Molotov và Ðại sứ A.Y Vyshinsky ngày 17/1/1950. Mao tiết lộ ba ngày trước Bắc Kinh đã ép đại diện Mỹ rời Bắc Kinh bằng cách đòi lãnh sự Mỹ hoàn trả những dinh trại dành cho quân đội ngoại quốc trú đóng do những hòa ước bất bình đẳng cũ. Lãnh sự Mỹ đe dọa là có thể sẽ rút hết nhân viên ngoại giao Mỹ ở Bắc Kinh, Thiên Tân, Thượng Hải, Nam Kinh. Mao cười riễu cợt, nói là Mỹ đang dọa làm những gì Mao mong muốn. [In response, the American consul in II. BẮC KINH CÔNG NHẬN VNDCCH: Ngày 24/12/1949, Thiếu Kỳ họp Bộ Chính Trị bàn việc thiết lập quan hệ với VNDCCH. Nghị quyết là bang giao với Hồ trước khi Pháp nhìn nhận CHNDTH sẽ có lợi hơn hại. Bốn ngày sau, 28/12, Thiếu Kỳ gửi điện văn cho Hồ, ngỏ ý muốn bang giao. Thiếu Kỳ khuyên Hồ chủ động bày tỏ ước muốn thiết lập ngoại giao với các nước ngoài, Bắc Kinh sẽ gửi đại diện qua Việt Nam và đổi lại Hồ gửi một phái đoàn qua thảo luận về cuộc chiến đấu chung chống đế quốc [the common struggle against imperialism]. (32) Công điện ngày 28/12/1949 của Lưu Thiếu Kỳ đến với Hồ như cơn mưa giữa ngày nắng hạn. Hồ đang lúng túng, tuyệt vọng trước sự tấn công toàn diện của Pháp trên cả ba phương diện quân sự, chính trị và kinh tế, trong khi các cường quốc quay mặt làm ngơ. Thực trạng an toàn khu [ATK] và “châu tự do” (huyện Sơn Dương, Tuyên Quang) ngày một khó khăn. Lãnh thổ kiểm soát ngày một thu nhỏ. Áp lực quân sự Pháp gia tăng. Thu nhập bị giảm sút. Kinh tế suy thoái. Lê Văn Hiến chỉ tiếp tục in tiền không bảo chứng–hay dùng sức sản xuất nhân dân làm bản vị–khiến lạm phát gia tăng như hỏa tiễn. Tháng 8/1950, trên đường về căn cứ, Hiến phải trả hai chục [20] đồng để mua một quả chuối ở Văn Lãng, ăn lấy sức lên đèo Khế. Từ năm 1950, thu thuế bằng thóc. Ngày 22/1/1951, Thiếu Kỳ cảnh cáo VNDCCH về việc phát hành tiền không bảo chứng. Trong tháng 4 và 5/1951, Thiếu Kỳ cảnh giác Hồ về nạn tham ô lãng phí đồ viện trợ. (33) Mọi nguồn tài nguyên có thể mang lại vàng và ngoại tệ đều được khai thác tối đa để thu mua khí giới, thuốc men từ Thái Lan, Miến Ðiện, Hoa Nam và Hong Kong. Cũng may, vùng thượng du Bắc Việt là nơi có nhiều quặng mỏ, và nhất là thuốc phiện. Từ năm 1946-1947, thuốc phiện, gạo, gỗ và những quặng thô khác–vàng cốm, wolfram, thiếc, kẽm, galène, antimoine, và có thể Uranium non tại mỏ Tĩnh Túc (Pia Ouac, Cao Bằng)–bán sang Hoa Nam để mua vũ khí và những vật dụng cần thiết khác. (34) Nhưng từ mùa Thu 1947, Pháp thu phục được một số lãnh chúa Thái và Mèo ở Lai Châu, Sơn La, Hà Giang, và Bắc Kạn, nên hạn chế dần mức thu nhập thuốc phiện của Việt Minh. Tại đồng bằng, các khu vực “Tề” ngày một mở rộng. Hòa ước Elysée và thí nghiệm Bảo Ðại là giọt nước làm tràn ly. Mọi nỗ lực còn nước cứ tát đều tuyệt vọng. Ngay đến cựu cố vấn của Hồ–Giám Mục Lê Hữu Từ ở Bùi Chu/Phát Diệm, theo tin đồn còn là “bạn học” của Nguyễn Sinh Côn tại một tiểu chủng viện Nghệ An–cũng từ bỏ dần thế tự trị, trung lập. Từ tháng 10/1949, một tiểu đoàn Nhảy Dù đã tới Phát Diệm. Linh mục Hoàng Quỳnh đang chuẩn bị thành lập các đội tự vệ và vệ sĩ, kiêm nhiệm việc hành chính khắp ba tỉnh Ðể chuẩn bị cho chuyến cầu viện của Hồ, ngày 15/1/1950 Ban Chấp hành TƯ Hội NC/CNMKT gửi điện chính thức đề nghị thiết lập bang giao với THNDCHQ như Thiếu Kỳ gợi ý. Ðồng thời, đài phát thanh Việt Minh tuyên bố nhìn nhận chế độ THNDCHQ, và yêu cầu các nước mở quan hệ ngoại giao với VNDCCH. Theo đúng kịch bản, ngày 17/1, từ Mat-scơ-va, Mao chỉ thị Thiếu Kỳ hồi đáp ngay là đồng ý bang giao, và BNG Trung Cộng tiếp xúc các nước CS khác để công nhận VNDCCH. Hôm sau, 18/1, Bắc Kinh sẽ tuyên bố thừa nhận VNDCCH, và yêu cầu HCM gửi Ðại sứ tới Bắc Kinh. Ngày 18/1, Tân Hoa Xã đi tin về việc Hồ đã kêu gọi các nước trên thế giới ủng hộ và nhìn nhận VNDCCH như chính phủ hợp pháp duy nhất của Việt Nam. (37) Ngày 18/1 từ đó được cơ quan tuyên truyền ca ngợi như ngày chiến thắng ngoại giao vĩ đại của Ðảng CSÐD. Trong thời chiến tranh lạnh, nhiều quan sát viên từng đặt ra những câu hỏi, rồi tự trả lời về lý do chậm trễ nhìn nhận Bắc Kinh của Hồ. Có người còn đưa ra cái gọi là tinh thần bài Hoa và thân Tây phương của Hồ. Tuy nhiên, những thông tin đã giải mật cho thấy từ năm 1947-1948, Hồ đã quyết định cho tái sinh Ðảng Cộng Sản, sau một thời gian “rút vào bóng tối.” Sự kiêu ngạo và tham vọng của phe cực hữu Pháp–nhất là Hội truyền giáo Ki-tô, một trong những cổ phần viên của Ngân Hàng Ðông Dương [Banque de l’Indochine] cùng các công ty kiếm lợi nhiều nhất ở Ðông Dương–khiến bỏ qua cơ hội giải quyết Việt Nam một cách ôn hòa. Và, kết quả chung cuộc, đẩy Việt Nam vào quĩ đạo Trung Hoa–một đế quốc bạo tàn nhất lịch sử nhân loại, mà những tội ác diệt chủng và vi phạm nhân quyền còn vượt qua những Nazi của Hitler, và ngay cả Stalin–người được Mao ngợi ca như “một thiên tài lớn nhất của thời đại” Mao. Thế giới mới chỉ đưa những tên tội phạm chiến tranh nhỏ Khmer Rouge ra trước tòa án hình sự quốc tế, những con đom đóm nhỏ so với Mao Trạch Ðông, Ðặng Tiểu Bình, hay Hoa Quốc Phong, Hồ Cẩm Ðào, Ôn Gia Bảo, v.. v.. Ðể đánh dấu chiến thắng ngoại giao vĩ đại này, nửa đêm 18/1, đặc công Mặt Trận Hà Nội tấn công phi trường Bạch Mai (3 cây sôã phía nam Hà Nội), phá hủy một số phi cơ và một kho xăng. Ngày 24/1, khi Bảo Ðại ra Hà Nội tiếp phái đoàn đặc sứ Mỹ Jessup, đặc công Việt Minh lại phá hoại 15 trong tổng số 41 [42] máy biến điện. III. HỒ BÍ MẬT QUA BẮC KINH & MAT-SCƠ-VA: Ngày 26/1, sau 17 ngày lặn lội núi rừng, “Ðồng chí Ðinh” [Hồ] vượt biên giới Hoa-Việt ở Thủy Khẩu, Long Châu (Quảng Tây). Tháp tùng Hồ có Trần Ðăng Ninh, Chủ nhiệm Tổng cục Cung cấp [Hậu Cần] của Bộ Tổng Chỉ Huy Việt Minh. Thiếu Kỳ chỉ thị cho cán bộ Tới Nam Ninh [Naning], Trương Quân [Vân] Dật, Bí thư kiêm Chủ nhiệm Quảng Tây, cựu Chính Ủy Tân Tứ Quân, ra tận bờ sông đón. Tại đây, Hồ cũng gặp Chen Geng [Trần Canh], Tư lệnh Quân Khu Vân Ngày 30/1, tại thủ đô Trung Hoa, Thiếu Kỳ, cùng Thống chế Chu Ðức [Zhu De], Phó Thủ tướng kiêm Tổng Tư lệnh Hồng Quân, và nhiều viên chức cao cấp nghênh đón Hồ. Hồ trình bày tình hình Việt Nam, và nói rõ mục đích xin viện trợ. Thiếu Kỳ thành lập một Ủy Ban gồm Chu Ðức, Nie Rongzhen [Nhiếp Vĩnh Trân], Quyền Tổng Tham Mưu Trưởng, Li Weihan, Chủ nhiệm Ủy Ban Mặt Trận Thống Nhất của Ðảng CSTH, và Liao Chengzhi, Phó Chủ tịch Ủy Ban Hoa kiều vụ, để nghiên cứu những yêu cầu của Hồ. (38) Ngày này, Nga chính thức nhìn nhận Hồ. Các nước Cộng Sản khác theo gót. Hôm sau, 1/2, Mao và Ân Lai gửi điện chúc mừng Hồ đã tham gia “đại gia đình chống đế quốc” do Nga lãnh đạo, vàợ chúc việc thống nhất đất nước sớm thành công. [We sincerely congratulate Do đề nghị của Hồ, ngày 3/2, Bắc Kinh dàn xếp với Ðại sứ Nga N.V. Roshchin cho Hồ qua Mat-scơ-va. Chuyến “hồi chính” sau hơn 11 năm tích cực biến đổi giòng lịch sử Việt này của Hồ đủ mùi vị mặn ngọt, chua cay. Thái độ “Người Thép” vẫn xa lạ. Stalin không tham dự buổi dạ tiệc chào đón Hồ do Ủy Ban Trung Ương Ðảng CS Liên Sô tổ chức tối 6/2. Hiển nhiên, “Bác Joe” còn nghi ngờ Hồ theo chủ nghĩa “dân tộc,” một thứ “[J. Broz] Tito của Viễn Ðông.” (Lãnh tụ Mặc dù đã hoạt động cho QTCS từ thập niên 1920, Hồ chưa hề gặp mặt Stalin. Hồ (Nguyễn Ái Quốc, rồi Linov) còn bị chỉ trích là không theo đúng lập trường Stalin đã đưa ra năm 1928–tức đặt cách mạng vô sản lên hàng đầu, thực hiện đấu tranh giai cấp, dựa trên liên minh công-nông–nên từ năm 1930 không được giao một nhiệm vụ quốc tế nào. Việc tự động thành lập Ðảng Cộng Sản Việt Nam [CSVN] ngày 6/1/1930 vi phạm kỷ luật sắt “phục tùng tuyệt đối” của QTCS khiến Hồ bị hạ tầng công tác xuống một hộp thư, trong khi Trần Phú, một học viên Ðại Học Phương Ðông, được gửi về Sài Gòn làm Tổng Thư Ký. Tháng 10/1930, Phú triệu tập Hội nghị Trung Ương lần thứ nhất ở Hong Kong, đổi tên đảng CSVN thành Ðảng CSÐD với những chủ trương mới của QTCS. Thêm vào đó, lý lịch Hồ cũng có vấn đề, nhất là vụ bị bắt giữ năm 1931 và ra tòa ở Hong Kong, đưa đến sự suy yếu của Dalburo [Ban Phương Ðông] Thượng Hải. Giữa năm 1932, Mat-scơ-va khai tử tên Nguyễn Ái Quốc, trong khi Thống đốc Hong Kong thông báo với Ðông Dương là Hồ đã chết vì ho lao và nghiện thuốc phiện trong ngục. Khi tái hiện ở Mat-scơ-va năm 1934, Hồ phải mang bí danh mới “Linov.” Nhiệm vụ chính chỉ có việc nghiên cứu ở Văn Phòng Ðông Dương của Ban Chấp ủy QTCS, và từ năm 1935, được thêm danh phận hờ ủy viên dự bị của Ban Trung ương Chấp ủy Ðảng CSÐD. Tài liệu văn khố QTCS ghi vào tháng 6/1938 Lin (Hồ) làm đơn tình nguyện xin đi công tác, và QTCS đang chuẩn bị đóng cửa các trung tâm huấn luyện, nên Dmitri Manuilsky và Vasilyeva dàn xếp cho “sinh viên số 19” trở lại Trung Hoa để tăng cường lãnh đạo Ðảng CSÐD. Ngày 19/8/1938, Mainburo chấp thuận. Ngày 29/9, Lin được tốt nghiệp, và ngay hôm sau rời Mat-scơ-va về Diên An [Yenan]. Theo lối giải thích trong thập niên 1950, Hồ được giao nhiệm vụ tổng quát là chấn chỉnh Ðảng CSÐD, đồng thời mở những lớp huấn luyện cán bộ tương tự như kinh nghiệm tại Quảng Châu trong giai đoạn 1925-1927. (40) Nhưng có dư luận (như Thủ tướng Hungary Ferenc Munnich) cho rằng Hồ là một trong rất hiếm người may mắn thoát khỏi cuộc thanh trừng của Stalin trong thập niên 1930, nhờ sớm rời Mat-scơ-va, trong khi những cấp chỉ huy cũ như Mikhail Borodin, v.. v... theo nhau bị thanh trừng. (41) Tới Diên An vào tháng 11/1938, “Lin” (ông Hoàng hay Vương) tháp tùng phái đoàn huấn luyện du kích chiến của Ye Jianying [Diệp Kiếm Anh] xuống Hoa Có dấu hiệu cho thấy Lin đã cố mở liên lạc với Ban chấp ủy Trung ương Ðảng CSÐD từ đầu năm 1939, qua hệ thống liên lạc người Hoa, lúc đó khá phát triển tại miền Nam qua các tổ chức kháng Nhật. Nhưng tháng 7/1939, Côn báo cáo với QTCS là chưa liên lạc được nội địa, dù đã nhờ chuyển khẩu lệnh của QTCS qua những người bạn. Thế chiến thứ hai bùng nổ khiến nỗ lực liên lạc với BCUTW càng khó khăn hơn, vì Toàn quyền Georges Catroux đặt CS ra ngoài vòng pháp luật từ hạ tuần tháng 9/1939. Trong khi Kan Nguyễn Ngọc Vy [Phùng Chí Kiên] cùng cán bộ CS nằm vùng trong quân đội Tưởng truy tìm tông tích Hồ từ Quế Lâm [Guilin] tới Vân Nam, một liên lạc viên người Minh Hương gây ra sự thiệt hại lớn cho Ðảng CSÐD. Liên lạc viên này tìm đến một cơ sở đã bị lộ từ nhiều tháng ở số 19 hẻm Nguyễn Tấn Nghiệm, khiến Tổng thư ký Ðảng CSÐD cùng hai cán bộ TƯ bị gài bắt ở cơ sở trên. Nhiều cán bộ cao cấp khác, kể cả Lê Hồng Phong, cũng bị bắt giữ trong hai ngày 17-18/1/1940. Mẻ lưới cá này khiến chuyên viên Mật Thám Pháp hớn hở nghĩ đến một cuộc thanh trừng lớn trong hàng ngũ lãnh đạo CSÐD. (42) Trong Thế Chiến thứ II (1939-1945), Hồ giữ liên lạc thường xuyên với Ðảng CSTH, nhưng chưa có tài liệu nào xác nhận sự liên lạc giữa Hồ và Ðảng CSLS hay QTCS. Từ năm 1943, Hồ công khai hợp tác với tình báo Trung Hoa, Bri-tên và Liên Bang Mỹ. Lập trường chống Nhật của Hồ–kể cả việc tham gia vào việc tố cáo sự tàn ác của Nhật sau “vụ Thảm sát Nam Kinh” [The Nanking Massacre] vào tháng 12/1937–giúp Hồ có cơ hội ủng cố tổ chức ngoại vi Việt Minh. Tháng 8/1945, đội quân Việt-Mỹ của Võ Nguyên Giáp tiến vào Hà Nội cùng các cố vấn Mỹ. Ngày 2/9/1945, Hồ xuất hiện tại Cột Cờ Hà Nội, đọc bản Tuyên Ngôn Ðộc Lập lịch sử–trong đó Hồ trích dẫn Tuyên Ngôn Ðộc Lập 1776 của Liên Bang Mỹ để mở đầu Tuyên Ngôn của mình.( 43) Thời gian này, Josef Stalin còn hợp tác toàn diện với Mỹ và Bri-tên để đánh Khi chiến tranh thứ II đi vào đoạn kết, mối quan tâm lớn nhất của Stalin là nhu cầu tái thiết nội địa, do sự tàn phá khủng khiếp trong Thế chiến. Stalin cũng dồn chú tâm vào việc tạo một vùng trái độn biên giới phía Tây, tức Ðông Âu (Kominform), và yểm trợ các phong trào tả phái ở Tây Âu, đặc biệt là Pháp. Charles de Gaulle đã khôn khéo khai thác mâu thuẫn giữa Bạch Cung và Krem-li–cho phép Maurice Thorez về nước, nhận lời viếng thăm Mat-scơ-va từ 2 tới 10/2/1944, ký hiệp ước đầu tiên của chính phủ lâm thời Pháp với một cường quốc, trước khi qua Mỹ năm 1945–để bảo vệ “chủ quyền” Pháp ở Ðông Dương. Chính Stalin giúp Churchill áp lực Roosevelt thừa nhận De Gaulle ngày 23/10/1944; và rồi, từ Hội nghị Yalta (Crimea, 4-14/2/1945), đặt vấn đề Ðông Dương vào “thiện chí” của Pháp. Riêng với Hồ, vì một lý do nào đó, Stalin giữ một khoảng cách, có thể mệnh danh là “hands-off” hay “không chính sách.” Giống như Mỹ, Nga chỉ “yểm trợ tinh thần” cho khuynh hướng “giải thực” [decolonization]. Dễ hiểu là những công điện Hồ gửi cho Stalin giữa tháng 9 và 10/1945, giống như những văn kiện ca ngợi hệ thống dân chủ Mỹ, kể cả diễn văn của Harry Truman và các viên chức ngoại giao Mỹ từ tháng 9/1945 tới tháng 2/1946, đều không có hồi âm. (44) Bán nguyệt san New Times [Tân Thời Báo]–tờ báo Anh ngữ chuyên về ngoại giao của Nga–không đi một tin tức nào về việc Hồ Chí Minh tuyên bố độc lập hay liên quân Bri-tên/Pháp xâm chiếm miền Nam vĩ tuyến 16. Mãi tới số báo ngày 15/10/1945, New Times mới nhắc đến “Ðông Dương thuộc Pháp” [French Indochina] khi bàn về thực dân Nhật. Trong số kế tiếp, tác giả A. Guber viết về tình hình Ðông Dương và Indonesia, nhưng chỉ nhận xét chung chung: “Mối đe dọa tái lập chế độ thuộc địa dưới dạng thức cũ mà nhân dân Ðông Dương và Indonesia không chấp nhận được, đang gặp sự chống đối ngày một mạnh. Thiện cảm của những lực lượng tiến bộ nghiêng về phía quần chúng đang khao khát tự do và được quyền tự do.” Tháng 12/1945–khi liên quân Pháp/Bri-tên tái xâm lăng Chuyến qua Pháp của Hồ năm 1946 không mở được quan hệ trực tiếp với Nga. Kremli vẫn dành ưu tiên hàng đầu cho Âu Châu–nơi Churchill đang tìm cách trở lại chính quyền bằng cách rao giảng về mối đe dọa của “bức tường thép.” Stalin không muốn đẩy Pháp về phía khối Anglo-Saxon, đồng thời dành một phần sân chơi cho Maurice Thorez và Ðảng Cộng Sản Pháp. Thorez sau này tự nhận trở thành gạch nối giữa Hồ và Stalin, nhưng không thuyết phục được Bác Joe về việc Hồ giải tán Ðảng CSÐD vào tháng 11/1945. Dĩ nhiên, lập trường chống giao trả Nam Kỳ cho chính phủ liên hiệp VNDCCH mới thành lập ngày 1/1/1946 của Thorez cũng ít nhiều ảnh hưởng quyết định của Stalin về Việt Quốc kỳ của chúng ta trên hết! Vậy nếu cần đánh, cứ đánh, nện cho nặng vào.” [Nos couleurs avant tous! Et donc s’il faut cogner, cognez et cognez dur.”] (45) Vũ Ngự Chiêu, Ph.D, J.D |
Thứ Tư, 26 tháng 5, 2010
Chuyến Ði Cầu Viện Bí Mật Năm 1950 Của Hồ (phần 1 Của 2)
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét