Thứ Tư, 26 tháng 5, 2010

Chuyến Ði Cầu Viện Bí Mật Năm 1950 Của Hồ (phần 2 Của 2)

Chuyến Ði Cầu Viện Bí Mật Năm 1950 Của Hồ (phần 2 Của 2)
Vũ Ngự Chiêu, Ph.D., J.D. Thứ Hai, Ngày 4 tháng 1-2010

Trọn năm 1946, New Times chỉ đăng hai bài của A. Guber và Vera I. Vasilyeva (1900-1959), cựu chủ nhiệm Văn Phòng Ðông Dương của Ban Phương Ðông QTCS về “French-Indochina.” Guber yểm trợ mô hình Khối Liên Hiệp Pháp [L’Union francaise] trong Dự thảo Hiến Pháp của Pháp, và nhấn mạnh vào sự thắt chặt liên hệ giữa “nhân dân Ðông Dương” với “lực lượng tiến bộ” Pháp, vì đây là chỗ nương dựa cho những đòi hỏi chính đáng. Vasilyeva cũng tin rằng tiến triển ở “Viet Nham” sẽ tùy thuộc vào quan hệ với những lực lượng “dân chủ Pháp” vì các lực lượng tiến bộ này luôn luôn yểm trợ sự giải phóng thuộc địa [The further development of Vietnam depends to a significant degree on its ties with democratic France, whose progressive forces have always spoken forth in support of colonial liberation]. (46)

Không rõ những lập luận trên dựa theo đường lối chính thức của Stalin hay chịu ảnh hưởng của báo chí “tả phái Pháp” trong thời gian này. Nhưng luận điệu của New Times phản ánh rõ ràng lập trường: (1) vấn đề Việt Nam thuần túy là vấn đề nội bộ Pháp, và (2) Mat-scơ-va không chống đối nguyên tắc một Khối Liên Hiệp Pháp–một bước thụt lùi khỏi kế hoạch “Quốc tế quản trị.”

Mãi tới mùa Xuân 1947–sau một chuỗi những biến cố mở đầu cuộc chiến tranh lạnh Mỹ-Nga (1947-1991), đưa Pháp đi dần về phía hữu, các bộ trưởng CS bị loại khỏi chính quyền Paul Ramadier–Nga mới quan tâm hơn đến Á Châu. New Times qui trách bọn phản động Pháp, và cảnh giác về âm mưu đế quốc Bri-tên nhằm đuổi Pháp và Dutch khỏi Ðông Nam Á. New Times cũng bắt đầu nhắc đến “Ho She-ming”“Viet Nham,” nhưng có vẻ chỉ tóm lược những nét chính của L’Humanité, cơ quan ngôn luận của Ðảng Cộng Sản Pháp, và ràng buộc số phận dân chúng Ðông Dương vào Ðảng CS Pháp cùng tổ chức Công đoàn Thương mại [C.G.T.]. của Louis Saillant.

Tháng 4/1947, New Times bắt đầu đả kích chính phủ Ramadier về những hành động quân sự và chính trị ở Ðông Dương–từ chính phủ tự trị nồng mùi nhựa cao su tới việc thành lập một chính phủ lưu vong không Cộng Sản dưới danh nghĩa Bảo Ðại để làm giảm giá trị Hồ. Tháng 4/1947 này, Zhukov ca ngợi nhân dân Việt Nam và Indonesia đã mang biểu ngữ tự do và độc lập vào tận trái tim Á Châu [“carrying the banner of freedom and independence into the heart of Asia.”] Dẫu vậy, cả hai siêu cường Nga và Mỹ đều nhân nhượng, quay lưng trước chính sách thực dân của Pháp. Thái độ của Stalin “đúng đắn” đến độ ngày 14/4/1947, khi phe cực hữu như Maurice Violette nhắc đến liên hệ giữa Hồ với QTCS–kiểu “Tinh thần quốc gia ở Việt Nam là phương tiện; cứu cánh là thực dân Liên Sô”–các dân biểu CS Pháp (Michel Cachin), Ðảng Xã Hội, hay MRP (Ki-tô giáo trung dung), và ngay Thủ tướng Paul Ramadiet đều bênh vực Nga “hoàn toàn trung lập.” (47)

Stalin cũng chẳng trọng vọng gì Hồ. Theo những lãnh tụ CS Âu Châu từng làm việc dưới quyền Stalin, điều khiến “Bác Joe” khó chịu là từ năm 1943, Hồ đã hợp tác công khai với tình báo Bri-tên, Mỹ, và Trung Hoa. [Stalin was distrusful of of Ho and his group. He felt that Ho had gone too far in his wartime collaboration with the British intelligence and the OSS]. Hồ lại thường không chứng tỏ ước muốn tham khảo và xin lệnh Stalin trước khi hành động. [Also, Ho had consistently displayed his unwillingness to seek Stalin’s advice and consent prior to taking action]. Việc giải tán Ðảng CSÐD là một thí dụ. Thorez tiết lộ rằng khó thể thuyết phục được Stalin về tính chất chuyển tiếp, một thủ thuật để lôi kéo những thành phần quốc gia không Cộng Sản. [As an example, the dissolution of the ICP: Thorez had a hard time convincing Stalin that the liquidation was transitory, a mere tactic to gain political support from the Vietnamese nationalists]. Không kém quan trọng, vị thế địa lý-chính trị của Việt Nam và sự yếu ớt của lực lượng du kích VM khiến Stalin ngần ngại, không muốn tham dự vào một cuộc phiêu lưu không bảo đảm thành công. (48)

Sau ngày Mao chiếm Bắc Kinh, cơ quan tuyên truyền Nga mới bắt đầu bênh vực chính nghĩa của VNDCCH dưới sự lãnh đạo của HCM. Ngày 1/4/1949, Ðài phát thanh Liên sô tại Siberia (Soviet Radio Khabarovsk), trong chương trình phát về Ðại Hàn, lược nhắc những hoạt động của chính phủ HCM, và Ðảng CSVN do Hồ lãnh đạo. Ngày 13/4/1949, New Times lên án Liên bang Mỹ đứng sau thí nghiệm Bảo Ðại, và tóm lược thành tích của VNDCCH như “kiểm soát 90% lãnh thổ và dân chúng;” thực hiện những cải cách xã hội, chính trị, văn hóa, kinh tế-tài chính. Ðược sự ủng hộ của những lực lượng dân chủ trên toàn thế giới, lên án hòa ước Elysée (8/3/1949) như sự thỏa thuận giữa đế quốc Pháp với bù nhìn phong kiến để chống lại dân tộc Việt Nam, với Oat-shinh-tân sau lưng. (49)

Lý do nào đi nữa, Nikita S. Khrushchev–Bí thư thứ nhất Ðảng CS Nga từ 14/3/1953 tới 15/10/1964, người hạ bệ Stalin qua diễn văn ngày 20/2/1956, và chẳng trọng vọng gì Hồ–xác nhận Stalin rất lạnh nhạt với Hồ trước năm 1950. (50)

Sự lạnh nhạt của Stalin có thể còn do vị thế địa lý-chính trị của Việt Nam trên bản đồ thế giới. Việt Nam ở quá xa tầm tay Stalin. Hơn nữa, thật khó để quyết định đặt Việt Nam vào vùng ảnh hưởng Ðảng CSTH hay Ðảng CS Pháp. Từ năm 1935, QTCS đã đặt Ðảng CSÐD dưới sự kiểm soát của Pháp. Tình thế đã đổi thay, vì Mao mới dời địa chỉ từ Diên An về Bắc Kinh. Giống như Karl Marx, Stalin không trọng vọng những “bị khoai của cách mạng vô sản” ở Á Ðông.

Chiến thắng mau chóng của Mao tại Hoa lục trong hai năm 1947-1948 khiến Stalin chú ý hơn đến Á Châu, nhưng ủy thác cho Mao phụ trách phong trào cách mạng ở Viễn Ðông–cơn nhức đầu của Stalin từ năm 1929.

Chuyện gì xảy ra đi nữa, do Mao đề nghị, vài ngày sau khi Hồ tới Mat-scơ-va, Stalin tiếp Hồ tại văn phòng với sự hiện diện của Geogii M. Malenkov, Vyacheslav M. Molotov, Nikolai A. Bulgarin, Wang Jiaxiang (Vương Gia Tường), Ðại sứ Trung Cộng tại Nga, và Trần Ðăng Ninh. Stalin hỏi về lý do giải tán Ðảng Cộng Sản, và chính sách trong tương lai. Stalin cũng muốn Hồ đứng về phía nhân dân, thực hiện ngay “cách mạng thổ địa.” (51)

Trong một buổi họp có cả Mao, Hồ xin Stalin giúp trang bị 10 sư đoàn bộ binh và 1 trung đoàn pháo cao xạ. Stalin nói Trung Cộng có nhiệm vụ giúp VNDCCH vì Nga đang lo mặt Ðông Âu. Stalin hứa sẽ bồi hoàn cho Bắc Kinh số vũ khí viện trợ cho Việt Minh. Mao đồng ý trang bị cho Việt Nam sáu [6] đại đoàn, Hồ có thể cho người sang nhận vũ khí. Tỉnh Quảng Tây sẽ là hậu phương trực tiếp của Việt Nam.

Tối 16/2, trong dạ tiệc đưa tiễn Mao, khi Hồ nửa đùa nửa thực đề nghị Stalin ký Hiệp ước hữu nghị với Việt Nam, Stalin từ chối và phũ phàng hỏi lại: Cách nào để giải thích Hồ từ đâu tới Mat-scơ-va? Stalin còn bỡn cợt Hồ về việc “Chủ tịch Nhà Nước” xin “chỉ thị.” (52) [Hồ còn xin chữ ký Stalin và các cấp lãnh đạo Nga (giống như từng xin hình có chữ ký của Tướng Claire Chennault năm 1945); nhưng tờ báo có chữ ký này sau đó bỗng dưng biến mất ở khách sạn].

Một tác giả TC ghi trong khi HCM tháp tùng Mao và Chu Ân Lai đáp xe lửa từ Mat-scơ-va về Bắc Kinh đúng ngày Nguyên đán Canh Dần [17/2/1950], Mao mới hứa trang bị cho Việt Nam sáu [6] đại đoàn. Trở lại Bắc Kinh ngày 2/3, Hồ thảo luận thêm chi tiết vấn đề viện trợ. Ngày 4/3, Mao họp với Thiếu Kỳ, Chu Ðức, Ân Lai và ủy thác Phó Chủ tịch Trung Cộng điều động công tác “nghĩa vụ quốc tế” này. Theo một tài liệu Bắc Kinh, từ tháng 4 tới tháng 9/1950, Bắc Kinh viện trợ cho VM 14,000 súng, 17,000 súng tự động, 150 cỗ pháo đủ loại, 2,800 tấn thóc, cùng nhiều đạn dược, thuốc men, quân phục và máy truyền tin; Jian 1993:93. Một tài liệu khác ghi từ 1950 tới 1954, TH viện trợ hơn 155,000 súng, hơn 3000 pháo, cùng đạn dược, xe cộ, quần áo, lương thực, thực phẩm phụ, đồ dùng; (Trương Quảng Hoa, LQB, 2008:27) (53)

Hồ cũng đề nghị trao đổi Ðại sứ, và thiết lập cơ sở ngoại giao. Ngày 7/7/1950, Chu Ân Lai cho biết hiện tình chiến tranh khiến bất tiện cho ngoại giao đoàn, TC giữ Luo Guibo [La Quí Ba], đã lên đường qua Việt Bắc từ tháng 1/1950 như đại diện Ðảng CSTH, tiếp tục nhiệm vụ này hơn là Ðại sứ. Từ tháng 8/1950, Quí Ba gặp gỡ các cán bộ cao cấp CSVN tại Tuyên Quang, qua sự thông dịch của Lý Ban. Bùi Công Trừng, Hồ Viết Thắng trình bày với Ba về vấn đề kinh tế và dân cày từ 21 tới 23/8/1950. Sáng 23/8, Thắng còn trả lời Quí Ba về CCRÐ. Lê Văn Hiến trình bày vấn đề tài chính, thu thuế nông nghiệp, v.. v.. Ngày 24/9, Quí Ba về lại Bắc Kinh, được Thiếu Kỳ dẫn vào gặp Mao. Mao đồng ý cho làm Tổng Cố Vấn, với nhiệm vụ ưu tiên hàng đầu là cải cách kinh tế, tài chính, và được phép mang vợ là Lý Hàm Trân tháp tùng qua Việt Bắc, phụ giúp trông coi văn hóa và phụ nữ vận.

Trong khi đó, Hoàng Văn Hoan, từng ở Hoa Nam từ 1934 tới 1945, rồi hoạt động ở Thái Lan trong hai năm 1948-1949, đại diện Ðảng CSÐD tại Bắc Kinh (sau trở thành Ðại sứ). Thiếu Kỳ còn cho lập hai Tòa lãnh sự ở Nam Ninh (Quảng Tây) và Côn Minh (Vân Nam). Biện sự sứ tại Côn Minh là Bùi Ðức Minh (1900-1963), tức Bùi Ðức Hách, một cựu đảng viên nhóm Thiết Huyết Việt Nam Quốc Dân Ðảng tại Vân Nam, nhưng phản Ðảng, theo Cộng Sản cùng với Trần Quốc Kính, Lê Tùng Sơn, v.. v.... từ năm 1935-1936. Luật sư [Nguyễn Văn Lưu], quen biết Vũ Ðình Hoè, làm Biện sự sứ Quảng Châu. (54)

Hồ cũng xin trao đổi Ðại sứ với Liên Sô; nhưng Mat-scơ-va chỉ đồng ý nhận Ðại sứ VNDCCH mà không gửi Ðại sứ tới Việt Nam vì chưa có thủ đô cố định. (55)

Kết Từ:

Chuyến đi cầu viện bí mật của Hồ Chí Minh năm 1950–từ thời điểm này nhìn lại–cực kỳ quan trọng cho cá nhân Hồ và Ðảng CSVN. Nó đánh dấu sự trở lại của Hồ với Khối Quốc Tế Cộng Sản, dưới sự bao bọc, che chở, nuôi ăn, cung cấp vũ khí và những chiếc loa tuyên truyền âm vang khắp thế giới cho chính nghĩa cách mạng “giải phóng quốc gia.” (56)

Tháng 2/1951, tại Hội trường Ðại Hội II Ðảng CSÐD–cũng Ðại hội đổi tên thành Ðảng Lao Ðộng Việt Nam–dưới chân dung Mác, Ăng-ghen, Lênin, là chân dung của Stalin và Mao Trạch Ðông. Trong công điện gửi Ðảng CSTH, có đoạn:

“Ðảng Lao động Việt Nam nguyện soi gương anh dũng Ðảng Cộng Sản Trung Quốc, học tập tư tưởng Mao Trạch Ðông, tư tưởng lãnh đạo nhân dân Trung Quốc và các dân tộc Á Ðông trên con đường độc lập và tự chủ;” (57)

Trong báo cáo chính trị, Hồ tuyên bố:

Ta có những người anh, người bạn sáng suốt nhất, xứng đáng nhất của loài người–là đồng chí Sta-lin và Mao Trạch Ðông. (58)

Bài diễn văn bế mạc, kết thúc bằng những lời hô: “Ðồng chí Xit-ta-lin muôn năm,” “Mao Chủ tịch muôn năm,” “Hồ Chủ tịch muôn năm.” (59)

Ngày 1/9/1954, trong đáp từ đón chào Quí Ba làm Ðại sứ đầu tiên của THNDCHQ bên cạnh chính phủ VNDCCH, Hồ nhắc đến một thuật ngữ trở thành quen thuộc từ năm 1950: Ðó là mối quan hệ anh em, như môi với răng [teeth and lips]. Năm năm sau, ngày 28/9/1959, nhân lễ kỷ niệm mười [10] năm thành lập THNDCHQ, HCM lại viết cho Mao: “Việt Nam và Trung Quốc là hai nước anh em, quan hệ với nhau như môi với răng, ... Cách mạng Trung Quốc thắng lợi và việc thành lập nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa là sự kiện vĩ đại nhất trong lịch sử của loài người tiếp theo cách mạng tháng Mười Nga.” (60)

Dĩ nhiên, HCM không phải là tác giả của thuật ngữ “môi hở răng lạnh” này. Khoảng bảy thế kỷ trước, trong thư gửi Trần Nhân Tông mùa Thu 1291, Thượng thư bộ Lễ Trương Lập Ðạo của Qblai Khan nhà Nguyên (Yuan, 1270-1368) từng nói đến tình tương thân, tương trợ “thần xỉ chi bang”–nhưng theo thứ bậc “cha-con” [“do tử dữ phụ mẫu chi tương thân,” “phụ tử chi quốc, thần xỉ chi bang”], “thuận trời thì sống, nghịch trời thì diệt” [thuận thiên giả xương, nghịch thiên giả vong] giống như thời Nhà Tống. Trích dẫn 5 điều “không tốt” [ngũ bất vi] trong Xuân Thu, trích ba điều đáng sợ (“Tam khả úy”) trong Luận Ngữ [Lỗ luận]; cùng một túi khôn cổ nhân TH: “Ðánh vừa thì chịu, đánh mạnh thì chạy” [“vị tiểu trượng tắc thụ, đại trượng tắc tẩu, tư ngôn an tại tai?] (61)

Biết rõ hay chưa hề nghe về thứ quan hệ “cha-con, giữ gìn nhau như môi với răng”, “thuận trời thì sống, nghịch trời thì diệt” của thời phong kiến này, ít nhất trên phương diện ngoại giao, HCM đã thiết lập tiền lệ “hai nước anh em” hay “bạn” thay cho thứ trật tự “thông hiếu cha-con” xa xưa.

Hoàng Văn Hoan (1905-1991), đại sứ VNDCCH đầu tiên tại THNDCHQ–trong nỗ lực đả kích Lê Duẩn (1908-1986)–cũng kính cẩn dẫn lại những lời tri ân nồng nhiệt của Hồ và hơn một lần cung văn sự viện trợ “quốc tế vô tư” từ 1950 tới 1977. Năm 1984, khi được Hồ Cẩm Ðào đãi tiệc nhân dịp năm năm đào tẩu qua Bắc Kinh, Hoan còn nhấn mạnh “Công ơn của TQ . . . sẽ mãi mãi in sâu trong lòng nhân dân Việt Nam, không bao giờ phai nhạt;” (62)

Sự cung văn ngọt ngào, rộng rãi này là đặc tính của “tư tưởng Hồ Chí Minh,” nói riêng, và người Cộng Sản nói chung. Từ 1977 tới 1986, Hà Nội tung ra loại văn chương “đào mộ” từ Mao tới Ðặng với giọng điệu thường chỉ dành cho tử thù đế quốc. Người quan sát ghi nhận những lời chửi rủa nặng nề như “ba lần phản bội, lần sau bẩn thỉu tồi tệ hơn lần trước,” hay “những con thuyền hải tặc mới ló dạng ở chân trời,” v.. v.. Chỉ thiếu những tiếng như chó, lợn, độc vật mà cơ quan tuyên truyền Bắc Kinh hay chính Mao dành cho bọn phản động, phản cách mạng, khó thể cải tạo.

Một cái nhìn khách quan, khoa học, xuyên suốt qua những lưới nhện cung văn-đào mộ, những buổi liên hoan “uyên ca,” hay luận điệu tuyên truyền một chiều hung hãn của chủ thuyết Marxist-Leninism, cho thấy những hố ngăn cách đầy hoài nghi, khó san bằng giữa hai nước vừa là đồng chí, vừa là anh em.

Theo tình báo Pháp và THDQ, một hiệp định Hoa-Việt được ký kết trong thời gian Hồ ở Bắc Kinh. Tài liệu Trung Cộng hay Việt Cộng không nhắc đến hiệp ước, nhưng xác nhận Mao hứa thoả mãn nhu cầu của Hồ, “trong khả năng.” Mao tỏ ra rất thực tế trong lời hứa viện trợ. THNDCHQ vừa thoát khỏi cuộc chiến gần 20 năm, kinh tế suy sụp, lệnh phong tỏa của Liên Bang Mỹ và Ðồng Minh bắt đầu gây ảnh hưởng. So với các cường quốc Tây phương, dân Trung Hoa–nói theo một chuyên viên–còn như người đứng giữa dòng sông, nước ngập đến cổ, chỉ cần một gợn sóng nhỏ đủ ngạt thở.

Phân tích sâu sắc hơn, viện trợ của Bắc Kinh có giới hạn của nó, tùy theo những bài tính quyền lợi hay an ninh cường quốc giai đoạn, và hảo ý của Mao. Tháng 11/1950, Mao giải thích với La Quí Ba: “Việt Nam đánh bại bọn xâm lược Pháp, đuổi chúng khỏi Việt Nam, biên cương phía Nam của Trung Quốc cũng giải tỏa khỏi mối đe dọa của bọn xâm lược thực dân Pháp.”

Trong bốn năm 1950-1953, Bắc Kinh giúp Hồ xây dựng được sáu [6] đại đoàn chủ lực, đủ sức đương đầu với khoảng 200,000 quân viễn chinh Pháp. Mao còn sai Chen Geng [Trần Canh] và đoàn cố vấn quân sự gồm 281 người chỉ huy trận “tổng phản công” đầu tiên của QÐNDVN tại Ðông Khê-Thất Khê trong tháng 9-10/1950, giúp mở ngỏ biên giới Hoa-Việt, biến Quảng Tây và Vân Nam thành hậu phương lớn của Việt Minh.

Dù có những dị biệt về ngày tháng trong tư liệu CSVN và CSTH, vai trò thống trị của cố vấn Trung Hoa cùng các cơ quan trung ương ở Bắc Kinh trong giai đoạn 1950-1954 quá rõ ràng. Viện trợ của Bắc Kinh rất khiêm nhượng, chỉ đáp ứng được khoảng 20% nhu cầu của QÐNDVN năm 1950, nhưng là nguồn ngoại viện quan trọng và duy nhất. Cố vấn Trung Cộng bày vẽ cho Quân Ủy Trung Ương Ðảng Lao Ðộng Việt Nam chiến thuật biển người, lấy năm, mười đánh một để đánh nhanh, thắng nhanh–hơn 500 “bộ đội cụ Hồ” chết trong vòng 72 tiếng tấn công Ðông Khê, trước lực lượng đồn trú khoảng 200 người. Gần trọn Trung đoàn 102/308–hậu thân Trung đoàn Thủ Ðô, mới trải qua cuộc chỉnh huấn “tốt”–bị tiêu diệt ngày 9-10/4/1954 ở Ðiện Biên. Võ Giáp phải xin Bắc Kinh gửi chí nguyện quân, nhưng Bành Ðức Hoài không chấp thuận. Giáp đành xin đôn quân, tăng viện cho mặt trận 25,000 bộ đội cùng hàng chục ngàn dân công (nạn nhân của chiến dịch đấu tố).

Quan trọng hơn nữa, viện trợ Trung Cộng giúp Hồ tạo thế chủ động trên chiến trường. Năm 1952-1953, Bắc Kinh chỉ thị cho Hồ mở rộng chiến trường lên hướng tây bắc để tránh tàn phá các trung tâm sản xuất lương thực, đồng thời chuẩn bị đánh thông xuống Hạ Lào và Kampuchea–nhưng thực tâm có lẽ còn muốn khóa kín tuyến tây nam, từ Thái Lan và Lào tiến lên Vân Nam-Tứ Xuyên. Stalin chấp thuận, và có tin đã đồng ý cho Mao và Hồ đi tìm một giải pháp thương thuyết.

Trước viễn ảnh sa lầy, Pháp nhờ Nga và Trung Cộng giúp tìm một giải pháp chính trị. Dưới áp lực Kremli và Trung Nam Hải, Hồ chấp nhận ký Hiệp ước đình chiến Geneva 20-21/7/1954, tạm thời chia Việt Nam làm hai vùng tập trung, chờ tổng tuyển cử đểạ quyết định thể chế chính trị tương lai.

Về ý thức hệ, cán bộ chính trị, kinh tế và quân sự Trung Hoa cũng được gửi tới Việt Bắc, chỉ huy và huấn luyện Quân Ðội Nhân Dân [QÐND] Việt Nam “tư tưởng vĩ đại” của Mao–mà Hồ và Giáp đều ca ngợi là bậc thày–thực hiện những kế hoạch Mao hóa như chỉnh phong, chỉnh quân, chỉnh huấn, tái tổ chức bộ máy quốc phòng và chính phủ. Rồi, cải cách ruộng đất, kiện toàn tổ chức “bảo vệ an ninh,” nhằm tiêu diệt xã hội phong kiến,” tiến lên xã hội chủ nghĩa–qua những thí nghiệm tập trung tổ tiên, tập trung thần thánh, hợp tác xã, nông trường, công trường, tiêu diệt tư hữu–phiêu lưu vào cuộc “cách mạng” mà trên bản chất chỉ là một cuộc thay đổi chế độ cai trị độc tài quân chủ sang “chuyên chính vô sản.” Khẩu hiệu và guồng máy tuyên truyền khổng lồ không đủ che dấu mô thức chuyên chính đã có hàng ngàn năm lịch sử ở Trung Hoa và Việt Nam. Khoảng cách biệt giữa giai cấp cai trị quan lại cách mạng và bị trị bần cố nông chỉ thay đổi phiến diện trên hình thức. Sự nghèo đói cùng cách biệt giữa giai cấp cai trị và đám đông không thể cách mạng hay thay đổi. Tham ô, nhũng lạm, bè đảng, hủ hóa lan tràn, khiến những kiểu mẫu sửa sai, tứ thanh, ngũ phản đều bất lực. Như loài đỉa trâu hai vòi, đảng một mặt bòn hút máu dân, một vòi khác bám chặt bất cứ nguồn ngoại viện nào có thể cầu xin.

Phần Bắc Kinh, chính sách ngoại viện và xuất cảng “cách mạng” được tính toán nhiều mặt, bao gồm truyền thống lịch sử, hệ tư tưởng cách mạng và quyền lợi hay an ninh quốc gia. Vượt trên những yếu tố này, còn mặc cảm tự tôn về vị trí tối cao của CSTH trong quan hệ với Việt Nam. Bắc Kinh thích khoa trương họ chỉ cống hiến vô tư, không áp đặt điều kiện chính trị và kinh tế kèm theo viện trợ. Nhưng họ lại muốn Hà Nội công nhận vai trò lãnh đạo của Bắc Kinh trong phong trào “giải phóng dân tộc”–tức thiết lập bằng họng súng những thể chế độc tài, tàn bạo, khinh thường mạng sống con người cũng như những quyền tự do cơ bản. Thái độ này khiến nhóm Lê Duẩn, dù rất ưa thích chế độ độc tài “dân chủ nhân dân,” thấy khó chịu, nhạy cảm về quá khứ giữa hai nước. Lãnh đạo CSTH liên tục nhắc đi nhắc lại rằng Việt Nam phải được đối xử “bình đẳng,” nhưng chính những lời lẽ đó phản ánh ảo tưởng rằng Bắc Kinh có một vị thế áp đặt những giá trị và nguyên tắc hành động lên những láng giềng. Kinh nghiệm lịch sử cho thấy bất cứ thời điểm nào hùng mạnh của Bắc Kinh, Việt Nam và lân bang đều gánh chịu hoạ bành trướng Hán tộc. Bất chấp việc hai Ðảng và chính phủ gọi nhau “vừa là đồng chí vừa là anh em,” thân thiết “như môi với răng,” ác cảm và sự nghi ngờ ngày càng tồn đọng, kết tủa.

Cho đến nay, vẫn còn những tài liệu tuyên truyền ca ngợi cái gọi là “sự cống hiến vô tư” của Mao cùng Ðảng CSTH cho “Việt Nam”–chính xác hơn, chỉ là sự trợ giúp cho Ðảng CSVN, tức Ðảng cầm quyền hiện nay tại Việt Nam.

Ðộng lực của Mao Nhuận Chi–người được mô tả một cách phiến diện như chỉ thấy chủ thuyết Cộng Sản [Communism, đúng hơn, “công hữu”] là chân lí [the truth]–đa tạp hơn nhiều người suy đoán. (63)

Ngoài những tham vọng quyền lực cá nhân, với những đặc tính phụ thuộc như tự tôn, tự cao, tự đại, đa nghi và háo sát, còn tiềm tàng di sản “luật kẻ mạnh” và tham vọng bành trướng có hàng ngàn năm lịch sử của Hán tộc. Những tài liệu tuyên truyền Ðại Hán nhồi nhét vào đầu những người như Mao Nhuận Chi, Lưu Thiếu Kỳ, Chu Ân Lai, hay Ðặng Tiểu Bình–qua những bài học sử địa lớp đồng ấu hay tiểu học, hay “lịch sử nhiều người viết” như “Tây di” đã chiếm đoạt của Trung Hoa nhiều chư hầu hay đất đai như Miến Ðiện [Myanmar], Thái Lan, An Nam, Ðài Loan, Triều Tiên, Manchuria, Mongol, Tibet, v.. v . .– bất chấp sự thực là các triều đại phong kiến Trung Hoa đã sử dụng vũ lực để đánh cướp những xứ sở trên, và nhiều hơn một lần bị đánh đuổi khỏi những vùng đất này.

Năm 1936, Mao từng gợi nhớ lại với Edgar Snow nỗi cảm khái và hãnh diện khi thấy những tấm biểu ngữ “Ta Han Min-kuo Wan Sui” [Vạn tuế Ðại Hán Dân Quốc] được trương lên ở đường phố Trường Sa ngày 22/10/1911, và nỗi phẫn uất khi đọc một bài viết về việc “mất” các chư hầu Miến Ðiện, Xiêm, Annam vào tay Bạch quỉ. (64)

Ba năm sau, trong cuốn Cách mạng Trung Quốc và Ðảng Cộng Sản Trung Quốc, Mao Nhuận Chi cũng lập lại luận điệu trên. (65)

Từ năm 1949, sau khi chiếm được Hoa lục bằng họng súng, Mao Nhuận Chi và cộng sự viên không ngừng tìm cách mở rộng biên cương, xâm chiếm đất và biển có nhiều tài nguyên thiên nhiên và đồng thời tìm chỗ di dân. Tibet bị xâm chiếm hay “incorporated” [vào bản đồ năm 1950-1951]. Tháng 9/1950, hàng trăm ngàn chí nguyện quân Trung Cộng tràn vào Triều Tiên, giúp chế độ Cộng Sản chống lại “đế quốc,” nhưng thực chất là bảo vệ cửa ngõ chiến lược Ðông Bắc. Những cuộc chiến tranh biên giới với India (1959-1962) và Nga (1969, đòi 1.5 triệu cây số vuông lãnh thổ). Những tội ác diệt chủng ở Tibet, Mongol, Manchuria và miền tây nam Trung Hoa.

Ðông Nam Á là vùng đất lý tưởng còn lại mà Mao và thuộc hạ muốn đặt vào bản đồ Ðại Hán–một thứ sheng cun keng jian [vùng trời sinh tồn = survival space]. Từ cuối năm 1949, Lưu Thiếu Kỳ đã chỉ thị cho Bí thư Vân Nam Song Renqiong [Tống Nhiệm Cùng] về sứ mệnh giúp đỡ các phong trào “cách mạng,” “giải phóng” tại Ðông Nam Á. Hai thập niên sau, Bắc Kinh chú tâm tới vùng biển Ðông, được biết như Nam Hải, kho tài nguyên thiên nhiên trị giá ước lượng tới 1 trillion [một triệu tỉ] Mỹ Kim. Sách giáo khoa bậc tiểu và trung học, và rồi Bộ Ngoại Giao Bắc Kinh in những bản đồ, theo đó ranh giới phía Nam của đế quốc Hán trải dài tới Indonesia. Ngây ngô và cuồng ngạo hơn khi những tấm bản đồ biên cương trên có những đường dấu chấm.

Chuyến đi cầu viện năm 1950, bởi thế, có thể là một chiến thắng ngoại giao “vĩ đại” của Hồ và Ðảng CSVN. Hồ và các thuộc hạ có lý do để đời đời nhớ ơn Mao và Ðảng CSTH. Nhưng những người Việt Nam chân thành yêu nước và hiểu rõ tham vọng bành trướng xâm lược của giới cầm đầu Bắc Kinh, khó thể tri ơn. Những vụ xâm chiếm đất đai, lãnh hải Việt mới đây không xa lạ gì với những ai quan tâm đến lịch sử quan hệ hai nước. Việc xây dựng những đập thủy điện trong lãnh thổ Hoa Nam–khiến ảnh hưởng và đe dọa môi sinh năm nước Ðông Nam Á mà Y sĩ Ngô Thế Vinh báo động từ cuối thế kỷ XX–tham vọng chiếm đoạt chủ quyền lãnh hải và lãnh thổ Việt theo Luật Kẻ Mạnh–những thủ đoạn tràn ngập thị trường Việt với những món hàng “nhái” và vật liệu nhiễm độc khiến không thể không nghĩ tới thực chất sần sùi của quan hệ gọi là láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, “mười sáu chữ vàng.” Tinh thần QTCS đại đồng mà Karl Marx hoang tưởng hiển nhiên không thắng vượt được những tiểu dị gọi là an ninh quốc gia, quyền lợi an ninh, hay tham vọng chiếm đoạt tài nguyên thiên nhiên, hay tiêu diệt lân bang để dân giàu nước mạnh.

Vì việc này, có thời gian cơ quan tuyên truyền Hà Nội cho rằng Bắc Kinh đã phản bội, liên kết với Pháp, đặt quyền lợi Bắc Kinh và Pháp trên quyền lợi Ðảng LÐVN. (66)

Trong giai đoạn 1959-1975, dù có những khó khăn tiềm ẩn trong quan hệ Việt-Hoa, sự tiếp trợ của QTCS đã giúp Ðảng CSVN [LÐVN] đạt được mục tiêu tối hậu là thôn tính toàn lãnh thổ, thiết lập một chế độ độc tài chưa hề có trong lịch sử–đó là “kinh tế thị trường,” “tư tưởng Hồ Chí Minh,” “định hướng xã hội chủ nghĩa.” Sự nhập cảng chủ nghĩa gọi là Marxist-Lenism được Trung Hoa hoá lần thứ hai này sẽ là gông cùm vô hình cho nhiều thế hệ thanh thiếu niên Việt trong thế kỷ XXI.

Houston, 1/1/2010

Vũ Ngự Chiêu, Ph.D, J.D.

CHÚ THÍCH:

1. Võ Nguyên Giáp, Ðiện Biên Phủ [ÐBP] (Hà Nội: NXBQÐND, 2001), tr. 14-17 [Stalin chỉ thị Mao giúp tổ chức 10 đại đoàn, HCM mời Trần Canh qua giúp], 32-34 [đoàn CSQS/TC], 39-42 [Trần Canh], 45–50 [Ðông Khê], 51-85 [Thất Khê, Cốc Xá], 92-95 [Trần Canh], 102-103 [viện trợ TC năm 1950], 128 [20% nhu cầu năm 1950]; Idem., Chiến đấu trong vòng vây [CÐTVV], (Hà Nội: NXBQÐND, 2001); Idem., Ðường tới Ðiện Biên Phủ [ÐTÐBP] (Hà Nội: NXBQÐND, 2001); William S. Turley, “The Military Construction of Socialism: Post-war Role of the People’s Army of Vietnam;” David G. Marr & Christine P. White (eds), Postwar Vietnam: Dilemmas in Socialist Development (Ithaca: SEAP, 1988), pp. 195-210;

2. Vũ Ngự Chiêu, “Nhìn Lại Hoàng Sa;” Hợp Lưu (12/2009); Việt Nam Thời Báo, San Jose, số 5198, Thứ Tư, Thứ Năm, 25, 26/11/2009; Qiang Zhai, China and the Vietnam Wars, 1950-1975 (Chaptel Hill: North Carolina Press, 2000),

3. Centre des Archives d’Outre-Mer [CAOM] (Aix en Provence), Affaires Politiques [AP], carton 3441, d. 4; và, Service historique de l’Armée de Terre [SHAT] (Vincennes), 10H xxx [287]. [sẽ dẫn: Bonfils’ report of 23 Sept 1948]. Những tài liệu ghi chú “xxx” là tư liệu chưa giải mật hoặc được yêu cần không bạch hoá.

4. Báo cáo ngày 21/12/1946, Massimi, Hải Phòng, gửi Ủy viên Bắc Kỳ [Sainteny]; báo cáo ngày 20/12/1946 & 30/12/1946 của Yolle; CAOM (Aix), HCFI, Conseiller Politique [CP], carton 255; Amiral Thierry D’Argenlieu, Chronique d’Indochine, 1945-1947 (Paris: 1985), tr. 385-92.

5. “La France reconnait solennement l’indépendance du Vietnam auquel il appartient de réaliser librement son unité. De son côté, le Vietnam proclame son adhésion à l’Union Francaise en qualité d’Etat associé à la France. L’indépendence du Vietnam n’a d’autres limites que celles que lui impose son appartenance à l’Union Francaise;” Công Báo Việt Nam [CBVN], I:2 [18/6/48]:18; CAOM (Aix), GGI [Amiraux], 50062; Foreign Relations of the United States [FRUS], 1948, VI:25.

Ngoài ra, 2/ Việt Nam bảo đảm tôn trọng những quyền lợi của công dân Pháp, tôn trọng các nguyên tắc dân chủ, và dành ưu tiên cho các cố vấn và chuyên viên kỹ thuật Pháp trong việc tổ chức nội bộ cùng kinh tế;

3/ sau khi thiết lập một chính phủ lâm thời, các đại diện Việt Nam và Pháp sẽ ký kết những thỏa ước về văn hoá, chính trị, quân sự, kinh tế, tài chính và kỹ thuật.

Ngoài Tuyên Ngôn Chung nói trên, còn có một phụ bản mật, với nội dung tương tự như mật ước trong buổi họp ngày 7/12/1947 (FRUS, 1948, VI:25).

Bảo Ðại, Nguyễn Văn Xuân và Bollaert cũng ra ba tuyên cáo riêng lập lại những điều căn bản trên.

6. Bảo An: Bắc, 3,200; Trung, 8,526; Nam, 8,600. Các tiểu đoàn bảo an (bataillon de garde) quân số thay đổi. Tại miền Nam, lực lượng Bảo An có một đại đội Nhảy Dù và 1 trung đội (groupe d'escadrilles) sông (24 LCVP). Phụ Lực: Bắc, 7,700; Trung, 3,500; Nam: 17,764. Phụ lực (supplétif): các đại đội nhẹ với ít súng nặng và tự động. (CP 208). Những đơn vị khác có: Lính sắc tộc (khoảng 8,000 người); Lính chính trị hay tôn giáo (khoảng 35,000); Lính chuyên môn như bảo vệ đường xe lửa, v.. v... CAOM (Aix), HCIF, Conseiller Politique [CP] 208; FRUS, 1951, VI:536; (SHAT (Vincennes), 10H xxx [243]).

7. FRUS, 1950, VI:909-10. [25/10/1950, DC, 19G00: Acheson điện cho Heath về việc thành lập QÐGVN. Theo Pháp, có thể đưa các lực lượng giáo phái vào, tổng số chừng 75,000 người. Qua những cuộc nói chuyện với Thục, [Giám mục] Chi và Diệm, cũng có thể biến lực lượng Ki-tô Giáo thành một phần quân đội (FRUS, 1950, VI:909-10)].

8. CAOM (Aix), PA 19, Carton 4/68; HCFI, Conseiller Politique [CP], carton 290; AAN, 1949: 1545-6, 1590, col1; JORF, [25-26/4/1949]:4147); FRUS, 1949, VII:10-11. Thượng Viện Liên Hiệp Pháp thành lập qua Nghị định ngày 24/4/1949. (JORF, [25-26/4/1949]:4147.

9. Bản dịch tiếng Mỹ trong FRUS, 1947, VI:75. [Xem 28/2/1947]

10. FRUS, 1947, VI:87. Dại diện chính thức của VNDCCH ở đây là Trần Văn Giàu.

11. CAOM (Aix), INF, Carton 138-139/1245. Theo tài liệu của MTQGTNTQ tại miền Nam, đề ngày 5/5/1947, Mặt Trận này họp Hội nghị ngày 30/3/1947 ở Nam Kinh, và ra tuyên ngôn ngày 31/3/1947; SHAT (Vincennes), Indochine, 10H xxx [4201]. Vẫn theo tài liệu này, các đại diện của Mặt Trận có Ngô Gia Trí, Bảo Sơn, Lưu Bá Ðạt, Trần Thêm, Trịnh Hưng Ngẫu v.. v...).

12. Lê Văn Hiến, Nhật ký một bộ trưởng, 2 tập (Ðà Nẵng: NXB Ðà Nẵng, 2004), II:60 [24-27/4/1949: Tuyên Quang: Tiếp tục Hội nghị HCKC toàn quốc. HCM kết tội Bảo Ðại là phản quốc; giao cho tòa án quân sự xét xử. 27/4/1949, HCM tuyên bố xử tử Bảo Ðại.]

13. Haut Commissariat de France pour l’Indochine [HCFI], Affaires Politiques [AP], Note No. 1687 CP/1, Saigon le 23 Sept 1948, “Les Communistes chinois et le Viet Minh (du Septembre 1945 à Septembre 1948) [par Charles Bonfils], tr. 3; SHAT (Vincennes), 10H xxx [287]. [Sẽ dẫn: Bonfils’ report of 23 Sept 1948]. Tất cả chi tiết vềạ hoạt động của Trung Cộng trong nội địa Ðông Dương đều dựa trên báo cáo này. Chúng tôi chỉ ghi chú những tư liệu khác khi cần thiết.

14. “Le Parti communiste chinois en Indochine du Nord;” CAOM (Aix), Affaires Politiques [AP], carton 3441, d. 4]; (CAL, 2008:55-56)

15. Tháng 3/1920, sau khi nhân viên ngoại giao Nga tại Beijing giúp đại diện của Comintern Grigorij Voitinskij tiếp xúc Chen Duxiu [Chen Tu-hsiu = Trần Ðộc Tú] và Li Dazhao [Li Ta-chiao = Lý Ðại Chiêu], hai người này lập ra Hội Nghiên Cứu Mã Khắc Tư [Society for the Study of Marxist Theory] ở Beijing, và rồi hạt nhân Ðảng CS tại Shanghai vào tháng 5/1920, và Beijing tháng 9/1920; Stuart Schram, Mao Tse tung (NY: Penguin Books, 1966, 1977), tr. 62-63.

16. Các chỉ thị tháng 9/1946; dẫn trong “Notice technique de contre-espionnage: Extrême-Orient, Les services spéciaux sovietiques en Extrême-Orient” (20 May 1947); Annex II,” p. 12; CAOM [Aix], INF, c. 138-139, d. 1245. Ban Phương Ðông QTCS gồm 3 Dalburo ở Chita (Tây TH), Vladivostok (Thái Bình Dương) và Thượng Hải (Ban Phương Nam).

17. Mục tiêu chiến dịch mùa Thu nhằm cắt đứt trục tiếp vận từ Hoa Nam, giết hay bắt sống lãnh đạo chủ chốt Việt Minh, và tiêu diệt quân đội Việt Minh. Báo cáo ngày 24/1/1948 của Lãnh sự Edwin C. Rendall; dẫn trong Ronald H. Spector, United States Army in Vietnam, Advice and Support: The Early Years, 1941-1960 (Washington, DC: CMH-USArmy, 1983), tr. 89. Một giai đoạn hành quân mà tầm vóc [scope] và quân số vượt xa bất cứ cuộc hành quân nào trước đó kể từ ngày [Francis] Garnier chiếm châu thổ sông Hồng năm 1874. Ngày 27/1/1948, Thiếu tá HQ William T. Hunter, Tùy viên quân sự Bangkok, dự đoán Pháp không còn khả năng để mở một cuộc hành quân vởi mức độ tương tự vì vũ khí và trang cụ bị hư hỏng. Tinh thần chiến đấu cũng xuống thấp. Sự thay thế bổ sung cho các đơn vị Dù, bị thiệt hại khá lớn, hầu như bất khả trong hoàn cảnh hiện tại. Từ đầu năm 1948, việc lưu thông giữa Lào Cai và Cao Bằng của VM hầu như trở lại mức bình thường. (CÐ ngày 9/2/1948, AmConsul, Hanoi, gửi BNG; dẫn trong Spector, 1983:90) Ngày 19/4/1948, Tùy viên HQ Mỹ ở Bangkok báo cáo rằng tình hình quân sự ngày thêm xấu đi. (Spector, 1983: 90)

18. Bonfils’ report of 23 Sept 1948, p. 4; Lê Văn Hiến, Nhật ký, I:393 (Lý Ban, phụ trách Hoa vận); I:570-571 (công tác đội Hoa Kiều ở Bản Thi, do một nữ đồng chí phụ trách); Vũ Ðình Hoè, Hồi ký Vũ Ðình Hoè (Hà Nội: Hội Nhà Văn, 2004), tr. 838. Tài liệu TC ghi nhận Lý Ban có hai cộng tác viên đắc lực là Văn Trang, tức Thư Thủ Hiến (1942-?), cùng vợ là Diệp Tinh hay Dương Nguyệt Tinh. Văn Trang, cựu chủ tịch SV Vân Nam, cùng vợ qua Việt Bắc từ năm 1947. Học tiếng Việt ở Lào Cai. Sau đó xuống Phú Thọ, hợp tác với Lý Ban. 1948, gặp HCM. 2/4/1954, theo phái đoàn VM gồm 30 người tới BK, chuẩn bị qua Nga dự Hội nghị Geneva. (CAL, 2008:45)

19. Lê Văn Hiến, Nhật ký, 2004, I:41, 42, 83, 154-155, 236, II:40-41 (quân CSTH tại Hà Giang-Lào Cai, 8/3/1949; tiếp tế 50 tấn muối, in 5 triệu tiền CSTH để tiêu dùng trong vùng giải phóng). John T. McAlister, Jr., “Mountain Minorities and the Viet Minh: A Key to the Indochina War;” trong Peter Kunstadler (ed), Southeast Asian Tribes, Minorities and Nations (Princetion: Univ Press, 1967), pp. 821-822.

20. “La vérité sur les relations sino-vietnmiennes;” La Chine et le Monde [“Sự thật về quan hệ Trung Hoa-Việt Nam,” trong Trung Hoa và Thế Giới] (Beijing: Beijing Information, 1982), tr. 108 [102-141]; Hoàng Văn Hoan, Sự thực về tình hữu nghị chiến đấu Việt-Trung không thể xuyên tạc (Bắc Kinh: 11/1979), tr. 26. Xem thêm Qiang Zhai, China & The Vietnam Wars, 1950-1975 (Chapel Hill: Univ. of North Carolina Press, 2000), tr. 11-12, 23 [ngày 13/1/1950, Thiếu Kỳ còn nhắc đến việc này]; Võ Nguyên Giáp, Chiến đấu trong vòng vây [CÐTVV], 2001:230-231, 234-235, 294-295.

21. Thời Sự, 2/5/1949; Giáp, CÐTVV, 2001:295-296. Mông và Ðiều sau này giữ chức sư trưởng và chính ủy Ðại đoàn 316 từ 1951 tới trận Ðiện Biên Phủ; Cứu Quốc, 12/12/1949; 10H xxx [641]

22. Lê Văn Hiến, 2004, I:328-329, 346-347, 349. Ðầm Hồng ở tả ngạn sông Gầm, chếch phía Bắc sở lị Chiêm Hóa (cách Tuyên Quang 66 cây số). Ðây là nơi đường gòn chở quặng mỏ Bản Ti [Thi] ra. Ði thêm phía Bắc 15 km là Ðài Thị, rồi Na Hang (cách Tuyên Quang 106 km).

23. Lê Văn Hiến, 2004, I:393, (Lý Ban, phụ trách Hoa vận) 570-571. (công tác đội Hoa Kiều ở Bản Thi, do một nữ đồng chí phụ trách) Lý Ban[I:379, 400-401 (Lê Toàn Trung bị bắt); I:393 (Lý Ban, phụ trách Hoa vận); I:461 (SL Ngân hàng Quốc Gia); I:536 (Chị Hai Sóc trong ATK Tuyên Quang, 21/5/1948); I:559-560 (Phạm Ngọc Thạch tới ATK, 11/6/1948); I:570-571 (công tác đội Hoa Kiều ở Bản Thi, do một nữ đồng chí phụ trách); I:597-603 (Hội nghị cán bộ TW, 6-12/8/148); I:627-629 (đụng chạm Tư pháp-HCKC); I:644-645 (PNThạch và Lê Ðức Thọ vào Nam, 16/9/1948); I:708, 710, II:36 (Trần Văn Giàu ở Xiêm về); II:11, 96 (Vi Văn Ðịnh, vợ có thai);

24. Lê Văn Hiến, 2004, II:203 [Ngày 26/11/1949, HCM thông báo Thường vụ TWÐ là nhận được công điện của Mao trả lời và chúc mừng, đồng thời chúc cuộc kháng chiến của VN thắng lợi], II:212 [26/12/1949: HCM quyết định gửi phái đoàn phụ nữ ra ngoại quốc]. Có lẽ Ban và Thụy tháp tùng phái đoàn này, như thông dịch viên, và được gặp Luo Guibo vào tháng 1/1950; Trương Quảng Hoa, “Cố vấn quân sự,” LQB, 2008:217; trong La Quí Ba et al., Ghi chép về việc đoàn cố vấn Quân sự Trung Quốc viện trợ Việt Nam chống Pháp (Bắc Kinh: 2002), bản dịch tiếng Việt Trần Hữu Nghĩa và Dương Danh Dy (tài liệu nội bộ); Luo Guibo, “Lishi dehuigu: Zhongguo yuan Yue kangFa yu ZhongYue liangdang liangguo jishi” [Recalling History: A Factual Account of China’s Assistance to Vietnam against the French and Relations between the Two Parties and Two Countries of China and Vietnam], trong Fu Hao & Li Tongcheng (eds), Zhongguo waijiaoguan congshu: Kaiqi guomen–Waijiaoguan de fengcai [Chinese Diplomats Series: Opening the Gate of the Country–the Glory of Diplomats] (Beijing: 1995), tr. 152-153 [150-176]; dẫn trong Zhai, 2000:13, 15.

25. Vũ Ðình Hoè, 2004:911-916, 926. [1948: Nguyễn Văn Huyên xin từ chức, nhưng HCM không chấp thuận. Vũ Ðình Hoè cũng xin từ chức vì chủ trương “hồng hơn chuyên” của chế độ. Huyên tặng Hoè cuốn Le chemin des tourments [Con đường khổ ải] của Alexis Tolstoi, nói về thân phận trí thức trong chế độ CS. [916] Theo Hoè, Phó Thủ tướng Phạm Văn Ðồng cũng trở thành “một chân nhân;” thường tuyên bố “Nào tôi có biết gì đâu? Tôi có quyền gì đâu? Quyết định là từ đâu ấy chứ!” (Hoè, 2004:926) “Ðảng đoàn” hầu như lo mọi việc. (Hoè, 2004:926) Năm 2004-2005, Thủ tướng Phan Văn Khải cũng tuyên bố tương tự! (Hoè, 2004:900-901, 911-916). “Hồng hơn chuyên.” (Hoè, 2004:899-905). “Các quyền dân sự chỉ được hành xử và bảo vệ nếu phù hợp với quyền lợi nhân dân.” Trần Công Tường, Thứ tưởng Tư Pháp, còn muốn hủy bỏ cả vai trò Luật sư thay bằng “bào chữa viên nhân dân.” (Hoè, 2004:904-905). Mùa Thu năm 1950, tới lượt Bộ trưởng Tư Pháp Vũ Ðình Hoè đại diện Hội Việt-Hoa hữu nghị (thành lập tháng 2/1950) tham gia một phái đoàn “phỗng Hoa”– do Tôn Ðức Thắng cầm đầu–đi thăm Trung Hoa, vận động cảm tình của dân chúng qua những màn trình diễn về chiến thắng Ðông Khê, v... v...

26. VKÐTT, 9:1948, 2001: 17-18; Lê Văn Hiến, 2004, I:381, 395, 494. Xem thêm Chính Ðạo, Hồ Chí Minh, I, 1997:247 (Phụ bản báo Cứu Quốc tại miền Nam).

27. Chỉ thị ngày 18/3/1948; VKÐTT, 9:1948, 2001:64; Vạn & Lâm, 1979:144.

28. Báo cáo của Lê Ðức Thọ về tình hình và nhiệm vụ mới của Ðảng;” VKÐTT, 9:1948, 2001:316-318 [276-320].

29. Schram, 1977:290-291. Hồ, Phạm Hùng và Lê Duẩn tham dự Ðại hội các Ðảng CS ở Mat-scơ-va từ ngày 14 tới 16/11/1957. Tito không dự. (ND, 23/11/1957)

30. Tân Hoa Xã [NCNA], 19/11/1949; dẫn trong King Chen, Vietnam and China, 1969:218; Theo Chen, sau hội nghị QT này, có một hội nghị khác trong nội địa VN; Ibid, 1969:229-230. Theo Lê Văn Hiến, Bộ Tài chính lấy vàng chôn dấu từ năm 1946 đúc ra 200 đồng tiền vàng “20 Việt.” 50 đồng dành tặng phái đoàn ngoại quốc. [15/11/1949: Chọn người để gặp phái đoàn ngoại quốc, II:195; 27-28/12/1949; II:221-2]

31. Document 17: Memorandum of Conversation, V.M. Molotov and A.Y Vyshinsky with Mao Zedong, Moscow, 17 Jan 1950 from the Diary of V.M. Molotov. Top Secret, AVP RF, f. 07, op. 23a, d. 234, pap. 18, ll. 1-7; provided by O.A. Westad; translation for CWIHP by Daniel Rozas.

32. Liu gửi Hồ, 28/12/1949; Liu Shaoqi nianpu, 1996, 2:236; dẫn trong Zhai 2000:13-15; Luo Guibo, “Lishi de huigu: Zhongguo yuan Yue kangFa yu ZhongYue liangdang liangguo jishi” [Recalling History: A Factual Account of China’s Assistance to Vietnam against the French and Relations between the Two Parties and Two Countries of China and Vietnam], trong Fu Hao & Li Tongcheng (eds), Zhongguo waijiaoguan congshu: Kaiqi guomen–Waijiaoguan de fengcai [Chinese Diplomats Series: Opening the Gate of the Country–the Glory of Diplomats] (Beijing: 1995), tr. 152-153 [150-176];

33. Lê Văn Hiến, 2004, II: 207, 381; Liu nianpu, II:268 & CÐ ngày 20/4 và 2/5/1951; Ibid., II:276; Zhai, 2000:35-36.

34. Lê Văn Hiến, 2004), I: 41, 56, 58 I:42, 82 [tổ chức cơ quan mua hàng ngoại hoá gồm 1 tài chính, 1 kinh tế, 1 mặt trận hay UVKC địa phương (Cao Bằng), 94, 122 (Trung ương);] I:45, 64, 81 [sử dụng người Việt Nam Mới (Nhật), Bộ tài chính 7 người] I:83 [xuất cảng gỗ (Cao Bằng)]; I:84, 97 [mỏ Tĩnh Túc (Pia Ouac, Cao Bằng): vàng cốm, wolfram, thiếc (Lê Toàn Trung và Lưu Quang Hoà phụ trách khai mỏ vàng và thiếc); I:112 (Hoa thương); I:119, 153 (kẽm, galène, antimoine ở mỏ Bản Thi) [nơi đặt nhà in bạc]; I:236 (phái đoàn sang Tàu); I:331, 639-640 (Uranium). Năm 1947, có thể đổi 1 khẩu trung liên với 500 viên đạn bằng 4 cân Tây thuốc phiện; 1 khẩu súng tự động [automatic rifle] với 500 viên đạn bằng 2.5 cân Tây thuốc phiện; John T. McAlister, Jr., “Mountain Minorities and the Viet Minh: A Key to the Indochina War;” trong Peter Kunstadler (ed), Southeast Asian Tribes, Minorities and Nations (Princetion: Univ Press, 1967), pp. 821-822.

35. “Rapport sur l’évolution de la situation politico-religieuse à Phat Diem (28 Février 1951);” SHAT (Vincennes], 10H xxx [1039] (chưa giải mật); Quang Toàn & Nguyễn Hoài, Những hoạt động của bọn phản động đội lốt Thiên chúa giáo trong thời kỳ kháng chiến 1945-1954 (Hà Nội: NXB Khoa học, 1965), tr. 62.

36. Nguyễn Văn Tâm tự nhận chiêu hồi Hòa Hảo. Bình Xuyên của Lê Văn “Bảy” Viễn về hàng sau khi chính phủ trung ương lâm thời của Xuân thành lập năm 1948, được đặt dưới sự điều động của Thủ hiến Nam Việt Trần Văn Hữu.

37. Renmin ribao [Nhân Dân Nhật Báo = People's Daily, the CCP Central Committee's official mouthpiece] (Beijing), 19/1/1950. [Source: JGYLMZDWG, 1:238; translation from Shuguang Zhang and Jian Chen, eds., Chinese Communist Foreign Policy and the Cold War in Asia, 138.]

38. Liu gửi Văn phòng Nam TW Ðảng CSTH, 26/1/1950, & Liu gửi Mao, 30/1/1950, Liu nianpu, 2:241; dẫn trong Zhai, 2000:16; Hoan, 1987:328-329, 330; Giáp, CÐTVV, 2001:347-348; Idem., Ðường tới Ðiện Biên Phủ (Hà Nội: QÐND, 2001), tr. 13. [Trương Quảng Hoa, “Quyết sách,” 2008:17-18) [30/1/1950: Idem., “Cố vấn QS,” trong La Quí Ba et al., Ghi chép về việc đoàn cố vấn Quân sự Trung Quốc viện trợ Việt Nam chống Pháp (Bắc Kinh: 2002), bản dịch tiếng Việt Trần Hữu Nghĩa và Dương Danh Dy (tài liệu nội bộ), 2008:218]

39. Document 24: Telegram, Mao Zedong and Zhou Enlai to Liu Shaoqi, 1 Feb 1950; JGYLMZDWG, 1:254; trans. from Shuguang Zhang and Jian Chen, eds., Chinese Communist Foreign Policy and the Cold War in Asia, 141-2]; “Nghị quyết của TVTW ngày 4/2/1950;” VKÐTT, 11:1950, 2001:222-4; “Chỉ thị ngày 9/2/1950;” Ibid., 2001:225-8.

40. RC 495, Box 154, File 531, p. 42; RC 495, Box 184, File 54, p. 106 and 36, pp. 175; Tran Van Hung, 2000, 8:54; Anatoli A. Sokolov, Quốc tế Cộng Sản và Việt Nam [Comintern and Viet-Nam], Ðào Tuấn dịch từ Nga ngữ (Hanoi: NXBCTQG, 1999), tr. 160, 162-163; “Biographie de Ho Chi Minh;” CAOM (Aix), 19 PA, carton 4, d. 62;

41. János Radványi, Delusion and Reality: Gambit, Hoaxes, & Diplomatic One-Upmanship in Vietnam (South Bend, Indiana: Gateway, 1978), tr. 20 [Thủ tướng Hungary Ferenc Munnich: HCM was a lucky man to have survived Stalin’s blood purges, while Borodin and his friends were liquidated one by one].

42. SHAT (Vincennes), 10H xxx; “Notice .. Janvier 1940”, CAOM (Aix), 7F27.

43. Vu Ngu Chieu, “Social and Cultural Change in Vietnam Between 1940 and 1946;” Part II: “The End of An Era,” chapt. 9; unpublished Ph.D. dissertation, Dec 1984, University of Wisconsin-Madison, Xem thêm CAOM [Aix], HCFI, CP 192; Phùng Thế Tài, Bác Hồ những kỷ niệm không quên (Hà Nội: QÐND, 2002), tr. 32, 33-34, 57-63, 82-87; Lê Tùng Sơn, 1978:110-112 [Mỹ thả 2 đợt, gần 80,000 truyền đơn của Việt Minh xuống Hà Nội, Huế và Việt Bắc]; René Defourneaux, “Secret Encounter with Ho Chi Minh;” Look (NY), 8/9/1966, tr. 32-33; Robert Sharplen, The Lost Revolution (NY: Harper & Row, 1965), tr. 30; Báo cáo ngày 22/8/1945, William J. Donovan gửi Byrnes; Bộ Quốc Phòng, US-Vietnam Relations, 1947-1967 (Washington, DC: GPO, 1971), Bk I, C 58-59, 67; The Pentagon Papers (Gravel), vol. I, pp. 17, 20, 50, 51; Lê Giản, “The Story of An Exile;” Vietnam Courrier, 1980:17-20; US Congress. Senate. Causes, Origins, and Lessons of the Vietnam War. Hearings before the Committee on Foreign Relations, 92nd Congress, 2nd Session, May 1972 (Washington: GPO, 1973), tr. 249; Charles Fenn, Ho Chi Minh: A Biographical Introduction (New York: 1973), 71-75, 76-7, 78, 81; Archimedes L. Patti, Why Viet-Nam? Prelude to America's Albatros (Berkeley, Cal.: Univ of California Press, 1980), tr. 29-30, 31, 46, 50, 51; S. Tonnesson, Vietnamese Revolution, 238, 337 (quoted USNA ngày 19/3/1945); Chính Ðạo, Hồ Chí Minh: Con người & huyền thoại (Houston: Văn Hóa, 1993,1997), II, 1993:356; David G. Marr, Vietnam 1945: The Quest for Power (Berkeley, Cal.: Univ. of California Press, 1995), tr. 227-229, 241, 282-285, 288-291, 304n33, 476-479, 482-490, 498-501, 538-539; Raymond P. Girard, “City Man Helped to Train Guerillas of Ho Chi Minh;” Evening Gazette (Worcester, MA), 14 & 15/5/1968; dẫn trong Marr, 1995:209n189;

44. Theo Tài liệu Ngũ Giác Ðài, HCM gửi cho Stalin hai lá thư vào tháng 2/1946, và Bộ Ngoại Giao VN cũng gửi cho Nga Sô, cùng ba cường quốc Bri-tên, Nga và Trung Hoa, một tài liệu khác giới thiệu thành tích của chính phủ VNDCCH; “Note to the Government of China, United States of America, Union of Socialist Sovietic Republic, and Great Britain;” US-Vietnam Relations, 1945-1967, Bk I, C-98-99, & Cable, from Landon for Moffat and Culbertson, no date [received on February 27, 1946]: HCM handed Landon two letters addressed to Truman, Cheng K’ai-sheik, Stalin và Attlee, yêu cầu yểm trợ tinh thần độc lập của VN, theo kiểu mẫu Philippines. Ibid. [US-Vietnam, 1945-1967], I, C-101. Giữa tháng 9 và tháng 10/1945, theo Igor Bukharkin, (conference 1996) Hồ gửi cho Stalin hai công điện xin viện trợ, nhưng không có hồi âm. (Zhai, 2000:13)

45. Amiral Thierry d’Argenlieu, Chronique d’Indochine, 1945-1947 (Paris: Albin Michel, 1985), tr. 168. [431-432: từ tháng 11/1945, HCM chứng tỏ sự bất an và trở nên biết điều [compréhensif] hơn. Họ chống lại Tàu]. [Sẽ dẫn: Chronique]; Zhai, 2000:13;

46. Vu Ngu Chieu, “Social and Cultural Change in Vietnam Between 1940 and 1946;” Part III: “Brutality of World Politics,” chap. 11; unpublished Ph.D. dissertation, Dec 1984, University of Wisconsin-Madison,

47. France, Annales de l’Assemblée nationale [AAN] (Paris), 1947, p. 856, col 2; Fall, 1965:196 [March 14-18, 1947: Robert Schumann, MRP, moderate Catholic; Ramadier, Socialist]

48. János Radványi, Delusion and Reality: Gambit, Hoaxes, & Diplomatic One-Upmanship in Vietnam (South Bend, Indiana: Gateway, 1978), tr. 4-5,269n1. [Mùa Thu 1950, Thorez tuyên bố tại Tòa Ðại sứ Hungary rằng Stalin không tin tưởng Hồ, vì Hồ hợp tác quá lộ liễu với tình báo Bri-tên và OSS Mỹ, giải tán Ðảng CSÐD, không tham khảo ý kiến Stalin. Ðại biện Hungary tại Paris, Zoltán Szánto, người từng hoạt động với Comintern, tán đồng nhận xét của Thorez [Szanto thought that Thorez’s summation of Stalin’s attitudes and politics on Vietnam was entirely accurate]. [5] Năm 1952, Pierre Courtade, chủ biên L’Humanité, gọi Hồ là Tito của Viễn Ðông [editor of L’Humanité, described HCM as a nationalist Communist–the Tito of the Far East]. Ibid., 1978:20. Năm 1959, Vyacheslav M. Molotov cho rằng cả HCM và Phạm Văn Ðồng là những người cứng đầu, chỉ quan tâm đến Việt Nam, không lo cho Quốc tế Cộng Sản [Both HCM and Pham Van Dong were stubborn men, interested only on Vietnam, not international movement. (1978:20) Từ đầu thập niên 1930, nhóm Trần Phú-Hà Huy Tập đã đưa ra lập luận này.

49. FRUS, 1949, VII:67; L. Podkopayev, “Viet-Nam Fights for Independence;” New Times [Tân Thời Báo], số 16 (13/4/1949), tr. 11-13.

50. Nikita S. Khrushchev, Khrushchev Remembers, trans. and ed. by Strobe Talbott (Boston: 1970), tr. 482; Idem., Khrushchev Remembers: The Glanost Tapes (Boston: Little & Brown, 1990), tr. 154-156; Ilya V. Gaiduk, The Soviet Union and the Vietnam War (Chicago: I. R. Dee, 1996); Idem., Confronting Vietnam: The Soviet Policy toward the Indochinese Conflict, 1954-1963 (Wahington, DC: Woodrow Wilson Center Press, 2003); Zhai, 2000:226-227n34. [According to Khrushchev, Stalin was indifferent to Ho in Moscow].

51. Hoan, 1987:330; Radványi, 1978:4-5, 20, 269n1; Trương Quảng Hoa, “Quyết sách,” trong La Quí Ba et al., Ghi chép về việc đoàn cố vấn Quân sự Trung Quốc viện trợ Việt Nam chống Pháp (Bắc Kinh: 2002), bản dịch tiếng Việt Trần Hữu Nghĩa và Dương Danh Dy (tài liệu nội bộ), 2008:19-20; Idem., “Cố vấn QS,” LQB, 2008:218] [Tháng 3/1953, đúng ngày Stalin chết, HCM tiết lộ với Vi Quốc Thanh lời dặn dò của “Người,” vào tháng 11/1952, là không thể đứng giữa một đòn gánh, hoặc đứng về phía quần chúng, hoặc nhập phe phong kiến. (Vu Hoá Thẩm [Vương Chấn Hoa], “Vi Quốc Thanh,” LQB, 2008:59]) Có lẽ vì thế từ tháng 1/1953, Hội nghị TW lần 4, khóa II, đã nghị quyết CCRÐ & chỉnh huấn chính trị QÐNDVN].

52. Zhai, 2000:16-17; Giáp, CÐTVV, 2001:331. Theo một tài liệu truyền khẩu TC, Stalin nói cách nào để giải thích về sự có mặt của Hồ tại Mat-scơ-va để ký hiệp ước, Hồ nửa đùa nửa thực: Stalin có thể cho Hồ lên phi cơ, bay vòng quanh Mat-scơ-va, rồi tổ chức lễ đón rước, v.. v.. Trương Quảng Hoa, “Quyết sách,” trong La Quí Ba et al., Ghi chép về việc đoàn cố vấn Quân sự Trung Quốc viện trợ Việt Nam chống Pháp (Bắc Kinh: 2002), bản dịch tiếng Việt Trần Hữu Nghĩa và Dương Danh Dy (tài liệu nội bộ), 2008:21.

53. Chen Jian, “China and the First Indo-China War, 1950-1954,” The China Quarterly 132 (March 1993), p. 93 [85-110]; Trương Quảng Hoa, “Cố vấn QS,” trong La Quí Ba et al., Ghi chép về việc đoàn cố vấn Quân sự Trung Quốc viện trợ Việt Nam chống Pháp (Bắc Kinh: 2002), bản dịch tiếng Việt Trần Hữu Nghĩa và Dương Danh Dy (tài liệu nội bộ), 2008:218. Xem thêm Võ Nguyên Giáp, Ðường tới Ðiện Biên Phủ (Hà Nội: NXBQÐND, 2001), tr. 14. Giap, CDTVV, 2001:350-351]

54. Zhou gửi Hồ, 7/7/1950, Zhou nianpu, 1:53; Zhai 2000: 15, 17-18, 19; Hoan, 1987:325ff.; Hiến, 2004:II:380-1; La Quí Ba et al., Ghi chép về việc đoàn cố vấn quân sự TQ Việt Nam chống Pháp (Bắc Kinh: Nghiên Cứu Lịch Sử Ðảng, 2002), LQB, 2002:5-6) Nguyên bản đăng trong Tưởng Nhớ Mao Trạch Ðông [Lưu Thiếu Kỳ ?] (1993)

[Luo Guibo, “Shaoqi tongzhi paiwo chushi Yuenan” [Comrade Shaoqi sent me to Viet Nam], in He Jingxiu et al. (ed), Mian huai Liu Shaoqi [Recalling Liu Shaoqi] (Beijing: 1988), tr. 235; Idem., 1995: 152-153 [150-176]; dẫn trong Qiang Zhai, 2000:15. Luo Guibo, “Lishi de huigu: Zhongguo yuan Yue kangFa yu ZhongYue liangdang liangguo jishi” [Recalling History: A Factual Account of China’s Assistance to Vietnam against the French and Relations between the Two Parties and Two Countries of China and Vietnam], trong Fu Hao & Li Tongcheng (eds), Zhongguo waijiaoguan congshu: Kaiqi guomen–Waijiaoguan de fengcai [Chinese Diplomats Series: Opening the Gate of the Country–the Glory of Diplomats] (Beijing: 1995), tr. 152-153 [150-176]];

55. Igor Bukharkin, “Moscow and Ho Chi Minh, 1945-1969,” 1996:3-7.

56. Hiến, 2004, II:340. 341, 444. 28/6/1950: HCM muốn lên chức Tổng Tư lệnh, Võ Nguyên Giáp xuống làm Phó Tổng Tư lệnh kiêm Tổng Tham Mưu Trưởng, Nguyễn Chí Thanh, Chủ nhiệm TC/CT. Trần Ðăng Ninh, Chủ nhiệm TC/Hậu Cần. (Thông tri ngày 28/6/1950; VKÐTT, 11, 2001:346-347) 10/7/1950 HCM tạm hoãn kiêm chức TTL/QÐ. Võ Nguyên Giáp tiếp tục làm TTL. [VKÐTT, 11, 2001:380-381] 9/7/1950: Hồ Tùng Mậu, Thanh tra chính phủ, báo cáo về tình trạng thiếu thóc ăn cho bộ đội; về việc thi hành luật Tổng động viên: thi hành, không giải thích. (Hiến, II, 2004:340) 10/7/1950: HCM bế mạc HÐCP. Cho lệnh “quân sự hóa” các cơ quan. (Hiến, 2004, II:341) Về Việt Nam, Mao đưa ra những giải pháp: Quân sự, giải phóng Trung du và các miền quan hệ về sản xuất. Tăng gia sản xuất và bớt 2% số người không sản xuất. TC giúp nuôi một số người (quân nhân, cán bộ, thiếu sinh). (Hiến, 2004, II:444)

57. Nhân Dân [ND], 11/3/1951; dẫn trong Hoàng Văn Hoan, Giọt nước trong bể cả (Bắc Kinh: 1987), tr. 357-8.

58. Ibid., 1987:369; [1982:35]; Qiang Zhai, China and the Vietnam Wars, 1950-1975 (Chaptel Hill: North Carolina Press, 2000), tr.18-42.

59. Văn Kiện Ðảng Toàn Tập [VKÐTT], vol 12:1950 (Hà Nội: 2001), tr. 495.

60. “Ðáp từ trong buổi lễ trình quốc thư của Ðại sứ Nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa;” Nhân Dân, số 221 (4-6/9/1954); Hồ Chí Minh Toàn Tập [HCMTT], 7:1953-1955 (Hà Nội: NXBCTQG, 1996), tr. 343; Hoàng Văn Hoan, “Tuyển tập Hồ Chí Minh với tên phản bội Lê Duẩn;” Tin Việt Nam, số 21 (Tháng 11/1982), tr. 10-11 [1-40].

61. Lê Tắc, An Nam Chí Lược [ANCL], bản dịch Chen Ching Ho [Trần Kính Hòa] (Huế: Ðại học Huế, 1961), q. 5, tr. 102-103 [101-103]. [Duy Nhật Nam toái nhi chi bang, hình phục nhi tâm do vị hóa, tuy nhậm thổ tu phương chi cống, bất khuyết nhi vị tận kỳ thành, vấn tội hưng sư, cố đại bang chi chính lý. Tàng phong ti nhuệ, diệc tiểu quốc nhi ti tình. [101]

KÐVSTGCM ghi là Tháng 10 Tân Mão [24/10-21/11/1291]. CM VIII:17; 1998, I:544. ÐVSKTT không ghi tháng, chỉ nói sứ Nguyên muốn thuyết phục Nhân Tông vào chầu. Năm sau, sai Nguyễn Ðại Phạp sang cáo từ là đang có tang. (ÐVSKTT, Bản kỷ, V, 1967, II:68). [Nguyên Vũ Vũ Ngự Chiêu, “Ðất đai Việt Nam bị Trung Hoa Nhân Dân Cộng Hòa Quốc xâm chiếm;” Hợp Lưu Magazine (Fountain Valley, CA), No. 105 (5-6/2009), tr. 5-32]

62. Tin Việt Nam, số 41 (Tháng 7/1984), tr. 17. Xem thêm Hoàng Văn Hoan, Giọt Nước Trong Biển Cả (Bắc Kinh: 1987); Tin Việt Nam; Hoàng Văn Hoan, “Tuyển tập Hồ Chí Minh với tên phản bội Lê Duẩn;” Tin Việt Nam, số 21 (Tháng 11/1982), tr. 1-40.

63. Kissinger, 1979:1064.

64. Edgar Snow, Red Star Over China, 119; dẫn trong Stuart Schram, Mao Tse tung (NY: Penguin Books, 1966, 1977), tr. 23. Mao tôn sùng Sun Yatsen [Tôn Dật Tiên], K’ang Yuwei [Khang Hữu Vi] và Liang Qichao [Liang Ch’i Chao = Lương Khải Siêu], cùng tổ chức T’ung Meng hui của Sun. Albert Sarraut, tân Toàn quyền Ðông Dương, cũng từng được chứng kiến khí thế Ðại Hãn dài theo hành trình từ Paris tới Sài Gòn đáo nhậm nhiệm sở như Singapore–biểu lộ qua việc cắt bỏ mái tóc đuôi sam.

65. CHXHCNVN, Bộ Ngoại Giao, Sự Thật về Bang Giao Việt Trung (Hà Nội: 4/10/1979), tr. 11-12, 16-. [Sẽ dẫn: Sách Trắng]; Francois Joyaux, 1981:64. Nên ghi thêm là từ năm 1947, chính phủ Tưởng Giới Thạch cũng đã công bố bản đồ TH bao gồm những dấu chấm ở miền Nam, chờ ngày quân đội TH điền vào chỗ trống.

66. Sách Trắng, 1979:99-100. Xem thêm, Nhân Dân (Hà Nội), 25/3/1984, 3-5/5/1984 (Hồi ký Nguyễn Thành Lê); Trần Việt Dũng, “Lại một tên bồi bút không biết xấu hổ;” Việt Nam (Bắc Kinh), số 41 (tháng 7/1984), tr. 10-15. Nguyễn Thành Lê cũng nêu lên vấn đề Chu Ân Lai mời Ngô Ðình Luyện qua thăm Bắc Kinh, và lập tòa lãnh sự ở Bắc Kinh trong dạ tiệc ngày 22/7/1954. Ngô Ðình Luyện và Trần Văn Ðỗ đều xác nhận điều này với tác giả năm 1985 tại Paris.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét