Thứ Sáu, 31 tháng 1, 2014

Sự việc đã xảy ra

Người Buôn Gió


Tết năm 1982, mình cả thằng An nhà Bính bị bắt vào đồn Hàng Buồm vì tội chơi pháo ném. Hai thằng dùng pháo ném tương nhau như đánh trận. Pháo ném là loại pháo bên trong có ít sỏi và thuốc pháo, bọc giấy bên ngoài. Ném cái chạm vào chỗ nào cứng, các viên sỏi chạm vào nhau làm thuốc pháo cháy gây nổ.
Nghe thế nhưng pháo ném không nguy hiểm, vì lượng thuốc pháo ít. Những cái loại pháo ném này nếu trúng tường thì cả khoảng tường ấy ám luôn vết khói. Hồi đó Tết người ta hay quét vôi lại nhà để đón năm mới. Hai thằng mải trốn, nấp ném nhau. Tương chi chít vết khói trên tường nhà người ta. Bị họ bắt đưa lên đồn.
Đồn nhốt hai thằng lại từ trưa cho đến chiều, người nhà lên xin không cho về. Hai thằng ngồi ở cái ghế phòng trực ban bên ngoài.
Tết thì lắm chuyện, chuyện cờ bạc và chuyện đánh nhau thường hay xảy ra nhất.
Đầu tiên có người hớt hải chạy lên đồn báo là chỗ họ sắp có đánh nhau. Bọn nào đó đang vác dao kéo đến chỗ họ ở tìm nhà ai đó để đánh. Người đến đồn báo mặt xám ngoét vì sợ hãi, lắp ba lắp bắp, ríu lưỡi lại. Trực ban quát.
- Đã đánh nhau đâu mà cuống thế, bao giờ đánh nhau hẵng báo, sự việc chưa xảy ra làm sao chúng tôi đến được.
Người báo năn nỉ, bị trực ban quát.
- Đã bảo là đi về đi, rồi chúng tôi cho người xuống, tết thế này đâu có nhiều người ngay được.
Người báo sợ hãi, luống cuống ra về. Trực ban lẩm bẩm.
- Tết nhất rượu chè cho lắm vào rồi đánh nhau, cho chết bớt đi.
Trực ban cúi xuống đọc báo Xuân. Có người đến báo mất xe đạp. Trực ban báo họ viết tờ khai,mất ở đâu, lúc nào, xe thế nào...xong bảo họ về. Nếu tìm thấy sẽ gọi. Người kia khóc lóc, mếu máo nói mong các anh tìm giúp, xe em đi mượn của người ta, giờ không biết lấy gì ra mà đền. Trực ban đẩy ra cửa nói.
- Thì khai báo đây rồi, còn phải để chúng tôi đi tìm chứ. Cứ về đi có gì sẽ gọi. Có cái xe mà không biết giữ.
Người mất xe đi, trực ban cắm đầu đọc tiếp báo Xuân. Chừng hai tiếng yên ắng trôi qua, trong quãng thời gian ấy chỉ có một cảnh sát đi từ trên gác qua phòng trực ban ra ngoài. Hai thằng gọi khẽ chú ơi cho cháu về, trực ban quắc mắt.
- Không được, cho chúng mày về để chúng mày phá nhà người ta à. Ở yên đấy.
Một người đạp xe đến, dựng vội vã trước cửa đồn, ông ta vào nói gấp trong hơi thở.
- Đằng Nội Miếu có đám bạc to lắm, nhiều đứa đang chơi, đánh nhiều tiền lắm.
Trực ban bật dậy, hỏi sốt sắng.
- Chỗ nào, bên trong ngõ hay đầu ngõ.
- Ở ngay đầu ngõ, chỗ tổ phục vụ bán nước sôi, chúng nó chơi ở đấy.
Trực bạn gật đầu, nhanh nhẹn chạy lên vào trong hô.
- Anh em dậy thôi, khẩn trương, khẩn trương có vụ đánh bạc to.
Từ bên phía trong đồn và trên gác, lục tục đến 6 người công an đi ra, họ vội vã mặc quần áo, hối hả thúc nhau lấy xe, lấy còng. Một người chỉ huy hỏi vắn tắt địa điểm rồi phân công chia hai ngả từ Lương Ngọc Quyến xộc đến và ngả từ Hàng Giầy xộc đến. Còn ông thì sẽ vòng qua Hàng Đào bịt cái lối từ Nội Miếu thông sang. Thấy thiếu người, ông chỉ huy chỉ trực ban nói.
- cả mày cũng đi luôn, đi một tí, cần đéo gì trực.
Cả hội công an hăm hở kéo nhau đi, ra cửa trực ban quay đầu nói với hai thằng.
- Bọn ranh con ngồi đấy trông nhà cho chú, tí chú về thì chú cho chúng mày về, hồ sơ chúng mày tao ghi rồi, trốn tao về nhà bắt lên. Ở đó ngoan trông cho chú, ai hỏi bảo tí chú quay lại.

Ảnh minh họa sưu tầm trên Internet
Công an đi hết, hai thằng nhảy bổ vào góc phòng trực ban, có mấy thứ đồ của quán nước nào bị thu, có lọ chè lam, kẹo lạc mà hai thằng tăm tia thèm rỏ dãi suốt. Bốc cho mồm nhai ngấu nghiến, bột ở lọ kéo dính đầy mép. Ăn được một lúc thấy lao xao, công an đang đưa đám bạc về nhốt hết vào trong. Cho từng người ra hỏi cung.
Hai người đầu tiên thì một người bảo đứng xem, một người thì bảo tết nhất đánh có một tí lấy vui, không có ý định cờ bạc. Công an khám người thu tiền, lập biên bản bắt ký, xong bảo hai người lên gác làm kiểm điểm, tường trình. Đến người thứ ba có hàm râu mép, mặt mũi khôn ngoan, chú ấy bảo chả đánh bạc. Đang đứng chờ vợ con cạnh đám bạc thì bị bắt. Công an khám người chú ấy, móc ở túi quần chú ấy ra phải đến gần hai mươi đồng (cũng khá to hồi đó) Công an hỏi.
- Chờ vợ con mà tiền gì đây.
Chú kia lắc đầu thản nhiên.
- Này nhé, tiền của ông sao ông lại bảo tôi, tôi làm gì có đồng nào.
Công an sững người lại mấy chục giây, sau đó đút tiền vào ngăn bàn nói.
- Ừ không có tiền, đứng chờ vợ con à, thôi về đón vợ con đi không họ lo. Lần sau đứng tránh đám bạc ra nhớ.
Chú kia cảm ơn, rồi tỉnh bơ ra khỏi đồn. Nhìn chú ấy buồn cười quá, nên hai thằng bật cười, công an quát.
- Oắt con, cười gì, có đi về ngay không hay muốn nhốt trong kia cho muỗi đốt.
Hai thằng líu ríu chào chú, ba chân bốn cẳng chạy tót về nhà luôn./.

http://nguoibuongio1972.blogspot.com/

Thứ Năm, 30 tháng 1, 2014

Vĩnh biệt Phây-búc!



Thằng con trai 28 tuổi ế chỏng ế chơ của tôi một hôm bỗng tuyên bố giữa bữa cơm:


- Chủ nhật này con đưa bạn gái con về giới thiệu với ba mẹ được không?
Vợ tôi tròn mắt:
- Con? Có bạn gái?
Thằng khỉ làm bộ mặt nghiêm nghị:
- Mẹ làm gì vậy? Tại con chưa muốn thôi, chứ muốn là… 30 giây! Xếp hàng cả đống!
- Thì con cứ đưa về đi - tôi có ý kiến - Nhà mình thoải mái!
Minh họa : ĐỖ HOÀNG TƯỜNG
Minh họa : ĐỖ HOÀNG TƯỜNG
Vợ tôi lườm tôi:
- Thoải mái gì? Không phải ai muốn vô nhà này cũng được đâu! Bạn trước đã! Thấy được rồi mới muốn gì muốn nha!
Thằng con tôi cười hehe:
- Không phải được mà là quá được! Mẹ thấy là chịu liền cho coi! Công dung ngôn hạnh đầy!
- Nó tên gì? Mấy tuổi? Làm gì? - vợ tôi thăm dò.
- Dạ tên Trang, 24 tuổi, làm phòng kế toán cùng công ty với con.
- Vậy là tuổi con ngựa?
- Dạ.
Vợ tôi tính trong 10 giây:
- Dần với Ngọ… Nằm trong “tam hợp”. Cũng hợp với mẹ luôn. Được!
- Em thiệt tình! - tôi nhăn nhó - Giờ này mà cứ mê tín! Thử nó mê đứa nào “tứ hành xung” coi em có cản được không?
- Sao không? - vợ tôi trừng mắt - Không phải vụ tuổi nhưng phải có chuẩn đàng hoàng chứ! Nhà này không có chuyện con đặt đâu cha mẹ ngồi đó đâu!
Con tôi tỉnh bơ:
- Con bảo đảm mẹ thấy là chịu liền mà!
Đến lượt tôi sực nhớ:
- Con nói nó tên Trang?
- Dạ. Sao ba?
- Trời! Ba lo nhứt chuyện này, sao lại dính đúng luôn vậy?
- Gì vậy anh? - vợ tôi hỏi.
Tôi thở dài:
- Thì thằng con mình tên Nghĩa! Tên hai đứa gộp lại…
Con tôi ngoác miệng cười:
- Nghĩa Trang! Hehe! Tụi bạn con chọc rồi! Càng vui! Đích đến cuối cùng của mọi người mà!
Rồi nó nghiêm lại, chốt hạ:
- Vậy trưa chủ nhật nha ba mẹ! Trang sẽ đi chợ rồi tới đây sớm để phụ làm cơm với mẹ…
*
Mới chín giờ sáng chủ nhật, Trang chạy xe máy tới, phía trước vừa treo vừa chất mấy bịch hàng mới mua ở siêu thị. Tiêu chuẩn “công” và “dung” có vẻ đúng. Con nhỏ mặt mày dễ coi, sáng sủa, tướng tá gọn gàng, ăn mặc lịch sự. Đi chợ nhanh nhẹn thế kia, chắc là chuyện thường làm. Nó vui vẻ chào tôi và vợ tôi rồi ào ào xách đồ vào nhà và bất chợt… rú lên:
- Trời! Đẹp quá!
Thì ra đó là cái bình hoa vợ tôi lo đi mua cắm từ sáng sớm để trên bàn ăn để chuẩn bị tiếp khách đặc biệt. Trang móc ngay điện thoại, chụp hình lia lịa, rồi nhí nhoáy bấm tới bấm lui một lúc mới cười khì:
- Xong!
Nó bắt đầu bày biện các thứ vừa mua đầy mặt bàn trong bếp. Vợ tôi mon men tới gần, bị nó mời:
- Bác để con làm đi! Có gì thì anh Nghĩa phụ. Con làm hai món thôi, nhanh lắm! Bún chả giò, xúp mì ngôi sao nấu thịt bằm. Bảo đảm ngon, no!
- Để bác rửa rau cho? - vợ tôi rụt rè.
- Dạ không!
Sau lời tuyên bố chắc nịch, Trang nhào qua rửa rau. Nó vặn một chậu nước đầy, thảy rau vô và cứ vừa xả nước ào ào vừa kỳ cọ từng cọng rau. Tôi biết chắc bà vợ mình đang xót cho cái đồng hồ nước đang quay kim vèo vèo nhưng rất lạ là bà lại im ru, làm như đang bị khớp trước nàng dâu tương lai hậu hiện đại.
- Rửa rau dưới vòi nước đang chảy mới tốt nha bác! - Trang quay qua nói với vợ tôi, rồi mặc cho vòi nước chảy xối xả, nó lại móc điện thoại ra bấm bấm, vừa coi vừa chỉ đạo thằng con tôi làm này làm nọ, điều mà chưa bao giờ thằng khỉ làm cho mẹ.
Vợ tôi len lén đi tới nhìn vô cái điện thoại coi có gì trong đó. Trang cười:
- Con coi lại Gu-gồ chỉ làm chả giò cho chắc bác ơi!
Bữa ăn rồi cũng được dọn ra, bày biện đẹp mắt. Thằng Nghĩa mặt tươi rói xoa tay mời ba mẹ vào bàn. Vợ chồng tôi vừa cầm đũa thì Trang đưa tay cản lại:
- Hai bác chờ con xíu!
Nó lại cầm điện thoại chụp xạch xạch xạch, lại nhoay nhoáy bấm bấm một lúc. Vợ tôi không thể không thắc mắc:
- Con làm gì vậy?
- Dạ con pốt Phây-búc (*).
- Là cái gì?
- Dạ là mạng xã hội đó bác! Vui lắm! Con pốt cho các bạn biết con đang èn-choi trưa nay cho tụi nó thèm chơi. Đó, đó, tụi nó còm lia lịa rồi nè! - Trang đưa điện thoại qua cho Nghĩa coi. Thằng nhỏ vừa đọc vừa cười tủm tỉm.
- Hai bác lớn tuổi nên chơi Phây-búc cho đỡ buồn. Ngồi một chỗ trò chuyện, trao đổi thông tin, hình ảnh khắp thế giới với cùng lúc cả ngàn người bạn. Lại được thoải mái nói tâm trạng của mình, bình luận chuyện người khác, chém gió, chơi games, nghe nhạc, xem phim thoải mái… Cả gia đình, dòng họ ngồi một chỗ vẫn biết hết nhứt cử nhứt động của nhau. Anh Nghĩa! Sao anh không chỉ hai bác chơi Phây-búc vậy? -  Trang cự Nghĩa.
- Sợ ba mẹ nói mất thời giờ! Ba mẹ hay la anh mỗi lần anh thức khuya để chat - Nghĩa nói.
- Trời, vậy mà còn không biết chỉ hai bác chơi! Ba má em cũng cự em, em chỉ xong là mỗi người ôm một cái điện thoại, hết la hehehe! Vui lắm hai bác ơi!
*
Bạn bè tôi cũng chơi Phây-búc lâu nay, có rủ tôi nhưng tôi giấu dốt, làm bộ chê là trò vớ vẩn, mất thì giờ. Sau buổi gặp Trang, thằng Nghĩa bắt đầu hướng dẫn tôi vào cuộc. Từng bước một, tôi dần dần bị cuốn hút vào trò chơi mới. Cũng động chút là chụp hình, pốt, ghi sì-ta-tớt, like, còm… cả ngày. Bạn bè đông dần, trong đó bạn ngoài đời càng ngày càng ít hơn bạn ảo. Các bạn ảo này mới là vui, vì chả quen biết gì, thậm chí cái tên cũng ảo, thí dụ Loài hoa bé dại, Ai thèm nhớ anh, Thiên thần mắc đọa, Cá mập chết đuối... Hầu hết không biết mặt mũi thế nào. Có người đưa con chim, bông hoa, cờ nước... làm ảnh đại diện. Kể cả họ có đưa ảnh chân dung thì cũng không có gì bảo đảm là thật. Bạn ảo thì khỏi úy kỵ, bình luận ào ào, khen chê chửi rủa vung vít. Nói chung dù là một thế giới ảo, Phây-búc đúng là vui ra phết, y lời con dâu tương lai đã nói, tha hồ tán dóc. Tôi còn thấy sở dĩ nó được thiên hạ khoái như điên vì còn là một phương tiện tự sướng vô địch về mặt tinh thần. Từ đó lúc nào tôi cũng kè kè cái điện thoại bên cạnh, đến mức đi ngủ cũng để một bên, thấy rung báo có tin là lại mở ra bấm bấm nhấn nhấn.
Vợ tôi nổi điên:
- Anh cười thằng Nghĩa con Trang rồi bây giờ còn lậm hơn tụi nó! Anh vừa phải thôi nha! Toàn trò chuyện với mấy đứa con gái thôi phải không?
- Con gái đâu mà con gái! - tôi chống chế.
- Hôm nọ anh nằm bấm, tôi nhìn thấy rồi! Toàn hình con gái! Mê quá há! Anh coi chừng tôi, lộn xộn tôi cho anh lên đường ngay tức khắc!
Khi vợ xưng “tôi” là biết có chuyện rồi! Tôi kêu trời:
- Không có đâu em ơi. Bạn ảo thôi, có gặp đâu! Chơi cho vui thôi mà! Em cũng chơi đi cho vui? Bạn của anh cũng là bạn của em - tôi đề nghị.
- Không! Tôi không có rảnh! Mà tưởng tôi ngu hả, mấy người tạo group  riêng, có trời mới biết đang nói gì với nhau!
Tôi sửng sốt nhìn vợ. Sao nàng lại biết cả vụ này nữa trời? Vợ tôi như hiểu cái nhìn ấy, cười:
- Vợ anh không ngu đâu nha! Coi chừng đó! Bạn gái ảo thôi phải không? Nhất định không gặp phải không?
- Đúng rồi! Em tin anh đi! - Tôi nói chắc như bắp.
*
Bất ngờ có một cô gái với gương mặt đẹp như mơ và cái tên cũng quá thơ mộng - Giọt nắng bên thềm - xuất hiện xin làm bạn với tôi, cùng dòng nhắn tin: “Qua bạn bè, em rất thích những lời bình của anh. Xin anh cho em được làm bạn. Có thêm một người bạn tốt, cảm thông, chia sẻ, cuộc sống của mình sẽ nhẹ nhàng hơn”. Trời, hay như vậy làm sao tôi từ chối? Giọt nắng bên thềm tỏ ra là một cô gái rất thông minh, tinh tế, đặc biệt qua những câu chat riêng tỏ ra rất hiểu tôi. Em nói mới 30 nhưng đã một lần dang dở. Em nói mới chơi Phây nên rất ngại việc phơi bày rộng rãi cảm xúc riêng tư. Không hiểu sao em lại tin tôi và rất thích trò chuyện với tôi, nên xin được tạo group riêng hai người. Thấy không hại gì, tôi... nhận lời. Từ đó thỉnh thoảng tôi lại được xem những tâm trạng buồn vui của Giọt nắng , những tấm hình Giọt nắng  thật đẹp trong những bộ quần áo thời trang, kể cả bikini gợi cảm trên bãi biển... Tôi bắt đầu chat thường xuyên với Giọt nắng , điều lạ là em chỉ chat vào ban ngày, lúc tôi đi làm. Em xin lỗi tôi, nói là ban đêm không tiện, sẽ giải thích với tôi sau. Càng ngày em càng tỏ ra có tình cảm với tôi, hôm nào em không lên Phây, tôi cũng thấy thiêu thiếu, nhơ nhớ.
Một hôm bất ngờ em nhắn: “Chắc em không chơi Phây nữa, hoặc sẽ bỏ group của mình và lock anh luôn. Em nghĩ đến anh nhiều quá! Mà anh thì đã có gia đình... Em rất ngại... ”. Tôi hốt hoảng: “Đừng em! Không sao đâu, không có chuyện gì đâu. Mình chỉ là bạn trên Phây thôi mà...”. “Nhưng em cứ nghĩ đến anh và muốn gặp anh. Em không thích chỉ làm bạn ảo của anh. Anh có cho em gặp không? Em muốn mời anh ăn sáng uống cà phê, từ nay mình sẽ trò chuyện ngoài đời thỏa thích với nhau...”.
Bạn nghĩ tôi có thể từ chối lời mời ấy được không?
Và tại quán cà phê Chiều tà thơ mộng, tôi đã gặp Giọt nắng bên thềm. Đó chính là... vợ tôi! Hix! Với sự hướng dẫn tích cực của cô dâu tương lai tuổi Ngọ, nàng đã sử dụng Phây-búc thành thạo và cho tôi một vố nhớ đời...
Vĩnh biệt Phây-búc!    ./.
_____________
(*): Mạng xã hội Facebook. Những từ viết nghiêng: pốt (post): đưa lên
Truyện ngắn của NGUYỄN ĐÔNG THỨC

Tù Cải Tạo: Tội ác chống nhân loại của Cộng sản VN


Đỗ Ngọc Uyển

Sau khi chiếm được chính quyền tại Miền Bắc Việt Nam vào năm 1954, Hồ Chí Minh đã bê nguyên cái mô hình "hoc tập cải tạo" của Mao Trạch Đông từ Trung Cộng vào Miền Bắc Việt Nam. Đây là một kế hoạch nằm trong chính sách giết người có chủ đích, có tính toán dưới cái chiêu bài giả hiệu là "cải tạo" những người chống đối chủ nghĩa xã hội để trở thành công dân của nước xã hội chủ nghĩa. Với kế hoạch "cải tạo giết người" này, Hồ Chí Minh đã giết và thủ tiêu 850,000 người dân Miền Bắc trong những cái gọi là "trại học tập cải tạo."

Sau ngày 30-4-1975, lũ Việt gian cộng sản cũng tiếp tục kế hoạch giết người này, và chúng đã giết và thủ tiêu 165,000 quân, cán, chính VNCH và những người quốc gia trong 150 "trại cải tạo" của chúng trên toàn lãnh thổ Việt Nam.

"Học Tập Cải Tạo" Bắt Đầu tại Miền Bắc Việt Nam

Để xây dựng xã hội chủ nghĩa tại Miền Bắc Việt Nam, Hồ Chí Minh đã tiêu diệt tất cả những thành phần chống đối bằng những kế hoạch khủng bố sắt máu như: Rèn Cán Chỉnh Quân, Cải Tạo Công Thương Nghiệp, Cải Cách Ruộng Đất, và đàn áp những phong trào Nhân Văn Giai Phẩm, Trăm Hoa Đua Nở… Số nạn nhân của những vụ khủng bố này không ai biết là bao nhiêu, nhưng có thể ước tính là trên một triệu người, bởi vì chỉ riêng vụ gọi là Cải Cách Ruộng Đất đã có 700,000 nạn nhân. Nói chung, cho tới đầu năm 1960 toàn thể xã hội Miền Bắc đã bị "cào bằng," không còn giai cấp (social class). Các giai cấp trí, phú, địa, hào đã bị đào tận gốc, trốc tận rễ. Không ai có quyền tư hữu và mọi người đều nghèo khổ, đói rách như nhau. Mỗi năm, mỗi người được phát 2 thước vải thô Nam Định chỉ có thể may được một cái quần hay một cái áo, và hàng tháng được phát 15kg gạo, 200gr đường… Chưa hết, với chủ trương tuyệt diệt những thành phần chống đối, Hồ Chí Minh đã chỉ thị cho cái quốc hội bù nhìn "ban hành" một nghị quyết về "học tập cải tạo." Đây là một mẻ lưới "vĩ đại" cuối cùng nhằm vét hết những thành phần có thể gây cản trở cho công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa của y. Các trại "cải tạo" của Hồ Chí Minh được rập theo đúng khuôn mẫu các trại "lao cải" (laogai hay laojiao) của Mao Trạch Đông. . . Theo lệnh của Hồ, quốc hội cộng sản đã "ban hành" một Nghị Quyết (Resolution) về "học tập cải tạo" mang số 49-NQTVQH ngày 20-6-1961. Căn cứ vào nghị quyết này, hội đồng chính phủ đã "đẻ" ra cái Thông Tư (General Circular) số 121-CP ngày 8-9-1961 để áp dụng trong toàn nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà. Những nạn nhân bị chi phối bởi cái nghị quyết trên gồm những thành phần sau đây:

1. Tất cả những gián điệp nguy hiểm, những biệt động; tất cả những quân nhân và viên chức hành chánh của chính quyền quốc gia trước đây.
2. Tất cả những nhân vật nòng cốt của các tổ chức và đảng phái đối lập.
3. Tất cả những thành phần ngoan cố thuộc giai cấp bóc lột và những kẻ chống phá cách mạng.
4. Tất cả những kẻ chống phá cách mạng đã bị tù và hết hạn tù nhưng không chịu cải tạo.
Bốn thành phần trên đây đều có một đặc điểm chung mà cộng sản gọi là "những thành phần ngoan cố, chống phá cách mạng." (obstinate counter-revolutionary elements). Thời gian "cải tạo" được ấn định là 3 năm, nhưng sau 3 năm mà chưa "tiến bộ" thì "cải tạo" thêm 3 năm nữa và cứ như thế tiếp tục tăng thêm 3 năm nữa… cho đến khi nào "học tập tốt, cải tạo tốt" thì về, thực tế là vô thời hạn. Ngoài Hồ Chí Minh và những tên đồng đảng ra, không ai biết được số nạn nhân bị đưa đi "cải tạo" là bao nhiêu; nhưng có thể ước tính là nhiều triệu người, căn cứ vào con số nạn nhân chết trong các "trại cải tạo" là 850,000 người do Tổ Chức Tưởng Niệm Nạn Nhân Cộng Sản (The Victims of Communism Memorial Foundation) đưa ra: (…When Ho Chi Minh sent 850,000 Vietnamese to their graves in reeducation camps ...)

"Học Tập Cải Tạo" tại Miền Nam Việt Nam

Cộng sản ước tính rằng tại Miền Nam có 1,300,000 người đã tham gia vào chính quyền Quốc Gia và Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà, và mỗi gia đình có 5 người; như vậy là có 6,500,000 người có nợ máu với chúng. Những người nào phục vụ trong quân đội hay trong chính quyền thì phải đi "cải tạo" và những thành phần còn lại trong gia đình thì phải đi những "khu kinh tế mới;" cũng là một cách đưa đi đầy ải tại những vùng rừng núi xa xôi, hẻo lánh. Đây là một kế hoạch "tắm máu trắng" đã được nghiên cứu và tính toán rất kỹ của của tập đoàn Việt gian cộng sản.

Một tháng sau khi xâm chiếm được Miền Nam, lũ bán nước cộng sản áp dụng Nghị Quyết số 49-NQTVQH ngày 20-6-1961 và Thông Tư số 121-CP ngày 8-9-1961 của chúng để đưa một triệu quân, cán, chính VNCH và những người quốc gia chống cộng đi "học tập cải tạo," thưc chất là đưa đi tù để trả thù (revenge). Đây là cung cách hành xử man rợ của thời trung cổ. Và bằng lối hành xử dã man, rừng rú này, cộng sản đã phạm 5 trong số 11 Tội Ác chống Nhân Loại [1] (Crimes against Humanity) theo luật pháp quốc tế được dự liệu tại Điều 7 của Đạo Luật Rome (Article 7 of The Rome Statute) như sau:

Tội ác thứ 1 - Tội cầm tù hay tước đoạt tự do thân thể một cách nghiêm trọng, vi phạm những điều luật căn bản của luật pháp quốc tế (Imprisonment or other severe deprivation of physical liberty in violation of fundamental rules of international law)

Những người bị cộng sản cầm tù (imprisonment) sau ngày 30-4-1975 là những người bị cộng sản trả thù vì lý do chống cộng tức lý do chính trị. Cộng sản không thể mang những người này - công dân của một một quốc gia độc lập đã bị Việt gian cộng sản, tay sai của Quốc Tế 3, xâm chiếm bằng vũ lực (aggression) một cách phi pháp - ra toà án để kết tội. Cộng sản nguỵ biện một cách láo xược rằng những người này là những tội phạm chiến tranh (war criminals) theo điều 3 của đạo luật về tội chống phá cách mạng ban hành ngày 30-9-1967 của chúng (article 3 of the 30 October 1967 law on counter-revolutionary crimes) và rằng nếu mang ra tòa án xét xử thì những người này có thể bị kết án từ 20 năm tù đến chung thân hay tử hình; nhưng vì chính sách "khoan hồng" và sự "chiếu cố" của đảng nên những người này được đưa đi "học tập cải tạo" thay vì đưa ra toà án xét xử. Đây là một sự nguỵ biện trơ trẽn và lếu láo. Luật rừng rú của đảng cộng sản không có một chút gì gọi là công lý của thời đại văn minh mà chỉ là một công cụ man rợ của thời trung cổ để khủng bố người dân Miền Bắc dưới sự thống trị của chúng, và không thể mang ra áp dụng cho công dân của một quốc gia văn minh như VNCH được.

Tóm lại, giam cầm người không chính thức kết án, không xét xử (imprisonment without formal charge or trial) là vi phạm nhân quyền và là Tội Ác chống Loài Người.

Tội ác thứ 2 - Tội tra tấn, hành hạ (Torture)

Đối với cộng sản, các quân, cán, chính Việt Nam Cộng Hoà và những người quốc gia chống cộng là kẻ thù không đội trời chung của chúng. Do đó, một khi đã sa cơ rơi vào tay chúng là dịp để chúng trả thù bằng tra tấn và hành hạ. Mục đích trả thù của chúng là nhằm tiêu diệt hết khả năng chống cự của cả thể chất lẫn tinh thần của người tù. Sau đây là vài đòn thù tiêu biểu:

a. Hành hạ bằng cách bỏ đói
- Đây là một đòn thù thâm độc nhằm tiêu diệt ý chí của người tù về lâu về dài. Người tù bị đói triền miên, không còn nghĩ đến chuyện gì khác ngoài miếng ăn. Quanh năm suốt tháng không một bữa được ăn no; càng ăn càng đói và đói cho tới khi chết. Ngay cả trong giấc ngủ cũng chỉ mơ đến miếng ăn. Bát cơm và miếng thịt là một ước mơ xa vời. Trên nguyên tắc, mỗi người tù được cấp mỗi tháng 12kg gạo. Nhưng thực tế, người tù chỉ được cấp ngô, khoai, sắn, bo bo… tương đương với 12kg gạo mà chúng gọi là "quy ra gạo." Ngô, khoai, sắn và bo bo mà chúng cho tù ăn là những thứ được cất giữ lâu ngày trong những kho ẩm thấp, bị mục nát, hư hỏng và đầy sâu bọ. Với số lượng và phẩm chất lương thực như thế, tính ra chỉ cung cấp đươc khoảng từ 600 đến 800 calories một ngày, không đủ để sống cầm hơi, lại phải làm công việc khổ sai nặng nhọc cho nên đã có rất nhiều tù nhân chết vì đói, vì suy dinh dưỡng. Sau đây là một ví dụ: vào cuối năm 1978, tại trại 2 thuộc liên trại 1 Hoàng Liên Sơn có một anh bạn tù vì "lao động" nặng nhọc và suy dinh dưỡng đang nằm chờ chết. Anh em bạn tù thấy vậy bèn hỏi xem anh ta có muốn nhắn gì về cho vợ con hay người thân không? Anh bạn tù sắp chết nói rằng anh ta chỉ muốn được ăn no một bữa khoai mì luộc! Nghe vậy, có một anh tù, vì thương bạn, đã mạo hiểm chui qua hàng rào, đào trộm vài củ khoai mì do chính tù trồng, mang về luộc, rồi mang lên cho bạn thì anh bạn đã chết. Thỉnh thoảng tù cũng được cho ăn cơm nhưng lại độn hai phần sắn hay khoai với một phần gạo, và mỗi bữa ăn, mỗi người được phân phát một chén nhỏ với nước muối. Đến mùa "thu hoạch" ngô và khoai mì do tù trồng, anh em tù cũng được cấp phát ngô và khoai mì luộc. Mỗi bữa ăn được phân phát hai cái bắp ngô, chỉ đếm được chừng 1000 hạt, và khoai mì thì được cấp phát hai khúc, mỗi khúc ngắn độ một gang tay. Còn thịt thì chỉ được cấp phát vào những dịp đặc biệt như ngày tết Nguyên Đán, ngày lễ độc lập của chúng, ngày sinh nhật "Bác"của chúng; mỗi phần ăn được khoảng 100gr thịt heo hay thịt trâu.

Bỏ đói tù là một thủ đoạn tra tấn/hành hạ (torture) đê tiện, có tính toán của cộng sản. Ngoài việc huỷ diệt ý chí của người tù, sự bỏ đói còn nhằm huỷ hoại thể chất của người tù để không còn sức đề kháng chống lại bệnh tật. Do đó, đã có rất nhiều anh em mắc những chứng bệnh do suy dinh dưỡng như lao phổi, kiệt sức, phù thũng, kiết lỵ, ghẻ lở…, và có rất nhiều cái chết rất đau lòng chỉ vì đói, vì suy dinh dưỡng, vì thiếu thuốc men và không được chữa trị…

b. Hành hạ thể xác - Cộng sản vẽ ra khẩu hiệu "lao động là vinh quang." Chúng bắt người tù phải làm công việc khổ sai nặng nhọc như cuồc đất, đào đất, làm đường, đào ao, chặt cây, đốn gỗ, cưa xẻ, làm gạch…Người tù đã thiếu ăn, kiệt sức; chúng lại đặt ra những chỉ tiêu cao để người tù không thể đạt được, và chúng kiếm cớ để hành hạ thể xác:

•Cắt tiêu chuẩn lương thực từ 12kg xuống còn 9kg và nhốt vào conex, khoá chặt. Người tù bị nhốt như vậy có khi hàng tháng. Với sức nóng mùa Hè và khí lạnh mùa Đông không thể chịu đựng nổi, người tù bị chết vì sức nóng và chết vì rét.
•Cắt tiêu chuẩn lương thực xuống còn 9kg; nhốt trong sà lim; hai chân bị cùm siết chặt đến chảy máu; da thịt bị nhiễm trùng, lở loét; người tù bị nhốt như vậy trong nhiều tháng trời và khi được thả ra chỉ còn da bọc xương, đi không nổi phải bò.
•Chúng cột người tù vào một cây cột và bắt người tù phải đứng thẳng hoặc nằm hay ngồi cả tuần lễ có khi lâu hơn.
•Chúng trói người tù theo kiểu cánh bướm "butterfly style or contorted position" bằng cách bắt một cánh tay bắt chéo qua vai và cánh tay kia bắt qua sau lưng và cột chặt hai ngón tay cái với nhau. Chúng cột người tù trong tư thế bị trói như vậy vào một cái cột và bắt đứng trong nhiều tiếng đồng hồ. Người tù chịu không nổi, bị ngất xỉu.
Trên đây chỉ là vài cách hành hạ (torture) thể xác tiêu biểu. Cộng sản còn nhiêu kiểu hành hạ độc ác khác như nhốt người tù vào chuồng cọp hay bỏ xuống những giếng nước khô cạn, bỏ hoang lâu ngày, đầy những ổ rắn rết…

c. Tra tấn tinh thần - Mục đích của cộng sản là làm cho tinh thần người tù luôn luôn bị căng thẳng để gây tổn thương trầm trọng cho sức khoẻ thể chất và tinh thần (causing serious injury to physical and mental health) bằng hai phương pháp sau đây:

- Nhồi sọ chính trị (Political indoctrination) - Để mở đầu kế hoạch "cải tạo," cộng sản bắt người tù phải học 9 bài chính trị. Mỗi bài phải học từ một tuần lễ đến 10 ngày gồm: lên lớp, thảo luận trong tổ, trong đội… Cuối mỗi bài học, người tù phải viết một bản gọi là "thâu hoạch" để nộp cho chúng. Nội dung những bài học gọi là chính trị này chỉ là những bài tuyên truyền rẻ tiền như: Mỹ là tên đầu sỏ đế quốc, là con bạch tuộc có hai vòi: một vòi hút máu nhân dân Mỹ và một vòi hút máu nhân dân nước ngoài. Ta đánh Mỹ cũng là giải phóng cho nhân dân Mỹ thoát khỏi sự bóc lột của đế quốc Mỹ. Đế quốc Mỹ là con hổ giấy. Mỹ giầu nhưng không mạnh. Ta nghèo nhưng ta mạnh.

Dưới sự lãnh đạo của đảng quang vinh, ta đã đánh thắng tên đế quốc sừng sỏ nhất thời đại. nguỵ quân, nguỵ quyền là tay sai của đế quốc Mỹ, có nợ máu với nhân dân và là tội phạm chiến tranh…
Bài học cuối cùng là bài "lao động là vinh quang" để chuẩn bị bắt người tù làm những việc khổ sai nặng nhọc.

Những bài tuyên truyền rẻ tiền và ấu trĩ trên đây chỉ có thể áp dụng cho người dân bị bưng bít và thiếu học ở Miền Bắc đã bị cộng sản u mê hoá chứ không có tác dụng gì đối với những người đã sống dưới chính thể tự do tại Miền Nam. Tuy nhiên, cái không khí khủng bố của trại tù đã làm cho một số anh em hoang mang và căng thẳng tinh thần. Do đó, đã có một số người tự sát và trốn trại. Những người trốn trại chẳng may bị bắt lại đã bị chúng mang ra toà án nhân dân của chúng kết tội và bắn chết ngay tại chỗ. Đây là đòn khủng bố tinh thần phủ đầu của cộng sản theo kiểu "sát nhất nhân, vạn nhân cụ."

- Tự phê (Confession) - Tiếp theo phần "học tập chính trị" là phần "tự phê." Người tù phải viết một bản tiểu sử kể từ khi còn nhỏ cho tới khi vào tù; phải kê khai thành phần giai cấp của dòng họ từ ba đời trước cho đến con cháu sau này; phải kê khai những việc làm trong quá khứ và phải kết tội những việc làm đó là gian ác cũng như phải tự kết tội mình có nợ máu với nhân dân. Người phát thư cũng bị kết tội là đã chuyển thư tín giúp cho bộ máy kìm kẹp của nguỵ quân, nguỵ quyền. Các vị tuyên uý trong quân đội bị kết tội là đã nâng cao tinh thần chiến đấu của nguỵ quân. Các bác sĩ quân y thì bị kết tội là đã chữa trị cho các thương, bệnh binh để mau chóng phục hồi sức chiến đấu của nguỵ quân…Tóm lại, tất cả nguỵ quân, nguỵ quyền đều là những thành phần ác ôn, có nợ máu với nhân dân và phải thành khẩn khai báo những tội ác cũng như phải thành khẩn lao động sản xuất để sớm được đảng cứu xét cho về đứng "trong lòng dân tộc." Trong suốt thòi gian bị tù, người tù phải liên tiếp viết những bản tự phê; phải moi óc tìm và "phịa" ra những "tội ác" để tự gán và kết tội mình, và nếu bản viết lần sau thiếu vài "tội ác" so với bản viết lần trước, anh sẽ bị kết tội là vẫn còn ngoan cố và thời gian học tập sẽ còn lâu dài.

"Tự phê" một đòn tra tấn tinh thần rất ác ôn. Nó làm cho người tù bị căng thẳng tinh thần triền miên kể cả trong giấc ngủ và đã có một số anh em gần như phát điên, la hét, nói năng lảm nhảm và có người đã tự vẫn…

Tội ác thứ 3 - Tội giết người (Murder)


Những anh em trốn trại bị bắt lại đã bị cộng sản mang ra xử tại toà án nhân dân của chúng và bị bắn chết ngay tại chỗ. Đây là tội ác giết người (murder) bởi vì trên danh nghĩa cũng như theo pháp lý thì những người này chỉ là những người đi học tập. Và khi một người đi học tập mà trốn trại học tập là chuyện rất thường tình, không có tội lỗi gì đối với pháp luật. Nhưng đối với bọn vô nhân tính cộng sản thì không thể nói chuyện lý lẽ với chúng được. Vào một ngày cuối năm 1975, tại trại giam Suối Máu, Biên Hoà, chúng mang hai anh sĩ quan cấp uý trốn trại bị bắt lại ra xử tại toà án nhân dân rừng rú của chúng được thiết lập ngay trong trại giam. Trước khi mang ra xử, chúng đã tra tấn hai anh này đến mềm người, rũ rượi, xụi lơ, không còn biết gì nữa. Ngồi trên ghế xử, tên "chánh án" cùng ba tên đồng đảng giết người mặt sắt đen sì, răng đen mã tấu, dép râu, nón cối, ngập ngọng giọng Bắc Kỳ 75 đọc xong "bản án giết người" đã viết sẵn và ngay lập tức chúng mang hai anh ra bắn chết cạnh hai cái hố đã đào sẵn. Buổi trưa hôm đó bầu trời Biên Hoà có nắng đẹp, nhưng khi tiếng súng giết người nổ vang lên, mây đen bỗng kéo đến phủ tối cả bầu trời và đổ xuống những hạt mưa nặng hạt. Tất cả anh em trong trại giam lặng lẽ cúi đầu tiễn đưa hai đồng đội sa cơ, thất thế.

Ngoài cách giết người rừng rú trên đây, cộng sản còn chủ tâm giết người bằng nhiều cách khác như cho ăn đói và bắt làm khổ sai nặng nhọc để chết dần chết mòn; để cho chết bệnh, không cung cấp thuốc men, không chữa trị; bắt làm những việc nguy hiểm chết người như gỡ mìn bằng tay không…

Tội ác thứ 4 - Tội bắt làm nô lệ (Enslavement)


Người tù phải sản xuất lương thực như trồng sắn, trồng ngô, trồng khoai, trồng rau…để tự nuôi mình; ngoài ra, còn phải sản xuất hàng hoá, sản phẩm để bán ra ngoài thị trường. Tại các trại tù trong vùng rừng núi Hoàng Liên Sơn, người tù phải đốn gỗ, cưa xẻ, chặt giang, chặt nứa, chặt vầu… để trại tù mang đi bán. Tai trại tù Hà Sơn Bình có những đội cưa xẻ, đội mộc, đội gạch để sản xuất bàn, ghế, giường, tủ và gạch để bán. Tại trại tù Z30D, Hàm Tân, người tù phải trồng mía, sản xuất đường; mỗi tháng bán hàng tấn đường ra ngoài thị trường… Cộng sản bắt người tù phải làm công việc như người nô lệ thời trung cổ khi phe thắng trận bắt người bên phe thua trận phải làm nô lệ lao động (slave labour) thay vì mang đi giết. Đây là sự vi phạm nhân quyền một cách man rợ của thời trung cổ và là một Tội Ác chống Loài Người.

Tội ác thứ 5- Tội thủ tiêu mất tích người (Enforced disappearance of persons)
Theo các tài liệu nghiên cứu có giá trị hàn lâm tại Hoa Kỳ và Âu Châu thì số nạn nhân chết trong các "trại cải tạo" là 165,000 người. Hiện nay, ngoài cộng sản ra, không ai biết nơi chôn cất các nạn nhân này. Suốt 33 năm nay, chúng không cho thân nhân cải táng để mang hài cốt về quê quán. Đây là đòn thù vô nhân đạo đối với những nạn nhân đã nằm xuống, và là hành vi độc ác (inhumane act) gây đau khổ tinh thần triền miên, suốt đời cho thân nhân các nạn nhân. Chỉ có một số rất ít, không đáng kể, thân nhân các nạn nhân đã chạy chọt, tìm được cách cải táng người thân của họ; còn tuyệt đại đa số 165,000 người tù chính trị được coi như đã bị thủ tiêu mất tích. Đây là chủ tâm trả thù dã man của cộng sản và là một Tội Ác chống Nhân Loại.

Mới đây nhất, trong cuộc họp với tổng thống George W. Bush tai Bạch Cung ngày 24-6-2008, Việt cộng Nguyễn Tấn Dũng hứa sẽ tiếp tục tìm kiếm và trao cho Hoa Kỳ hài cốt những quân nhân Mỹ mất tích (MIA) trong cuộc chiến VN. Trong khi đó quân cộng sản giết người đang chôn giấu để thủ tiêu mất tích hài cốt của 165,000 quân, cán, chính VNCH và những người quốc gia đã bị chúng sát hại, sau ngày 30-4-1975, trong 150 "trại tù cải tạo" của chúng trên toàn cõi VN. Điều này chứng tỏ rằng lũ Việt gian cộng sản tiếp tục nuôi dưỡng hận thù đối với người Việt quốc gia, ngay cả đối với những người đã nằm xuống, trong khi miệng chúng luôn luôn hô hào hoà hợp hoà giải. "Đừng nghe những gì cộng sản nói; hãy nhìn kỹ những gì chúng làm."

Ngoài 5 tội ác chống loài người kể trên, vào năm 1980, cộng sản đã có kế hoạch đưa gia đình những người tù từ Miền Nam để cùng với những thân nhân của họ đang bị tù tại Miền Bắc đi "định cư" tại những "khu kinh tế mới" ở Miền Bắc mà thí điểm đầu tiên là khu Thanh Phong/Thanh Cầm, một khu rừng thiêng nước độc tại Miền Bắc, nơi đang có những "trại cải tạo." Ý đồ của âm mưu thâm hiểm này là đưa đi đầy chung thân, khổ sai, biệt xứ để giết dần, giết mòn tất cả những người tù cùng với gia đình họ. Đây là một kế hoạch diệt chủng (genocide) được nghiên cứu và tính toán rất kỹ của tập đoàn Việt gian cộng sản. Nhưng trời bất dung gian, chúng không thực hiện được âm mưu diệt chủng này vì cục diện thế giới thay đổi dẫn đến sự phá sản của chủ nghĩa cộng sản trên toàn thế giới, và chúng đã phải thả những nạn nhân của chúng ra để họ đi định cư tại Hoa Kỳ với tư cách là những người tỵ nạn chính trị (political refugees).

Cái nghị quyết số 49-NQTVQH ngày 20-6-1961 của tên đại Việt gian bán nước Hồ Chí Minh - cho tới ngày hôm nay vẫn còn hiệu lực - là một dụng cụ đàn áp thâm hiểm nhất để chống lại nhân quyền (the most repressive tool against human rights). Suốt nửa thế kỷ vừa qua, bằng cái nghị quyết phản động này, lũ bán nước cộng sản đã và đang tiếp tục đưa hàng triệu, triệu người Việt Nam đi "học tập cải tạo" mà không qua một thủ tục pháp lý nào cả. Với 5 Tội Ác chống Nhân Loại (Crimes against Humanity) như đã trình bày trên đây, bọn Việt gian cộng sản phải bị mang ra xét xử tại Toà Án Hình Sự Quốc Tế [2] (International Criminal Court).

Số Nạn Nhân Bị Giam Cầm, Số Nạn Nhân Chết và Số "Trại Tù Cải Tạo"

Theo sự ước tính của các tài liệu nghiên cứu có tính hàn lâm tại Hoa Kỳ và Âu Châu đã được phổ biến "…According to the published academic studies in the United States and Europe…" thì số nạn nhân và số các "trại tù cải tạo" được ước tính như sau:

•1 triệu nạn nhân đã bị giam giữ không bị chính thức kết tội hay xét xử (without formal charge or trial).
•165,000 nạn nhân chết tại các "trại tù cải tạo."
•Có ít nhất 150 "trại tù cải tạo" sau khi Sàigòn sụp đổ.
Thời Gian "Cải tạo"

Có những nạn nhân đã bị giam giữ tới 17 năm, và theo Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ thì đại đa số nạn nhân bị giam giữ từ 3 tới 10 năm, và tính trung bình mỗi người phải trải qua 5 trại giam. "…according to the U.S. Department of State, most term ranging from three to 10 years…" Nếu lấy con số trung bình là 7 năm tù cho mỗi người thì số năm tù của một triệu nạn nhân là 7 triệu năm. Đây là một tội ác lịch sử không tiền khoáng hậu của bọn Việt gian cộng sản; vượt xa cả tội ác một ngàn năm của bọn giặc Tầu và một trăm năm bon giặc Tây cộng lại.

Món Nợ của Hoa Kỳ Đối Với Đồng Minh.


Chính phủ Hoa Kỳ công nhận những người bị giam cầm (imprisonment) này là những ngưòi tù chính trị, và đã điều đình với phỉ quyền cộng sản để cho những người này được thả ra để cùng với gia đình đi đinh cư tỵ nạn tại Mỹ ưu tiên theo Chương Trình Ra Đi Có Trật Tự (Orderly Departure Program) đối với những người bị giam cầm từ 3 năm trở lên. "…The U.S. government considers reeducation detainees to be political prisoners. In 1989 the Reagan administration entered into an agreement with the Vietnamese government, pursuant to which Vietnam would free all former AVN soldiers and officials held in reeducation camps and allow them to immigrate to the United States… that gives priority to those who spent at least three years in reeducation…"

Hoa Kỳ coi việc đưa những người tù chính trị này sang định cư tỵ nạn tại Mỹ là để trả một món nợ quốc gia đối với đồng minh trong thời chiến. Những người này đã bị giam cầm vì đã cộng tác mật thiết với Hoa Kỳ trong cuộc chiến. "… Resettling this group will be a step toward closing out this nation's debt to its Indochina wartime allies. "These people have been detained because of their closed association with us during the war," said Robert Funseth, the senior deputy assistance secretary of state for refugee affairs who spent most of this decade negotiating their resettlement…"

Phải nói môt cách chính sác rằng những người tù chính trị Việt Nam đi định cư tỵ nạn tại Mỹ theo một chương trình ra đi đặc biệt (a special program) nằm trong khuôn khổ của Chương Trình Ra Đi Có Trật Tự (Orderly Departure Program) chứ không phải theo chương trình HO (Humanitarian Operation) tưởng tượng nào cả. Cái gọi là chương trình HO chỉ là sự suy diễn từ các con số thứ tự của các danh sách những người tù chính trị đã được cộng sản trao cho Hoa Kỳ để phỏng vấn đi tỵ nạn tại Mỹ theo thứ tự: H.01, H.02…. H.10, H.11, H.12…

Cộng sản và tay sai có thể lợi dụng cái danh xưng "HO" không Chính không Thực và Lập Lờ này cho những âm mưu đen tối của chúng. Chúng có thể tuyên truyền lếu láo rằng: "Không những đảng đã tha chết cho bọn tội phạm chiến tranh này, mà còn tổ chức cả một "Chiến Dịch Nhân Đạo/HO" để cho đi định cư tại ngoại quốc. Ra đến ngoại quốc đã không biết ơn lại còn đi đấu tranh, biểu tình chống lại đảng…" Sự kiện tù chính trị là một sự kiện có tính chính trị và lịch sử; phải xử dụng Danh cho Chính. Không thể Lộng Giả Thành Chân cái nguỵ danh "HO" để xuyên tạc sự thật lịch.

Học tập cải tạo" là một nguỵ danh để che đậy 5 Tội Ác chống Loài Người (Crimes against Humanity) được dự liệu tại Điều 7 của Đạo Luật Rome (Article 7 of The Rome Statute) của bè lũ Việt gian cộng sản đối với quân, dân, cán, chính VNCH đã bị chúng giam cầm (imprisonment) một cách phi pháp sau ngày 30-4-1975. Đây cũng là một tội ác có tính lịch sử của lũ Việt gian cộng sản. Cái nguỵ danh "tù cải tạo/HO" phải được Chính Danh là: Tù Nhân Chính Trị và Nạn Nhân của Tội Ác chống Loài Người của Hồ Chí Minh và bè lũ cộng sản. Cũng cần phải nói thêm rằng khi dùng cái danh từ "cải tạo" của cộng sản là mắc mưu chúng bởi vì chúng tuyên bố lếu láo rằng vì các anh có "nợ máu" với nhân dân nên các anh phải đi "cải tạo," và khi tự gọi mình là "tù cải tạo" tức là tự nhận mình có tội. Cũng như khi tự gọi mình là một "HO"- một cái nguỵ danh đã bị lộng giả thành chân để chỉ một người "tù cải tạo" - là tự từ bỏ cái căn cước người tù chính trị của mình. Cho nên, Chính Danh là vấn đề rất quan trọng cả về chính trị và lịch sử. Dùng Nguỵ Danh để che đậy và bóp méo một sự kiện lịch sử là tội đại gian và có tội đối với lịch sử./.

Đỗ Ngọc Uyển - Sanjose, California


Tài liệu tham khảo:

- http://en.wikipedia.org/wiki/Reeducation_camp
- http://www.ofc.berkeley.edu/~sdenney/Vietnam-Reeducation-Camps-1982
http://www.victimsofcommunism.org/history_communism.php
http://untreaty.un.org/cod/icc/STATUTE/99_corr/cstatute.htm (Rome Statute of International Criminal Court)
http://www.optionaljournal.com/best/?id=110010372 " (The Wall Street Journal, Monday, July 23, 2007 – Best of The Web Today by James Tananto)
http://query.nytimes.com/gst/fullpage.html?res=953D7103DF936A25 753C1A96F948260&sec= &spon=…(The New York Times, October 15, 1989
- THE NATION; The Next Wave From Vietnam: A new Disability by Seth Mydans)
- U.S Department of State – Fact sheet - Bureau of Population, Refugee and Migration – Washington DC – January 16, 2004
Chú thích :
[1] 11 tội ác chống nhân loại được dự liệu trong Điều 7 của Đạo Luật Rome gồm có: 1- Murder; 2- Extermination ; 3- Enslavement; 4- Deportation or forcible transfer of population; 5- Imprisonment or other severe deprivation of physical liberty in violation of fundamental rules of international law; 6- Torture; 7- Rape, sexual slavery, enforced prostitution, forced pregnancy, enforced sterilization or other form of sexual violence of comparable gravity; 8- Persecution against any identifiable group or collectivity on political, racial, national, ethnic, cultural, religious, gender as defined in paragraph 3, or other grounds that are universally recognized as impermissible under international law in connection with any crime within the jurisdiction of the court; 9- Enforced disappearance of persons; 10- The crime of apartheid; 11- Other inhumane acts of a similar character causing great suffering, or serious injury to body or to mental or physical health;
[2] Toà Án Hình Sự Quốc Tế (International Criminal Court) là toà án độc lập và thường trực được thành lập theo Đạo Luật Rome (The Rome Statute) để điều tra và xét xử 4 loại tội ác sau đây: 1- Crimes against humanity (Tội ác chống nhân loại); 2- The crime of genocide (Tội ác diệt chủng); 3- Crimes of war (Tội ác chiến tranh); 4- Crimes of aggression (tội ác xâm lược).#
1975 - 1980:
@ Cướp tài sản của nhân dân bằng cách đánh tư bản mại sản. Mua nhà của dân, rồi in và đổi tiền nhiều lần.
@ Bắt nghĩa vụ quân sự thanh niên miền nam, bắt huấn luyện tượng trưng vài tháng rồi dẫn độ qua Campuchia cho bọn Polpot bắn giết từ phía trước và giặc bộ đội chính quy việt nam bắn từ phía sau...với mục đích tiêu trừ thật nhiều thanh niên miền nam, những người đã lớn lên, sống và hiểu biết về chế độ tàn ác cộng sản. Hàng ngàn thanh thiếu niên đã chết tức tưởi và không được thông báo cho gia đình...Đây là chiến dịch giệt chủng tàn độc của bọn việt cộng giải phóng...
@ Chuyện một em bé 12 tuổi ăn cắp một con gà...Chính quyền giải phóng miền nam bắt em mang ra sân vận động Đạt Đức ở gần Xóm Mới bắn tử hình để dằn mặt người dân miền nam năm 1975...Với khẩu hiệu "Đảng Liêm Chính và Chuyên Chính Vô Sản".
@ Chương trình kinh tế mới nhằm cướp thêm tài sản của dân trong vùng thành phố. Nhất là những tài sản của gia đình quân nhân VNCH. "Chương trình Lao Động Để Được Nhà Nước Khoan Hồng".
@ Người vượt biên, vượt biển thì chúng ghép cho tội: Những loại người phản quốc / bọn đầu trộm đuôi cướp / đĩ điếm v.v... Nay thì lại đổi giọng là Việt Kiều Yêu Nước / Khúc ruột ngàn dặm v.v.. Xin mời người việt hải ngoại trở về giúp xây dựng đất nước!!??
@ Đảng và nhà nước - một lũ ăn cướp biết bao nhiêu là tài sản của nhân dân, dâng Hoàng Sa Trường sa cho giặc / dẫn giặc tàu vào Tây Nguyên qua chương trình khai thác Bauxite và những khu đất rừng cho tàu cộng mượn 50 năm không tính toán!!?? Nước việt nam có khu khai mỏ của tàu (đây là căn cứ của gián điệp tàu cộng do nhóm quân đội trung quốc là những công nhân trá hình đang phát triển những căn cứ / quân khu ngầm ngay trong lòng đất việt!!!, nhạc tàu, gái việt lấy tàu, đẻ con cho tàu...Chính quyền và đảng cộng sản việt nam đang tiếp tay cho Tàu cơ hội phát huy chiến dịch đồng hóa dân việt...
@ Phá rừng, khai sông, phá hoại thiên nhiên không tội vạ! ai đã và đang làm những điều này?
@ Hàng trăm ngàn tội ác khác mà không lâu nữa những người cộng sản sẽ phải trả lời dưới ánh sáng của mặt trời và trước toàn thể người dân Việt Nam....
Khốn nạn thay...
http://www.vietlist.us/SUB_Nannhancs/nannhancs_TL_42.shtml
http://www.lyhuong.net/uc/index.php/vnch/2500-2500 

Thứ Tư, 29 tháng 1, 2014

Đời Sống Người Tù Cải Tạo.


Bác Sĩ Nguyễn Ý Ðức


AFP/Getty Images.
LTS. Chế độ tập trung cải tạo cho quân cán chính Việt Nam Cộng Hòa được thi hành sau khi Cộng Sản miền Bắc thôn tính miền Nam. Bài này đúc kết lời kể của các cựu tù nhân chính trị; mục đích là để thế hệ mai sau, trong và ngoài nước, biết các khó khăn, đau khổ của cha chú họ, như một bài học đắt giá cho nhân loại, để tránh tái diễn chứ không phải để giữ mãi hận thù.  
 
Trình Diện Để Đi Tù Đầy
Mấy tuần lễ sau khi miền Nam thất thủ thì chiến dịch rỉ tai về học tập cải tạo bắt đầu được tung ra. Nhưng mãi đến đầu tháng sáu 1975 Uỷ Ban Quân Quản Thành Phố mới ra lệnh cho các quân cán chính Việt Nam Cộng Hòa phải trình diện để đi “Học Tập Cải Tạo”. Uỷ Ban ra thông cáo vào các ngày 10-6, 11-6 và 20-6-75 trên đài phát thanh và báo chí, chỉ định rõ địa điểm và ngày giờ trình diện.
Hạ sĩ và nhân viên chính quyền từ chủ sự trở xuống học tập ba ngày tại phường. Các cấp thấp hơn như binh sĩ, cán bộ phường khóm được khoan hồng miễn trình diện. Cả mấy trăm ngàn người nô nức đi trình diện học tập vì họ nghĩ rằng học tập cho xong để hy vọng sớm trở về làm ăn. Họ đi học từ sáu giờ sáng đến tối.
Binh sĩ VNCH bị bắt đi tù cải tạo sau ngày 30 tháng 4, 1975. AFP/Getty Images.
Ðối với các phó quận trưởng, trưởng ty, cấp úy, thì mỗi người phải mang theo giấy bút, quần áo, mùng mền vật dụng cá nhân, đồ ăn hoặc tiền bạc để dùng trong mười ngày kể từ ngày trình diện.
Với các cấp chỉ huy từ giám đốc trở lên, sĩ quan từ cấp tá, các dân biểu nghị sĩ, các lãnh tụ đảng phái thì thông cáo ra lệnh mang theo giấy bút, vật dụng cá nhân, số tiền là 13,000 đồng đủ cho việc ăn uống trong 30 ngày kể từ ngày học tập đầu tiên. Thông cáo nói rõ: “các học viên phải mang theo một tháng tiền ăn và những đồ đạc cần thiết. Nhà hàng Ðồng Khánh sẽ phụ trách việc ăn uống...”

Nhiều người vì sức khỏe yếu được miễn trình diện. Nhưng vì quá tin vào thông cáo của chính quyền, học tập có một tháng, nên họ vẫn tình nguyện xin đi để tỏ thiện chí cũng như làm cho xong để còn về được an ổn kiếm kế sinh nhai.
Có người được nhân viên tiếp nhận cho về vì không hội đủ tiêu chuẩn như thông cáo nhưng vẫn nằn nì giải thích chức vụ để xin đi cho chắc bụng. Chẳng hạn, có vị khai chức vụ quốc vụ khanh chính phủ. Cán bộ không biết đó là chức gì mà coi danh sách không thấy có nên đuổi về. Vị chính khách này phải cố gắng giải thích chức vụ của mình ngang hàng tổng trưởng. Họ cũng không biết tổng trưởng là gì, đến khi nói là bộ trưởng thì họ mới cho nhập trại. Ai cũng nghĩ là trước sau rồi cũng phải học tập nên xin đi cho nó xong. Thực ra, thông cáo rất mập mờ. Lúc đầu ghi danh đi học tập cải tạo phải chuẩn bị thực phẩm hoặc đóng tiền ăn cho một tháng. Rồi pháp lệnh nói cải tạo viên phải học tập ba năm rồi đổi ra vô hạn định một cách âm thầm.
Kỷ Nguyên Tù Ðầy Cải Tạo bắt đầu. Sau khi đã bước vào trại tù cải tạo thì ngày ra dường như vô tận vì một số thiệt mạng, hầu hết tiếp tục tù đầy cho tới mươi mười lăm năm sau.

Theo bản tường tình của Aurora Foundation năm 1983  do bà Ginetta Sagan và ông Stephen Denney thực hiện thì có hơn một triệu người đã đi cải tạo mà rất ít được về sau thời hạn mười ngày hay một tháng. Trên toàn quốc lúc bấy giờ có trên 150 trại cải tạo. Có khoảng 500,000 người được trả tự do trong vòng ba tháng; 200,000 ở trại từ hai đến bốn năm; 240,000 ít nhất năm năm; nhiều chục ngàn người trên mười năm.
Trong một trại cải tạo, học viên thắc mắc về thời gian cải tao như sau:
“Thưa cán bộ, theo như chính sách 12 điểm của chính phủ Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam thì sau ba năm chúng tôi được trả tự do để đoàn tụ với gia đình; bây giờ đã quá 3 năm sao chúng tôi còn phải ở trong trại?”

Cán bộ trả lời:
- Các anh thông minh, các anh phải hiểu rằng Chính Phủ Cộng Hòa miền Nam (của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam) đâu có phải là Chính Phủ Việt nam Dân Chủ Cộng Hòa; vả lại chính phủ Cộng Hòa Miền Nam không còn tồn tại thì những gì chính phủ ấy quy định cũng không còn tồn tại.
- Hơn nữa, các anh thông minh nhưng chưa hiểu thế nào là 3 năm. Các anh hiểu cứ mỗi năm là 365 ngày như bọn tư sản thì hỏng bét, do đó các anh khiếu nại là phải rồi. Nếu các anh phân tích một cách sâu sát thì các anh sẽ thấy rằng có 3 năm định tính và 3 năm định lượng. Một anh có thể có 3 năm định lượng, nghĩa là đã cải tạo đúng ba năm không thiếu ngày nào, nhưng lại không có đủ 3 năm định tính vì tính chất cải tạo quá tồi, cải tạo không tốt, do đó mà chưa được về sum họp với gia đình.”
(Phan Phát Huồn: AK và Thập Giá)

* Các dữ kiện trong bài viết này là những lời kể lại của nhiều tù nhân cải tạo sống sót.

Tổ Chức Trại Cải Tạo
Trại được chia ra làm nhiều khu. Mỗi khu có nhiều đại đội trại viên. Dưới là nhóm gọi là “B”. Mỗi B có 30 trại viên do một cán bộ hạ sĩ quan phụ trách. Trại viên còn được gọi là phạm nhân hoặc cải tạo viên. Họ phải học làm lòng tài liệu “38 điều Nội Quy” và “Bốn tiêu chuẩn cải tạo”.

Bốn tiêu chuẩn cải tạo là:
1-Thành khẩn khai báo
2- Lao động tự giác
3-Chấp hành nghiêm chỉnh nội quy và các pháp lệnh nhà nước
4- Giúp bạn cải tạo cùng tiến bộ
Một cựu tù nhân cho hay: nhiều người không nhớ các tiêu chuẩn này, nên đã dùng bốn thú vật tiêu biểu cho từng tiêu chuẩn: ngu như bò, có gì khai hết; lao động như trâu; bảo sao làm vậy như con cừu và sủa như chó để báo cáo các hành động của bạn tù.
Có người đã ví việc thực hiện các tiêu chuẩn này chẳng khác gì sự xét mình, ăn năn tội lỗi, xưng tội và dốc lòng không sai phạm của một tôn giáo. Nội quy có các điều khoản về nguyên tắc chung, kỷ luật học tập, kỷ luật về lao động, kỷ luật về nếp sống hàng ngày, kỷ luật về viết thư và gặp gia đình, tổ chức phạm nhân, và khen thưởng-kỷ luật.

Ðiều nào cũng bắt đầu bằng các chữ quyết liệt như “Phải chấp hành…” hay “Tuyệt đối tuân theo…”
Chẳng hạn điều Một ghi rõ:
“Phải triệt để tuân theo đường lối, chính sách giam giữ cải tạo của Ðảng, pháp luật của nhà nước...”
Ðiều 2: “Phải chấp hành nghiêm chỉnh bản án, phải ra sức học tập cải tạo tư tưởng, thành khẩn nói hết lỗi lầm của mình.”
Ðiều 8: “Phải trực tiếp tham gia lao động sản xuất. Ðể rèn luyện ý thức lao động, lấy lao động để cải tạo tư tưởng…”
Ðiều 12: “Không được dùng tiếng ngoại ngữ và không được nói tiếng lóng”
Ðiều 18: “Thường xuyên cạo râu, không được để râu” .
Ðiều 20: “Tránh có thái độ ngang bướng, khúm núm, nịnh hót. Khi có việc cần gặp cán bộ phải đứng xa 5-7 mét ở tư thế nghiêm. Xin báo cáo với Giám thị, cán bộ”.
Trại có rất nhiều khẩu hiệu về học tập chính trị như:
“Chính sách khoan hồng của Ðảng trước sau như một.”
“Học tập cải tạo là con đường duy nhất để trở thành người công dân lương thiện.”
“Học tập nghiêm túc, đi sát đi sâu, đào sâu, suy nghĩ, thảo luận đúng ý...”


Khai Lý Lịch
Cải tạo viên nào cũng phải khai lý lịch. Ðây là một việc làm rất nhức đầu vì họ phải khai đi khai lại cả chục lần. Khai xong mang nộp, rồi bị cán bộ hạch hỏi đủ điều. Việc khai lý lịch thường là do đoàn công tác liên bộ Quốc Phòng và Công An phối hợp thực hiện. Mẫu khai có ba mục chính với nhiều tiểu mục và tiết mục. Rầm rộ phát động chiến dịch khai báo, cho ăn đồ tươi.

1-Lý lịch cuộc đời cá nhân: bản thân người khai, gia cảnh và lý lịch thân nhân, từ ông cố tổ bốn đời. Từng địa chỉ đã sống trong suốt đời. Một địa chỉ có thể là 1 tuần ở quốc nội hoặc bốn mươi tám giờ ở quốc ngoại.
Về lý lịch thân nhân, phải khai đầy đủ chi tiết về bản thân kèm thêm đánh giá từng người về quá trình chính trị, xã hội, giai cấp.

2-Quá trình hoạt động: Trong suốt đời, với 3 giai đoạn: từ 1945 trở về trước; từ 1945 đến 1954 và từ 1954 đến 1975. Phải khai cho đầy đủ các chi tiết về ngày tháng, sinh hoạt, chức vụ, ở đâu với ai, diễn tiến công việc, kết quả công việc, ảnh hưởng của công việc vào xã hội. Khai các cá nhân, đoàn thể chống cộng ở miền Nam: tên tuổi, tổ chức nào, hoạt động ở đâu, cách tổ chức chống cộng... Kê khai bạn bè thâm giao và bạn bè thường, rồi các sinh hoạt của họ ở đâu bây giờ. Kê khai mọi cấp chỉ huy, đồng sự với các chi tiết như của mình... Hiện giờ họ ở đâu, quan điểm chính trị của họ. Khai rõ về các vấn đề tổ chức, kỹ thuật chiến thuật của miền Nam.

3-Kê khai tài sản: Của nổi của chìm, trong nước, ngoài nước, mình đứng tên hay nhờ người đứng tên, vợ con đứng tên; hiện có, đã sang nhượng, cúng dâng cho các tổ chức. Tiền từ đâu có.
Phạm nhân được dành cho một tuần để khai; ban đêm cho phép đốt đèn cầy để khai. Khai xong ký cam đoan là đúng sự thực rồi nộp cho cán bộ. Phạm nhân phải thức thâu đêm để khai; nhiều khi đi cầu, đi ăn cũng tập trung suy nghĩ coi đã làm gì, ở đâu, ngày nào...
Sau khi nộp thì mấy ngày sau lại phải khai lại vì: thiếu thành khẩn, thiếu tự giác, không khai hết sự thật, ngoan cố, giấu diếm bao che các tổ chức chính trị và cá nhân phản động.

Rằng nhân dân đã biết rõ về mình rồi, đã có hết tất cả hồ sơ tại công tư sở, đừng hòng giấu diếm. Có phạm nhân còn bị gọi lên để hạch hỏi chi tiết, hù doạ là vợ khai khác mà mình khai khác hoặc để đối chiếu lời khai của thân nhân với lời mình khai. Rồi bản khai được cất đi và phạm nhân phải khai lại từ đầu...Việc khai báo kéo dài cả mấy tháng. Một chiến dịch cổ võ cho việc khai báo cuộc đời được diễn ra. Học viên còn được cho ăn uống linh đình và được miễn lao động trước ngày khai báo bắt đầu.

Cải tạo tư tưởng-Học tập chính trị

 
Mục đích của cải tạo là “để thay đổi con người từ chế độ lỗi thời vào kỷ nguyên mới của những công dân tốt, với các giáo điều tốt lành của chủ nghĩa Anh Hùng Cách Mạng”.
Theo các cựu tù nhân kể lại, bài học nhồi sọ nhắm vào việc:
“Ðả phá chủ nghĩa đế quốc Mỹ, kẻ thù của nhân dân Việt Nam và thế giới. Sự thất bại của chủ nghĩa đế quốc Mỹ; Ðế quốc Mỹ là con đỉa hai vòi: một vòi hút máu mủ nhân dân trong nước, còn vòi kia vươn sang các nước khác để hút máu mủ nhân dân các nước này bằng cách bán súng đạn, tạo ra các cuộc chiến tranh diệt chủng. Tội ác của ngụy quyền ngụy quân miền Nam, bán nước, tay sai. Chính sách khoan hồng của Ðảng, nghĩa vụ của người có tội, lao động là vinh quang. Những thắng lợi vĩ đại của nhân dân Việt Nam.”

Các buổi học tập chính trị gồm có:
a. Nhận đề cương nội dung bài.
b. Tìm hiểu nội dung.
c. Nghe giáo viên giảng bài.
d. Suy nghĩ về nội dung và lời giảng của giáo viên.
e. Không bàn thảo với ai. Viết một bài nhận định để trình bày với tổ.
g. Phát biểu trước tổ học tập.
h. Hội thảo cấp B cao hơn với ba tổ.
i. Hội thảo toàn trại.
k. Rồi viết bài tổng kết học tập dài cả chục trang.
i. Tổng kết và giải đáp thắc mắc.
Kỹ thuật nhồi sọ áp dụng nguyên tắc nước chảy đá mòn, nói nhiều nói mãi một đề tài, nhắc đi nhắc lại một luận điệu, biến con người thành cái máy... Sau cả nhiều tháng học tập chính trị, hầu hết đều bị chê là: “chưa được rèn luyện, cải thiện bằng các tư tưởng cao siêu của Chủ Nghĩa Xã Hội, vẫn còn ngoan cố, không chịu tiếp thu bài học, không chịu gột rửa toàn diện tư tưởng xấu của bản thân, nên cần được cải tạo bằng lao động”.

Lao động
Lao động là thước đo mức độ giác ngộ của tù nhân.
Cuốc đất: 150m2/ngày/người
Trồng mì: 5000m2 /ngày/4 người
Khai quang: 300m2/ngày/người
Lấy cây đường kính 30cm, dài 4 thước, hai người một cây, mang về trại cách xa 3 cây số; đường kính 10 phân, dài 4 thước hai người năm cây một ngày.
Tranh lợp nhà: 10 bó theo tiêu chuẩn của trại. (Theo Trại Tù Cải Tạo-Phạm Quang Giai).


Ăn uống

Sau đây là kinh nghiệm người cựu tù:
“Cộng Sản không cần đánh đập, không cần kết án, mà họ đã dùng cái máy chém vô hình và im lặng: ÐÓI. Họ lôi cái máy này đến mọi nơi, mọi chốn có tù nhân chính trị miền Nam để trả thù, trả hận mà vẫn không mang tiến là ác độc, là giết người.” (Phạm Quang Giai: Trại cải Tạo)

“Cái lon nhôm sữa bột guigoz, được gọi vắn tắt là cái Gô, là bạn đồng hành thân thiết của tù. Người tù nào cũng kè kè bên mình một cái vừa đựng nước uống ra bãi, vừa dùng để nấu canh tại bãi lao động. Những loại rau cỏ dại ăn được tìm thấy ngay tại hiện trường, lén nhổ bỏ vào Gô rồi nhờ nhà bếp nấu. Nấu chín xong để bụi cát lắng xuống phần dưới, ăn phần rau cũng đỡ cái bao tử rỗng một lúc. Hôm nào bắt được con cóc, con nhái thì “canh có người lái”, tù gọi là Protein; con gì cũng qui vào chất thịt, chất protein bổ dưỡng. Tù có câu: “con gì nhúc nhích là ăn được, rau gì không chết thì ăn”... (Nguyễn Chí Thiệp: Trại Tù Kiêm Giang)

“Tiêu chuẩn kỷ luật mỗi tháng còn 9 kg lương thực ăn với nước muối, mỗi ngày hai bữa hai chén nhỏ xíu. Ðến bữa ăn phải kềm hãm cố nhai cho thật kỹ, vừa để cho đỡ buồn, cho qua thời giờ có việc làm. Khi nhai thức ăn, vừa phải nhai kỹ để thức ăn ít ỏi và quí báu được tiêu thật hết, khỏi phí phạm, giúp cơ thể bòn từng chút bổ dưỡng để thân xác chịu đựng con người được sống, nhai thật kỹ để chất thải ra thật ít, 5,7 ngày mới đại tiện một lần, vì đại tiểu tiện đều vào cái thùng đại liên để ngay bên cạnh bục nằm, đến lúc đầy tràn trật tự mới đổ đi, nên suốt ngày đêm phải nằm bên cạnh cái của nợ khai thúi đó.”  (Nguyễn chí Thiệp:Trại Tù Kiêm Giang)

Vệ Sinh Trại
Tù nhân kể lại là trại chật trội ngào ngạt hơi người, mùi hôi của mọi người, mọi bệnh riêng của mỗi người, cả tháng không tắm. Cả ngàn người có một giếng nước, kéo một lúc đã cạn nước. Ðể lâu không dùng nên chuột bọ chết thối đầy đáy giếng. Ăn uống vào là bị kiết lỵ. Ði cầu vào các dẫy hố đào trên mặt đất.
Bệnh Tật
“Mặt đứa nào đứa nấy trông như những quả dưa bở chín rục, chân tay bụ bẫm cứ như những cái xác chết trôi ba ngày, đang xếp hàng dài trước bếp xin chút nước vo gạo về uống với hy vọng mong manh tí chất cám có thể cứu nổi căn bệnh phù thũng trầm kha...” (Hà Thúc Sinh: Ðại Học Máu)

Kiểm tra tư trang
“Ông cán bộ tới chỗ tôi và bắt đầu lục soát.
- Cho tôi xem cuộn giấy. Giấy này là giấy gì đây?
- Thưa cán bộ đây là giấy vệ sinh.
- Giấy vệ sinh là giấy gì?
- Thưa cán bộ là giấy đi cầu.
Ông cầm cuộn giấy, xem rất kỹ, chê bai đủ điều rồi nói tiếp:
- Ðây chính là tài liệu mật mã bọn Mỹ ngụy để lại cho các anh xử dụng để quấy phá cách mạng, nhưng làm sao qua mắt cách mạng được. Tôi ra lệnh tịch thu toàn bộ những cuộn giấy này của anh và của các anh khác.” (Phan Phát Huồn: AK và Thập Giá)

Thăm viếng và thư từ của gia đình
Theo điều 29, “hai tháng phạm nhân được gặp người nhà một lần. Phạm nhân có trách nhiệm hướng dẫn người nhà chuẩn bị giấy tờ cần thiết khi đến thăm mình.”
Ðiều 27: “Phạm nhân mỗi tháng được viết một lá thư cho gia đình; thư phải đưa lên cán bộ duyệt trước khi gửi; không được dùng tiếng ngoại quốc, tiếng lóng.”
Tết 1977 là lần đầu tiên phạm nhân được viết thư cho thân nhân ở trong Nam. Thư gửi qua Trung Ðoàn 52-A, Chí Hòa Sài Gòn. Họ không được phép tiết lộ nơi đang học tập. Quà do thân nhân gửi không được quá 5 kí. Trà, cà phê, rượu, muối bị cấm tuyệt. (Trần Vĩ)

Kết luận
Chế độ tù cải tạo dưới chế độ Cộng Sản vào những thập niên 70 và 80 của thế kỷ trước  đã đưa đến sự tàn phá tâm thần và thể xác cho nhiều quân cán chính Việt Nam Cộng Hòa. Ðây là một thảm họa mà đến nay thế giới loài người văn minh cũng như con cháu chúng ta vẫn chưa biết được tường tận.
Các vị cựu nhân cải tạo sống sót hình thức tù đầy này cũng nên ghi lại những bài học đắt giá, những hy sinh của chính mình, của các bạn tù đã nằm xuống. Và các bà vợ tù nhân cải tạo cũng có nhiều cay đắng cuộc đời. Một thân phải tần tảo chăm sóc bầy con giữa những kỳ thị của chế độ mới, rồi lại còn trèo đèo lặn suối đi thăm nuôi chồng  bị đầy ải nơi rừng thiêng nước độc. Ghi lại để các thế hệ con cháu, trong ngoài nước, hiểu nỗi lòng của mình. Cũng như để tránh tái diễn, nhất là đối với những người cùng chung dòng giống. Chứ không phải để nuôi mãi lòng thù hận nhau./.


[Nguyệt San Mạch Sống thuộc hệ thống truyền thông của BPSOS: http://www.machsongmedia.com.]

Thứ Hai, 27 tháng 1, 2014

Thính giả Bui Khanh mơ về Hà Nội xưa

http://www.bbc.co.uk/vietnamese/forum/story/2005/10/051014_hanoi_buikhanh.shtml
 
Hồ Gươm là một trong những niềm tự hào của Hà Nội
Ðúng là Hà Nội nay không còn như xưa, từ cảnh quan cho đến con người. Còn đâu vẻ lịch lãm của người Hà Nội xưa từ ngôn ngữ đến lối sống.
Hãy nghe xướng ngôn viên các đài truyền thanh, truyền hình: giọng thì chua mang âm hưởng của dân miền ruộng, ngay cả các cô xướng ngôn viên mới của đài BBC cũng thế.
Còn các ca sĩ thì điệu bộ rẻ tiền, mốt miếc đua đòi, cóp nhặt một cách lố bịch.
Tôi đã dự một đám cưới (ở SaiGon) với lời giới thiệu hãnh diện về một nữ MC trứ danh chính cống người Hà Nội. Tôi thật sự thất vọng khi nghe những phát âm đầu tiên cùng các điệu bộ thật chói mắt.
Còn điều này nữa: người Hà Nội nay nói tục hơn xưa (nếu bài báo này là trung thực: Chẳng Thơm Cũng Thể Hoa Nhài của Vương Văn Quang).
Tôi đính kèm theo đây bài báo của Vương Văn Quang để bạn đọc cùng chia xẻ cái đau lòng chung.
Một lần tới thủ đô
Chẳng thơm cũng thể hoa nhài... 
Đầu tháng năm năm ngoái, tôi có dịp theo đoàn nghệ thuật Q. (nơi tôi đang công tác) ra Hà Nội để tham gia hội diễn toàn quân. Ðoàn tôi xuống sân bay Nội Bài vào buổi cuối chiều. Hà Nội đã vào hạ, nhưng chưa nóng gay gắt như Sài Gòn, thời tiết dịu dàng, vô cùng dễ chịu.
Trên con đường cao tốc rất đẹp và hiện đại nối sân bay với nội đô, không nhiều lắm xe cộ nối nhau lao vun vút, thỉnh thoảng có những bác nông dân tỉnh bơ dắt trâu đủng đỉnh băng qua đường. Hai bên đường, những thửa ruộng lúa chín vàng trải dài vút tầm mắt, cách quãng lại có những tấm biển khổng lồ, quảng cáo điện thoại di động hay băng vệ sinh, biểu hiện của một thành phố thời hiện đại.
 Tối hôm đó tôi cứ trằn trọc, chỉ mong tới sáng để đi thăm thú thủ đô. Tất cả những vẻ nên thơ, những địa danh nổi tiếng, những món ăn bất hủ của Hà Nội, thực ra tôi đều đã biết, nhưng là biết qua tưởng tượng, qua những tập bút kí, những đoạn tản văn hoặc những ca từ của các ca khúc viết về Hà Nội.
 
Về tới nội thành, trời đã tối hẳn, đoàn chúng tôi nghỉ tại một nhà khách quân đội ở đường Tầu Bay. Tối hôm đó tôi cứ trằn trọc, chỉ mong tới sáng để đi thăm thú thủ đô. Tất cả những vẻ nên thơ, những địa danh nổi tiếng, những món ăn bất hủ của Hà Nội, thực ra tôi đều đã biết, nhưng là biết qua tưởng tượng, qua những tập bút kí, những đoạn tản văn hoặc những ca từ của các ca khúc viết về Hà Nội.
Ôi những cây bàng lá đỏ, ôi Hồ Gươm, Tháp Rùa, ôi Hồ Tây lộng gió, ôi hoa sữa đường Nguyễn Du bên hồ Thiền Quang thơ mộng... Ôi! Ôi ! Ôi … Chưa kể các món ăn. Người Hà Nội sành ẩm thực lắm, nào phở, nào bún ốc, nào chả cá Lã Vọng..., nghĩ tới tôi cứ tứa hết nước dãi. Sáng hôm sau, hai người bạn và tôi tranh thủ đoàn chưa có kế hoạch tập luyện bèn rủ nhau đi chơi ngay.
Ra khỏi nhà khách một quãng, thấy mấy thanh niên ngồi túm tụm, mỗi người trên một chiếc xe máy, đồ chừng họ là xe ôm, nhưng không dám chắc lắm, bởi xe họ mới và là loại khá xịn. Chúng tôi tiến lại gần, còn đang phân vân thì một người trong bọn họ nhìn chúng tôi quát to: "Thích soi à?" Chúng tôi chưa kịp hiểu gì thì một người khác lại quát: "Cụp mẹ mày pha xuống!" rồi một người khác: "Bố mút mẹ mày pha ra bây giờ!"
Chúng tôi hoàn toàn không hiểu gì cả, nhưng thấy họ có vẻ hung dữ nên chúng tôi vội lảng ra xa. May quá có một chiếc tắc xi đi ngang, chúng tôi leo lên tắc xi và đi vào khu trung tâm. Ngồi trên xe, tôi đem câu chuyện trên kể với anh lái tắc xi và được anh cho biết "soi" tức là nhìn, "pha" là mắt.
 Hồ Gươm quả thật danh bất hư truyền, đẹp đến nao lòng. Tháp Rùa nổi lên giữa hồ trên một cù lao cỏ nhỏ xinh xinh.
 
Ðại ý là mấy thanh niên vừa rồi bảo chúng tôi không được nhìn và phải cụp mắt xuống.
Hồ Gươm quả thật danh bất hư truyền, đẹp đến nao lòng. Tháp Rùa nổi lên giữa hồ trên một cù lao cỏ nhỏ xinh xinh. Xung quanh hồ là những cây liễu thướt tha soi bóng, hoàn toàn đúng với những gì các nhà văn đã từng viết. Thật là một vẻ đẹp vô cùng lãng mạn.
Tháp Bút đúng là cây bút, chọc thẳng lên trời, biểu hiện cho tri thức kẻ sĩ Bắc Hà. Tuy xung quanh hồ có một vài toà nhà mang kiến trúc vô cùng dị hợm, nhưng cũng không làm xấu được Hồ Gươm bao nhiêu. Có một điều khá đặc biệt, cách Tháp Bút chừng hai trăm mét, ngay trên lối đi dạo quanh hồ là một công trình mang kiến trúc của một cái lô cốt thời Tây.
Rất nhiều người ra vào đó, người nào khi vào mặt cũng khó đăm đăm, nặng trình trịch, khi ra thì rất tươi, cứ như họ vào đó để chích đo-pinh. Về sau mới biết, đó là cái toa-lét công cộng. Giời ạ! Khác nào một hột mụn cơm, một nốt vá chó giữa má nàng hoa hậu.
 Giời ạ! Khác nào một hột mụn cơm, một nốt vá chó giữa má nàng hoa hậu.
 
Chúng tôi rủ nhau ăn sáng, thực đơn sẽ quyết định là phở. Tôi ra sức ca tụng với hai người bạn (đều là dân Miền Tây Nam Bộ) rằng phở là món ăn quốc tuý của Việt Nam, nhưng phở với đầy đủ phẩm chất của nó phải là phở Hà Nội.
Chúng tôi vào một quán phở nằm trên một con đường tôi không nhớ tên nhưng cũng thuộc khu trung tâm. Quán vắng tanh, nhưng ngay cạnh đó là một quán phở khác, đông nghẹt. Khách ăn vào chen nhau mua ra, trên tay mỗi người lăm lăm tô phở.
Hết bàn ghế, họ ngồi xổm ngay trên vỉa hè húp xì xoạp, vừa ăn vừa sỉ mũi xoèn xoẹt. Chúng tôi chọn quán này vì nó vắng, có bàn ghế mà ngồi. Ông chủ quán bưng ra ba tô tái chín, bốc hơi nghi ngút, ngửi mùi tôi đã rạo rực.
 Hết bàn ghế, họ ngồi xổm ngay trên vỉa hè húp xì xoạp, vừa ăn vừa sỉ mũi xoèn xoẹt.
 
Một anh bạn tôi, theo thói quen, nói rất dõng dạc: "Cho xin chén giá trụng đi!" . Ông chủ quán quay lại nhìn chúng tôi như nhìn người ngoài hành tinh, rồi bảo: "Giá trụng hả? Vào Sài Ghềnh mà ăn", ông ta nói với cách nhái giọng Miền Nam, thái độ chẳng thân thiện gì. Tôi hết hồn, cấu mạnh vào đùi anh bạn, rồi nói nhỏ vào tai hắn: "Ăn đi, đòi hỏi vớ vẩn, người Hà Nội họ nền nếp lắm, lần sau nói năng phải thưa gửi đàng hoàng."
Suốt buổi sáng và cho tới chiều hôm đó, chúng tôi bát phố Hà Nội, toàn đi bộ, rạc hết cặp giò. Ðường phố Hà Nội cũng như Sài Gòn, nghĩa là rất nhiều xe máy, kẹt xe liên tục. Trước đây, tôi nghĩ Sài Gòn chắc nhiều xe máy và sự chấp hành luật giao thông của người dân chắc kém nhất Việt Nam. Nay tôi thấy tôi nhầm, lượng xe thì hai thành phố như nhau, nhưng người Hà Nội chạy xe láo kinh khủng, không có luật lệ gì hết nếu không có mặt cảnh sát. Về phương diện này dân Hà Nội là bậc thầy.
Ngoại trừ khu vực được gọi là phố cổ, người dân xây nhà với những lối kiến trúc kinh dị, không ai giống ai, cái thì giống điện Kremlin, cái thì như lâu đài Ba Tư, lộn xộn đứng gằm ghè bên nhau. Về mặt này, Hà Nội cũng ăn đứt Sài Gòn. Có lẽ do đặc tính người Hà Nội là nghệ sĩ nên họ luôn thích sáng tạo.
Chúng tôi ghé vào một tiệm băng đĩa, (nghe nói người Hà Nội cũng sành âm nhạc, hơn nữa có rất nhiều những CD "độc", hàng Trung Quốc mà những tiệm Sài Gòn không bao giờ có, bởi không nhập hàng này, người Sài Gòn không thích nhạc cổ điển) quả thật, tôi đã không thất vọng. Chúng tôi chọn được mấy CD của Mozart, Tchaikovsky... do dàn nhạc hoàng gia Anh trình bày đàng hoàng. Chợt nhìn thấy trên kệ có để một CD của một cô bạn ca sĩ, tôi hỏi thử: "CD ca sĩ TT bán có được không anh?" Anh chủ tiệm bĩu môi: "Con dở hơi, có mà bán cho chó."(!!!) Ở tiệm đĩa ra, tôi muốn về lắm rồi.
 Chợt nhìn thấy trên kệ có để một CD của một cô bạn ca sĩ, tôi hỏi thử: "CD ca sĩ TT bán có được không anh?" Anh chủ tiệm bĩu môi: "Con dở hơi, có mà bán cho chó." Ở tiệm đĩa ra, tôi muốn về lắm rồi.
 
Quả thật tôi không còn tin vào những áng văn thơ trác tuyệt viết về Hà Nội mà tôi đã đọc. Nào là bàng lá đỏ... Có đâu, đường phố trụi thùi lụi, có mà bàng bê tông thì có. Nào là quán cóc liêu xiêu... Có đâu, toàn quán nhậu tạp nham. Nào Hồ Tây chiều nay, mặt nước vàng lay bờ xa mời gọi... Có mà mời gọi, cứ thử lên đó ngồi xem, kể cả ngồi xuống đất cũng có mấy thằng cô hồn ra đòi tính tiền chỗ. Còn người Hà Nội thanh lịch thì bây giờ tôi cảm thấy rờn rợn, tự nhiên tôi nghi ngờ sự hiểu biết của mình về nội hàm của từ thanh lịch.
Nhưng chúng tôi vẫn chưa về được, vì một anh bạn nhất quyết đòi đi mua quần áo gì đó. Anh bảo vợ dặn phải mua. Chúng tôi ghé vào một tiệm quần áo, sau khi xem, anh hỏi: "Chị có kiểu quần X, áo Y, váy Z... Mà của Trung Quốc ấy?" Chị chủ quán liếc xéo anh rồi bảo: "Anh giai thành phố Hồ Chủ Tịch mà kém tắm thế, muốn đồ Trung Quốc hả? Lên Ðồng Xuân, Bắc Qua ấy, đây chỉ có hàng Anh, Mỹ... Anh dùng tạm, không thì phắn mẹ ló đi cho em nhờ. Cháo ám!"
Tôi biết, thứ hàng Anh, Mỹ của chị ta có bán rất nhiều trong khu bán sỉ trên chợ An Ðông. Chiều hôm đó, chúng tôi ăn cơm trong một quán cơm bình dân gần nơi ở của đoàn. Nghe nói bia hơi Hà Nội ngon lắm, thấy quán này cũng có bán, chúng tôi gọi uống thử. Không ngon như đồn đại, tôi thấy nó nhạt và chua. Trong quán, có một anh cũng ngồi ăn và uống bia, anh ta chắc là một tay buôn chuyến đồ nông phẩm, vì tôi thấy chiếc xe của anh hai bên phía sau có chở hai cái sọt. Ăn xong, anh trả tiền, rồi càu nhàu: "Bia với bọt nhạt như nước nồn, chua noen noét như cứt mèo, nàm mẹ nó be rượu cho xong." Chị chủ quán bình thản: "Như lước l** thì ló mới nghìn rưỡi, còn muốn không như lước l** thì những ba nghìn rưỡi cơ. Buôn cứt người còn chê cứt mèo. Sốt ruột."
Anh chàng định sửng cồ, nhưng thấy chị chủ quán tay lăm lăm con dao thái thịt, chắc không phải tay vừa, nên anh cun cút đi mất. Quả thật, cách đối thoại của người Hà Nội vô cùng khó hiểu, hình như nó mang nhiều tính ẩn dụ. Thì người Tràng An mà lại, ho ra thơ, thở ra văn. Có điều tôi thấy quá nhiều người phát âm sai chính tả.
 Ở trong đoàn có mấy cô diễn viên múa là người Hà Nội, họ kể rằng bây giờ người Hà Nội tạp nham, nói ngọng nhiều lắm.
 
Ở trong đoàn có mấy cô diễn viên múa là người Hà Nội, họ kể rằng bây giờ người Hà Nội tạp nham, nói ngọng nhiều lắm. Nhưng tôi nghĩ, nói ngọng tức phát âm không chuẩn do khiếm khuyết ở lưỡi hoặc dây thanh quản. Họ không thế, họ không nói ngọng mà phát âm sai chính tả. Hình như đây là một thứ mốt của người Hà Nội, kiểu như cái mốt nói chen tiếng Tây.
Tối hôm đó, tôi kể chuyện đi chơi và phát biểu cảm tưởng của tôi cho mấy cô diễn viên múa người Hà Nội. Các cô cười ngặt nghẽo và bảo: "Hà Nội là như thế đấy, các anh không quen nên thấy sốc đó thôi, bọn em thấy bình thường". Ðúng thật, những gì gây sốc hoặc dị ứng cho ta, đều là do không quen, chứ không hẳn là những thứ đó không tốt. Một cô múa tiết lộ với tôi: "Ở Hà Nội còn nhiều nơi đẹp thơ mộng lắm, không hề như những ấn tượng của anh đâu. Ở những nơi đó anh sẽ thấy Hà Nội hiện ra đúng như những gì anh đã nghĩ. Em ví dụ cho anh nhé, như vườn Bách Thảo chẳng hạn, ở gần Lăng Bác ấy, anh đã đi chưa? Không phải là bách thú Thủ Lệ đâu nhé".
Mấy hôm sau, chúng tôi tới chơi nhà của một trong mấy cô múa đó. Nhà cô ở khu phố cổ, rất gần với Hồ Gươm. Chúng tôi chui vào một con hẻm. Lúc này là bốn giờ chiều, trời còn đang sáng rỡ, vậy mà vừa bước chân vào hẻm, chúng tôi không còn nhìn thấy nhau nữa, nó tối như hũ nút vì bên trên hẻm cũng là nhà. Ði chừng ba chục mét thì tới một cái sân, rộng chừng hai chục mét vuông, là của chung cho tám hộ gia đình, trong đó có hộ của cô bạn chúng tôi. Nhà cô, nhân khẩu có năm người, gồm bố mẹ và ba đứa em cô, tất cả sinh hoạt gói trong mười lăm mét vuông. Cô cho biết, đây là cảnh sống của tuyệt đại đa số cư dân phố cổ, nhưng sống tại phố cổ vẫn là ao ước của nhiều người, nhà cửa ở đây đắt hơn kim cương.
Tôi ngồi chơi một lát rồi lỉnh đi mất. Tôi có ý định tìm tới vườn Bách Thảo, mong lấy lại một chút thi vị của Hà Nội. Tôi tới vườn Bách Thảo thì trời đã nhá nhem tối. Trong vườn, không khí nhẹ nhõm mát mẻ, quả thật cô diễn viên múa đó đã không đánh lừa tôi. Ðây đúng là một vườn địa đàng. Các loại cây cổ thụ xoè tán uy ngiêm, trên gốc già cỗi là những loài cây kí sinh, chen nhau mọc xanh rì, càng làm tăng vẻ huyền bí. Trong vườn cũng có hồ, có những con đường nhỏ rải nhựa chạy uốn lượn ngoằn nghoèo. Giữa vườn có một trái núi đất (sau tôi được biết tên, đó là Núi Nùng) có vẻ như là tự nhiên, chứ không phải như những hòn giả sơn vẫn có nhan nhản trong các khu du lịch ở Sài Gòn.
 Núi Nùng rất đẹp, đủ chủng loại cây mọc trên nó, có đường đi lên và trên đỉnh hình như có một ngôi chùa hay một cái miếu gì đó.
 
Núi Nùng rất đẹp, đủ chủng loại cây mọc trên nó, có đường đi lên và trên đỉnh hình như có một ngôi chùa hay một cái miếu gì đó. Dọc con đường nhỏ, có đặt những chiếc ghế đá, đây đó có một vài cặp tình nhân đang ngồi tâm sự. Cảnh vật, không khí, với vẻ u tịch mơ màng khiến tôi chợt nhớ tới một bài ca về Hà Nội. Thậm chí tôi còn cất tiếng hát khe khẽ. Tôi theo con đường nhỏ leo lên đỉnh Núi Nùng. Chà, núi cao ra phết, tôi đã khá mỏi chân.
Chợt tôi thấy đâu đó một mùi um um rất khó chịu, tôi nhìn quanh và phát hiện ra một đám cháy nho nhỏ, xung quanh là mấy thằng nhóc chừng mười ba, mười bốn tuổi đang la hét cười như nắc nẻ. Tò mò, tôi tiến lại gần, thì ra cái mùi là lạ kia phát ra từ đám cháy. (Về sau, cô diễn viên múa có giải thích cho tôi rằng cái mùi đó là do bọn trẻ con đốt hạt của một loại trái cây, thứ trái đó người ta gọi là quả thối, một thứ quả đặc sản của Núi Nùng. Bọn trẻ đốt để khủng bố các cặp tình nhân). Thấy lạ quá, tôi tiến vào gần hơn, thì một thằng nhóc, mặt câng câng hất hàm bảo tôi: "Nhìn cái *éo gì? Thích gì?" Tôi hốt hoảng, bật lui rồi quay trở xuống.
 Thấy lạ quá, tôi tiến vào gần hơn, thì một thằng nhóc, mặt câng câng hất hàm bảo tôi: "Nhìn cái *éo gì? Thích gì?" Tôi hốt hoảng, bật lui rồi quay trở xuống
 
Xuống đến chân núi, tôi đã mỏi chân lắm, thấy một chiếc ghế đá còn trống, tôi bèn ngồi xuống. Vừa dựa lưng vào lưng ghế, tôi chợt thấy dính nhép đằng sau, đưa tay quờ ra sau, tôi linh cảm ngay thấy điều chẳng lành. Một mùi thối hung hãn khủng khiếp bốc lên. Thôi đúng rồi, có đứa nào chơi ác, nó ỉa lên lưng ghế. Thế là nguyên mảng lưng áo tôi dính nhoe nhoét, toàn cứt. Thực ra cứt nó chỉ là sản phẩm của bộ máy tiêu hoá, với nguyên liệu đầu vào là những thứ thơm tho. Có điều cũng nguyên liệu đó nếu đưa vào những bộ máy tiêu hoá khác, như của con heo chẳng hạn, thì nó sẽ cho ra sản phẩm kém chất lượng hơn nhiều. Mùi cứt heo so với cứt người thì kém xa về độ tàn bạo.
Chỉ có bụng dạ con người mới có khả năng để cho ra những thứ thối tha như thế. Tôi lâm vào tình thế khó xử quá, cởi áo vứt đi thì cởi trần từ đây về nhà sao được, từ đây về tuốt đường Tầu Bay đâu có gần gụi gì. Mà nếu để nguyên thế này ra ngoài đường thì thiên hạ họ chửi bố lên cho, có khi họ còn đánh ấy chứ. Dám lắm. Cuối cùng tôi quyết định cứ để nguyên thế mà về, tôi bảo anh xe ôm rằng tôi sẽ trả tiền gấp đôi, anh ta mới chịu.
Trên đường, tôi đi tới đâu, dân tình giạt ra tới đó, có mấy thằng du côn khạc nhổ chửi bới ầm ĩ. Mặc kệ, tôi còn cảm thấy thích, coi đây là một sự trả thù đời nho nhỏ. Ðoàn tôi đã thi xong. Mọi người đều phấn khởi vì hôm thi, ai cũng làm tốt phần việc của mình, cả đoàn chắc mẩm đạt được thành tích đề ra, tức là đứng thứ ba toàn đoàn. Thực lực đoàn tôi có thể tranh chấp ngôi nhất nhì, nhưng vuốt mặt nể mũi, phải tôn trọng đoàn chủ nhà chứ. Ðấy là luật bất thành văn của bất kì cuộc hội diễn nào. Biết như thế nên lãnh đạo đoàn chỉ đề ra chỉ tiêu đứng thứ ba. Thế nhưng mọi việc không như dự tính, kết quả đoàn tôi đứng thứ hai từ dưới lên.
Hôm đi nghe kết quả về, ông trưởng đoàn mặt cứ như đưa đám, phen này về ăn nói ra sao với cấp trên, chương trình đầu tư mấy trăm triệu chứ bỡn à. Tôi nghe trong đoàn người ta bàn tán rằng, hồi bắt đầu dàn dựng chương trình, ông A. (một cây đa cây đề trong làng ca múa nhạc quân đội, trưởng ban giám khảo) đã vào đoàn và đặt thẳng vấn đề, nếu đoàn đưa cho ông mấy trăm triệu đó, ông sẽ lo dàn dựng toàn bộ chương trình và bảo đảm chỉ tiêu đứng thứ ba (giống như một thứ thầu khoán và bảo hành công trình). Chả hiểu sao ông trưởng đoàn tôi không đồng ý. Trong khi tất cả các đoàn phía nam đều do một tay ông A. lo hết. Thế bảo sao chả về áp chót. Ghê thật. Ðúng là thời hiện đại, kinh tế thị trường có định hướng. Môi trường văn hoá nghệ thuật cũng không thoát khỏi sự chi phối của nó.
 Lật lọng thì ở đâu cũng có, giọng nói miền quê ở đâu cũng có, các tệ nạn ở đâu cũng có nhưng Hà Nội ngày nay có quá nhiều điểm âm (-) so với Hà Nội của ngàn năm văn vật khi xưa
 
Các ông văn hoá đầy mình còn hành xử như thế, trách quái gì ba cái chuyện nói ngọng với ỉa bậy. Ngày mai đoàn tôi lại về Sài Gòn. Ðoàn đứng vị trí thứ mấy với tôi chẳng quan trọng, tôi chỉ là thằng nhạc công và tôi đã làm tốt phần việc của mình. Những chuyện "ma-phia" đó thuộc phần các vị chức sắc. Tôi chỉ biết, tôi đã được du hí nửa tháng trời ở thủ đô. Thế là mãn nguyện. Thật không thể tưởng tượng nổi. Đấy là chưa kể đến cái không ngay thẳng của người Hà Nội bây giờ như thường đọc thấy trên các báo quốc nội. Lật lọng thì ở đâu cũng có, giọng nói miền quê ở đâu cũng có, các tệ nạn ở đâu cũng có nhưng Hà Nội ngày nay có quá nhiều điểm âm (-) so với Hà Nội của ngàn năm văn vật khi xưa. May ra tôi còn tìm thấy tí nào của Hà Nội năm xưa qua ca sĩ Hồng Nhung. Tôi chỉ mong có thế./.

5.000 ngày trong cõi A Tỳ

VRNs (27.01.2014) – Sài Gòn - Hồi ký của ông Bảo Lộc, bút hiệu Hồng Châu, ông là Phó Tỉnh Trưởng Thừa Thiên (Huế) trong thời gian Tết Mậu Thân, đã bị VC bắt khi chúng đột nhập Huế…
Đây là chuyện thật của một nhân chứng sống sót trong biến cố Mậu Thân tại Huế, ông may mắn không bị CS sát hại, nhưng bị đưa ra Bắc cầm tù 13 năm từ 1968 đến 1980 và đã đào thoát được trong một trường hợp hy hữu.
* * *

14012707Tôi thức dậy với tiếng nổ lớn phía cầu Kho Rèn vọng lại. Từ nhà tôi đến nhà máy điện chỉ nửa cây số. Chấn động lan tỏa làm cửa ngõ và đồ đạc trong nhà rung chuyển dữ dội. Tôi cố bật đèn để tìm chiếc máy điện thoại, nhưng chỉ thấy tối om, điện đã bị cắt. Dưới ánh sáng ngắn ngủi của chiếc bật lửa, tôi cố quay số gọi vài nơi để tìm hiểu tình hình, nhưng vô ích, không nơi nào chuông đổ, đường điện thoại đã bị đứt. Mở chiếc máy thu thanh bán dẫn nhỏ, tôi hy vọng qua những làn sóng xa xôi, có thể bắt gặp vài tin tức hữu ích. Nhưng cố gắng này của tôi cũng chẳng đem lại chút kết quả gì, chỉ có những bản nhạc xa lạ và tiếng sè sè của những băng tần không phát sóng kéo dài chán nản.
- Thôi anh ạ, có gì đợi sáng rồi sẽ hay. Bây giờ mình vào hầm trú ẩn đi, có thể chúng lại pháo kích tiếp như lần trước đấy.
Vợ tôi chia sẻ mối băn khoăn của tôi bằng hành động thực tế là nghĩ đến sự an toàn trước mắt đã. Chúng tôi chạy vội sang phòng kế bên, ẵm đứa con nhỏ đầu lòng mới tròn 6 tháng, đưa vào chiếc hầm nổi cất bằng những bao cát nhỏ xếp lại ở góc hành lang nối liền phòng khách với phòng ngủ, không vững chắc lắm, nhưng cũng đủ che chở cho một gia đình nhỏ chống lại những quả đạn cối bắn trộm.
Trước đó, cũng như nhiều gia đình khác ở khu Tả ngạn, chúng tôi đã mấy lần nếm mùi pháo kích Cộng sản và cảm thấy coi thường cái trò chơi dọa nạt này khi chỉ với một chiếc hầm cất tạm, chúng tôi đã có thể yên tâm tiếp tục giấc ngủ bị phá quấy, để sáng mai trở dậy thấy cuộc sống vẫn bình thường như không có gì đã xảy ra.
Lần này, tuy những dấu hiệu mới cho tôi linh cảm đã có một cái gì khác lạ. Nhưng sự im lặng tạm thời tiếp sau đó đã đánh lừa tính cảnh giác trong tôi, để dần dần du tôi vào nếp nghĩ đã thành quán tính. Thiu thiu ngồi đợi sáng trong căn hầm chật, tôi không còn nghe những tiếng nổ gần và rời rạc như tiếng pháo đã có lúc ran lên giữa đêm.
- Chắc chúng đã rút đi rồi. Giờ nầy chúng không còn dám pháo nữa đâu, sợ lộ tọa độ đó, đại bác của ta câu xuống là chúng hết đường chạy.
Anh Duy, người Cảnh sát Dã chiến trẻ tuổi vừa cưới vợ tháng trước, được tôi cho ở nhờ căn nhà dưới, dè dặt góp ý. Anh đang vận động để được biệt phái giúp việc cho tôi, nhưng chưa được. Anh cũng đang sốt ruột đợi sáng để trở về đơn vị.
Tôi không tỏ ý kiến nào, nhưng trong trí tôi đang diễn lại những lần trao đổi với Thiếu Tá Tham Mưu Trưởng Tiểu Khu (Sau này là Đại Tá Tỉnh Trưởng, còn bị Cộng sản cầm tù) về một biện pháp khả dĩ có thể trừ khử những ổ pháo di động của Cộng sản ngay khi chúng vừa bắn lén vào Thành phố. Thiếu Tá T. vừa khoe, sau nhiều tháng theo dõi, ông đã tóm cổ được bọn đặc công đã tham gia vụ pháo kích Khách sạn Hương Giang trước đây trong một cuộc hành quân lục soát ở quận Phú Thứ. Ông cũng nắm được tin tức về những toán phá hoại khác, thường theo ngã Vân Dương từ phía Nam lên hay Chín Hầm từ hướng Tây xuống để đặt pháo bắn vào Huế. Bọn này chỉ dám bắn cấp tập từng đợt ngắn rồi rút ngay vì sợ phản pháo.
Khi chúng tôi dậy mở cửa nhìn ra đường thì trời đã sáng hẳn. Ngày mùng 2 Tết bắt đầu với một vừng triêu dương xán lạn và những cơn gió Xuân phớt đùa trên ngọn cỏ long lanh sương sớm, thiên nhiên vô tình như không hề hay biết sự chết chóc, nỗi hãi hùng ngạt thở đang diễn ra đâu đây dưới những mái nhà cửa còn khép kín. Con đường Lý Thường Kiệt trải dài trước mắt tôi, vẫn thân thiết với những biệt thự nhu mì ẩn sau hàng dậu gỗ thanh bai, sáng nay ngoài vẻ kín đáo thường nhật, có một cái gì như hoang vắng, im lìm. Tôi vươn vai hít thở cái không khí ban mai tươi mát cho bõ những giờ ngột ngạt dưới hầm. Chung quanh hoàn toàn yên tĩnh. Anh Duy đã thay xong bộ y phục Dã chiến, định ra đi, còn cẩn thận nhắc nhở tôi can thiệp dùm với cấp trên của anh nếu sau này lỡ anh bị kỷ luật vì trình diện trễ.
Giữa khi đó thì tôi phát giác có những toán quân đang im lặng di chuyển trên đường. Họ đi từng người một, cách nhau vài trăm thước, ở cả hai phía vệ đường, từ phía cầu Kho Rèn hướng thẳng xuống nhà Bưu Điện Trung Ương và Khu Đại học. Lặng lẽ, rất lặng lẽ, những bóng người áo vàng, đầu trần, súng hờm sẵn đang tiến dần đến nhà tôi. Việt Cộng xuất hiện trên đường phố giữa thanh thiên bạch nhật – cho đến giờ phút ấy thật tình vẫn chưa hề có trong ý nghĩ tôi. Trong cái ấn tượng đột ngột ở ngoài nhận thức, tôi cứ cho họ là một thứ quân nào đó của Quốc gia và chỉ có thể là như thế. Vả lại, trông họ không giống với những hình ảnh của những Việt Cộng nằm chết ngài trận địa mà tôi đã mấy lần trông thấy từ mặt trận Cùa (Cam Lộ) cho đến Gia Đẳng, Nhan Biều (Triệu Phong) trên mình chỉ có chiếc quần đùi và mảnh áo bà ba đen, với nắm cơm vắt tung tóe bên người. Bọn này mặc Kaki, trên tay áo lại buộc một giải băng màu.
Tôi khép bớt cánh cửa để có thể tự do quan sát kỹ hơn. Tên đi đầu đã ngang tới cổng nhà tôi. Một cảm giác lành lạnh chợt chạy suốt người tôi. Tôi đã thấy rõ những ống quần xắn móng lợn cao thấu gối, những đôi dép Bình Trị Thiên trên đôi chân đen đủi, nét mặt vàng vọt, với khẩu AK băng đạn cong trên tay, lăm lăm họng súng đen ngòm. “Đúng là Việt Cộng rồi.” Tôi tự nhủ thầm như thế, rồi như một phản xạ tự nhiên, tôi chạy vội vào phòng lấy khẩu Carbine dấu sau cánh tủ, lắp đạn vào, đoạn trở lại phòng khách, đứng sau cánh cửa khép hờ, nơi tôi có thể nhìn rõ mọi cử động của chúng. Hồi đó, công chức chưa có lệnh vũ trang nhưng bác Thẩm, Trưởng Ty Nội An, đã dúi cho tôi một khẩu Carbine Ấp chiến lược còn mới nguyên, với lời dặn dò “Ông Phó cứ đem về nhà cất để dùng, biết đâu lại chẳng có lúc phải cần tới nó.”
Đúng, giờ phút này tôi mới thấy một cây súng trong tay là cần biết bao và tôi thầm cảm ơn bác bạn già đã biết lo xa cho tôi.
Toán quân Cộng Sản này không di chuyển trên đường chính, mà chạy lom khom dọc theo hai bên đường mương, mắt dáo dác nhìn quanh những ngôi nhà cửa đóng kín. Những tên đi đầu đã vượt qua nhà tôi, đang xây lưng lại phía tôi trong khi còn giữ một khoảng cách khá xa với những tên phía sau . Tôi không ghìm được mình, hướng mũi súng về một tấm lưng gần nhất sẵn sàng bóp cò. Tôi chưa hề giết người và cũng ghê tởm sự giết người, vốn là một giới cấm trong tín ngưỡng của tôi. Nhưng hôm nay, khi đặt tay lên cò súng, tôi như thấy mình đang làm một việc chính đáng.
Bỗng một bàn tay đặt lên vai tôi rồi một giọng nói nghe như van lơn, can gián:
- Đừng, đừng bắn, ông ơi. Họ đông lắm, ngã sau vườn mình cũng có họ nữa. Nếu biết có mình trong này, họ tràn vào thì mình chống không nổi đâu. Trong nhà còn có cô, có em nữa (Vợ và con tôi) ông cố đừng để cho họ biết. Người Cảnh sát trẻ cố can ngăn tôi trong một cử chỉ thật đầy lo âu.
Tôi thở dài, hạ mũi súng xuống đất, và ngẫm nghĩ : “Nếu ai cũng như mình, tránh né trước kẻ thù thì đại cuộc sẽ đi về đâu ?” – Nhưng lời nói của Duy cũng có lý, còn sinh mệnh của những người vô tội trong ngôi nhà này nữa. Tôi không thể vô trách nhiệm đối với họ. Tôi bảo anh Duy đi đóng chặt cửa ngõ lại, quyết tâm cố thủ, nếu chúng có ý định tấn công nhà tôi. Chúng tôi củng cố lại chiếc hầm, đặt chướng ngại vật trên lối đi, đoạn leo lên trần nhà quan sát. Từ chiếc cửa tò vò trên mái, tôi thấy những hàng quân Cộng sản cứ tiếp tục đổ về hướng nhà Bưu Điện, chậm chạp và thận trọng. Ngôi biệt thự hai tầng sơn trắng xế trước nhà tôi, tư thất của Manhard, viên đại diện cao cấp nhất của Mỹ ở Huế, vẫn yên lặng, nhưng thấp thoáng có bóng Việt Cộng ra vào. Tôi nhận rõ mối nguy hiểm mới. Tòa Đại Diện Mỹ đã bị chiếm và Cộng Sản đang đóng chốt ở đây dùng nơi này làm bàn đạp xuất phát cho những cánh quân tiền tiêu của chúng. Sớm muộn gì chúng cũng khám phá ra tôi, vì nhà tôi đã bị lọt vào thế bao vây của chúng.
Bỗng tiếng nổ chợt ran lên phía nhà Bưu Điện và ngã tư Lê Thánh Tôn – Lý Thường Kiệt, một đầu mối giao thông quan trọng dẫn đến nhiều cơ sở đầu não Việt, Mỹ. Cánh quân Cộng sản đã bị chận ở đây và chiến trận đang diễn ra ác liệt. Tiếng nổ đủ loại súng đã tạo ra một lưới đạn khủng khiếp đan chéo nhau ngay giữa mặt đường, đâm thẳng vào ngôi nhà tôi từ cả 2 phía. Chính lưới đạn tai ác nầy, kéo dài từ ngày này qua ngày khác, đã làm nhụt lòng những ai muốn tìm lại sinh lộ xuyên qua con đường bị Cộng sản khống chế ngay từ phút đầu này.
Mặc dầu đạn vẫn bắn xối xả, phòng khách, phòng ăn nhà tôi đã bắt đầu lỗ chỗ những vết đạn lớn nhỏ, tôi quyết trụ ở rầm thượng để dễ bề đối phó với địch. Nếu xuống hầm, tôi sẽ bị mất khả năng theo dõi mọi động tịnh chung quanh và trở nên bị động một cách nguy hiểm. Từ trên, tôi nhìn thấy bao quát khu vực quanh tôi đang hoang vắng, một quang cảnh chết chóc. Vắt ngang ngôi nhà kế bên của ông Thẩm phán Phạm Văn Hiền là một chiếc dù hỏa châu màu trắng từ đâu rơi xuống nằm sóng sượt như một giải băng tang. Bên kia đường là nhà ông Chánh án Nguyễn Khoa Hoàng, cửa vẫn đóng im, không ngờ một bi kịch thương tâm đã xảy ra. Ngay hôm đó, ông và người con, một luật sư trẻ tuổi, đã bị Cộng sản ập vào bắt dẫn đi. Và cho đến nay, gia đình vẫn chưa biết họ đã chết ở đâu. Nhìn về hướng đường Đống Đa, ngôi nhà sơn trắng nằm dưới hàng xoan xanh, nhà của Đại tá Phạm Văn Phú, Tư Lệnh Phó Sư Đoàn I, vẫn kín cổng, chưa có vẻ gì bị đột nhập. Tôi tự hỏi giờ phút này ông ở đâu, đang cầm quân cự địch hay cũng kẹt lại như tôi. Nhưng mối quan tâm của tôi hướng nhiều hơn đến góc đường Lê Thánh Tôn, nơi mà các đợt xung phong dành kho bạc, nhà giây thép, trụ sở Dân Ý Vụ vẫn xảy ra dữ dội. Tôi nghe như có cả tiếng xích xe tăng đang nghiến mặt đường.
Cái biệt thự cao cao nằm kế bên nhà hàng Chaffanjon cũ đang phơi mình hứng đạn từ bốn phía kia, là công ốc dành cho ông Chưởng Lý Bùi Hòe Thực. Cụ Thực đã mấy lần đến năn nỉ tôi đổi nhà với cụ, vì muốn ở gần những bạn đồng tòa như cụ Biện Lý Phạm Trung Côn, ông hội thẩm Hiền, đều là láng giềng của tôi. Nếu tôi đồng ý với đề nghị của cụ, không hiểu số phận gia đình tôi đã thế nào, có thể tốt hơn nhưng cũng có thể xấu hơn. Cách đó trăm thước là tư thất Tướng Ngô Quang Trưởng. Ngôi nhà hai tầng chỉ có một công sự nhỏ bằng bao cát để lính gác kiểm soát người ra vào, nơi mà ông sống với gia đình, liệu có đứng nổi trước sức tràn ngập của quân Cộng sản ? Nhớ lại tình hình chiều 29 Tết, khi Sĩ quan các đơn vị lễ mễ mang những cành mai đến chúc Tết vị Tư Lệnh theo phong tục cổ truyền, tôi đã thấy Tướng Trưởng nghiêm khắc ra lệnh cho họ phải về ngay đơn vị để chuẩn bị đối phó với tình thế mới. Chứng kiến thái độ cảnh giác của ông hôm ấy, tôi bớt thấy bồn chồn khi cảm thấy Việt Cộng như có vẻ đã làm chủ tình hình khắp nơi. Thực tế, sau khi ban hành lệnh cấm trại 100% cho tất cả Quân nhân, Tướng Trưởng đã có mặt tại Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn ngay đêm mồng một và từ đó ông đích thân Chỉ huy các cuộc phản kích bảo vệ căn cứ, khi cuộc tấn công bắt đầu xảy ra.
Tôi đang loay hoay dựng lại những khúc gỗ cản đạn trên trần thì bỗng “xoẹt, xoẹt”. Mái ngói trên đầu tôi vỡ toang hai lỗ lớn, hai viên đại liên ghim thẳng xuống cách tôi vài phân. Một chiếc trực thăng vũ trang UH-I A của Mỹ đang nghiêng nghé quan sát bên trên nhà Manhard, bỗng một tràng thượng liên từ bên trong bắn lên làm chiếc máy bay hoảng hốt vọt lùi và bắn trả nhiều loạt đạn dài, tiếng vang như sấm trước khi bay đi. Viên đạn suýt trúng tôi là từ máy bay bắn xuống. Trong trí viên Phi công, cả khu này đều đã lọt vào tay Cộng sản rồi, nhà nào cũng có thể có Cộng sản ẩn núp bên trong, nên đã tự cho mình cái quyền tự do oanh kích. Nhưng đó mới chỉ là khởi đầu của tai họa khác.
Với việc di động ngày càng nhiều các đơn vị Cộng sản xuất phát từ trường Thiên Hựu và các dinh thự bị chiếm cứ ven đường, khu Lý Thường Kiệt bổng trở nên một bàn đạp nguy hiểm để Cộng sản phóng ra những trận tấn công mới. Lực lượng giải tỏa đã thấy điều đó và những quả đạn cối thăm dò đã bắt đầu rơi xuống. Lúc đầu còn thưa, nhưng sau càng ngày càng dồn dập. Ngày đầu tiên chỉ có loại 60 ly, về sau là 80 ly, rồi đến đại bác. Đạn rơi ngoài đường, đạn rơi quanh nhà, xuống nhà hàng xóm. Ngôi nhà tôi vật vã dữ dội dưới sức ép và tiếng nổ như một cây nhỏ trước cuồng phong, một đồn hoang sắp bị hạ. Hai con chó Nhật bản khôn ngoan thường không rời chúng tôi nửa bước cũng quá khiếp đảm, tông cửa phóng chạy như điên ra đường để rồi gục xuống trước những luồng đạn hung bạo. Đó đây tôi cũng nhìn thấy thất thểu đoàn người chạy loạn, xô tới, dạt lui không biết tránh vào đâu lưới lửa tứ bề, cuối cùng , từng người, từng người gục ngã dần, xác gối vỉa đường, cho đến khi không còn ai.
Tình thế của tôi mỗi lúc mỗi hiểm nghèo thêm. Dưới nhà, vợ tôi không dám di chuyển nửa bước khỏi hầm núp. Con tôi không có nước pha sữa, đành cho ngậm Soda cầm hơi. Tinh thần ai cũng căng thẳng chờ đợi những nguy hiểm mới. Bỗng một quả đạn cối rơi trúng ngay phòng ngủ tôi, khói bụi bay mù mịt, vôi vữa rơi đổ rào rào. Tôi cảm thấy rát ở trán, sờ có máu. Một mảng đạn đã sướt qua đầu tôi, may chỉ bị thương nhẹ. Mái nhà bị sạt một bên làm lộ chỗ tôi đang ẩn núp. Việt Cộng đứng trên lầu nhà Manhard nhìn sang có thể thấy tôi. Một câu ngạn ngữ Pháp mà tôi tin chợt lóe ra trong trí tôi lúc đó khiến tôi phải xét lại quyết định của mình…”Jamais deux sans trois” (Việc gì đã xảy ra hai lần thì không tránh được sẽ xảy thêm lần thứ ba). Tôi đã hai lần hụt chết, làm sao tôi có thể thoát khỏi lần thứ ba, khi mà cái chết chưa biết sẽ ập xuống khi nào. Phải xuống nhà ngay, rồi tìm cơ hội thoát sau, tôi nhủ mình như thế và đưa mắt đảo qua tình hình chung quanh trước khi tôi không thể nhìn thấy chúng được nữa. Bọn cộng sản lỳ lợm hình như không sợ pháo của ta. Chúng vẫn đi lại, bố trí không ngừng. Quãng nào trống chúng chạy vội qua, đến chỗ kín, chúng lại di chuyển bình thường. Phía ruộng rau muống sau vườn nhà tôi nhấp nhô những mái tóc để rẽ theo lối trẻ con, nửa người lớn trên bộ Quân phục vừa vàng vừa xanh lá cây. Có những quả đạn B 40 như bắp chuối trên vai, khi phân tán, lúc tập trung, nham hiểm, rình rập.
- “Tình hình này thì cũng khó phá vòng vây của chúng đây”, tôi vừa mở nắp trần nhà để trụt xuống dưới vừa nghĩ bụng như thế.
Vào hầm thấy vợ tôi mệt mỏi, hốc hác ngồi tựa vào bao cát ôm con, đứa bé mềm oặt khóc không ra tiếng, trên tay lần dở cuốn kinh nhỏ in hình Đức Quán Thế Âm Bồ Tát, lòng tôi chợt mềm nhũn một tình cảm mến thương vô hạn. Tội nghiệp, người vợ trẻ còn nguyên nét học trò nếu không về với tôi, giờ đây có lẽ vẫn là một Sinh viên vô tư hồn đầy mộng ước, thả bước lá hoa trên ngưỡng trường Đại học, có đâu phải chia sẻ với tôi một số kiếp đoạn trường, lê lết những giờ phút kinh hoàng bấn loạn trong chiếc hầm tối đen ngột ngạt như địa ngục này. Và con tôi mới hôm kia còn hồng mởn, thanh tú như một nụ sưng, giờ đã gầy rộc, tái xanh như một tàu lá héo. Thế mà những hình ảnh thân yêu này chưa biết phút nào đây rồi sẽ phải xa lìa vĩnh viễn. Tôi phải phá vây tìm một sinh lộ, may ra đến được chốn an toàn, nhưng cũng rất nhiều rủi ro sẽ âm thầm ngã xuống tại một bụi bờ nào đấy ở ven đường. Tôi thấy trước số phận mình qua hình ảnh những đoàn chạy loạn gục dần, gục dần, đến khi không một ai còn lại trên đường. Nhưng cũng không thể bó mình trong chiếc hầm nhỏ để chờ giặc đến. Điều đó còn tệ hại hơn chết. Tôi hôn con và nắm tay vợ tôi như một dấu hiệu giã từ. Bên ngoài đại bác vẫn rơi đều, treo lơ lửng lưỡi hái tử thần trên chiếc hầm mong manh. Tôi nóng ruột đợi trời tối xuống để thoát ra khỏi nhà, định bụng sẽ băng qua hàng rào kẽm gai sau hè, men theo thửa ruộng cạn dẫn đến con đường tắt xuống Tiểu Khu, ở đó tôi hy vọng sẽ gặp được những đồng bạn đang chiến đấu. Tôi bảo anh Duy dấu bớt những thứ có thể làm lộ hình tích để lỡ bất chợt gặp địch, vẫn linh động đối phó được với chúng. Vũ khí chỉ sử dụng trong trường hợp tối cần thiết để tự vệ.
Chúng tôi vừa sửa soạn xong, đang chất lại mấy bao cát đã quá xiêu vẹo vì sức nổ lớn, để thêm chút vững chãi cho chiếc hầm thì bỗng “đoàng, đoàng, đoàng”. Ba tiếng nổ đanh lạnh vang lên từ phía bếp, tiếp đó một tiếng quát lớn giọng Bắc dội vào:
- “Ra ngay ! Tất cả mọi người trong nhà phải ra ngay. Chậm trễ hay kháng cự sẽ bị tiêu diệt. Ra, ra mau.”
Tôi vội ra ngay nhà ngoài xem cái gì đã xảy ra, vừa ngang ngưỡng cửa phòng khách, bỗng hai họng súng đen ngòm dí ngay vào hông, chận tôi lại. Hai tên lính Việt Cộng còn trẻ, mặt mày lạnh lẽo, phục sẵn từ hồi nào, im lặng chĩa súng vào người tôi. Chúng hất mũi súng, ra hiệu bảo tôi đi tới. Tiến thêm ít bước, tôi thấy nép sau tấm bình phong ngăn đôi phòng khách với phòng ăn, hai tên khác, súng hờm sẵn cũng đang chĩa về phía tôi. Và trấn ngay khung cửa dẫn xuống nhà để xe, nơi tôi định theo đó thoát ra ngoài, lại hai tên nữa, đương gườm gườm, sẵn sàng yểm trợ cho bọn đã lẻn sâu vào bên trong. Thì ra, khi những quả đạn oan nghiệt buộc tôi phải rời vị trí quan sát để tạm ẩn vào hầm thì bọn Cộng sản thâm hiểm đã lợi dụng hông cửa bị đạn pháo làm bung vỡ, lén đưa cả một bán tiểu đội vào phục sẵn trong nhà. Sự bất ngờ làm tôi không kịp trở tay, đứng sững nhìn những tên địch lần đầu đối diện, đau đớn nhận ra tình cảnh thất thế của mình. Chúng đã bố trí kỹ thế này, cho dù tôi muốn chúng phải trả giá cho sự hy sinh của tôi cũng không còn được nữa rồi. Chúng sẽ hạ tôi trước khi tôi kịp có một phản ứng nhỏ.
Bọn bên ngoài đã bắt đầu kéo vào. Một tên trung niên không mang chút phù hiệu nào trên người ngoài tấm vải nhỏ màu vàng buộc ngang cánh tay áo xắn cao, có vẻ là chỉ huy, thận trọng tiến lên, mắt nhớn nhác nhìn các gác phòng, nhìn lên trần nhà, như sợ có những mũi súng vô hình còn mai phục đâu đây.
- “Anh là Tỉnh phó ? ” Hắn hỏi, giọng cấp bách.
Tôi nhận ra là cái giọng vừa quát gọi phía sau nhà. Tôi không trả lời, đang nghĩ có nên có một hành động kháng cự để ngã trước mũi súng của chúng, ngay trên mảnh đất Huế, quê hương mà tôi cảm thấy đã không làm tròn trách nhiệm bảo vệ, hay cứ để xem, tìm một cơ hội khác. Thật tình, tôi không còn biết sợ mà chỉ thấy điếng tê một cảm giác chát chua. Cuộc đời tôi coi như đã hết. Có điều nên tự hủy cho tròn khí tiết một kẻ sa cơ hay chờ cái chết sẽ đến từ tay kẻ thù thì tôi chưa quyết định. Vừa lúc ấy vợ con tôi và anh Duy bị uy hiếp dưới những họng súng, được đưa ra từ cửa hầm, đứng sắp thành một hàng ngang bên tôi. Có tiếng lên đạn lách cách. Tôi rùng mình nghĩ đến hành động dã man thường có của Cộng sản. Tên chỉ huy sấn đến, chĩa súng vào vợ tôi, mặt đầy sát khí :
- Chị phải nói cho thật, hắn chính là Tỉnh phó phải không ?
Khi đó, tôi thấy vợ tôi bình tĩnh một cách kỳ lạ, bình tĩnh theo linh cảm đàn bà. Vừa cố dỗ cho đứa con khỏi khóc, vợ tôi nhìn thẳng vào tên chỉ huy, rành rọt đáp, sắc mặt không đổi.
- Nếu ông biết có Tỉnh phó nào trong nhà này thì ông cứ việc lục soát. Riêng tôi, tôi không biết ai như vậy cả.
- Được rồi, chúng tôi hỏi là để thử xem sự thành khẩn của các người thôi. Cách mạng đã theo dõi và nắm đủ tin tức trong tay, các người đừng hòng ngoan cố che mắt Cách mạng.
- Các đồng chí, dẫn tên này đi. Hắn cười gằn rồi quay lại ra lệnh cho đồng bọn.
Mặt tôi đanh lại, nhớ đến những tên học sinh thường lượn lờ trước cổng nhà tôi và nhà Manhard. Chính bọn chỉ điểm nầy đã làm tai mắt trước cho những tên bắt người. Tôi thấy nóng ở cổ khi hai tên rút cuộn thừng dắt sẵn ở thắt lưng, tiến lại phía tôi. Tôi như không còn chịu đựng nổi cái ý nghĩ phải thúc thủ nhìn chúng nó trói mình, thà chết chứ không như thế này được. Tôi vừa rướn người trong một tư thế định vùng dậy thì vợ tôi chợt nhìn thấy.
- Anh cứ đi đi, đừng lo nghĩ gì đến em và con.
Tôi hiểu vợ tôi đoán biết ý nghĩ liều lĩnh của tôi và không muốn trông thấy cái chết của chồng xảy ra ngay trước mắt mình. Ánh mắt đau thương của người vợ trẻ đã cầm chân tôi lại trong cái ý định nửa chừng. Một lần nữa, tôi lại thở dài. Tôi sắp vĩnh viễn chia lìa vợ con, hình ảnh cuối cùng để lại trong lòng người thân thương không thể là một hình ảnh đầy máu. Vợ tôi khó sống nổi với cái ám ảnh chết chóc của chồng. Hai tên Bộ đội bắt đầu đẩy tôi đi. Ngoái nhìn, tôi thấy vợ tôi nước mắt ràn rụa, đứng sững trông theo não nùng như pho tượng vọng phu. Đó là lần cuối chúng tôi trông thấy nhau trên phần đất Tự do của Tổ quốc.
Tôi ra đi mang theo hình ảnh Huế đô điêu tàn vật vã và người vợ chờ đơn độc đứng ôm con. Phải 13 năm sau, chúng tôi mới gặp lại nhau sau khi đã nếm trải đủ mùi đày đọa và tưởng nhau đều đã chết, duy quê hương thì mãi mãi đã không còn. Tôi bước đi như cái xác không hồn theo sự xô đẩy của hai tên Bộ đội người Bắc. Qua cung cách hành hạ của chúng, tôi biết chúng muốn tôi chết đi cho rảnh thân hơn là phải mất công coi ngó, giữa lúc bom rơi đạn lạc như thế này. Bắt đầu ra khoảng trống, nhất là lúc băng qua mặt lộ, chúng đẩy tôi lên, bắt chạy trước, còn chúng thì nằm xuống vệ đường để tránh đạn, mũi súng luôn chĩa thẳng vào lưng tôi. Thâm ý chúng là dùng tôi làm cái bia hứng đạn, chỉ khi nào thấy tôi vượt qua không hề hấn gì, chúng mới vội vàng nhổm dậy chạy theo. Đó cũng là cách thức giải người thường thấy của Cộng sản trong những khu vực còn giao tranh ở Huế. Biết bao nhiêu người đã không vượt qua khỏi lằn đạn như tôi, phải ngã xuống giữa đường khi vừa bị Cộng sản bắt đi. Những con đường Huế đầy xác người vắt ngang hay sắp lớp bên lề, phải chăng là hình ảnh không chối cãi của một tội ác tày trời.
Tôi tưởng chúng sẽ dẫn tôi đến tận đâu, ai ngờ chúng chỉ đưa tôi đến nhà Manhard rồi trói lại, bỏ tôi ngồi đấy. Một người đeo kính trắng bị trói, ngồi ủ rũ gần cửa ra vào. Nhìn kỹ tôi mới biết là người láng giềng, dạy Pháp văn ở trường Quốc Học, có lẽ cũng mới bị bắt sáng nay. Một lát sau, tên Chỉ huy bước vào, hắn cật vấn lại vài câu, đoạn ra lệnh cởi trói và cho người này về. Chỉ mình tôi còn lại trong phòng khách trống hoác, không còn chút đồ đạc gì ngoài những vỏ chai rượu vỡ vứt nằm lỏng chỏng đó đây. Cũng tại căn phòng này, hôm 29 Tết, Manhard còn ngồi tiếp tôi trong chiếc ghế bành sang trọng và một tủ rượu đầy ắp rượu quý. Hôm đó, vừa theo phái đoàn Thủ Tướng Lộc đi thăm ấp chiến lược kiểu mẫu ở quận Hương Thủy về, thì Manhard cho người mang cặp rượu sang biếu Tết. Tiện đường, tôi ghé thăm đáp lễ, đem theo bức tranh sơn dầu “Người đội mũ đỏ”, một tác phẩm có giá trị nghệ thuật của họa sĩ Đinh Cường mà tôi vừa mua trong một cuộc triển lãm hội họa mùa Đông của anh, tặng lại Manhard. Viên đại diện Mỹ đầu tiên thuộc ngạch ngoại giao và có một lối giao tế nhân sự cũng hết sức… ngoại giao (Và cũng để nhân đó giới thiệu với người Mỹ một sinh hoạt Nghệ thuật địa phương).
Vào năm 1967, “Việt Nam hóa chiến tranh“, mới còn là một khái niệm chỉ thỉnh thoảng xuất hiện một cách dè dặt trên báo chí Mỹ. Nhưng nhìn vào những thay đổi nhân sự trong cơ cấu viện trợ Mỹ tại địa phương, thì hình như kế hoạch đã được khởi động từ những ngày sớm hơn người ta biết. Nếu trước đó, những đại diện USAID, thường là những người, hoặc là có cái xông xáo, ôm đồm của một cán bộ tận tình với công tác, dám hy sinh vì lý tưởng, hoặc mang cái tinh thần hẹp hòi, cứng ngắc của một loại thư lại máy móc, coi thủ tục giấy tờ nặng hơn mục tiêu chính trị, thì từ sau ngày được biến cải thành Cơ quan CORDS, những đại diện mới rõ ràng đã đem lại một phong cách mới, không chỉ trong công tác, mà cả trong quan hệ đối xử với đồng minh.
Ở Quảng Trị, khi Whitfield, viên đại diện USAID nói tiếng Việt sõi như người Việt, giữa hoàng hôn vẫn dám một mình một xe lên Cam Lộ, ra Gio Linh, vào Hải Lăng thâu thập tin tức, kiểm chứng tình hình, mãn hạn hợp đồng về Mỹ thì người thay thế là một cựu lãnh sự Mỹ ở Ý, cao gần hai thước, nhưng rất nhỏ nhẹ hiền lành, đến với tỉnh địa đầu giới tuyến như một sứ giả của Hữu nghị và Hòa bình, hơn là một đồng minh đang chiến đấu. Cũng thế, khi trụ sở CORDS ở Huế thôi đặt bên cạnh Tòa Hành Chánh tỉnh, để dời về địa điểm mới phía sau nhà Bưu điện, thì cũng là lúc chấm dứt cái thời kỳ trì trệ của Lofton, viên đại diện già quá nhiệt thành với nguyên tắc kiểm soát, đến thành cản trở chương trình yểm trợ và làm vẩn đục mối quan hệ cộng tác giữa đôi bên.
Đến đảm nhiệm chức vụ đại diện CORDS thay thế Lofton, Manhard vẫn mang ngạch số ngoại giao và hành sử công việc như thể vẫn còn là một lãnh sự ở Milan. Bên cạnh công tác bình định, giờ được phối hợp uyển chuyển hơn, Manhard chú trọng nhiều đến việc xây dựng mối quan hệ hiểu biết với các nhân vật có tên tuổi, các nhóm áp lực có ảnh hưởng tại địa phương. Qua những cố gắng mới, có thể thấy, vị trí và tiềm năng của Việt Nam Cộng Hòa đã bắt đầu được chú ý đến một cách đáng kể trong chương trình bình định và nỗ lực chống cộng. Trong những ngày còn bận rộn với chương trình bình định cuối năm, Manhard đã tỏ vẻ thực sự lo ngại về tin tức một cuộc tấn công vào Huế của Cộng sản. Đoàn Công Lập cho tôi hay Manhard đã nhiều lần đích thân đến gặp Lập để xin cho người đến bảo vệ. Đây là một hành động khá khác thường đối với một giới chức cao cấp Mỹ.
Thẳng thắn mà nói, hồi đó người Mỹ thường không mấy tin tưởng vào khả năng bảo vệ của cơ quan an ninh Việt Nam. Các cố vấn Mỹ bằng phương tiện riêng, tự tổ chức lấy việc bảo vệ an ninh cho bản thân mình. Thường cứ vài người thuê chung một biệt thự, có lính Lôi Hổ đứng canh gác. Lôi Hổ là một đơn vị đặc biệt do người Mỹ trực tiếp tuyển mộ và trả lương, gồm những thanh niên ngang tàng không sợ đánh nhau và không sợ cả kỷ luật, đa số là người Việt gốc Hoa ở Chợ Lớn. Ở khu vực hữu ngạn, khi cộng sản – được chỉ điểm trước – tấn công bao vây nhà các cố vấn Mỹ, đã bị các binh sĩ Lôi Hổ đánh trả dữ dội, chúng bị chết rất nhiều. Có nhiều nhà quân Cộng sản chết sắp lớp mà vẫn không chiếm được, sau chúng phải dùng quỷ kế dụ hàng và vây hãm nhiều ngày cho hết đạn bên trong mới chịu buông súng. Những anh em Lôi Hổ cùng đường này, khi bị bắt lên núi, ngồi nhìn cái chết chậm vì đói rét, bệnh tật đang từ từ đến, đã đấm ngực tự trách sao không quyết tử đến cùng với quân Cộng sản, để dù có ngã xuống thì vẫn còn nhẹ nhàng hơn “Sống như chết” thế này.
Yêu cầu của Manhard được Ty Cảnh sát Huế thỏa mãn và vào những ngày giáp Tết, nhìn qua nhà viên đại diện Mỹ, tôi bắt đầu thấy có Cảnh sát Dã chiến đến canh ở cổng.
Khi ngôi nhà bị chiếm, tôi không biết có sự kháng cự nào không, nhưng giờ đây, ngồi giữa căn phòng đã được Cộng sản biến thành một cứ điểm tiền tiêu của chúng, tôi không thấy một ai còn lại trong nhà, ngoại trừ những tên lính chiến đấu Việt Cộng mặt mày âm u hiểm ác, lưng choàng tấm vải dù loang lổ, ẩn hiện đi về như những cánh dơi ăn đêm. Dấu vết phá phách, đập vỡ và sự tan biến của mọi đồ vật chứng tỏ ngôi nhà đã bị lục soát, cướp bóc nhiều lần. Sau này, tại một vùng hẻo lánh rất xa Huế, tôi thấy chiếc xe của Manhard nằm bẹp dí dưới một lùm tre bên đường khi tôi bị Cộng sản đưa lên núi. Bọn Cán bộ đã dùng xe này đi lại để che mắt máy bay rồi khi hết nhiên liệu, chúng vứt lại bên đường. Đó là dấu vết duy nhất của Manhard mà tôi được biết sau khi cuộc tấn công xẩy ra.
Bọn Việt Cộng mải mê với việc tiếp viện cho đồng bọn gần đấy, có lúc tưởng như đã quên tôi. Nhưng không, dụng ý của chúng gian ác hơn nhiều. Ngôi nhà mà chúng giữ tôi đang là mục tiêu bắn phá của nhiều loại pháo không hiểu từ đâu câu lại. Chúng trói bỏ tôi ngồi ngay ngưỡng cửa nhìn ra chiếc sân cỏ chốc chốc khói bụi và đất cát lại nẩy lên vì đạn rơi trúng. Đạn nổ sát bên tôi nhiều lần, nhưng không hiểu sao tôi lại chưa chết. Việt cộng muốn mượn bom đạn ta để giết người của ta – như chúng đã lùa đồng bào chạy loạn bên Thành Nội lên cửa Chánh Tây để cho máy bay Mỹ bắn chết – nhưng thêm lần nữa, mưu định của chúng không thành. Trong chiến tranh, bom rơi đạn lạc là sự thường tình nhưng nhiều khi muốn chết cũng không phải là dễ.
Một lát sau, dãy tường cao, cổ kính ảm đạm dưới trời mây của ngôi trường Thiên Hựu đã hiện ra trước mắt tôi. Những khung cửa lớn màu nâu mở toang hoang, trống trải cho thấy nhiều bóng người đi lại bên trong. Nhưng không phải hình ảnh thường thấy của những linh mục người Pháp cao lênh khênh trong bộ áo chùng đen thậm thượt, hay những Học sinh nội trú hiền lành mà là sự chuyển động đen tối của bóng dáng yêu ma, lấy mái học đường làm nơi tụ ác. Bước qua những mảnh cửa kính vỡ dọc hành lang ngôi trường và xác những con lợn lai to lớn, không hiểu tại sao nằm chết ở đó, tôi bị dẫn vào một phòng học bỏ trống, cửa ngõ mở banh, không khí rùng rợn như một trạm hành quyết. Góc tường, nhiều vết đạn lỗ chỗ và một vũng máu lớn lan đọng trên nền, chỗ còn đỏ tươi, chỗ đã đen thẫm, bốc lên một mùi tanh khó tả của máu người. Cổ họng tôi nghẹn đắng một cảm giác căm hận. Không nghi ngờ gì nữa, đây là chỗ Việt Cộng thủ tiêu người. Bao nhiêu người đã bị xô vào góc tường này để hứng lấy những phát đạn bắn gần. Máu họ còn đó, nhưng thân xác bị vùi dập nơi đâu ?
Lúc đó, thật tình tôi không biết ở khu vực quanh tôi nhiều người cũng bị bắt đến đây như tôi và càng không thể ngờ rằng trong số những người không may đó, có rất nhiều gương mặt, quen cũng như không quen, đến nay vẫn tuyệt mù tăm tích, không biết sống chết ra sao. Trường học là nơi đóng quân trong Thành phố của Cộng Sản, cũng là bãi giết người tập thể. Hầu như ít ai đã lọt vào đây mà được trở về. Tôi bị bắt khi Cộng quân đang chuẩn bị rút. Chúng bận rộn lo di tản thương binh và chống đỡ với phi pháo nên hoạt động khủng bố phần nào bị hạn chế. Suốt hôm đó tôi không thấy có ai thêm bị đưa vào trường ngoại trừ anh Luận. Nhưng những xác chết trong đêm mà tôi thấy nằm rải rác trên đường đi từ ngã tư Nguyễn Huệ – Lý Thường Kiệt cho đến phía bên kia Cầu Kho. Hèn chi Cộng sản bắt đầu đưa tôi lên núi, thì rất có thể họ là nạn nhân của những vụ hành quyết tại chỗ.
Càng gần thất bại, Cộng quân càng trở nên dã man. Diễn tiến tình hình tại Huế đã cho thấy như vậy. Chỉ tiếc màn đêm và sự canh chừng của Cộng sản đã không cho phép tôi nhận diện được họ rõ hơn. Chỉ biết đấy là xác những thường dân, trên người còn mặc bộ áo quần ngủ. Tôi thông cảm sâu sắc niềm đau miên viễn của gia đình những người bất hạnh. Mười mấy năm qua vẫn chưa thôi truy tìm dấu vết người thân, dầu là một chứng tích bi thảm cũng đành lòng, hơn chút ảo tưởng sống còn, ngày càng mơ hồ vô vọng. Bản thân tôi, gia đình tôi không chỉ hết nước mắt nhớ thương, mà hết luôn cả hy vọng nhặt xác con về. Có hầm chôn tập thể, khe suối vùi người nào được khai quật mà gia đình tôi không đến lật tìm từng mảnh vải còn vương, đến hàm răng, chiếc sọ bầy nhầy, để xem có di thể tôi trong đó không. Những người thân yêu nhất trong đời tôi, mẹ tôi, chị tôi – khi nhắm mắt vẫn còn yên trí tôi đã là một hồn ma không còn trên cõi thế.
Trở về sau 13 năm trôi dạt ngục tù, tôi xem ra thành kẻ chứng nhân cho một chuỗi ngày khổ tận. Không phải tất cả những người mất tích đều đã chết. Nhưng sự sống sót chỉ là hạt cát trong biển máu không lồ. Mỗi trại giam lụp xụp giữa Trường Sơn là một khu mồ dựng sẵn. Nhưng bản năng sinh tồn cũng có những sức đề kháng kỳ lạ. Có những lời nhắn gởi bị dìm đi, nhưng cũng có những lá thư nhà đầy khí khái của kẻ sĩ sa cơ, coi nước đã mất thì nhà không còn…
Nhìn chúng đi lại tôi ước lượng khoảng một đại đội Việt cộng đang chiếm đóng khu trường. Nhiều tên ghé lại đứng nhìn ngắm chúng tôi rồi chỉ trỏ bàn tán với nhau. Có vẻ chúng đang chuẩn bị đem chúng tôi ra bắn. Một tên du kích mặt non choẹt, toàn thân vàng bủng nhưng điệu bộ cực kỳ hung ác được giao canh giữ chúng tôi. Bằng một giọng Thừa Thiên quê đặc, hắn vừa phun ra những lời chửi rủa độc địa, vừa dí mũi súng Carbine vào người tôi, ngón tay cong lại như sắp bóp cò. Vừa khi đó hai chiếc trực thăng vũ trang bỗng từ đâu sà đến, nhả liền mấy quả rốc kết vào bọn Việt cộng trên lầu. Khói bụi bốc mù mịt, vôi vữa rơi đổ ào ào. Mấy tên du kích hốt hoảng tìm chỗ ẩn núp, quên khuấy chúng tôi. Ngồi trên chiếc bục giảng bài của thầy giáo, tôi ngẫu nhiên được chứng kiến cảnh chiến đấu đang diễn ra. Tôi thầm cảm phục sự can đảm của hai viên Phi công trực thăng. Từ các cửa sổ tầng trên ngôi trường, các họng súng đại liên, trung liên, cộng với hằng trăm cây súng cá nhân Cộng sản thi nhau nhả đạn vào hai chiếc máy bay, tưởng như thế nào cũng bị tiêu cháy đến nơi. Nhìn từ phía trận địa địch, rõ ràng trong chiến đấu, trực thăng là một đối tượng rất dễ bị tổn thương. Thế mà cái khối chậm chạp lắc lư đó như không biết sợ là gì, vẫn bình tĩnh lượn gần quan sát, thỉnh thoảng nghiêng mình bắn trả những đường đạn chính xác. Tôi nghe rõ nhiều tiếng kêu la trên lầu vọng xuống.
Bọn Cộng sản đã bị trừng trị. Trong tiếng la thất thanh tôi nghe cả giọng đàn bà. Chúng điên cuồng hò nhau bắn trả, nhưng hai chiếc trực thăng chỉ dạt ra rồi lại sà xuống tiếp tục bắn phá. Ở những vòng lượn thấp, tôi nhìn thấy viên xạ thủ người Mỹ phơi mình bên khẩu đại liên, giữa lúc lao vào ổ địch mặt vẫn lạnh băng như không biết sợ là gì. Cũng những người lính viễn chính ấy tôi thường gặp trong những phi vụ đưa đón phái đoàn, từ sân bay Thành Nội, bãi đáp MACV đến không trạm quân đoàn, trông họ rất đỗi bình thường, lặng lẽ và lễ độ. Thế mà giờ đây trong mắt tôi họ bỗng trở thành một thứ Hiệp sĩ thần kỳ, phù nguy diệt bạo. Tôi hoàn toàn không nghĩ là mình đã được giải cứu, nhưng vẫn cảm thấy một cái gì như hả dạ khi biết rằng bọn sát nhân đang bị những đòn giáng trả đích đáng. Có thể chúng sẽ giận dữ hơn, tàn bạo hơn đối với những người rơi vào tay chúng, nhưng ít ra chúng cũng hiểu không kẻ nào gieo gió mà không gặt bão.
Nhưng tiếc thay sự hiện diện của lực lượng Đồng minh hôm đó chỉ có thế. Sau khi hai chiếc trực thăng bỏ đi, bầu trời im ắng trở lại, trả cho bọn Cộng Sản cái quyền thao túng mặt đất mà chúng đang nắm giữ bằng sắt và máu. Cũng như tất cả những người bị cô lập với bên ngoài, tôi có cảm tưởng lực lượng ta đã rã hết rồi. Và chiếc máy bay chợt đến rồi lại chợt đi như đóm lửa chưa kịp bùng cháy mà đã vội tắt. Thấy tạm yên, mấy tên du kích đanh ác lại ngóc đầu lên. Nhưng lần nầy chúng có vẻ hơi gờm, chỉ gườm gườm nhìn chúng tôi chứ không chửi rủa và đòi dọa bắn.
Đến tối, hình như có lệnh mới, chúng tôi được dẫn tới một phòng khác có vẻ là nơi chuẩn bị để di chuyển. Đi qua những hành lang dài hun hút nhưng tuyệt không một ánh đèn, chúng tôi bước mò mẫm trên những mảnh kính vỡ và nhiều chướng ngại không tên, để cuối cùng dừng lại trước một cánh cửa tối om. Chúng đẩy tôi vào và bảo ngồi đấy đợi. Quơ tay, tôi sờ thấy một chiếc mền dạ không hiểu của ai vứt lại trên thềm. Tối quá tôi không biết ngoài tôi và anh Luận còn có ai trong phòng nữa không. Nhưng chắc chắn là có người vừa từ ở đây bị dẫn đi và vì vội quá nên không kịp đem theo chăn mền của mình. Chiếc khăn dạ tốt, loại nhà binh Pháp để lại, nhất định không phải thứ mà Cộng sản có được. Đêm tháng Giêng trời lạnh, trên mình lại chỉ phong phanh một bộ đồ mỏng, không dày dép, tôi và anh Luận quấn luôn chiếc mền vào người và cũng không có ý định giao nó lại cho những tên Việt cộng tham lam. Sau này, khi chuyển trại, chiếc chăn được xé làm đôi, tôi một nửa, anh Luận một nửa. Chính nhờ mảnh chăn đó mà tôi đã có thể cầm cự nổi với cái rét cắt da thịt của Trường Sơn, và đã không sớm ngã xuống như nhiều anh em khác. Khi đưa ra giam ở Miền Bắc, tuy có được phát mền sợi Trung cộng, nhưng tôi vẫn giữ mảnh chăn bên người với ý định sau này nếu có cơ hội sẽ tìm gia đình người có tấm chăn trả lại như một dấu tích của người thân để lại.
Càng về đêm, bọn Cộng sản lại càng đi rộn rịp. Như một loài ma ăn đêm, chúng có vẻ quen thuộc với bóng tối. Mọi sự chuyển vận, hoạt động đều không cần tới ánh sáng. Tiếng dép lốp nghiến xào xạc trên mảnh chai, tiếng súng khua lách cách. Thỉnh thoảng có ánh diêm chớp lóe đỏ, soi lên tường những bóng đen qua lại. Bỗng trong sâu thẳm của tối tăm nổi lên nhiều tiếng rên rỉ đau đớn. Tiếng rên đau phát ra từ dãy phòng phía hữu gần cổng chính ngôi trường. Ở đó có các thương binh của chúng nằm dài trên nền xi măng chờ được cáng đi. Qua thoáng nhìn vội, tôi thấy được cảnh tượng mà Cộng sản ít khi để lộ ra ngoài. Những thân người sắp lớp từ phòng này qua phòng khác, cái đã bất động, cái còn cựa quậy rên la, chứng tỏ khi đi gây tội ác, chúng đã tổn thất. Dấu giếm là sở trường của Cộng Sản. Sợ dân chúng biết, chúng đã dồn hết những đồng bọn không may vào đây, chờ đêm tối mới bắt đầu chuyển về sào huyệt. Những chiếc khăn màu xám dơ bẩn buộc túm hai đầu luồn dưới một thanh tre dùng làm đòn khiêng là cáng tải thương đường dài của chúng. Trong khi những tên bị thương khóc lóc, kêu khát đòi xin nước thì những tên khác vẫn thản nhiên bước qua, không buồn dừng lại hỏi han một tiếng.
Hồng Châu

http://www.chuacuuthe.com/2014/01/5-000-ngay-trong-coi-a-ty/