Chủ Nhật, 15 tháng 12, 2013

TRƯ CUỒNG (Tiếp theo - Kỳ II)

  - Nhà văn Nguyễn Xuân Khánh


ĐẠM

Đạm là một loại thức ăn cực kì quan trọng để tăng trọng lợn. Trên thế giới, nhiều nhà khoa học đã vắt óc ra để giải quyết vấn đề đói đạm cho lợn. Người ta nghiền cá tạp nhạp để làm bột cá. Người ta cố tăng sản cây họ đậu để tạo ra nguồn đạm thay thế. Người ta nghĩ cách nuôi vi sinh vật trong cặn dầu hỏa để thu hái nguồn đạm động vật rẻ tiền …v.v….
Đó là những vấn đề người khác dã phát minh, tìm tòi ra.
       Riêng tôi, tôi cũng đi sâu vào đạm, nhưng chỉ đi vào một nét rất nhỏ của vấn đề đạm.
       Một hôm về quê, tôi được bà chị tôi kể lại cho nghe một câu chuyện: ”Một chị xã viên nông nghiệp một buổi ra đồng về. Mọi khi, về đến đầu ngõ, chị bao giờ cũng nghe tiếng reo mừng của đứa con lên ba ”A! Mẹ! Mẹ …” Hôm nay, về đến nhà, chị vẫn chưa nghe thấy tiếng con reo. Chị ngạc nhiên réo gọi: Tí ơi! Cu tí ơi! Gọi mãi chẳng thấy con thưa, chị cuống cuồng chạy ra giếng, rồi lội cả xuống ao tìm con, nhưng vẫn không thấy. Chị ra chuồng lợn, và bỗng phát hiện ra một điều kỳ lạ: con lợn lai kinh tế nặng trên một tạ của chị, mọi buổi chiều, khi chị ở ruộng về, vẫn rống gào đòi ăn, hôm nay lại nằm im ngoan ngoãn. Chị bỗng rùng mình, sởn hết gai ốc lên; chị nhìn vào chuồng lợn, thì thấy thằng cu Tí chỉ còn lại cái đầu lâu bị gặm nham nhở. Chị nông dân ngất đi, và người ta đã đem con lợn ra bắn chết.“
       Tôi chợt loé nghĩ: ”Có lẽ lợn thích ăn thịt người nhất.” Rất có thể, vì nhiều nhà khoa học cho rằng thịt người là loại thịt bổ nhất; nhiều bộ lạc ăn thịt người, sau khi được văn minh hóa cũng thú nhận thịt người rất ngon.
       Ý nghĩ ấy cũng hay, nhưng làm cách nào để chứng minh được nó. Rất bí! Bởi vì lấy đâu ra thịt người để cho lợn ăn. Nghĩ mãi mới tìm ra được cách thực hiện. Tôi liên hệ với mấy bà hộ sinh và hàng ngày bỏ tiền ra mua nhau bà đẻ.
       Nhau là thứ thịt người tốt nhất. Sau đó, tôi lại mua thịt bò để làm đối chứng. Tôi để hai máng thức ăn vào chuồng, một máng trộn thịt bò, một máng trộn thịt người. Con lợn lai của tôi ngửi hai máng thức ăn, và lập tức xô tới máng có thịt người ăn lấy ăn để.
       Tiếp đó, tôi tiến hành một thí nghiệm thứ hai. Tôi lấy sơ ranh rút ở tĩnh mạch ra mười phân khối máu của chính tôi. Tôi để hai máng thức ăn, một bên trộn cá, một bên trộn máu người. Kết quả con lợn lại xô đến máng ăn có máu người.
       Vậy có thể kết luận: ”Trong các loại đạm, thịt người là loại đạm lợn thích ăn nhất“.
       Tôi càng đọc càng bị lôi kéo vào những dòng ý nghĩ như ma ám của Tám. Những ý nghĩ như gàn như dại ấy phải chăng bắt nguồn từ những sợi rễ li ti nằm trong những miền đáy thẳm âm ti của ta. Nhưng phải chăng đó chỉ là những ý nghĩ bâng quơ? Tôi hút thuốc lá, lan man suy nghĩ để rồi càng ngày càng lạc vào thế giới rất thật mà lại hoang đường của những ý tưởng vừa như khoa học vừa như huyền thoại.

      NGUỒN GỐC NGƯỜI   
       Tiến hoá luận của Darwin cho rằng thuỷ tổ loài người vốn là loài khỉ. Cổ sinh vật học và khảo cổ học đã chứng minh điều đó.
       Người Trung Hoa chưa cần đến khoa học, cũng phát hiện ra điều đó trước mấy trăm năm so với phương Tây. Trong Tây du ký đã nói Tề thiên đại thánh vốn là con khỉ, tu luyện mãi sau đã hoá thành người, tiếp nữa thành Phật (Phật là một loại người hoàn chỉnh nhất). Nhưng sách Tây du ký còn phát biểu thêm một mệnh đề nữa mà chưa ai để ý tới: Lợn cũng có thể trở thành người và Phật. Trư Bát Giới là một con lợn đã dần trở thành Phật. Nói một cách khác đi: nguồn gốc loài người có thể là khỉ nhưng cũng có thể là lợn.
  
       TÂY DU PHIẾM LUẬN
       Phiêu Diêu Tử ngồi uống rượu cùng sư Vô Trụ. Khi bầu hồ lô ruợu đã cạn quá nửa, Phiêu Diêu lòng lâng lâng hỏi cùng thầy tăng:
- Xin giảng lẽ huyền diệu: Phật là gì?
   Sư Vô Trụ nhắm mắt nói:
- Con lợn.
    Phiêu Diêu Tử điềm nhiên:
- Xin nói thêm.
- Con khỉ.
- Còn gì nữa?
- Thằng đần.
    Phiêu diêu Tử nghĩ mãi chẳng ra, liền van nài:
- Tôi vẫn không hiểu, xin thầy tăng giảng rõ hơn.
        Sư Vô Trụ từ từ mở mắt:
- Cả ba họp lại thành Phật.
        Nói xong, sư lại nhắm mắt và lặng lẽ ngồi thiền, không nói thêm một lời. Phiêu Diêu tử ngồi ngẫm nghĩ nhưng vẫn chỉ thấy mung lung. Ông uống hết bầu rượu thứ ba, ngoảnh nhìn vẫn thấy sư ngồi yên lặng. Họ ngồi ba ngày ba đêm, phơi thây cùng trời, đất, trăng, sao; một bên cứ uống, một bên cứ lặng lẽ. Phiêu Diêu tử thả hồn vào cõi khôn cùng, đánh đu cùng nàng gió, đùa cợt nàng trăng, chân đi khấp khểnh và quên hết sự đời. Chính lúc ấy, chàng chợt hé nhìn vào cửa huyền vi. Chàng chợt cười ha hả mà rằng:
- Phải chăng lấy đôi vú đàn bà làm nậm rượu để uống cho đất trời nghiêng ngửa? Lấy cái thân xác trắng ngần để mà mê đắm, để mà xuất thần, hòa tan cùng trời đất. Mê đắm kiệt cùng sẽ đến bến bờ tĩnh lặng. Bên kia nó là cái tinh khôi nguyên thủy.
Phải chăng cái nộ khí xung thiên là cội nguồn vũ trụ. Ta phá trời, ta khuấy nước, ta đào cho đến miền âm ti tìm cho đến những sợi rễ tột cùng của lẽ vô thường. Và ta bỗng bưng mặt thương cho kiếp nhân sinh.
Hay là ta ngơ ngơ, ngẩn ngẩn, thân lang thang như con phù du trôi nổi, bồng bềnh thả mặc con sóng, đói ta bứt quả rừng, khát ta uống nước suối, mệt ta ngả lưng trên đất, vui cùng trăng sao thuận cùng trời đất, mặc cho gió giăng buồm kéo ta khỏi bến mơ …
        Sư Vô Trụ đột nhiên mở mắt. Phiêu Diêu Tử hỏi:
- Ông thấy sao?
- Kẻ đi đến nửa đường là kẻ trần tục. Kẻ đi cho đến cùng đường sẽ nhìn thấy Phật.
        Cả hai nhìn nhau và bỗng cười ha hả. Rồi mỗi người một vò rượu, họ uống cho đến quay cuồng vũ trụ.
Ngày … tháng … 
        Sức mạnh của con lợn Bò - vét - đĩa là ăn. Nó ăn sáng, ăn trưa, ăn ngày, ăn đêm, ăn bất cứ lúc nào, miễn là trong máng có thức ăn. Nó lại có thể ăn rất tạp: ngon cũng ăn, dở cũng ăn, thậm chí thiu thối cũng ăn. Nó ăn bèo đã đành, đằng này nó lại dám ăn sống cả cỏ hôi, cả lá cúc tần hắc sì, lá ổi chát lẹt, lá rau sam chua lè … Nó ăn bã đậu, bã ma di, chén tươi cả loại bã rượu nhà máy là thứ bã hầu như đã kiệt chất. Nó ăn quá phàm, quá tích cực, quá hối hả, quá kỳ dị như một thứ quỉ đói … Có lúc vừa mới ăn xong được mươi phút, đã thấy nó chồm chân lên dóng tre, gào rú. Tôi thử lấy một chậu nước gạo, rồi thái một rổ bèo sống, đổ vào máng, thế mà con quái chỉ nhồm nhoàm và hút chùn chụt một loáng đã sạch bay. Tôi đâm ra ngẫm nghĩ và e sợ vì không hiểu đằng sau cái dáng ăn quái quỉ ấy có ẩn tàng một điều gì khác lạ không.
        Nhưng rồi tôi lại yên tâm vì thấy con lợn vẫn bình thường, tức là nó vẫn lớn một cách tỷ lệ thuận với số lượng thức ăn nó đã ngốn.Sau cái yên tâm là sự phấn khởi bởi vì nó lớn rất nhanh, có thể nói tốc độ lớn phi thường. Khi mới về, nó còn bé hơn cả ba con ỉn, so với con ỉn út còn bị lút số; thế mà chỉ qua một tháng, nó đã vạm vỡ, to hơn hẳn cả con ỉn đầu đàn. Tuy to xác, nhưng nó vẫn ngờ nghệch. Mặc dù vậy, với cái thể xác mới của nó, bầy ỉn đã có phần vì nể lợn Bò. Mới về, nó nằm trong xó bẩn, nửa tháng sau, nó nằm dưới chân bầy ỉn, còn bây giờ nó đã dám chen rúc lẫn cùng bầy ỉn, tuy đôi lúc vẫn bị bầy ỉn xua đuổi, chèn ép, nhưng không dám chống lại.
Ngày … tháng …
       Hôm nay cho lợn ăn, tay tôi quệt phải đinh, chảy máu. Tôi chợt nhớ tới một ý của Tám trong ”Bách Khoa Lợn“. Tôi tinh nghịch, bèn vắt cho máu tay chảy vào máng thức ăn. Kỳ dị chưa! Bầy lợn ăn sốc hẳn lên; chúng tranh nhau ăn như điên rồ. mõm lợn vỗ vào máng tồm tộp với một nhịp điệu quá hối hả. Phải chăng câu nói: ”Lợn thích ăn thịt người” là đúng?
Ngày … tháng …
        Hết cám. Dầu hoả lại đắt. Tôi đem bán một tháng phiếu dầu gia đình để mua cám lợn. bà vợ tôi kêu la ầm ĩ:
- Tôi van ông. Lợn với chả bò! Chẳng ăn thua gì đâu!
- Nào! Nào! Cô cứ yên chí.
- Tôi không thể yên chí được. Lợn của anh đã ăn hết cái quần si ba ta của con, bây giờ nó lại nhai đến phiếu dầu. Không khéo mai kia, nó sẽ ăn thịt nốt đàn con của tôi cũng không chừng.
        Tôi chợt bặt lặng, không dám cãi lại vợ nữa. Ừ! Phải chăng lời tiên tri? Tại sao vợ tôi có thể nghĩ rằng lợn ăn thịt con tôi? Tại sao ý nghĩ của vợ tôi lại có thể trùng hợp với ý nghĩ của Tám?
Ngày … tháng …            
        Chủ lò Hợi kéo tôi đến nhà chơi. Anh đã mời tôi năm lần bẩy lượt nhưng tôi chưa đến bao giờ. Không đến bởi vì anh ta giầu có, còn tôi thì nghèo. Khi nghèo, dù ta là người trải đời thế nào, ta vẫn có mặc cảm, và lúc đó ta thường phản ứng lại kẻ giầu bằng cách chê bai họ, khinh bỉ cái giầu của họ, hoặc chí ít không chê bai, khinh bỉ thì cũng lảng tránh, tránh xa khỏi họ. Quan hệ giữa tôi và Hợi cũng nằm trong qui luật ấy
        Nhưng, thằng Linh, cậu sinh viên của tôi đã bắc cầu giao tiếp giữa hai người lớn. Từ khi có Linh dạy thêm, con gái Hợi đã học khá hẳn lên. Học kỳ vừa rồi, cô bé đã được xếp loại học sinh tiên tiến. Vì lý do ấy, nên ông Hợi đã mời tôi đến chơi bằng được.
        Một gian buồng rộng rãi lát đá hoa nhìn ra một vườn hồng nhỏ. Khi vào nhà, phải theo một lối đi nằm dưới một giàn thiên lý thơm mát. Hai bên lối đi đặt những chậu địa lan, ở góc trong cùng của giàn thiên lý, treo lủng lẳng một dò phong lan tai trâu(Ngọc Điểm) đơm nụ. Gian phòng toát lên sự sang trọng bởi nền đá hoa mầu cẩm thạch, loại đá lát đặc biệt mà nhà máy vật liệu xây dựng A đã làm riêng để tặng những khách quí. Cái nền ấy chắc được lau chùi thường xuyên nên bóng lộn. Một chiếc đàn Pianô Nhật mới mang từ Sài Gòn ra kê ở góc. Giữa phòng nhìn ra cửa là chiếc tủ chè lèo kép, khảm trai, trên nóc tủ chỉ để một lọ hoa đồng tiền loại nhỏ …
        Hợi trang trọng mở tủ chè, lấy ra một bao thuốc lá tây chưa bóc và một gói trà rồi hỏi:
        - Anh thích trà thanh tâm hay trà Thái mộc?
        - Trà Thái anh ạ.
        - Anh giống tính tôi. Không gì bằng trà Thái anh nhỉ. Để anh thưởng thức một loại trà Thái đặc biệt mà họ mới biếu.
        Xong tiệc trà, đến tiệc rượu. Anh đốt cồn lên nướng mấy con mực rồi nói cười vui vẻ:
        - Có lẽ anh cũng chỉ thích rượu cuốc lủi? Đúng thế chứ? Tôi nghiệm thấy một điều: các đồ ăn uống của tây chỉ có thuốc lá là ngon, còn thì hỏng bét, rượu không bằng của ta, còn trà thì khỏi phải bàn, tây họ không biết uống trà anh ạ, ai đời trà lại pha đường…
        Tôi không dám luận bàn về cái cách thưởng thức chủ quan, tự coi mình là nhất đời ấy – Tôi chăm chú nhìn người bạn rượu đương rót vào chén cho tôi một thứ nước trong vắt thơm phức. Rượu ngon đã xóa dần đi cái kênh kiệu, cái khoe khoang ngô nghê. Hương men nếp ngan ngát làm cho Hợi trở nên bình dị. Giọng nói của anh bỗng có mầu sắc, lúc lãng đãng, lúc sôi nổi, trở về với những niềm tâm sự mà hiếm khi anh cởi mở:
- Xưa kia tôi ”làm nhau” ngoài lò lợn. Chắc anh chưa biết thế nào là ”làm nhau” nhỉ? Làm nhau tức là xách cái xô tiết, cầm dụng cụ mổ lợn, chạy theo sau và chịu sự sai vặt của người đồ tể chính thức. Ông đồ tể già, ông thầy dạy nghề của tôi, là một người rất ngộ. Ông hay uống rượu, uống ít thôi, nhưng lai rai suốt ngày, mỗi lúc một hớp; ông uống chỉ đủ để bốc ra miệng những tiếng cười ha hả, và đủ để tuôn ra những chuyện tiếu lâm thú vị và tục tĩu. Đó là lượng rượu duy trì trong ngày; còn buổi sáng, trước khi vào lò lợn, thầy tôi uống nhiều hơn; ông thường ngửa cổ uống một hơi, tu suông ừng ực hết phăng một cút rượu, rồi mới sắn tay áo kiểm tra đồ nghề, và mài dao. Một cái bị toàn là dao, con dao lá lúa để đâm cho ngọt, con dao rựa để chẻ xương sống, con dao bầu để cạo lông pha thịt, ngoài ra còn thêm mấy con dao dự phòng. Buổi sớm ở lò lợn thật ồn ào kỳ dị: tiếng những con lợn ngửi thấy mùi thần chết gào lên hoang rợ, tiếng ằng ặc thảm thê, tiếng liếc dao xoèn xoẹt, tiếng mài dao đều đều, tiếng chặt xương công cốc, tiếng cạo lông sồn sột, tiếng những con dao va chạm vào nhau leng keng, tiếng người nói chuyện với nhau bằng giọng hò hét. Những ông đồ tể khác đã lao vào công việc, nhưng thầy tôi bao giờ cũng đủng đỉnh. Ông mài dao thật kỹ càng, cho đến lúc con dao cạo được râu mới thôi; bởi vì ông thích một lưỡi dao phóng vào tim bao giờ cũng phải ngọt, ông thích hoá kiếp cho những con lợn được chết nhanh hơn. Sáng nào thầy tôi cũng dạy tôi bằng một câu nói gần như thuộc lòng: ”Hãy cắt tiết con lợn như cắt tiết cuộc đời cho đến cùng giọt máu. Chớ có run tay. Này, cắt ngang một đường, rồi chếch lưỡi dao đâm chéo vào tim. Ngoáy lưỡi dao một vòng cho đứt hết những mạch máu nhằng nhịt. Ân dao về một phía cho cửa ra mở rộng. Thế là tiết sẽ ồ ồ chảy ra như vòi nước. Đạp chân vào bụng cho tiết chảy nhanh hơn. Và dốc chân sau lên cho máu ra đến cùng. Hãy nhớ lấy – Hãy đâm cho trúng – Không được phép run tay. Hãy vắt máu cho kiệt. Có thế trông miếng thịt mới trắng mới đẹp, ăn miếng thịt mới ngọt mới thơm. Hãy cắt tiết cuộc đời như…” Thế rồi thầy tôi cười, một tiếng cười hư hư thực thực. Ông đồ tể già muốn nói với tôi cái gì sau câu nói đó tôi cũng chẳng hiểu nữa, nhưng câu nói đó đã như cái bóng theo tôi suốt cả cuộc đời.
- Cắt tiết cuộc đời? Tôi ngơ ngác hỏi.
        Lúc này trông Hợi ngơ ngác chẳng kém gì tôi.
- Nhiều lúc tôi định nói chuyện với anh, định hỏi anh, định kể với anh câu chuyện ấy.                            
- Định kể với tôi?                                                              - Vâng. Kể với anh. Nhưng có lẽ anh khinh tôi … à … người ta vẫn khinh bỉ tôi …
   - Tôi? Khinh anh? Tôi ngơ ngác thêm.
- Chả cứ anh … đến vợ tôi cũng mặc cảm với tôi. Cô ta không nói ra nhưng tôi biết …Này … Tôi hỏi thật anh có ghê sợ tôi không?
        Tôi càng đi vào chỗ lúng túng, và tôi chợt hiểu con người ngồi trước mặt tôi. Con người hình như phú quí, hình như tàn ác, hình như kênh kiệu rởm ấy … Thực ra anh ta cũng yếu đuối, cũng khốn cùng … Tôi chưa kịp biểu lộ cái thương cảm ngớ ngẩn ấy của tôi ra với Hợi, thì Hợi bỗng cười to. Anh ta uống một tợp rượu rồi cười ngất. Cái vui có lúc như bông phèng lại trở về giọng nói của Hợi.
- … Tôi đi làm cách mạng. Tôi bỗng hiểu ra câu nói ”Hãy cắt tiết …” của ông thầy, người công nhân lò mổ năm xưa. Tôi hiểu đó là sự kiên quyết, sự dứt khoát, sự mạnh mẽ. Cách mạng đã cắt tiết chế độ cũ. Máu tiết ở tim, gan, phổi óc của chế độ cũ phải kiệt đi, phải chảy đến giọt cuối cùng để cách mạng có thể thay thế vào đó một dòng máu mới.
- Anh đã tham gia vào việc đó ra sao?
- Năm 13 tuổi tôi là liên lạc trong Trung đoàn Thủ đô. Năm 17 tuổi tôi là tiểu đội trưởng vệ quốc đoàn. Năm 18 tuổi tôi giết tên giặc Pháp đầu tiên.
- Anh kể cho tôi nghe chuyện đó đi.
- Anh nghĩ thế này có tức không? Chúng tôi có một trung đội, vây hãm một bốt Tây đánh cho đến gần nhọm nhẹm sáng chúng mới chịu hàng. Trung đội trưởng chết. Trung đội phó chết. Chúng tôi bắt được một thằng Tây trắng và hai thằng Tây đen. Thằng Tây trắng chỉ huy đã bị thua còn ra vẻ, còn khệnh khạng. Tôi hỏi: ”Anh tên gì? Cấp bậc gì?” Nó trả lời ”Tôi là com măng đăng, là thiếu tá, tôi không nói chuyện với anh, hãy đưa tôi về gặp chỉ huy cao cấp của các anh”. Tôi hét lên: ”Mày có nói không?” Nó trả lời: ”Tôi chỉ nói với người cấp bậc ngang tôi”. Tôi giận giữ chửi vào mặt nó: ”Thằng ngu”. Thằng Tây quắc mắt nhìn tôi. Tôi tát vào mặt nó. Nó dướn cổ nhìn tôi căm thù. Tôi bắt nó quì, nó không quì. Thế là tôi rút dao ra, đâm vào cổ nó, sọc vào tim nó…
        Hợi trầm ngâm, tay run run vê một điếu thuốc lào, và anh hút bập bập, tiếng điếu cày kêu tanh tách cắt thành từng đợt. qua làn khói anh tư lự đặt câu hỏi:
- Chỉ có một điều tôi vẫn chưa hiểu. Lúc đó, tay tôi cầm khẩu súng lục tước được của chính thằng xếp bót đó, nhưng không biết tại sao tôi lại không bắn? Bắn như thế sẽ giản đơn hơn, thằng Tây sẽ chết nhanh hơn, quang cảnh sẽ bớt ghê rợn. Nhưng tôi lại đút súng vào túi quần và rút con dao lá lúa ra, tôi giơ con dao sáng loáng trước mặt nó. Lúc bấy giờ thằng Tây mới sợ. Nó tròn mắt và kêu to một tiếng ô ô gì đó. Và tôi đâm vào cổ nó … Ư nhỉ! Tại sao tôi không dùng súng nhỉ?
        Tôi lặng yên, không dám trả lời Hợi, cứ để cho anh ta tự độc thoại bằng những lời không thốt ra, những lời như những bọt nước sôi từ đáy lòng cuộn lên làm đôi mắt anh ta chớp chớp. Sự im lặng kéo dài đến vài phút. Sự im lặng hình như có độ co dãn. Lúc này nó lắng tịt xuống, chìm sâu hẳn xuống để cho tiếng một con thạch sùng tặc lưỡi bâng quơ cũng được chúng tôi chú ý nghe rõ mồm một. Tiếng con vật đánh thức Hợi dậy, đánh thức tôi dậy khỏi một dòng suy tư đang chực hình thành. Tôi hỏi một câu hỏi chẳng ra đầu ra cuối:
- Thế còn bây giờ?
- Sao?
- Bây giờ?
- A à … - Hợi chợt cười một cái cười hài hước nửa miệng – Bây giờ thì tôi chả cần ”cắt tiết” nữa rồi. Cuộc đời đã tự cắt tiết mình để hiến dâng tôi …
        Tôi lạ lùng, ánh mắt tỏ vẻ không hiểu.
- Dễ hiểu thôi, anh Hoàng ạ. Bây giờ thì tôi cần gì phải dùng con dao lá lúa. Tôi đã để nó vào trong cái tủ chè kia, dành làm kỉ niệm. Bây giờ, tôi có hàng loạt người quen bạn bè ở khắp các cơ quan. Tôi lại có lòng lợn thịt lợn trong tay – Anh cười to – Tôi chỉ cần sống lương thiện, chỉ cần các cơ quan bạn giúp đỡ tôi một cách trong sạch nhất, hợp lý nhất. Tôi chỉ cần sống như thế là cũng đủ có một đời sống sung túc.
        Mắt tôi chợt dừng lại ở dò phong lan tai trâu lủng lẳng trên vườn hồng. Chúng tôi rủ nhau ra xem hoa. Tôi hỏi dò hoa hay tự hỏi lòng mình:
- Ôi cái lương thiện! Cái lương thiện thời nay mà cũng bi thảm đến thế sao?
Ngày … tháng …
        Con lợn Bò – vét - đĩa của tôi hình như cũng biết được cái triết lý sống của ông chủ lò. Nó ăn rất điên. Nó ăn say sưa như một nghệ sĩ. Có nghĩa là từ lúc tôi đổ thức ăn vào máng con Bó đã xông ngay vào và say sưa ”Cắt tiết cuộc đời” . Nó ăn không ngừng, không thở, ăn một mạch bất chấp có gì xảy ra xung quanh. Lũ ỉn tấn công, dúi, cắn, hất. Mặc, nó cứ ăn. Nó ăn liên tục gần nửa tiếng như vậy; và sau khi đã vét đĩa sạch sành sanh, nó lặng lẽ liếm mép, đủng đỉnh vào chỗ nằm. Và chỉ vài phút sau nó đã ngáy o o. Thậm chí, khi lũ ỉn cưỡi lên lưng nó, con Bò cũng vẫn ngủ. Con lợn Bò của tôi cũng ngủ theo kiểu ” cắt tiết cuộc đời ” ?
  
Ngày … tháng …
       Tôi sang nhà Lân, thấy anh ta mặt đen thui, bực bội đứng trước cái lều chế biến thức ăn. Từ căn lều bốc lên một con rắn khói đen sì ngoằn ngoèo múa lượn. Lân bứt rứt đi lại. Hình như anh đang bị khích nộ. Cái đầu to đen của anh lắc lư trên cái thân gày đét. Tôi im lặng chờ đợi Lân nói. Lân thỉnh thoảng lại mắc một trận khích nộ như vậy, một trận khích nộ khùng khùng dại dại. Kìa, Lân đã sáng mắt lên. Đôi mắt long lanh trên khuôn mặt đen sạm hình như có lửa nung:
- Tôi khinh bỉ con lợn Bò của anh. Đúng! Nó là đồ vét đĩa.
- Hôm nọ, anh khen nó lắm cơ mà? – Tôi điềm đạm.
- Hôm nọ tôi khen, còn hôm nay tôi khinh. Bởi vì … bởi vì nó không xứng đáng.
- Xứng đáng?
Lân giang tay ra giải thích:
- Tôi thích nó mạnh mẽ … Thích nó cứng rắn … Thích nó chiến đấu.
- A à …
        Tôi lặng lẽ nhìn người bạn của tôi dang lên cơn ”sặc mùi thuốc súng” . Mắt Lân sáng chừng kia. Tay Lân hoa lên như thế kia. Cái đầu anh lắc lư. Môi anh run lên bần bật. Lắp bắp… có lẽ bộ óc kích động của anh đang đi tìm chữ… có lẽ nó đang đi tìm những chữ nào mạnh mẽ cuồng nộ nhất, báng bổ nhất, nổ bùng nhất, để làm tan dần, hả dần những âm vang cay đắng còn dư đọng từ những ngày chiến trận. Lân cần một người nghe, một người biết chịu đựng những bầu tâm sự, biết để cho những kho thuốc súng trong tâm hồn anh được bung ra một cách tự nhiên không cản trở. Tôi nhẫn nại lắng nghe, với ước mong dần dần đầu óc bạn tôi trở về mát mẻ. Tôi hút thuốc lá, thở khói, im lặng, chăm chú nghe Lân nói.
- Con lợn Bò của anh là cái … thứ gì nhỉ? Đôi mắt lấm lét … A, cái giống hèn mạt … Quen cái thói nô lệ rồi … Cam chịu … Cam chịu … Thế mà còn tự ru ngủ mình … rồi tự đế mình lên … tự khen mình nữa … rồi lập lờ … lộn ngược giá trị … tôn vinh cho sự ti tiện …
        Lân ơi! Tôi biết nói với anh sao đây? Một người điên, hay một kẻ thất vọng? Hay một kẻ mộng du đi trong một cõi người điên đảo? Hay một người cố chấp ương bướng? Anh phóng chiếu lòng anh vào đàn lợn. Những gì anh không thấy ở đời thì anh đi tìm nó ở đàn lợn, ở một sinh vật hạ đẳng hơn. Những con vật được anh nhân hoá; anh tạo cho chúng một hồn người … Lân ơi! Tao biết khóc hay cười cùng mày đây? Mày muốn tao trả lời những tra vấn của mày ư? Cặn kẽ ư? Tôi bối rối. Nhưng dù sao, tôi cũng kéo anh ngồi xuống bên tôi, rồi đưa thuốc lá cho anh hút. Lân chăm chú nhìn tôi và hít những hơi dài, nhả khói ra liên tục. Tôi khẽ khàng gật đầu:
- Anh nói đúng.
- Thế chứ!
        Lân vội vã nắm lấy tay tôi bóp mạnh. Hỉ hả, vui sướng như một đứa trẻ thơ. Tôi thấy điếu thuốc lá trên tay anh run lên.
        Rồi bỗng nhiên, anh đứng dậy, cầm tay tôi kéo ra chuồng lợn, dáng vẻ hân hoan:
- Anh phải ra đây. Ra đây mới hiểu hết lời tôi nói.
        Anh dừng lại giải thích cố cho tôi hiểu mạch lạc: 
- Tôi mới mua được con lợn chiến sĩ. Anh hiểu chưa?
- Sao?
- Chiến sĩ! Tôi đặt tên cho nó là Chiến sĩ bởi vì … Bởi vì nó có thái độ rất liêm sỉ. Anh hiểu chưa?
        Thì nào tôi đã hiểu gì đâu, nhưng vì thấy Lân rất ân cần tôi hiểu nên tôi cứ gật đầu bừa. Lân vẫn nói:
- Liêm sỉ, nghĩa là nó biết sống.
        Đến lúc này, Lân mới chỉ vào chiếc bao tải dứa nằm dưới gốc cây bưởi. Và anh bùi ngùi:
- Nó đấy! Con Chiến sĩ của tôi đấy.
        Tôi ngơ ngác vẫn chưa hiểu hết câu chuyện. Còn Lân, anh nghiêm trang mở chiếc tải đắp, để lộ ra một chú lợn con đã chết. Đó là một chú lợn Móng Cái, lưng choàng một vệt loang đen hình yên ngựa, trán đốm một vệt lang trắng hình ngôi sao.
        Và Lân đã cảm động kể với tôi về tiểu sử ngắn ngủi của chú lợn con:
        Lân mua con Chiến sĩ về mới hơn một ngày. Anh mua nó hai trăm đồng, tiền trích ra từ số lãi của con Tên lửa. Chú lợn Móng cái nhỏ con nhưng hay ăn và rất bướng. Lân không có thói quen nhốt riêng lợn khi mới mua về. Vừa từ trại giống về đến nhà, anh đã thả ngay con chiến sĩ vào chuồng.
        Con Chiến sĩ vừa mới chân ướt chân ráo từ lồng chui ra, đã xông ngay vào máng ăn, để tranh ăn với con Thần sấm. Thần sấm là một chú lợn tây khoảng 95% máu ngoại. Hầu như chả thấy dấu hiệu nào của máu ỉn trên người chú. Một con lợn trắng toát, tai to, chân cao, bụng ngựa … Trông nó giống như một con béc giê. Nó rất hiền nhưng khá ích kỉ. Nó chuyên ăn riêng, một mình một máng. Nếu không con nào động đến máng của nó thì Thần sấm rất hiền lành, không gay gổ, ăn xong đủng đỉnh vào ngay chỗ ngủ. Nhưng nếu con lợn khác động đến máng ăn của Thần sấm là không xong với nó. Nó khoẻ nhất, lớn nhất trong đàn lợn hiện nay. Thường dễ nó đã tới bốn chục cân.
        Thế mà con Chiến sĩ, chú lợn ranh con lại dám xông vào máng của nó. Thần sấm nổi giận ra oai ngay. Nó chồm lại định cắn vào tai Chiến sĩ. Chiến sĩ rất nhanh; thoắt một cái nó đã lẩn được ra phía sau, và cắn vào đuôi con Thần sấm. Nó vừa cắn vừa lôi đến nỗi con Thần sấm phải kêu rống lên. Và Thần sấm đành chịu để cho chiến sĩ ăn vào máng của mình. Đó là câu chuyện bữa ăn hôm qua.
        Sáng nay, lúc đến giờ ăn, Chiến sĩ lại quen mui xông thẳng vào máng Thần sấm. Hôm nay, Thần sấm mưu mẹo hơn; nó giả vờ cúi đầu xuống, cùng tranh ăn. Nhưng, bất thình lình, nó ngẩng lên và cắn vào tai Chiến sĩ. Nó nhay, nó rứt đến lúc tai con lợn nhỏ bị rỉ máu ra mới thôi.
        Trừng trị xong, Thần sấm tưởng con Chiến sĩ sợ hãi, sẽ bỏ đi ăn máng khác. Nào ngờ, Chiến sĩ đã không sợ, mà trái lại còn hung hãn hơn trước. Nó không cần ăn nữa, và tuyên chiến ngay với Thần sấm. Nó nhanh như chớp, định cắn đuôi Thần sấm như hôm qua. Nhưng hôm nay, Thần sấm đã biết chỗ yếu của mình; nó bám sát không để cho Chiến sĩ lẻn ra sau đánh tập hậu.
        Hai con lợn một bé một lớn loạn đả inh ỏi, đến nỗi cả đàn lợn của Lân phải dạt hết ra chung quanh, chúng không dám ăn và nhìn hai con lợn tham chiến. Lân không có thói quen can lợn đánh nhau. Kinh nghiệm của anh là cứ để mặc cho lợn đánh nhau, và như thế lợn sẽ nhanh chóng làm quen với nhau hơn.
        Cuộc chiến diễn ra gần nửa tiếng. Chiến sĩ tuy bé nhưng nhanh nhẹn. Thần sấm tuy to khoẻ nhưng vụng về. Vì vậy cuộc chiến không phải là không cân sức, cả đôi bên đều bị thương sây sát đầy mình. Chiến sĩ đã hoàn toàn thắng lợi. Cuối cùng, Thần sấm không dám đánh nhau nữa, nó đủng đỉnh quay về chỗ nằm. Còn chiến sĩ cũng tộp tộp ăn vài miếng cho oai, nhưng có lẽ đau quá ăn không nổi, nên nó cũng đủng đỉnh quay về chỗ của mình.
        Lân khoan khoái vào nhà hút thuốc vặt, anh yên chí rằng con lợn nhỏ của anh đã qua được cuộc chiến nhập môn và nó đã được chấp nhận vào đàn.
        Nhưng thương thay! Vì chiến đấu quá sức Chiến sĩ đã bị ngất sỉu đi. Lúc Lân biết thì chú lợn con chỉ còn thoi thóp. Lân mang con vật ra gốc cây tiêm cho nó, bơm cháo cho nó. Không kịp nữa rồi! Mặc dù Lân tận tình cứu chữa, nhưng Chiến sĩ đã hy sinh. Lân vuốt mắt cho nó, đắp cho nó chiếc tải …
        Lân bùi ngùi cầm tay tôi:
    - Anh giúp tôi một tay nhé.
    - Làm gì?
    - Đào một cái huyệt để chôn con Chiến sĩ.
    - Chôn?
    - Vâng. Đem chôn. Vợ tôi muốn giết thịt, nhưng tôi không bằng lòng.                                
        Anh ngừng một lát rồi nói thêm:
- Tôi là người lính. Anh hiểu không? … Ăn thịt một con vật như thế, tôi nuốt sao trôi.
        Tôi lặng lẽ cùng Lân đào một cái hố sâu. Lân đã chôn con vật như chôn một người đồng đội. Tôi nhìn anh đứng lặng bên nấm mồ lợn … Những câu hỏi chợt thì thầm trong óc tôi: ở thời buổi này, đem chôn xuống đất mười cân đạm, đó là hành động của một kẻ điên hay của một con người rất người? … Hay của một con người đóng kịch đại tài?… Cả khi điên, cả trong giấc mơ, con người vẫn đóng kịch hay sao? Trong đời thường ta sắm vai anh hùng và vai trò ấy đeo đuổi ta cả đến khi ta khùng khùng dại dại? Cảnh đám ma lợn ấy là bi hay là hài, hay là một cảnh bi hài mà ta chẳng nhận ra? Hay là tình cảnh riêng đã làm con mắt tôi trở nên độc ác? Đêm ngủ, vắt tay lên trán tôi cố nhớ lại cảnh đám ma lợn, cố nhớ lại những nét hài hước của nó để tự chế diễu thói đa cảm của mình và của bạn. Nhưng không hiểu sao lại chỉ thấy một tác động ngược; tôi chợt thấy thương mình và cả thương Lân nữa.Thế hệ chúng tôi là thế hệ những người anh hùng và cả những người sắm vai anh hùng. Cái chất men Prômêtê ấy thấm vào từng tế bào trong cơ thể, bừng bừng ở những khung cảnh vĩ mô, ngột ngạt sặc sụa ở những khung cảnh vi mô, đến nỗi chúng tôi không phân biệt nổi khi nào ta thực, khi nào ta giả. Chúng tôi lên đồng đến nỗi không nhìn ra được cái ngô nghê thảm hại khi mình rởm ấy. Chúng tôi đã đánh mất cái giản dị tinh tế của đời thường, nhưng có lúc chợt u ơ run rẩy khi đi trên con đường thánh của mình. U ơ bởi vì lắm lúc ngẩn ngơ thấy trong mình vắng thiếu một cái gì rất cơ bản mà mình không xác định nổi; run rẩy vì chợt có lúc thoáng thấy nỗi sợ hãi của phi nhân …
Ngày … tháng …
         Lại thiếu gạo. Lại hốt hoảng chạy vạy. Và vợ tôi lại láy lại một điệp khúc thường diễn:
 - Anh đi vay vài chục. Em mua yến sắn cho con.
         Lại eo óc, gắt gỏng cấu xé, càu nhàu. Lại bực bội vì tiền vì miếng cơm. Lại tính toán ti tiện. Cái tế nhị, âu yếm thời xưa, vợ chồng tôi đánh mất lúc nào chẳng hay. Thậm chí có lúc vì một sự vui hiếm nào đó, tôi muốn đùa vui âu yếm với vợ một chút, thì lại bị cô ấy chê ngay là giả dối. Chập tối, tôi cầm chiếc ghi ta của thằng con, và bắt chiếc nó, đánh rải một hợp âm và hát một câu tình ca của Pháp:
       …Xa em rồi, tim tôi sầu úa …
Vừa hát, tôi vừa mỉm cười bâng quơ. Lập tức, vợ tôi dội ngay một gáo nước lạnh:
- Thôi! Tôi xin. Ông đừng đóng kịch.
        Tôi vứt cây đàn xuống giường, rồi bực bội:
- Toàn là gây sự!
- Ai gây sự?
- Thật là ô nhiễm!
        “Ô nhiễm!!!“. Tôi muốn hét to lên hai chữ ấy, nhưng họng tôi khô khốc. Tôi nghẹn lại, tắc lại. Tiếng nói của tôi biến mất.

(Còn tiếp)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét