“Tụng“ của nước Việt
(Trích Luận ngữ Tân thư)
Nghe nói Khổng Tử trước khi bắt tay vào việc hoàn chỉnh bộ Chu Dịch,
Ngài có nói với các học trò, đại ý: “Giả sử thiên hạ luôn luôn có đạo
lý thì thánh nhân cũng chẳng cần phải làm ra Dịch làm gì. Bởi thiên hạ
càng ngày càng vô đạo nên mới phải làm ra Dịch đấy thôi. Tóm lại Dịch
không phải vì Trời, vì Đất, cũng chẳng phải vì ‘Nhân’ mà làm ra. Chính
là vì “Bất Nhân“ mà làm ra vậy. Đó là thâm ý của bậc thánh nhân. Than
ôi! Con Người bao giờ mới thoát ra khỏi sự tham lam, u tối, bao giờ mới
trở lại chữ ‘Nhân’…“. . Thế rồi Phu Tử làm Dịch. Dịch của Phu Tử bề
ngoài tưởng bàn về “Đạo“ đấy. Song bên trong thực chất ngầm chỉ ra cái
sự “Vô Đạo“ của thiên hạ. Thâm ý ấy của Phu Tử, người đời sau không
hiểu, lại cứ tưởng đó là một bộ sách chỉ dùng để bói toán. Từ đó mới hết
sức đề cao sự bí hiểm của nó, để dễ bề lòe thiên hạ, đặng kiếm miếng
ăn. Than ôi! Dịch mà chỉ có như vậy, chẳng cũng uổng công của Phu Tử và
các bậc thánh nhân lắm hay sao?
Đoạn trên theo “thông lệ“, vẫn là “Lời tựa“ trong Luận ngữ Tân thư. Câu chuyện sau đây trích một phần của bộ sách đó:
Khổng
Tử sang thăm nước Việt. Đám kẻ sĩ nước Việt nghe tiếng bậc Vạn Thế Sư
liền tổ chức đón tiếp rất rầm rĩ, trang trọng. Người nào người nấy tíu
tít ôm trước tác của mình đến biếu Phu Tử để chứng tỏ mình văn hay chữ
tốt, hiểu rõ đạo lý thánh hiền… Khổng Tử xem qua hết một lượt rồi thở
dài hỏi:
“Các vị đều là những kẻ đã từng đọc sách, vậy chắc cũng biết thiên hạ đang ở vào cái thời nào rồi chứ?“. .
Câu hỏi của bậc thánh nhân té ra quá đơn giản. Đám kẻ sĩ nước Việt tranh nhau trả lời:
“Thưa! Thiên hạ đang ở vào thời ‘Tụng’ ạ“.
“Không
sai -Khổng Tử nói – Quả là thiên hạ đang ở vào thời ‘Tụng’. Chỉ tiếc là
các vị đã hiểu nhầm mất chữ ‘Tụng’ mà thôi. Khâu này giờ mới biết, thì
ra ‘Tụng’ của những kẻ sĩ như các vị khác với ‘Tụng’ của đám dân đen.
‘Tụng’ của các vị là ‘tụng ca’, là dàn đồng ca ăn lộc của chúa. Hèn nào
mà văn chương chỉ thấy sự ca ngợi, tô hồng nhảm nhí, lại bịa đặt, trí
trá không biết ngượng mồm. Văn chương mà nhắm mắt bưng tai, tránh né sự
thật, nhân danh cái đẹp, cái thiện để cầu danh lợi, bổng lộc cho riêng
mình, lại còn dựa vào kẻ mạnh để cả vú lấp miệng, áp đặt suy nghĩ của
mình lên người khác cốt làm vừa ý bề trên thì đó là thứ văn chương gì
vậy?“. .
Đám kẻ sĩ nước Việt ớ người nhìn nhau. Có kẻ cúi đầu, có kẻ tỉnh bơ. Có kẻ cất tiếng hỏi:
“Xưa
nay chúng tôi tưởng ‘Tụng’ thì chỉ có nghĩa là tụng ca thôi chứ. Trên
đời lại còn có thứ ‘Tụng’ nào khác nữa ư? Phu Tử có thể giảng cho nghe
được không?“.
Khổng Tử thở dài một cái nữa rồi bảo:
“Tụng
mà chỉ có nghĩa là tụng ca thì thánh nhân xưa đã chẳng đặt ra quẻ
‘Tụng’ làm gì. Thiết nghĩ Khâu này dẫu có giảng ngay bây giờ cũng vô ích
mà thôi. Vậy các vị cứ chịu khó chờ mấy hôm nữa khắc được chứng kiến“.
Mấy
hôm sau, quả có một người đàn bà áo nâu chân đất, dáng điệu nhếch nhác
tìm đến xin ra mắt Khổng Tử. Ta hãy chứng kiến xem có chuyện gì xảy ra
nhé.
Số
là nước Việt có bác nông dân tên Mạt Tử. Chẳng biết theo đuổi kiện tụng
ở tận đâu đâu mà mấy năm trời không thấy về nhà. Ngỡ bác đã chết rấp ở
chốn chợ búa hay một nơi ngòi rãnh nào đó, bác Mạt gái bèn mời thầy về
cúng. Thầy cúng lập đàn, đốt sớ, thắp hương khấn vái khắp đông tây nam
bắc, lại múa may nhảy nhót gọi ba hồn bảy vía, gọi mãi chẳng thấy hồn
về. Thầy cúng bảo: “Hồn không về tức là hồn còn ở nơi dương thế. Chồng
chị vậy là chưa chết, việc kiện tụng vẫn chưa xong. Muốn biết sự thể thế
nào thì phải bói mới biết được“. Nói xong vơ đồ cúng
chuồn mất. Bác gái nghe nói Khổng Phu Tử đang ở thăm nước Việt, lại là
người giỏi kinh Dịch lắm, liền lập tức tìm đến, tính xin một quẻ xem cái
việc kiện tụng của chồng mình kết quả ra sao. Vừa nhìn thấy bác gái,
Khổng Tử đã hỏi ngay:
“Nhà bác muốn đến bói về việc khiếu kiện có phải không?“. .
Bác Mạt gái kinh ngạc quá, bèn hỏi:
“Làm sao mà Phu Tử biết giỏi thế“?
Khổng Tử bảo:
“Thiên
hạ đang ở vào thời ‘Tụng’, kẻ cướp lẫn lộn với người ngay, lưu manh
nhân danh công lý. Vì thiên hạ đua nhau đổ tiền đổ của vào hết chỗ này,
chỗ nọ, đua nhau làm giàu nên mới sinh ra lắm ‘màu mè’. Lắm ‘màu mè’ thì
công lý tối mắt. Từ chuyện ruộng vườn, nhà cửa, chuyện buôn bán, làm ăn
đến chuyện ốm đau, bệnh tật, chuyện con cái học hành… cái gì người ta
cũng có thể thò những cánh tay pháp luật vào mà ‘ăn’ bẩn, ‘ăn thỉu được
cả. Từ đó mới sinh ra khiếu kiện. Vì thế ngày nào chả có người lặn lội
tìm đến Khâu này. Chung quy chỉ bói độc cái việc kiện tụng ấy mà thôi.
Kẻ thức giả khó gì mà không đoán ra“.
Bác Mạt gái nghe Khổng Tử nói thấy trúng quá, liền bảo:
“Vậy xin Phu Tử gieo cho nhà tôi 1 quẻ xem thế nào?“.
Khổng Tử không cần nghĩ, phán ngay:
‘Tụng’ này đích thực là tranh tụng, kiện tụng đây. Tượng của nó là thiên thủy
tụng. Thánh nhân sở dĩ vạch như thế là có thâm ý. Cứ xem cái ‘tượng’ ấy
thì biết. ‘Tụng’ trên ‘Càn’ (thiên), dưới ‘Khảm’ (thủy). ‘Càn’ thuộc kim, ‘Khảm’ thuộc thủy.
Kim ngoáy xuống nước thì có mà ngoáy cả đời cũng chẳng động được đến
đâu. Vì thế ‘Tụng’ gồm tất cả 6 hào, ‘động’ hào nào cũng chả ra gì. Tóm
lại cái ‘thời’ nó đã khốn nạn như thế thì có gieo cũng vô ích mà thôi.
Tại thiên hạ ngu không biết nên cứ thi nhau đâm đầu đi kiện. Kết quả
tiền mất tật mang, chửa được vạ má đã sưng. Vậy mà vẫn chưa thấy ai sáng
mắt ra….“.
Bác Mạt gái nghe nói thì bắt đầu cảm thấy lo lắng, song vẫn gặng hỏi tiếp:
“Phu Tử có thể giảng cụ thể hơn được không? ‘động’ như thế nào mà Phu Tử bảo chả ra gì?“. .
Khổng Tử liền bắt đầu giảng:
“Quẻ ‘Tụng’, ‘động’ hào đầu thì biến ngay ra ‘Lý’ (thiên trạch
lý). ‘Tụng’ tất phải dùng đến ‘lý’ trước tiên. Cái ‘đạo’ của thánh nhân
ghê gớm đến thế thì đâu phải chuyện đùa. Song chớ tưởng cứ hễ có ‘lý’
thì việc kiện tụng sẽ được tốt đẹp. ‘Lý’ này là cái ‘lý’ nằm trong thời
‘Tụng’. Quẻ ‘lý’ trên là trời (thiên), dưới là đầm (trạch). Trời ở trên
cao lúc nào chả gửi gắm cái bóng của mình xuống dưới đầm nước. Thế nghĩa
là kẻ trên, kẻ dưới đã toa rập sẵn với nhau rồi. Vậy thì cái gọi là
‘lý’ ấy, nếu không phải lý của kẻ mạnh thì cũng chỉ là cái lý suông, lý
bịp bợm, lý dành cho những kẻ bề trên, đâu dành cho những số phận dân
đen bèo bọt… Vả khi ấy mạng dân ngay thuộc kim, mạng kẻ gian thuộc thủy. Kim sinh thủy
thì hại cho dân mà lợi cho kẻ cướp. Thế thì còn trông mong gì nữa.
Không dám kiện may ra còn có túp lều mà chui ra chui vào. Kiện rồi có
khi ra đường mà ở….“.
Bác
Mạt gái thấy cái việc khiếu kiện của chồng mình quả có liên quan đến
ruộng vườn, nhà cửa thì lấy làm lo lắm. Mồm lẩm nhẩm khấn cho cái quẻ
‘Tụng’ của chồng mình nó đừng có ‘động’ hào đầu. Lại hỏi tiếp:
“Thế nhỡ ‘động’ hào 2 thì sao?“. .
Khổng Tử bảo:
“Động hào 2 thì biến ra quẻ ‘Bĩ’ (thiên địa
bĩ). Thời ‘bĩ’ người chẳng phải là người. Thiên hạ y như một đàn lừa vô
chủ, nếu không thì cũng là những đàn cừu có người chăn người dắt, có
cắt tiết vặt lông… Rốt cuộc kẻ ngay phải bỏ đi mà kẻ gian thì đắc thế.
‘Bĩ’ là cái đạo chót vót của tiểu nhân, là cái thời hoàng kim của kẻ
cướp. Sự tối tăm, hũ nút ngày càng dâng cao. Sự khôn ngoan, sáng suốt
ngày càng bé lại. Thiên hạ một khi đã ở vào thời ‘bĩ’ thì hạng quân tử
phải nhắm mắt bịt tai, kẻ lưu manh tha hồ làm mưa làm gió. Huống chi
việc kiện tụng xưa nay bao giờ cũng là đục nước béo cò. Có khi nó lợi
dụng việc khiếu kiện của mình để vừa ăn cướp thêm của mình, vừa cướp lẫn
của nhau hoặc thừa dịp để đá đít, hất cẳng nhau… Tóm lại thời nào thì
cũng chẳng thoát khỏi câu: ‘quan thấy kiện như kiến thấy mỡ’. Vì thế
không kiện may ra còn có cháo mà húp. Kiện rồi có khi củ chuối cũng
chẳng đào đâu ra nữa mà ăn…“.
Bác
Mạt gái nghe thế thì càng hoảng sợ. Lại khấn trời khấn phật cho quẻ
‘Tụng’ nhà mình chớ có ‘động’ hào 2. Khấn xong lại run rẩy hỏi tiếp:
“Thế… nếu nó ‘động’ hào 3?“. .
Khổng Tử bảo:
“Động hào 3 thì biến ra quẻ ‘Cấu’ (thiên phong
cấu). ‘Cấu’ là gặp, song là cái sự chẳng hẹn mà vẫn phải gặp. Tuy là
gặp thầy, gặp thợ đấy. Tiếc thay ở vào thời ‘Tụng’ thì làm gì có thầy tử
tế mà gặp. Nhìn đâu cũng rặt một lũ ma cô cả. Đuổi cái vận rủi ra tận
ngõ rồi, trở về nhà lại thấy nó lù lù chui sẵn vào trong buồng bằng cửa
sau thì còn gì khốn nạn hơn thế nữa. ‘Cấu’ là gặp sự bất lương, đểu cáng
mà không sao thoát ra được bởi nó ngày càng mạnh lên trong khi của cải
nhà mình thì cứ dần dần đội nón ra đi… Quân bất lương ấy, mồm nó leo lẻo
vì mình mà cãi hộ mình, mà bảo vệ quyền lợi cho mình song nó ăn tiền
của cả hai phía mà ngầm làm lợi cho những kẻ có quyền, có thế. Kết quả
con kiến mà kiện củ khoai. Không kiện may ra còn manh áo rách mà mặc.
Kiện rồi có khi chẳng còn cái khố mà đóng…“.
Bác
Mạt gái nghe đến đây thì càng hoảng sợ hơn nữa. Mồm vội vàng lẩm nhẩm
cầu lấy cầu để cho quẻ ‘Tụng’ của nhà mình chớ có ‘động’ hào 3. Lại ngập
ngừng hỏi tiếp, ánh mắt vẫn còn chút hy vọng:
“Thế… nếu… nó ‘động’ hào 4… thì sao?“.
Khổng Tử bảo:
“Động hào 4 thì biến ra quẻ ‘Hóa n’ (phong thủy
hóa n). ‘Hóa n’ nếu không chia lìa, không tan tành bọt nước thì cũng là
sự đổi chỗ cho nhau. Thế là người đi kiện trở thành kẻ bị kiện, kẻ bị
kiện lại hóa nguyên đơn. ‘Hóa n’ trong thời nào còn khả dĩ
đôi chút. Chứ ‘hóa n’ trong thời ‘Tụng’ thì chẳng khác nào sang sông
lớn bằng chiếc thuyền mục, đến cái mái chèo cũng mục nát luôn. Rốt cuộc
người ngay thành tội phạm, kẻ cướp hóa quan toà. Có khi nó vu ngược cho
mình ăn cắp của nó, có khi nó khép mình vào tội nọ tội kia… cứ gọi là
trăm đường biến hóa, tráo trở khôn lường. Kẻ có lý lịch sáng như kim
cương, tấm thân quý như thánh sống còn khó tránh khỏi bị bôi bẩn, huống
chi là những hạng dân ngu khu đen. Xem thế thì biết cái việc khiếu kiện ở
thời này là vô cùng bất trắc. Không kiện may ra còn toàn thân mà sống
với vợ con. Kiện rồi có khi chính mình mắc phải vòng lao lý, may ra mà
thoát được thì cũng thân tàn ma dại, sống cũng như chết còn kể làm gì“.
Bác
Mạt gái nghe nói thì hoảng hốt rụng rời. Toàn thân lạnh toát, chỉ sợ
cái quẻ ‘Tụng’ của nhà mình, nó mà ‘động’ hào 4 thì số phận bác trai kể
như đi đoong. Bèn cố trấn tĩnh mà gặng hỏi tiếp, xem ra vẫn còn chút hy
vọng:
“Thế… nếu nó… ‘động’ hào 5?“. .
Khổng Tử bảo:
“Động hào 5 thì biến ra quẻ ‘Vị tế’ (Hỏa thủy
vị tế). ‘Vị tế’ là việc chả bao giờ xong. Có mà kiện đến hết đời cũng
chả ăn thua gì, đời con đời cháu lại phải theo kiện tiếp. Cũng có khi
tưởng xong việc đấy, hóa ra lại trở lại từ đầu. Ví như con
cáo ướt đuôi, muốn sang sông lại gặp lũ sư tử đói chực sẵn trên bờ. Rõ
ràng mình được tuyên thắng kiện, vậy mà chờ mãi mọi việc vẫn y như cũ,
không hề suy suyển mảy may. Thế là lại phải lặn lội vác đơn đi kiện lại
từ đầu. Có biết đâu rằng luật rừng đã át hết lương tri, danh, lợi đã mờ
cả nhật nguyệt. Cái gọi là công lý té ra chỉ là những chiếc bánh vẽ sặc
sỡ. Bởi trong thời ‘Tụng’, thế gian rặt những sự giả trá, bịp bợm. Mà sự
bịp bợm một khi đã thành tựu rồi thì cuộc đời này chẳng qua chỉ là cái
vòng luẩn quẩn mà thôi. Cái món “vị tế“ nó khốn khổ khốn nạn như vậy
đấy. Vì thế không kiện may ra con cháu còn được yên ổn. Dây vào việc
kiện thì chẳng những nát một đời mình, mà cả những đời sau này, con cháu
cũng bị vạ lây…“.
Bác
Mạt gái nghe đến đây thì chẳng còn hồn vía nào nữa. Nghĩ đến việc vạ
lây tới cả con cháu mà rùng mình ớn lạnh xương sống. Nhưng cũng khá khen
cho bản lĩnh của người đàn bà đã lâm vào bước đường cùng ấy. Một liều
ba bảy cũng liều, rằng đã nghe thì nghe cho trót, biết đâu vẫn còn chút
hy vọng vào cái hào cuối cùng. Đầu óc đã mụ mị của bác vẫn còn loé lên
điều ấy. Bác vừa sụt sịt khóc vừa mếu máo hỏi tiếp:
“Thưa… thế còn… hào 6?“. .
Khổng Tử bảo:
“Động hào 6 thì biến ra quẻ ‘Khốn’ (trạch thủy
khốn). Than ôi, đây chính là cái chỗ cùng cực của thời ‘Tụng’. Là cái
tượng trước thắng, sau bại. Một cái đầm không có nước tất sẽ nứt nẻ
toang hoác, nhìn đâu cũng chỉ thấy rong rêu vụn nát, cua cá không còn
lại tí dấu vết nào. Thế thì có khác gì một cõi chết hiện hình. Đến lúc
đó thì hài cốt mấy đời cũng phải trơ ra cùng tuế nguyệt, mà rơi vào cảnh
tắm gió gội sương. ‘Khốn’ là nguy nan, khốn khổ, đến cả nắm xương tàn
cũng khó mà giữ cho được yên ổn. Huống chi ‘khốn’ lại ở vào thời ‘Tụng’
thì là cái triệu diệt thân, lại vạ lây đến cả mồ mả ông cha, có nguy cơ
bị tuyệt hết giống nòi. Rốt cuộc, không kiện may ra còn giữ được cái
thân tàn mà hương khói tổ tiên. Dính vào việc kiện tụng nếu không bỏ xác
nơi ngòi rãnh thì cũng phải bán xới, vĩnh viễn lìa cửa lìa nhà, vợ
chồng, cha con đời đời cách biệt, danh dự tổ tiên bị làm nhục, mồ mả bị
quật lên…“.
Khổng
Tử nói đến đây bỗng rùng mình mấy cái rồi nhắm mắt ngậm ngùi. Người đàn
bà kia sao bỗng dưng im bặt, không thấy hỏi thêm câu nào nữa. Chẳng lẽ
đã kinh sợ đến nỗi bạt hết cả ba hồn chín vía rồi hay sao? Phu Tử trầm
ngâm giây lát rồi đột nhiên cất lời nói tiếp, dường như Ngài biết, rằng
cái thời ‘Tụng’ khốn cùng và khủng khiếp của đám dân đen kia, đời nào nó
chịu dừng lại ở đó.
“Động cả 6 hào thì biến ra quẻ ‘Minh di’ (địa Hỏa minh
di). Ánh sáng đã chui vào lòng đất thì chỉ còn cách tắt ngấm mà thôi.
Than ôi! điều đó càng có lợi cho cái ác hoành hành. Minh di là cái chốn
tối tăm, tối tăm suốt từ trên xuống dưới. Vậy thì nó là chốn âm ty địa
ngục, nơi hãm thân đời đời của các vong hồn. Nơi ấy kẻ tiểu nhân nhe
nanh múa vuốt, hạng quân tử thương tổn đầy mình. Rốt cuộc người tử tế
sống cũng như chết, kiếp người chẳng khác gì muôn kiếp cô hồn. Lúc ấy
gọi là thế gian hay địa ngục, khi khắp nơi nơi ngùn ngụt những cô
hồn?…“.
Phu Tử còn nói nhiều nữa, bởi Ngài biết cái thời ‘Tụng’ ấy nó còn kéo dài không biết đến bao giờ. Song Luận ngữ Tân thư
chỉ xin chép đến đây, bởi thú thực cũng không còn đủ bút lực để chép
tiếp. Người đàn bà khốn khổ kia đã phủ phục như một nắm giẻ nhàu nhĩ
trước mặt Ngài từ lúc nào. Chỉ còn nghe tiếng sụt sịt thỉnh thoảng vẫn
nấc lên, làm rung chuyển cả tấm thân còm cõi…
./. Theo blog Phạm Lưu Vũ
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét