Trong chuyện phiếm này, tôi gọi " thời
chú Sam" để chỉ miền Nam trước tháng 4
năm 1975 và " thời bác Hồ " để chỉ
miền Nam dài dài sau đó. Cho thấy miền Nam trước
có chú, rồi sau có bác thay thế nhau chăm sóc tận tình.
Thật là…đại phước !
Ở xứ nào không biết, chớ ở Việt
Nam
xưa nay người dân vẫn được coi như
không có… kí lô nào hết, mặc dù họ đông như kiến
!
Hồi thời Pháp thuộc ( Phải lấy thời
này để làm cái mốc cho thời chú Sam và thời bác Hồ.
Bởi vì không có Pháp thuộc thì làm gì có bác Hồ, làm gì có
chú Sam ? ), có " ông Tây bà Đầm" ăn trên ngồi
trốc. Người dân sanh ra vốn… thấp cổ bé miệng,
không ngóc đầu lên được. Văn chương hồi
đó hay viết " dân ngu khu đen " nghe thật miệt
thị nhưng lại diễn tả rất rõ nét vị-trí…
sát đất của người dân ( chỉ có ngồi lê
dưới đất nên khu mới đen như vậy !)
và xác nhận với chính sách ngu dân thời ấy, người
dân ngu là cái chắc.
Câu " dân ngu khu đen " cũng từ từ
biến thể cho hợp thời trang ngôn ngữ, và trở
thành " dân đen " cộc lốc. Không… sáng sủa
hơn bao nhiêu, nhưng bớt được tiếng
" ngu " cũng đã là một… tiến bộ. Không phải
nhờ vậy mà người dân khôn ra, lẽ dĩ nhiên.
Nhưng hai tiếng " dân đen " nói lên rõ rệt sự
khác biệt giữa dân bản xứ da vàng và nhà cầm quyền
hồi đó, toàn là dân da trắng !
Người dân hồi đó được thực
dân gọi một cách miệt thị : cu-li, nhà quê. Dù anh có
ăn học, dù anh có nghề nghiệp, người da trắng
vẫn coi anh là cu-li là nhà quê tuốt.
Nhớ lại một hôm, anh tôi và tôi đạp xe
đi dạo bến tàu Sạc-ne ( sau này gọi là bến
Chương Dương và sau này nữa tên là… Tôn Đức
Thắng ! ). Thấy hai tên lính lê-dương (légionnaire) Pháp,
to như cái tủ đứng, ngồi chồng lên nhau trên
một chiếc xích-lô đạp, làm chổng bánh sau lên. Anh
phu xích-lô, ốm tong ốm teo, không biết làm sao để
giải thích rằng ảnh không thể nào chở
được hai người, vì ảnh nhẹ quá. Ảnh
bèn cầu cứu chúng tôi. Có lẽ ảnh thấy chúng tôi
có vẻ học sinh sinh viên chắc biết ít nhiều tiếng
Pháp nên nhờ thông-ngôn. Anh tôi " ra tay nghĩa hiệp
" can thiệp. Một tên lê-dương túm ngực anh
tôi, sừng sộ bằng tiếng Pháp : " Đi chỗ
khác ! Đồ cu li khốn nạn !". Dĩ nhiên chúng
tôi không đợi nói thêm một tiếng, vội vã phóng lên
xe, đạp đi. Một đỗi xa nhìn lại thấy
một thằng lê-dương đạp xích-lô chở một
thằng lê-dương, chạy vù vù, cười hắc hắc
! Còn anh phu xích-lô thì hổn hển chạy bộ phía sau, chẳng
nói chẳng rằng… Những hình ảnh đó bây giờ nhớ
lại, đã sáu chục năm qua mà sao lòng vẫn còn nghe
căm phẫn !
Sau hiệp định Genève, Pháp… phú-lơ-căng
( Âm tiếng Pháp " Foutre le camp " = dông mất – rất
thông dụng thời đó ) Việt Nam bị chia làm
đôi, lấy sông Bến Hải làm ranh giới. Người
dân miền Bắc sống với cái-gọi-là tự do của
miền Bắc. Người dân miền Nam cũng có cái tự
do riêng của miền Nam. Cũng là " tự do " cả
nhưng trong hình thức có rất nhiều dị-biệt.
Bắc Nam bỗng trở thành hai xứ như là lạ hoắc
! Tuy nhiên, dù đất nước bị chia hai, cái " khối
" người dân không có gì thay đổi, nghĩa là vẫn
còn nguyên là những con cờ…
Rồi miền Nam có ông vua Bảo Đại –
chuyên sống ở Pháp – vì thương dân nên gởi ông Diệm
về Việt Nam tham chánh. ( Ông vua này thì người dân biết
từ lâu. Ít ra cũng biết… tên ! ). Rồi có ông Diệm,
vì thương dân nên… lật ông Bảo Đại rồi
lên làm tổng thống. ( Ông này thì người dân chỉ mới
biết khi ổng trèo lên ghế tổng thống. Cứ
nghe ra rả hằng ngày " Toàn dân nhớ ơn Ngô tổng
thống ", không biết rồi cũng phải biết
! ) Rồi có chú Sam, vì thương dân Việt Nam, ra tay giúp
đỡ ông Diệm hết mình. Người dân bắt
đầu biết đến chú Sam với lá cờ nhiều
sao và hình vẽ hai bàn tay nắm lấy nhau được
dán lên nhiều món hàng ngoại quốc nhập cảng. Nhìn
cái nhãn, người ta hiểu đơn giản là bàn tay
chú Sam nắm bàn tay người bạn mà chú giúp đỡ.
Chẳng nghe ai thắc mắc : " Chú Sam muốn nói chú
giúp mình hay chú muốn nói tao bắt mày phải đi theo tao
? " Người dân miền Nam vốn… thiệt thà !
Bây giờ, người dân hết là dân đen.
Không phải được… đổi màu như người
dân miền Bắc, mà là được tẩy sạch trong
từ ngữ miền Nam. Tuy nhiên tùy hoàn cảnh, tùy trường
hợp, tùy tâm trạng mà người ta cũng có gọi
người dân bằng " thằng dân ", nghe hơi nặng
một chút. Nhưng riết rồi " người dân
" hay " thằng dân " đều nghe cũng… xêm xêm
( Âm tiếng Mỹ " Same same " = như nhau ). Bởi
vì, nặng nhẹ gì thì người dân cũng đã quen
được coi như không có kí lô nào hết xưa nay !
Lâu lâu người dân cũng nghe các chánh trị gia
gọi mình là " khối quảng đại quần chúng
" nghe thật… rổn-rảng khó hiểu nhưng lại
khoái lỗ tai, hoặc gọi là " toàn thể nhân dân
" rất nho-nhã nhẹ nhàn, và lắm khi gọi "
đồng bào thân mến " nghe thật là… âu yếm !
Thật tình, người dân vào thời này bắt
đầu thấy rằng mình coi vậy mà cũng " có
giá ". Hết còn nghe gọi người " dân " cộc
lốc, mà lại được ghép vào với tiếng
" công " oai vệ để trở thành " công dân
". Không có gì, nhưng mang thêm chữ " công " vẫn
thấy quan trọng như " công chức ", " công
sở ", " công khố ", " công an " …những
thứ " công " làm toát ra sự " chẳng có thằng
nào dám đụng tới ". Sướng chớ ! Mà thật
vậy, có ai dám gọi " thằng công dân " đâu ?
Thường thì gọi " người công dân " hay ít
lắm cũng gọi "anh công dân ". ( Chưa nghe ai gọi
" ông công dân". Có lẽ tại vì gọi như vậy,
người ta sẽ nghĩ là có " ẩn ý nhạo báng
" ! )
Từ ngày mang " chức " công dân, người
dân được nhà nước chiếu cố…" đậm
". Ngày nào cũng kêu gọi " Này công dân ơi ! Quốc
gia đến ngày giải phóng…". Rồi gần đến
ngày bầu cử tổng thống, dân biểu v.v… luôn luôn
được nhắc nhở " đi làm bổn phận
công dân ".
Nhân nói đến vụ bầu cử, phải thấy
lúc đó người dân được… trọng vọng
đến mức nào. Các ứng cử viên hay các liên danh ứng
cử, trong thời gian vận động bầu cử,
đều hết lời " o bế " người
dân. Hằng ngày, trên truyền thanh truyền hình, trên báo chí
bích chương… họ cúi xuống nâng người dân lên
như nâng trứng mỏng, nói ngon nói ngọt để
người dân bầu cho họ. Còn khuyên " nên chọn mặt
gởi vàng ", làm cho người dân thấy tự nhiên
mình… giàu ngang xương ! Cái lá phiếu trong tay người
dân - bằng giấy – coi vậy… mà nặng kí !
Sau bầu cử, người dân được
trả về cương vị bình thường của
người dân, cộng thêm những người bị thất
cử. Những người này, không cần hỏi ý kiến
ai, cứ " đánh trống thổi kèn" tuyên bố
rân lên rằng "Chúng tôi đứng về phe người
dân để đối lập với chánh quyền!"
Làm như hễ là dân là phải đối lập với
chánh quyền vậy ! Cũng chẳng thấy có người
dân nào đứng lên phản đối. Đã nói: người
dân miền Nam vốn… thiệt thà !
Bỗng một hôm, " người ta " đảo
chánh ông Diệm. Người dân ngơ ngác bởi vì, trái với
những lần bầu bán, lần này người dân không
được ai " hỏi thăm " hết, thậm
chí chẳng nghe ai tuyên bố theo… truyền thống rằng
" đảo chánh vì dân " ! Thì ra," người ta
" toàn là tướng tá, binh chủng này binh chủng nọ.
Họ không phải…dân !
" Họ " đảo rồi, lại đảo
nữa. Cuối cùng cũng lật được ông Diệm.
Lần này, người dân thấy có vẻ an toàn nên cũng
xuống đường hoan hô. Thật ra, trong thời
đệ nhứt cộng hoà, người dân đâu có bị
chèn ép đè đầu cỡi cổ bốc lột tơi
bời như thời Pháp thuộc. Người dân chỉ
" ngứa con mắt " ở cái lối trịch
thượng ăn trên ngồi trốc quá lố lăng của
gia đình ông Diệm, cộng thêm hành động kỳ thị
tôn giáo quá lộ liễu. Vì vậy, khi ông Diệm và gia
đình bị lật xuống, người dân thấy
như được… nhổ cái gai trong con mắt, cho nên họ
cũng vỗ tay hoan hỉ !
Tiếp theo là mấy ông tướng, ông tá đảo
chánh nhau, đảo qua đảo lại. Người dân vẫn
bị cho ra rìa, nên đứng ở bên ngoài xem như xem tuồng
hài hước trên sân khấu. Vở tuồng đang diễn
bỗng bị chú Sam núp ở đâu đó giựt giây hạ
màn ! Người dân ngẫn ngơ, rồi cũng… xách
đít " đi chỗ khác chơi " để "
người ta " làm chánh trị.
Thật ra, vào thời điểm đó, miền
Nam còn được cái may là có một người trong giới
lãnh đạo " biết " nghĩ đến dân :
đó là ông tướng tầu bay Nguyễn Cao Kỳ. Khi nắm
chánh quyền, ông tuyên bố và cho kẻ khẩu hiệu
đầy đường : " Chính phủ Nguyễn Cao
Kỳ là chính phủ của dân nghèo ". Thật là ngạc
nhiên đến… ngỡ ngàng ! Người dân nào đã lỡ
giàu bỗng thấy mình thuộc vào loại... vô chánh phủ
nên cứ phập phồng lo sợ, còn người dân nghèo
thì lại bâng khuâng không dám hoan hô vì không biết mình có thuộc
vào cái…" típ " nghèo mà ông tướng đã tuyên bố
? Bởi vì có hạng nghèo xơ nghèo xác, có hạng nghèo rớt
mồng tơi, có hạng nghèo mạc rệp, có hạng
nghèo kiết .v.v… Thành ra, lời tuyên bố rất " nổ
" của ông tướng giống như cục đá nhỏ
rơi xuống mặc nước hồ, nghe cái chũm rồi…
hết ! Tuy nhiên, lần đầu tiên người dân thấy
mình được đứng chung với chánh quyền –
dù chỉ là trên khẩu hiệu – cũng thấy có chút gì an
ủi !
Rồi chú Sam ồ ạt đổ quân và đồ
" PX " lên miền Nam mà chẳng thấy có "
trưng cầu dân ý ".
Người xưa nói " ý dân là ý trời ".
Người nay cầm quyền, đã không cần đến
ý dân thì đâu có ông nào nói với chú Sam : " Thưa chú, ông
bà tôi nói như vầy…như vầy…". Cho dù có ai nói cho
chú Sam thì cũng chỉ làm cho chú cười văng…
sơ-quynh-gum, bởi vì chú đâu có tin. Chú đã từng bay
lên trời, bay lên cung trăng, bay lên bay xuống như
ăn hamburger hằng bữa… chú đã gặp ông trời
đâu mà tin ! Vã lại xưa nay chú Sam chỉ thấy ý của
chú là " năm bờ oan " thì chú đâu cần hỏi
ý kiến của ai khác. Vì vậy, chú cứ… nhắm mắt
đưa quân vào miền Nam như đi… vào chỗ không
người. Chẳng có một người dân nào đứng
lên phản đối. " Họ " – người dân –
nói : " Mấy ổng ( ám chỉ nhà cầm quyền )
đã ô-kê Salem với chú Sam rồi, mình có la nô-gút nô-gút ( no
good ! no good ! ) chỉ có… chó nó nghe !"
Trong " thời chú Sam ", mặc dù đang
đánh giặc với Bắc Việt, người dân vẫn
đi lại thông thả, miễn là đừng…l ội
sông Bến Hải để ra ngoài Bắc. Năm khi mười
hoạ mới bị hỏi căn cước. Trong trường
hợp vào ra ở các " lãnh địa " của chú
Sam thì lúc nào người dân cũng bị chú lính của chú
Sam hỏi giấy bằng tiếng Việt bỏ sai dấu
:" Cán cuốc!Cán cuốc !". Chẳng thấy người
dân nào …cười !
Ngoài ra thì đời sống của người
dân rất tự do thoải mái. Tự do buôn
bán. Đồ PX ( dân gọi là pi-éc – là các mặt hàng nhập
vào Việt Nam bán riêng cho quân đội chú Sam, không có thuế
nên giá rẻ – lính chú Sam mua ra bán lại cho dân ) tràn ngập
các chợ trời. Còn hàng hoá sản xuất trong xứ cũng
bán đầy các chợ các phố. Tự do ngôn luận, in
sách, ra báo. Thật tình, ở đây có… lạm phát : báo đủ
loại – báo ngày, báo tuần, báo tháng… khoảng chừng trên
30 tờ ! Người dân đọc… mờ con mắt luôn
!
Cuộc sống tương
đối dễ chịu, dễ…thở. Đùng một
cái,Việt Cộng tổng tấn công ngay trong ngày tết Mậu
Thân. Chúng tin tưởng rằng " toàn dân miền Nam sẽ
nổi dậy lật đổ chánh quyền !". Té ra,
người dân, vì sợ, nên chỉ lo bồng bế nhau chạy
! Lần đó, Việt Cộng thất bại nặng. Lần
đó, người dân thật sự thấy tận mắt
Việt Cộng là ai, để sau đó biến sợ hãi
thành căm thù. Chỉ cần một ngòi nổ là nó bùng lên
để " quạt " cho Việt Cộng một
đòn " chí tử ". Vậy mà không thấy chú Sam…
nhúc nhích một ngón tay ! Chú không đánh trả, đã
đành. Chú còn ngăn không cho quân đội quốc gia
đánh trả. Chú đi một nước cờ mà không ai
hiểu gì hết ! Và lần đó người dân nhìn chú
Sam bằng một con mắt khác. Họ nói : " Không biết
cái thằng cha chú Sam này muốn cái gì ? Thiệt là ngược đời
! Kẻ thù thì mình biết rõ còn thằng bạn đồng
minh nhai sơ-huynh-gum này thì mình…mù tịt !".
Từ chỗ nhận định nói trên, người
dân bắt đầu nghi ngờ cái ý nghĩa của hai bàn
tay nắm lấy nhau dưới lá cờ nhiều sao làm nền
cho loại nhãn dán trên các đồ viện trợ. Ai cũng
nghĩ rằng cái nhãn đó có…hai mặt. Giống như
chú Sam, chú cứ phải nhai sơ-huynh-gum liền tù tì để
không ai " bắt gân mặt " mà đoán chú đang nghĩ
gì, bởi vì chú muốn giấu " cái mặt bên kia "
của chú, không phải giấu với địch mà giấu
với thằng bạn đồng minh ! Thế mới
đau !
Rồi vì không còn tin tưởng nữa, người
dân lo… thủ. Ai cũng dự trữ đồ ăn ! Có
tiền thì trữ nhiều, không tiền thì chạy nợ
để trữ chút chút. Cho nó " ăn chắc ", bởi
vì thằng cha chú Sam này coi vậy mà không phải vậy !
Tình trạng nhập nhằng này kéo dài tới hiệp
định gì gì đó ở Paris. Tiếp theo là lính chú Sam
" gô hôm " từ từ, trước sự dửng
dưng của người dân, bởi vì họ đã lật
tẩy " cái mặt bên kia " của chú. Cái nhãn "
hai bàn tay nắm lấy nhau " không bị mưa mà nó cũng
tróc, giống như đồ thợ mã !
Rồi thì " cơm không lành canh không ngọt
" giữa chú Sam và ông Thiệu ( tổng thống đệ
nhị cộng hoà – xin nhắc lại cho những ai không…
muốn nhớ ! ) Đùng một cái, ông Thiệu ra lịnh
bỏ Pleiku/ Kontum rút hết quân về vùng Duyên Hải. Quân
đội và dân chúng ngạc nhiên đến bàng hoàng, bởi
vì đã bị Việt cộng tấn công đâu mà phải
rút ? Còn phía Việt cộng thì… giật mình vội vã "
nâng cao cảnh giác ", nín thở bất động , bởi
vì không biết " thằng ngụy ác ôn này định dở
trò gì đây ?". Người ta đồn ( Hồi này,
tin đồn đi nhanh hơn hỏa tiễn và người
dân miền Nam chỉ sống bằng… tin đồn ! ) rằng
ông Thiệu giận lẫy thằng bạn đồng minh
" xỏ lá " nên chơi một cú cho nó xanh mặt !
Không biết chú Sam có xanh mặt hay không chớ thằng dân
thì xanh mặt dài dài… Bởi vì không biết không hiểu gì hết.
Cứ thấy quân đội tự nhiên rút chạy là cắm
đầu chạy ! Mà có hỏi quân đội thì – than ôi !
– quân đội cũng bù trất ! Vậy là kinh hoàng, là hỗn
loạn ! Vậy là cứ… nhắm mắt chạy. Càng chạy
càng sợ ! Càng sợ càng chạy ! Người dân
giống như những con cờ bị người
chơi cờ hất trọn bàn cờ xuống đất,
văng tung toé khắp nơi, rơi vào hốc vào kẹt,
rơi vào lỗ cống đường mương… Ai biết
? Ai thèm biết ? Nghĩ
mà thương cho người dân miền Nam " sanh chẳng
gặp thời "…
Từ miền Trung dài vô Sàigòn, chỗ nào cũng thấy
chạy. Dân chạy trước. Phía sau dân là quân đội.
Phía sau quân đội, xa thật xa, là Việt cộng. Họ
đã mất thời gian " điều nghiên tình hình
" để nhận thấy hiện tượng "
ngụy quân " rút đi là có thật. Thế là " ta
" xua quân chạy theo " toé phở " nhưng vẫn
láo phét rằng " quân ta đuổi chúng nó chạy…toé khói
" !
Tình trạng hỗn loạn này được tiếp
nối bằng sự ồ ạt di tản ra… biển
Đông. Cũng là chạy nhưng chạy ra khỏi xứ
!
" Thời chú Sam " được hạ màn
vào cuối tháng tư năm 1975. Màn không được hạ
từ từ theo đúng " điệu nghệ sân khấu
" với giàn kèn đồng thổi bản " ò e rô be
đánh đu " ! Màn bị hạ… cái rẹt như bị
đứt giây, bởi vì anh hạ màn… bỏ mẹ nó xuống
cho rồi để còn vắt giò lên cổ chạy cho kịp
nhảy lên chiếc trực thăng di tản cuối cùng !
Chú Sam " gô hom " để lại miền Nam
vô số sơ-huynh-gum đã… nhai rồi và một lô con lai,
có trắng có đen… gọi là kỷ niệm !
Đây nói về
người dân vào " thời bác Hồ "…
" Thời bác Hồ " được… kéo màn
khai diễn bằng một hình ảnh lẽ ra phải hào
hùng, nhưng mấy anh Bắc Việt đã dàn cảnh vụng
về cho nên đã trở thành ra lố bịch. Số là…
Ngày 30 tháng tư năm 1975, cổng vào dinh Độc
Lập đã được mở rộng để "
đón tiếp các anh em Giải Phóng ", sau lời tuyên bố
đầu hàng của ông Dương văn Minh. Thay vì cứ
đường hoàng oai vệ tiến thẳng vào dinh – vì
là người thắng trận – mấy ông Bắc Việt
đã dàng cảnh bằng cách đóng cổng lại để
cho một xe tăng mang cờ Giải Phóng ủi sập rồi
ngất ngưỡng… bò vào bên trong như một thằng
say. Báo chí, truyền hình chụp ảnh quay phim liền tù
tì, cho thế giới thấy rằng " chính quân đội
và nhân dân ta đã tiến công ủi sập chính quyền miền
Nam ". Trong màn diễn xuất đó, họ quên mất
người dân nên chỉ thấy có lèo tèo mấy anh Giải
Phóng ! Trong lúc đó, dân chúng – khá đông – đứng xa xa
nhìn một cách bàng quan, không hiểu "tại sao không chạy
thẳng cha nó vô cho rồi, chớ đóng cổng làm chi
để rồi phải ủi sập mới vô được,
thiệt… làm chuyện ruồi bu !"
Tiếp theo là lá cờ Giải Phóng Miền Nam lớn
bằng tấm chiếu phe phẩy trên nóc dinh giống
như người chạy việt dã vừa về tới
đích. Và tiếp theo là hai câu đối thoại đáng
" đi vào lịch sử " : Khi được ông
Dương Văn Minh – vị tổng thống… phù du nhứt
lịch sử – nói : "Mời các ông ngồi vào bàn để
chúng tôi bàn giao ", một ông… nón cối Bắc Việt
" phang " cho một câu " Bàn giao cái gì ? Các anh thua trận,
đầu hàng vô điều kiện mà còn cái gì để
bàn giao ? ". Không biết những người miền Nam
có mặt lúc đó – tổng thống, tổng bộ trưởng
v.v…– có nghe " đau như hoạn " ?
Vậy là…giải phóng ! Người dân cũng có vỗ
tay. Hết chạy loạn là… vui rồi. Hết giặc,
con cái hết đi lính… là vui rồi. Một phóng viên miền
Bắc phỏng vấn một bà già miền Nam : " Thế…
bà má có vui không nào ? ". Trả lời : " Ờ… vui chớ
! Nhờ có mấy ông giải phóng về kịp nên mới
yên ! Chớ không, tụi Việt Cộng nó pháo kích riết
chắc chết quá !". Ở một nơi khác, phỏng
vấn một anh xích lô, anh ta trả lời : " Vui chớ
sao không vui ! Đạp xích lô lúc nào cũng bị tụi nó
nghi là Việt Cộng". Rồi anh chỉ vào mặt mình
: " Anh coi ! Mặt tui vầy mà là Việt cộng à
?"
Mà vui thật ! Ở Sàigòn đông lắm. Thiên hạ
đi đầy đường. Xe hơi, xe gắn máy, xe
đạp… nối đuôi nhau nhích nhích. Vậy mà chẳng
thấy ai gây gổ với ai, cũng chẳng nghe ai nóng nảy
tin một tiếng kèn ! Đó là lần đầu tiên
người dân tự động " xuống đường
", không phải để đấu tranh mà là để
đi coi… bộ đội ! Cũng giống như đi
coi chợ phiên sở thú. Vui lắm !
Gánh hát mới khai diễn chưa kịp đánh trống
thổi kèn quảng cáo mời mọc mà đã được
khán giả bốn phương kéo tới xem thật
đông như vậy thì thật là…" thành công, thành công,
đại thành công !" Người dân cũng thấy
khoái bởi vì toàn là đào kép mới – cái gì lạ cũng hấp
dẫn – và bởi vì được đi coi…thả giàn.
Sau mấy lớp hài hước mỡ màn như
chuyện mấy anh bộ đội nói dóc nói phét " Hà Nội
cái gì cũng có ", chuyện " nhà ỉa nhà đái…
trong xô ".v.v… sân khấu bỗng chuyển sang bi hài kịch
mà trong đó người dân được kịch tác gia
cách mạng đẩy lên đóng vai chánh ! Người dân
ngạc nhiên dở khóc dở cười… Vai chánh đó có
cái tên nghe lạ hoắc : " nhân dân làm chủ " !
Từ một tay ngang bước lên sân khấu, dĩ
nhiên là cần được các đạo diễn chăm
sóc dạy dỗ tận tình để người dân
được… lột xác biến thành kịch sĩ.
Đầu tiên, người dân được mang
một cái tên khác cho đúng với điệu nghệ kịch
trường: tên " Nhân Dân " ( Xưa nay, trong giới
cải lương kịch nghệ có… truyền thống là
khi đã " đi hát " thì người ta thường
lấy một cái tên khác đẹp hơn kêu hơn là cái
tên cúng cơm. Vậy mới là nghệ sĩ ! ) Rồi
" cái " nhân dân đó được dạy hô khẩu
hiệu – đó là những bài bản… gốc của cách mạng
mà ai ai cũng phải biết hát, cũng như trong giới
cải lương kép độc hay hề gì cũng phải
rành " sáu câu "…Đại khái, chỉ có mấy khẩu
hiệu như " vĩ đại, vĩ đại, vĩ
đại ", như " muôn năm, muôn năm, muôn
năm ", như " sống mãi, sống mãi, sống mãi
". Vậy mà không phải dễ ! Phải hô cùng một
lúc và hô cho đúng nhịp. Hô lỏn chỏn là " có vấn
đề đấy nhá !". Tiếp theo là
tập vỗ tay. " À… vỗ tay cũng phải tập
chứ ! Có phải như thời Mỹ Ngụy đâu mà
các anh các chị muốn vỗ thế nào là vỗ. Muốn
làm chủ, nhân dân phải tập cả vỗ tay nữa
cơ !" Thế là học vỗ tay : mọi người
trong hội trường cùng vỗ một lúc, không cần
khoái tỷ hay thích thú gì ráo, chỉ cần thấy anh cán bộ
đang nói bỗng ngừng lại vỗ tay là ta vỗ tay
thôi !
Tiếp theo là đi học tập
ba hôm về đường lối chủ trương của
cách mạng. Thượng vàng hạ cám gì cũng phải học
tập ráo. Cùng ngồi chung với nhau – thường thì ngồi
dưới đất vì không có đủ băng đủ
ghế, và vì không đủ chỗ nên ngồi cả ra hàng
ba, ra sân – cùng nghe chung những gì mấy cán bộ nói. Và vì mấy
cha cán bộ nói dài quá, lại thay nhau nói cùng một đề
tài bằng những lời lẽ y chang như nhau nên
người " nhân dân ", kẻ trước người
sau, cùng chung nhau… ngáp ! Suy cho cùng, ngáp cũng là một cách…
phát biểu. Nó nói lên sự mệt mỏi chán chường.
Về sau, khi đã…" quen nước quen cái " với
những buổi hội họp học tập, với cái gọi
là " Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản
lý "…cách " phát biểu " độc đáo đó
đã được người dân " khai triển
" rất thoải mái, không phải giơ tay xin phép ai hết
và cũng không sợ bị quy tội " bôi bác không khí
nghiêm túc của hội trường ". Để thấy
" Trong chế độ ta, nhân dân vẫn làm chủ… cái
ngáp của mình đấy chứ !".
Tiếp theo ( trong " thời
bác Hồ ", lúc nào cũng có một sự " tiếp
theo " nghĩa là chẳng bao giờ thấy một sự
ngưng nghỉ, cứ " học tập tiếp theo học
tập ", cứ " đấu tranh tiếp theo đấu
tranh ", cứ " khai báo tiếp theo khai báo "…) nhân
dân học tập khai lý lịch, học tập báo công báo tội,
học tập làm sổ hộ khẩu sổ gạo… Hết
học tập ở tổ dân phố thì kéo nhau ra học tập
ở phường – cũng như vậy thôi nhưng
đông hơn nên… vui hơn – rồi học tập ở quận…
Rồi đi mết-tinh, đi đón tiếp phái đoàn
này, đi chào mừng phái đoàn nọ, đi làm lễ
đón nhận lẵng hoa của bác Tôn ( ông già này thay thế
bác Hồ, nhân dân đoán như vậy ) Ôi thôi ! Rộn rịp,
vui lắm !
Khác hẳn với " thời
chú Sam ", người nhân dân bây giờ đi đến
đâu cũng thấy cái sự làm chủ của mình nó… lòi
ra cả đống. Bằng cớ là cái gì cũng thuộc
về nhân dân ráo, cái gì cũng thấy dán nhãn " nhân dân
" mà chẳng cần phải " cầu chứng tại
toà ". Sướng như vậy ! Này nhá : Ủy Ban Nhân
Dân này, Toà Án Nhân Dân này, Quân Đội Nhân Dân này, Công An Nhân
Dân này… đến tờ báo to nhất nước – của
Đảng – cũng phải mang tên " Nhân Dân " đấy
! Làm chủ , sướng nhá !
Thế nhưng, có hai cơ quan
mà nhân dân không được làm chủ : đó là tổng cục
kế hoạch và ngân hàng. Chỉ có hai cơ quan này là đặc
biệt mang nhãn " Nhà Nước " nên được
gọi là " Tổng cục kế hoạch Nhà Nước
" và " Ngân Hàng Nhà Nước ". Nhà Nước nắm
cái tổng cục để độc quyền lên kế
hoạch… hốt bạc đổ vào ngân hàng của Nhà
Nước, vậy là an toàn nhứt rồi ! Người
ta nói : " Đồng tiền là huyết mạch, Nhà
Nước nắm cái huyết mạch đó là nhân dân…
nhăn răng ! " Nói như vậy là có ý bôi bác chế
độ. " Hãy nhớ rằng, trong chế độ
ta có sự phân công rõ rệt : Đảng lãnh đạo,
Nhà Nước quản lý, Nhân Dân làm chủ. Muốn quản
lý, Nhà Nước phải nắm cái… hầu bao chứ.
Không có cái đó thì quản lý cái đếch gì được.
Rõ như thế đấy !". Lý luận chắc nịch
như đinh đóng cột, nhân dân chỉ còn nước
đi chỗ khác chơi.
Dù sao đi nữa, được
lên đóng vai chủ trong vở trường kịch của
" thời bác Hồ " vẫn thấy khoái hơn ở
" thời chú Sam ". Thời đó, người dân chỉ
là người dân quèn với bộ mặt thật của
nó, chưa từng biết thế nào là " vẽ lọ
bôi hề ". Còn bây giờ, trên sân khấu cách mạng,
người dân được tô son trét phấn để
có bộ mặt khác – một bộ mặt không giống ai
– vui chớ !
Qua " thời bác Hồ ",
cái gì cũng thay đổi hết. Đặc biệt là người dân. Ngoài
chuyện " nhân dân làm chủ ", người dân bây giờ
nhìn lại mình cũng thấy không còn là mình nữa ! Cả
cái thân hình trước đây, chỉ còn lại có… cái miệng.
Mỗi một người dân được xem như là một
" nhân khẩu " – một cái " miệng người
" – Tờ khai gia đình thời trước bây giờ
được thay bằng " sổ hộ khẩu "
trong đó kê khai có bao nhiêu…cái miệng ! Nghĩ cho cùng, Nhà
Nước cách mạng có lý, bởi vì trong công tác " quản
lý ", chuyện đầu tiên phải lo là " nuôi
ăn ". Vậy, phải biết rõ " ta " có bao
nhiêu cái miệng. Thế… Ngoài ra, nếu thấy cái miệng
nào đã có ăn mà còn đòi cả quyền " nói "
thì " ta " chận ngay không cho nó ăn. Có nói, đến
chừng đói rã ruột ra thì cũng phải câm lại
thôi. Đỉnh cao trí tuệ là ở chỗ này đấy
!
Sau khi đã học tập tốt, nghĩa là
người nhân dân đã rành bài bản để đóng
vai " nhân dân làm chủ ", người nhân dân phải
biết " đi thưa về trình ". Nói cho văn vẻ
chớ thật ra là đi đâu phải xin giấy di chuyển
của chánh quyền nơi cư ngụ và về phải
trình lại giấy di chuyển có đóng dấu nơi mình
đã đến. Nhân dân làm chủ khi dọn nhà qua ở chỗ
khác phải làm thủ tục giấy tờ dời địa
chỉ – gọi là chuyển hộ – có sự chấp thuận
của chánh quyền hai nơi – nơi ở củ và
nơi ở mới – Nhân dân làm chủ phải đi lao
động xã hội chủ nghĩa ( Thời trước
gọi là " đi làm…chùa " ). Nhân dân làm chủ " phải
" triệt để thực thi quyền làm chủ của
mình nghĩa là " phải " làm thế này, " phải
" làm thế nọ… toàn là những thứ " phải
" mà ở " thời chú Sam " tìm đỏ con mắt
không có, ví dụ như phải đổi tiền, phải
bị đánh tư sản, phải đi kinh tế mới,
phải đi tập trung cải tạo... Chánh quyền mới
gọi là " một cuộc đổi đời". Họ
nói đúng ! Có điều là cuộc đổi đời
đó xoay đến 180 độ, làm cho người dân thấy…
ngất ngư !
Sau khi miền Nam được giải phóng, mấy
cha Giải Phóng Miền Nam còn đang " cờ phất trống
khua " trên sân khấu cách mạng bỗng bị… cúp
điện hạ màn, đuổi vào hậu trường lảnh
" lương cà phê " ( Tiếng nhà nghề nói gánh hát
không trình diễn, nghệ sĩ chỉ lảnh chút tiền
để uống cà phê thôi ) Họ bị giải tán một
cách êm ru và dễ ợt như người ta liệng một
miếng giẻ rách vào đống rác, trước sự
ngạc nhiên của người nhân dân làm chủ. Bởi
vì chuyện " đại sự quốc gia " như vậy
mà chẳng thấy " lũ đầy tớ " nó hỏi
qua ý kiến một lần ! Rồi đến vụ thống
nhất đất nước, những " công bộc
của nhân dân "cũng cứ quyết định một
mình ên !
Thật ra, lấy công tâm mà nói, nếu có được
hỏi thì cái " nhân dân làm chủ " cũng chỉ gật
đầu nhất trí. Cứ xem nhân dân miền Bắc, tính
đến năm 1975, họ " làm chủ " đã hai
mươi năm, có thấy họ không nhất trí bao giờ
? Người dân chắc nghĩ rằng mình làm chủ
nhưng còn thằng khác nó làm chủ cái bao tử và sinh mạng
của mình nữa, vậy, cứ luôn mồm nhất trí
là…chắc ăn nhứt ! ( Một nhà văn lớn thời
tiền chiến vào Nam thăm bạn bè sau 1975 đã nói nhỏ
:" Tôi còn sống đây là nhờ tôi biết sợ
". Một câu để đời ! ) Cái ưu việt của
chế độ là ở chỗ này đấy !
Tiếp theo là người dân học tập – lại
học tập ! – đi bầu. Hồi thời trước,
người dân cầm lá phiếu thấy mình… oai ghê lắm.
Họ tự do chọn lựa ứng cử viên, họ
nhìn ảnh của từng người và còn phê bình " líp
ba ga " : ông này dễ thương, giống kép Hùng Cường
, ông này…cha ! coi bậm trợn quá, à ! còn bà này giống Túy
Hoa ghê, coi đặng à v.v… Bây giờ thì khác : Đảng chọn,
dân bầu. Sợ nhân dân mất thời giờ và mất
công nên Đảng chọn dùm cho dân. Nhân dân chỉ còn có… nhắm
mắt bầu. Sướng gần chết còn muốn gì nữa
? Có điều là bầu bán bây giờ không còn rầm rộ
trống kèn như thời trước nên chẳng thấy
có gì hấp dẫn hết.
Sau giải phóng, người dân miền Bắc
đua nhau vào Nam để " cứu trợ đồng
bào ruột thịt miền Nam sống trong sự kềm kẹp
của bè lũ ác ôn Mỹ Ngụy, đói khổ thiếu
thốn vô cùng ". Còn người dân miền Nam, ít lâu sau,
cũng lục tục kéo nhau ra miền Bắc, không phải
để " tham quan " mà để… thăm nuôi thân
nhân bị đưa đi tập trung cải tạo ngoài
đó. Kẻ vô người ra như vậy thật là một
sự… giao lưu đáng đồng tiền bát gạo, bởi
vì nó " mở mắt " người dân của cả
hai miền. Để thấy rằng dù " ở " với
bác Hồ hay " ở " với chú Sam, người dân
vẫn là những con cờ, không hơn không kém !
Bây giờ, gần ba chục năm sau giải
phóng, cuộc sống miền Nam cũng đã ổn định,
nghĩa là người dân vẫn… sống nhăn, không phải
nhờ khẩu hiệu " dân giàu nước mạnh…"
mà nhờ biết xoay sở để sinh tồn. Cũng
có hàng hoá đầy chợ. Cũng có quán xá đầy
đường. Cũng có vài tờ báo của đảng
/ đoàn / cơ quan để đọc – vài tờ cũng
đủ… chán, đâu cần phải ba mươi tờ
như " thời chú Sam " – Cũng có tiểu thuyết
lai rai của Hội Nhà Văn – cái hội mà chế độ
đẻ ra để " gò " các nhà văn đi cho
ngay cho đúng " đường lối chủ
trương " – Cũng có nhạc vàng lả lướt
đã thông qua sự kiểm tra của Cục Nghệ Thuật
Biểu Diễn, một loại "cục " lúc nào cũng
thấy… nằm chình ình trên các DVD và băng nhạc dưới
dạng con tem, trên đó có ghi rõ tên chương trình, hãng sản
xuất, số giấy phép, mã số và hàng chữ đỏ
"Nghiêm cấm in sao dưới mọi hình thức ".
Đảng vẫn lãnh đạo, Nhà Nước
vẫn quản lý và Nhân Dân vẫn… làm chủ, lẽ dĩ
nhiên !
Tính ra," thời chú Sam " chỉ dài có hai
mươi năm. Cái " số " như vậy thầy
bói gọi là… yểu tử ! Trong lúc " thời bác Hồ
" vẫn còn tiếp diễn dài dài, gần ba mươi
năm mà chưa thấy hạ màn ! Đó là cái " lô-gích
" của thời đại bởi vì bác Hồ lúc nào mà
chẳng " sống mãi! sống mãi ! sống mãi ! " ?
Chỉ tội cho người dân, với bộ mặt
" không giống ai " vì bị tô son trét phấn, có
nhăn nhó vì đau quặn ruột người ta cũng vẫn
thấy như đang…cười ! Và người ta kết
luận : " Tốt đấy chứ !". Ở
đây, phải hiểu " người ta " là Đảng
và Nhà Nước.
Tiểu Tử
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét