‘Hậu quả tai hại của Hội nghị Thành Đô’
BBC
BBC
Dương Danh Dy
Nhà nghiên cứu Trung Quốc
25-10-2015
25-10-2015
…Hơn
20 năm sau Hội nghị Thành Đô, nay có dịp nhìn lại vấn đề, người ta sẽ
thấy “ngộ” ra được một số điều mà ngay từ khi được phổ biến kết quả của
Hội nghị, những người quan tâm đến tình hình đất nước lúc đó đã ít nhiều
biểu thị sự không đồng tình.
Bước
đầu, xin mạnh dạn công khai một số yếu kém của phía chúng ta, cũng như
xin thẳng thắn đề cập tới một vài tác hại của những “quyết đoán” sai lầm
khi đó đối với đất nước.
Nêu
ra một số việc, không phải là muốn truy cứu trách nhiệm chính trị, hoặc
nhằm bôi xấu, hạ thấp uy tín của một ai mà chỉ nhằm một mục đích: nếu
không thấy hết những dại khờ, non yếu của chúng ta, không vạch trần
những mưu ma chước quỷ của kẻ mà cho đến tận giờ phút này trong chúng ta
vẫn còn có không ít ngưòi lầm tưởng họ là những đồng chí cộng sản,
những người đang cùng chúng ta xây dựng chủ nghĩa xã hội thì sẽ là một
nguy hại to lớn, lâu dài, tiềm ẩn đối với dân tộc.
Ngoài những nhân nhượng vô nguyên tắc về Campuchia như đã trình bày ở bài trước,
phía Việt Nam đã không hề (hay không dám) đề cập tới nguyên nhân tạo ra
bất đồng trong quan hệ Việt Trung trong hơn 10 năm qua nhất là cuộc
Chiến tranh Biên giới tháng 2 năm 1979 do Ban lãnh đạo Bắc Kinh cố tình,
chủ động gây ra.
Phía
Việt Nam đã hoàn toàn cho qua vấn đề sau khi nghe Giang Trạch Dân nói
trong diễn văn: quan hệ hai nước từ nay “hãy gác lại quá khứ, hướng tới
tương lai”.
Đó
là những điều ngưòi viết bài này thu nhận được sau khi đã hỏi kỹ đồng
chí phiên dịch và nói chuyện nghiêm túc nhiều lần với đồng chí Hồng Hà
khi đồng chí còn sống tại một số cuộc họp và tại phòng làm việc của đồng
chí tại số 2 Nguyễn Cảnh Trân và tại nhà riêng của tôi do đồng chí chủ
động tới gặp.
Không dám hé một lời
Chúng
ta không đòi Trung Quốc phải bồi thường chiến tranh trong khi đã nêu
vấn đế Mỹ bồi thường chiến tranh là điều kiện tiên quyết để bình thường
hoá quan hệ hai nước nhưng tại sao trong đàm phán bí mật lại không dám
nói dù chỉ là một lời với Trung Quốc về cuộc chiến tranh tàn ác đó và
buộc họ chí ít phải nói ra câu ‘lấy làm tiếc’ về hành động phi nghĩa của
mình?
Nhượng
bộ vô nguyên tắc này của Việt Nam đã làm cho Trung Quốc dường như giành
được ‘vị thế chính nghĩa’ trước dư luận quốc tế và nhất là trong đông
đảo nhân dân Trung Quốc dù họ mang hơn 60 vạn quân chính quy xâm lược,
giết hại nhiều đồng bào ta, tàn phá nhiều cơ sở vật chất của ta tại vùng
sáu tỉnh biên giới Việt Nam.
Làm
cho một bộ phận người trên thế giới cho rằng những vu cáo bịa đặt của
Trung Quốc: ‘Việt Nam xua đuổi người Hoa’, ‘Việt Nam xâm lược
Campuchia’… là đúng, việc thế giới ‘lên án, bao vây cấm vận Việt Nam’ là
cần thiết, việc Trung Quốc ‘cho Việt Nam một bài học’ là phải đạo…trong
khi chính chúng ta mới là ngườì có công lớn trong việc đánh tan bọn
Khơme Đỏ, cứu nhân dân Campuchia khỏi nạn diệt chủng. Tóm lại là đã làm
cho khá nhiều người trong thời gian khá dài hiểu lầm, ác cảm với Việt
Nam.
Cho
tới khi đặt bút viết những dòng này mặc dù đã mất nhiều công sức tìm
hiểu, người viết vẫn chưa biết ai là người đề xuất chủ trương cấm không
được nói lại chuyện cũ với Trung Quốc, khiến cho trong hơn 20 năm qua,
trên các phương tiện truyền thông của Việt Nam không hề có một tin tức
nào động chạm tới Trung Quốc. Ngay cả tên tuổi, nghĩa trang của các liệt
sĩ hy sinh trong cuộc đấu tranh yêu nước thần thánh trên cũng bị cố
tình lảng tránh không dám công khai nói tới, thậm chí bị lãng quên.
Cần
phải nói ra đây một sự thực là trong khi đó, báo, mạng chính thống của
Trung Quốc vẫn ra sức tung hoành, không hề bị một sự cấm đoán, hạn chế
nào, ngày ngày tìm hết cách để bôi xấu, xuyên tạc Việt Nam về mọi mặt,
đến nỗi phần lớn người dân Trung Quốc bình thường khi được hỏi về Việt
nam cũng thốt lên, Việt Nam là ‘vô ơn bội nghĩa, là kẻ ăn cháo đá bát’…
Theo
tài liệu chính thức của Trung Quốc trong một cuộc điều tra công khai,
đã có tới “80% dân mạng Trung Quốc – tức khoảng 300 triệu ngưòi-chủ yếu
là thanh niên và người có học – tán thành dùng biện pháp vũ lực với Việt
Nam tại Biển Đông.
Cảm
tình, ấn tượng tốt đẹp của đa số nhân dân Trung Quốc về một nước Việt
Nam anh dũng trong chiến đấu, cần cù trong lao động, hữu nghị với Trung
Quốc trước đây dường như không còn nữa. Hậu quả tai hại này chưa biết
bao giờ mới xoá bỏ được.
Chấp
nhận yêu sách trắng trợn của phía Trung Quốc gạt bỏ mọi chức vụ trong
và ngoài đảng đồng chí Nguyễn Cơ Thạch, Uỷ viên Bộ Chính trị, Phó Chủ
tịch Hội đồng Bộ trưởng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam, rồi lợi
dụng mọi cơ hội đế đến Đại hội 8 Đảng Cộng sản Việt Nam chính thức làm
được việc đó khi đồng chí là một trong số rất ít người lãnh đạo có tư
duy sáng tạo, am hiểu tình hình quốc tế, có sức khoẻ dồi dào, có uy tín
quốc tế, nhất là đối với các nước Phương Tây là một việc làm thể hiện sự
yếu kém về bản lĩnh và sự tha hoá về tình nghĩa cộng sản, là một việc
làm dại dột “vác đá tự ghè chân mình”…
Có
thể nói mà không sợ quá mức rằng, nếu Nguyễn Cơ Thạch còn trong ban
lãnh đạo cấp cao Đảng ta một nhiệm kỳ nữa thì việc bình thường hoá quan
hệ Việt Mỹ và việc Việt Nam gia nhập Asean chắc chắn không phải mãi đến
năm 1995 mới thực hiện, chậm hơn việc bình thường hoá quan hệ với Trung
Quốc tới gần 5 năm.
Ban
lãnh đạo Bắc Kinh các thế hệ, lo sợ ảnh hưởng của Nguyễn Cơ Thạch tới
mức, mặc dù ông buộc phải nghỉ hưu và mất đã khá lâu mà hơn hai mươi năm
sau ngày bình thưòng hoá quan hệ Việt Trung, tại Đại hội lần thứ XI
ĐCSVN tháng 1 năm 2011 họ còn không muốn để con trai ông làm Bộ trưởng
Bộ Ngoại giao Việt Nam (lời nguời lãnh đạo đảng ta lúc đó nói, tôi được
nguyên đại sứ Việt Nam tại Trung Quốc Nguyễn Trọng Vĩnh trực tiếp cho
biết)
Cần
nói thêm, việc ngoan ngoãn chấp hành yêu sách gạt bỏ đồng chí Nguyễn Cơ
Thạch đã tạo điều kiện để từ sau đó, Bắc Kinh can thiệp ngày càng sâu
hơn vào công tác cán bộ, nhân sự chủ chốt của đảng và nhà nước ta qua
mấy kỳ đại hội Đảng (IX, X, và XI) nhằm có người thân Trung Quốc trong
cơ cấu lãnh đạo cấp cao.
Việc tỏ ý không muốn thấy con trai đồng chí Nguyễn Cơ Thạch nêu trên chỉ là một ví dụ gần đây nhất.
Đây
là việc chưa từng có trong Đảng ta. Chúng ta đều biết thời Bác Hồ,
trong Đảng ta tuy có người này kẻ kia thân Liên Xô, thân Trung Quốc
nhưng ngưòi nào cũng phải nghiêm chỉnh chấp hành đường lối của Đảng,
thời đồng chí Lê Duấn là người lãnh đạo chủ yếu đã không duy trì được
nếp chung sống đó, nhưng bất kể là ai hễ thân Liên Xô, thân Trung Quốc
trong đảng đều bị loại trừ.
Có
thể nhận định thế này thế nọ về hiện tượng trên nhưng có một điều có
thể khẳng định, thời đó nước ngoài và nhất là Trung Quốc, không thể trực
tiếp thò tay can thiệp vào nội bộ Đảng ta nhất là vê công tác nhân sự
tổ chức.
Nhưng
từ năm 1991 đến nay, việc Trung Quốc can thiệp vào nội bộ ta đã hầu như
đã diễn ra thường xuyên và chưa hề bị lên án. Phải chăng đã xuất hiện
‘Nhóm lợi ích thân Trung Quốc’ trong Đảng ta? Không giải quyết được tình
trạng này thì hậu hoạn khôn lường.
Bài học bị dắt mũi nhớ đời
Không
thể dùng các từ ngữ thông thưòng để đánh giá các hậu quả trên mà phải
dùng từ “cái giá phải trả bằng xương máu” mới phản ánh đúng bản chất của
vấn đề.
Hội nghị Thành Đô đã, đang và sẽ còn mang lại cho đất nước chúng những hậu quả to lớn, cay đắng, nhục nhã…
Vì
vậy một vấn đề cũng quan trọng không kém mà người viết xin mạnh dạn
khởi đầu trước: từ những cái giá phải trả đó chúng ta cần rút ra những
bài học gì? Cần ghi nhớ những bài học nào?
1.
Những ngưòi lãnh đạo chủ chốt của Đảng ta lúc đó hầu như không nắm được
những thay đổi, những diễn biến lớn trên trường quốc tế, nhất là về các
nước XHCN Đông Âu, tình hình Liên Xô, tình hình Mỹ cũng như tình hình
đối thủ trực tiếp của mình lúc đó là Trung Quốc. Từ đó đã có những nhận
định rất sai lầm để rồi đưa ra những quyết định rất sai lầm.
Thắng
lợi của Công đoàn Đoàn kết tại Ba Lan, sự kiện Bức tường Berlin bị nhân
dân Đức xoá bỏ, việc Yeltsin giành chiến thắng trong cuộc bầu cử tại
Liên bang Nga, Gorbachev từ bỏ chủ nghĩa xã hội và đảng cộng sản… đã
không làm cho một số ngưòi trong ban lãnh đạo chúng ta thấy rằng chủ
nghĩa xã hội đã không còn được nhân dân ở chính ngay những nước đó ưa
thích, theo đuổi, sự sụp đổ của họ là lẽ tất nhiên.
Trong
tình hình như thế mà lại chủ trương ‘bình thường hoá quan hệ với Trung
Quốc để bảo vệ chủ nghĩa xã hội, chống đế quốc’, ‘Mỹ và Phương Tây muốn
cơ hội này để xoá cộng sản’.
“Nó
đang xoá ở Đông Âu. Nó tuyên bố là xoá cộng sản trên toàn thế giới. Rõ
ràng là nó là kẻ thù trực tiếp và nguy hiểm. Ta phải tìm đồng minh. Đồng
minh này là Trung Quốc.” (trích Hồi ký Trần Quang Cơ)
Cần
thấy rằng, trước đó Liên Xô là chỗ dựa về nhiều mặt của Việt Nam, tuy
vậy phải nói thẳng ra rằng, so với Cuba thì Việt Nam tương đối ít lệ
thuộc hơn. Thế nhưng trong khi Cuba phụ thuộc nặng nề vào Liên Xô, lại ở
ngay sát nách Mỹ đã không tỏ ra hoảng hốt khi Liên Xô tan rã, và các
bạn ấy vẫn hiên ngang đứng vững từ đó đến nay, Mỹ không dám can thiệp…
thì Việt Nam đã phải vội vã quay sang tìm đồng minh ngay với kẻ đang là
đối thủ nguy hiểm trực tiếp của mình chỉ vì cái đại cục chung chung, chỉ
vì sợ mất chỗ dựa, sợ có thể mất chủ nghĩa xã hội, mất Đảng.
Không
thấy hết những khó khăn trong ngoài nước của Trung Quốc lúc đó. Trong
nước họ vừa xảy ra sự kiện Thiên An Môn, Triệu Tử Dương bị cách chức
Tổng Bí thư, nội bộ lãnh đạo cấp cao bất đồng sâu sắc, một bộ phận nhân
dân bất mãn với Đảng Cộng sản Trung Quốc.
Do
đàn áp đẫm máu học sinh sinh viên, Trung Quốc bị các nước Phương Tây
chủ yếu cấm vận về chính trị, kinh tế, quân sự, có hạng mục như xuất
khẩu kỹ thuật cao trong quân sự đến nay vẫn chưa huỷ bỏ.
Họ
ở vào thế không có lợi nhiều mặt khi bình thường hoá quan hệ với ta,
nhưng do mấy nhà lãnh đạo chúng ta lúc đó đánh giá không đúng tình hình
nên không những không sử dụng được lợi thế của mình, mà còn bị Trung
Quốc ‘dắt mũi’ kéo theo, thiệt đơn thiệt kép trong xử lý quan hệ cũ và
trong giai đoạn bình thường quan hệ mới, cho tới tận bây giờ và cả trong
tương lai nữa.
Không
thể không đề cập tới một vấn đề nữa là trong hơn 10 năm đối kháng, nhà
nước Xã hội chủ nghĩa Trung Quốc, Đảng Cộng sản Trung Quốc đã không từ
thủ đoạn nào trong đối xử với nước ta, không những thế thái độ của họ
trong đối xử với Liên Xô, trong đối xử với nước Ấn Độ láng giềng đồng
tác giả với họ trong đề xướng 5 nguyên tăc chung sống hoà bình những năm
trước đó.
Chẳng lẽ Ban lãnh đạo Việt Nam lúc đó lại không thấy chút nào?
2.
Bằng những thoả thuận tại Hội nghị Thành Đô, mấy nhà lãnh đạo chủ yếu
của Đảng ta lúc đó đã tự đánh mất bản lĩnh kiên cường, bất khuất, không
sợ địch mà nhiều thế hệ lãnh đạo đã nêu cao, để sẵn sàng nhận sai về
phần mình trước kẻ thù, tuỳ tiện đổ lỗi cho người tiền nhiệm.
Người
viết bài này không hiểu vì sao, người đại diện cho Đảng ta, một nhân
vật có tinh thần sáng tạo lớn với ý chí kiên cường đã tích cực phát
triển đường lối cải cách và Đổi mới và chỉ đạo toàn Đảng toàn dân thu
được những thành tích to lớn rất quan trọng bước đầu, thế nhưng trước
đối thủ Trung Quốc hình như chỉ còn là chiếc bóng, mất hết cảnh giác
cách mạng gật đầu tin tưởng và làm theo mọi đề xuất mang đầy chất lừa
bịp ‘vì chủ nghĩa xã hội’, ‘vì đại cục’ của Trung Quốc, thậm chí chấp
nhận để họ can thiệp vào công việc nhân sự cấp cao của đảng ta.
Bài
học này, cần được phân tích sâu sắc trong toàn Đảng, toàn dân, một mặt
để thấy rõ sai lầm quá khứ, một mặt để ngăn chặn, phá tan những âm mưu,
mánh khoé mới của ngưòi ‘láng giềng bốn tốt’, của ‘những đồng chí’ luôn
rêu rao ’16 chữ vàng’ đang không ngừng vận dụng những thành quả cũ vào
trong quan hệ với Việt Nam chúng ta hiện nay và trong tương lai.
Bài viết thể hiện quan điểm riêng của nhà ngoại giao kỳ cựu Dương Danh Dy, hiện sống tại Hà Nội./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét