Sau khi Đại Đội Hotel củng cố an toàn toà Hành chánh vào ngày 6 tháng Hai, TQLC
tìm ra bộ chỉ huy của quân CSBV. Họ thấy ở đây vũ khí, bản đồ, trang bị, giấy
tờ và tiền bạc cùng nhiều tài liệu khác. Trung tá Cheatham nói với báo chí:
“Chiếm được Tòa Hành Chánh là đánh vở mặt hậu của họ. Đó là công việc khó khăn.
Bây giờ chúng tôi chỉ gặp phải những ổ kháng cự lẻ tẻ.”
Viên đại tá không quá chủ quan (tuy nhiên, không quá lạc quan như ở bộ Chỉ Huy
cao cấp, tuyên bố tình hình Nam Huế ổn định kể từ 10 tháng Hai), nhưng về căn
bản thì ông ta đúng. Tuần đầu tiên thì CSBV và Việt Côjng còn gây được áp lực.
Sau đó đại đội 2/ 5 đã chiếm được khu vực Bưu Điện và Tòa Hành Chánh, củng cố
vị trí của họ, đại đội 1/ 1 thì củng cố MAC.V và hai ngày chiến đấu đẩm máu tại
trường Jeanne d’ Arc. Sau đó, ưu thế thuộc về phía TQLC. Đại Đội 2/ 5 tiến dọc
theo sông Hương và Đại Đội 1/ 1, xa hơn về phía nam, hành quân dọc theo sông
An-Cựu, tiến về phía bắc, đến sông Hương. Trong tuần lễ đầu tiên đó, TQLC chưa
bao giờ bị đánh bật lui. Họ tấn tới, đánh từ nhà nầy qua nhà khác, từ khu nầy
qua khu khác, củng cố vị trí vào ban đêm, tiến công vào ban ngày. Sức kháng cự
của địch càng lúc càng yếu dần. Họ không còn sức chiến đấu, giữ từng phòng hay
từng nhà như trước nữa và chủ yếu là phản công bằng bắn lén, pháo kích bằng
súng cối hay hỏa tiển.
Cường độ trận chiến càng lúc càng yếu đi, thời gian phản ảnh chiến cuộc đã rõ
hơn.
Một trong những vấn đề lớn trong hàng binh sĩ ở vài đơn vị, – và một trong
những phản ảnh hoạt động của các sĩ quan trong quân đội – sĩ quan thì ngồi trong
ghế bành chỉ huy các đại đội trưởng, các đại đội trưởng ngồi trong công sự chỉ
huy các trung đội; các tiểu đoàn trưởng thì ngôi trên trực thăng, khuất tầm tác
xạ của địch. Ở Huế có sự trái ngược với những điều như thế. Trong trận đánh, sĩ
quan TQLC đi đầu, mức độ thương vong của sĩ quan cấp úy chứng minh như thế. Sĩ
quan cấp chỉ huy tiểu đoàn cũng thế. Mặc dầu đây chỉ là những trận đánh ngắn,
rời rạc, nhưng cấp chỉ huy tiểu đoàn cũng ở ngay tuyến đầu. Cả hai trung tá
Cheatham và Gravel chia xẻ công việc cho nhau, tiến lên cùng với binh sĩ, ngay
cả trong những lần đụng độ hết sức nặng nề. Đặc biệt Cheatham được nhiều người
ca ngợi. Các phóng viên báo chí theo dõi trận đánh thường có khuynh hướng tốt
về đại đội 2/ 5, viết về lòng can đảm cao độ của họ. Sĩ quan hành chánh của
ông, thiếu tá Salvati, sau nầy tuyên bố:
“Mọi người biết công nghiệp của tôi
trong lực lượng TQLC. Tôi dám mạnh bạo nói rằng đại tá Cheatam là một cấp chỉ
huy hoàn hảo nhứt mà tôi có dịp phục vụ dưới quyền ông ta. Tài lãnh đạo của ông
rất năng động. Chỉ trong những ngày đầu tiên của trận đánh, nhiều lúc dưới hỏa
lực địch, ông đã xuất hiện chỉ rõ từng mục tiêu một để binh sĩ tấn công. Ông
chỉ huy tiểu đoàn của ông theo đúng truyền thống tốt đẹp nhứt của một sĩ quan
TQLC.”
Huế, có nhiều điều tự hào vì thực ra, (mặc dù đã gánh chịu tất cả những cuộc
tuần tiểu tao-ngộ-chiến, những thất bại, và trì trệ ở An Hòa), TQLC đã đánh
bại, giành thắng được một trận chiến cam go, dữ dội, đè bẹp được các đơn vị
quân chính qui CSBV. Đại úy Christmas nói với các phóng viên báo chí: “Quả thật
đây là một trận chiến dành cho các người chỉ huy cấp tiểu đội, một phương cách
chiến đấu. Các TQLC trẻ phản ứng rất cừ.”
Thiếu tá Salvati phát biểu: “Những người lính TQLC của chúng tôi ở Huế, nhìn
chung đến từ trận thua ở An-Hòa. Đó là một trận đánh căn bản là ở ngoài đất
nước chúng tôi, có phần cách ly với dân chúng. Hầu hết thì giờ là dùng để tuần
tiểu. Thường khi đi tuần tiểu trên đường dễ bị phục kích; nếu không, đi trên
đường thì lại dễ bị mìn bẫy. Các TQLC của chúng tôi thường không đụng lớn với
quân CSBV. Vấn đề tinh thần gặp khó khăn. Tuy nhiên, ở Huế, tôi thấy họ là
những người chiến đấu tài ba nhất. Những người trẻ nầy họ biết cách phải đánh
nhau với địch như thế nào. Từng ngày, họ cải biến cách chiến đấu hay hơn. Họ
tìm cách tác xạ và điều động, che chở nhau, xử dụng tài trí các loại chất nổ.
Người bị thương nhẹ từ chối di tản vì họ tự nhận thấy có trách nhiệm hoàn thành
chiến công. Họ cố giành cơ hội mặt đối mặt với kẻ thù và họ chiến thắng. Tôi
trải qua những giây phút hết sức xúc động, hồi hộp chứng kiến người lính trẻ
TQLC đã đem hết tài ba của mình giành lấy những gì họ đã giành được từ tay kẻ
thù.”
“Tuy nhiên, trậnh đánh còn lâu mới chấm dứt. Trong khi gặt hái được những
chiến công lớn lao, và kẻ địch bị đẩy vào vị thế chiến đấu càng lúc càng phản
ứng kém đi, cũng còn cần phải quét sạch quân CSBV còn lén lút đâu đó. Các cuộc
nổ súng gây nhiều tai hại. Sức kháng cự càng lúc càng yếu đi không có nghĩa là
không còn thương vong. Những cuộc chạm súng như vậy chỉ ít đi mà thôi. Đối với
người lính bộ binh, những người chỉ có cây súng M-16 và tài khôn khéo của mình
giúp họ sống còn, mà trận chiến cũng chưa chấm dứt. Họ vẫn còn chiến đấu hàng
ngày ở đó, trên đường phố, không mềm lòng, không xao lãng.”
Trung sĩ Burghardt cùng với trung đội của anh đang lục soát trong bệnh viện. Họ
đang cố gắng vượt qua một khoảng sân trống trước mặt họ để tới dãy lầu bên kia.
Hai bóng người bắt đầu băng qua. Họ chạy theo rãnh nước trong sân – bỗng có
tiếng súng AK-47 nổ. Hai TQLC té xuống đất, bị thương.
Từ trên cửa sổ, Burghardt nhìn thấy cảnh ấy, gọi cho hai y tá đang núp bên
trong với đồng đội. Anh ta biểu một y tá chạy ra kéo người bị thương vào. Người
y tá anh ta ra lệnh là một người lùn, chỉ còn hai tuần nữa là tới phiên về
nước. Anh nầy chần chừ.
Burghardt nổi giận, mắng anh ta: “Thằng chết nhát nầy.” Nói xong, anh ta
phóng ra khỏi cửa. Anh ta chạy như bay trên đám cỏ, nhào xuống một cái hố. Súng
nổ lốp bốp trên đầu. Anh ta nắm một trong hai người bị thương và kéo người nầy
xuống hố với anh ta. Khi anh ta với lên để kéo người thứ hai thì bị địch bắn
chết.
Trung đội xông ra và cứu họ.
Trung tá Gravel cùng Đại Đội Alpha di chuyển trên đường phố. Điểm đến là ngã tư
gần tòa Lãnh Sự Trung Hoa Quốc gia. Quân CSBV bắt đầu pháo kích họ. Mảnh đạn
văng vào tường gạch, mọi người tìm chỗ núp, nép người xuống hoặc bằng cách nào
khác để tránh mảnh đạn. Gravel đưa mắt nhìn quanh, Canley đang đứng nghênh
ngang giữa tiếng nổ. Anh ta tựa lưng vào cột đèn, súng trong tay chực nhả đạn,
ra lệnh cho binh sĩ trong khi súng nổ dữ dội, rõ ràng hết sức nguy hiểm. Gravel
kinh ngạc: “Chúa ơi! Bộ anh ta đang chờ xe bus chăng?” Chưa bao giờ ông
ta thấy cái cảnh như vậy.
Trên đường rút lui, quân CSBV đã chọn một trong những người trẻ tuổi của họ,
một “đồng chí” còn trắng trẻo, xích chân vào nhà và giao cho một cây súng để
làm chậm đường tiến quân của TQLC. Người lính Cộng sản nầy tỏ ra không mấy
nhiệt tình với sứ mạng được giao nên vội vã đầu hàng khi TQLC Mỹ tiến chiếm khu
vực. Họ giao “chú lính sữa” cho trung sĩ tình báo. Tuy nhiên, các TQLC Mỹ cay
cú vì bạn bè thương vong, nên bắt đầu đánh hay giết tù binh mà họ đã bắt trói.
Người trung sĩ nói: “Hây! Thằng bé sợ lắm đấy. Nó sợ hơn bạn sợ đấy. Anh
nghĩ là anh ngon lành khi đánh nó hay sao?” Người lính bước lui và lầm bầm:
“Ồ! Thằng đê tiện, chẳng đáng để đánh nó.”
Trung sĩ Dickman, nhiếp ảnh viên của TQLC, chụp bức hình anh trung sĩ đỡ thằng
bé đứng dậy. Đó là một ấn tượng mạnh mẽ cho thấy làm thế nào một người biết ứng
dụng tâm lý một cách đơn giản để ngăn ngừa một vụ giết người.
Người tị nạn đổ xô ra khỏi nhà như dòng suối, chạy về hướng các TQLC Mỹ. Hạ sĩ
Soukup và binh sĩ trong tiểu đội anh ta lãnh nhiệm vụ kiểm soát người tỵ nạn,
chặn các người già và các bà mẹ đang bồng em để kiểm soát giấy tờ, truy tìm cán
binh CSBV lẫn lộn trong dân chúng, tịch thu vũ khí của họ. Ai kiểm soát xong
rồi thì được chỉ hướng chạy về MAC.V; ở đó có các cố vấn Mỹ và quân nhân QĐ/
VNCH chuẩn bị nơi tạm trú cho hàng ngàn người mới bị mất nhà cửa.
Có một ông già và một đứa bé tách ra khỏi nhóm người tỵ nạn, bỏ đi băng qua đám
cỏ trước mặt các TQLC. Soukup thấy hai người nầy bèn gọi lại nhưng họ cứ chạy.
Soukup đưa súng lên và bắn một tràng đạn. Đứa bé té về phía trước nhưng cố
gượng lên, bò bằng hai tay và đầu gối. Ông già chạy ngược lui chỗ thằng bé bị
té, các TQLC khác nổ súng. Ông già cũng trúng đạn, ngã xuống. Một người khác bắn
một quả M-79, đứa bé nằm im, bất động. Khi TQLC tiến lên để kiểm tra hai xác
chết, họ không có giấy tờ gì cả. Lật xác ông già lên, thấy ông ta dấu một băng
đạn của CSBV dưới áo. TQLC không biết chắc ông già thuộc thành phần gì, có thể
là người cảm tình với Cộng Sản và cố tiếp tế đạn cho họ. Ông ta dắt đứa bé theo
là muốn làm ra vẻ dân lành vô tội.
&
Trong tiến trình tác chiến ở đây, cạnh việc chiến đấu lại nảy sinh một vấn đề
khó khăn mà TQLC phải đối phó. Đó là việc làm hư hao nhà của của dân chúng, vấn
đề người chạy nạn và chôn cất người chết.
Các cố vấn quân sự Mỹ được giao nhiệm vụ đảm trách công việc nầy, một trong
những chướng ngại cũng do từ phía người Nam Việt Nam tạo ra. Trung tá Phạm văn
Khoa (Ông ta họ Phan, không phải Phạm – ngd), tỉnh trưởng Thừa thiên kiêm Thị
trưởng thành phố Huế, là ứng viên lãnh trách nhiệm việc nầy. Xui xẻo! Ông ta
không làm được gì cả.
Trong 5 ngày đầu tiên của trận đánh, ông ta bị kẹt lại đằng sau phòng tuyến
địch, buộc lòng bỏ trốn cùng cận vệ. Tới ngày 5 tháng Hai, đại đội Fox 2/ 5 tìm
thấy ông ta. Sau một cuộc chạm súng ngắn, vài CSBC bị giết trong một tòa nhà.
Khi đại úy Downs vào, ông ta thấy một trung sĩ trong ban tham mưu của ông, đang
giữ chức vụ quyền trung đội trưởng, đứng trước hai người Việt Nam đang bị bắt
đứng giang tay úp mặt vào tường. Anh trung sĩ nói: “Chỉ huy trưởng, thằng ngốc
chó đẻ nầy nói với tôi nó là thị trưởng thành phố Huế.”
Downs kiểm soát lại và tin rằng người Việt Nam đó nói thật. TQLC cho ông ta mấy
cái kẹo, nước uống rồi chuyển ông ta về tiểu đoàn.
Việc Cộng sản tràn ngập là một sự kiện quá lớn đối với Khoa. Ông ta ngoan
ngoãn, không đương đầu nỗi với tình thế, và quá nặng gánh lo cho gia đình, vẫn
trốn cùng một nơi khi Cộng Sản kiểm soát thành phố Huế. Đến khi Đại Đội Golf 2/
5 tìm ra gia đình ông ta vào ngày 10 tháng Hai, Khoa mới bắt đầu lo tới trách
nhiệm của ông, nhưng ông vẫn chưa có kế hoạch kiểm soát cần thiết. Có một số
binh lính VNCH tại MAC.V – Họ rời đơn vị từ hôm Tết và nay vẫn chưa liên lạc
được. Nhưng khi một sĩ quan cố vấn đề nghị xử dụng các binh sĩ nầy thì Khoa lẫn
tránh, nói rằng Khoa không có quyền hạn gì với họ.
Dù có hay không một ông thị trưởng gánh chịu trách nhiệm trực tiếp các vấn đề
trên, nó cũng không thể bỏ đi được. Thiếu tá Jack E. Walker, quê ở Baltimore,
một sĩ quan quân đội Mỹ thuộc cơ quan CORDS được chọn đảm trách công việc nầy.
Để hỗ trợ cho ông ta, một trung đội thuộc đại đội Dân Sự Vụ 29 được gởi từ Đà
Nẵng ra. Một trong những nhiệm vụ đáng ngại nhất mà họ phải thi hành là di
chuyển và chôn xác chết. Nhiều xác lính CSBV còn để lại nơi họ bị TQLC bắn
chết. Xác chết người dân còn nằm trong sân và trong đống ngói gạch ngỗn ngang.
Các xác chết nầy đã sình thối và lôi kéo chuột tới. Vấn đề sức khỏe trở nên
nghiêm trọng. Với sự giúp đỡ của Cảnh Sát Trưởng Huế, Walker lập kế hoạch đào
những ngôi mộ tập thể, nhưng phía Việt Nam thì từ chối không làm và không muốn
đụng tới xác chết. Vì vậy, các tù binh được lệnh mang xẻng cuốc đào huyệt chôn
ngay nơi họ tìm thấy xác chết.
Về phía người sống, thiếu tá Walker thực hiện cuộc kiểm tra chưa chính xác, có
khoảng 5 ngàn người tạm trú tại nhà thờ Công Giáo (Ở đây, các linh mục tổ chức
tương đối tốt) và khoảng 17 ngàn người tạm trú tại trường đại học (Trường Kiểu
Mẫu Huế – ngd). Walker và toán của ông phải chăm sóc cho 22 ngàn người tỵ nạn,
nhưng lương thực thì thiếu hụt, y tế không đủ và dụng cụ vệ sinh cũng không có
sẵn. Ông ta gặp trung tá Khoa để yêu cầu cung cấp lương thực cho dân chạy nạn.
Khoa cho biết có tất cả có 25 kho gạo trong thành phố, đủ cho dân chúng xử dụng
trong 2 tháng. Chính phủ VNCH sẽ cung cấp cho dân chúng. Walker yêu cầu cung
cấp gạo ngay cho dân chúng vì tình hình khẩn cấp. Nhưng đến khi Walker lo gom
gạo để phát cho dân chúng thì thấy không có gì hết. (Không bao giờ ông ta tìm
được ai đã lấy gạo đi hết, nhưng ông ta chú ý thấy rằng dân chạy nạn có tiền
thì vẫn mua được gạo. Một phóng viên báo chí điều tra thấy giá gạo chợ đen nhảy
từ 20 xu lên tới 4 đôla một kýlô). Walker gởi điện khẩn cấp cho bộ Tư Lệnh Quân
Đoàn I ở Đà-Nẵng, yêu cầu cung cấp gạo cho dân chúng. Nhờ đó, người tỵ nạn được
cung cấp 380 bao gạo một ngày. Có một vài vấn đề nhỏ khác: Khi có 21 miếng thịt
sườn được cứu tế cho người tỵ nạn do Walker nhận từ Khoa và văn phòng của ông
ta, thì sau đó có 6 miếng biến mất.
Nhờ có sự trưng dụng nầy mà dân tỵ nạn không ai bị đói cả.
Tại Bệnh Viện Trung Ương Huế, Walker phải đương đầu với nhiều vấn đề nghiêm
trọng hơn. Một số người tỵ nạn bị thương, người ta đang gặp nguy cơ có thể
chết, nhưng chăm sóc y tế thì rất ít. Vấn đề vệ sinh rất nghiêm trọng. Người
bệnh ỉa đái ngay tại chỗ và xác người rửa thúi ngay nơi họ ngã xuống. Nhờ sự
giúp đỡ của nhân viên Dân Sự Vụ Mỹ của Văn Phòng Y Tế Công Cộng tại Quân đoàn I
và bác sĩ người Úc là Froweys, xác chết được chuyển ra khỏi khu vực bệnh viện,
đem chôn cất và bệnh viện được chùi rửa sạch sẽ. Bác sĩ và y tá người Việt
trong thành phố đến giúp đỡ, cũng như một toán y tế của Hải Quân được gởi tới,
người tỵ nạn được chích ngừa, bệnh viện mở cửa đón bệnh nhân.
Những quan tâm về tình hình trong
khu vực trận địa đều được giải quyết tốt đẹp như người ta hy vọng. Tuy nhiên,
về phía các nhà lãnh đạo ở Huế thì không chu toàn được nhiệm vụ của họ. Một
tuần lễ sau khi trận đánh chấm dứt, một nhà viết sử quân lực Mỹ hỏi bao lâu thì
chính quyền Việt Nam có thể tự đảm đương trách nhiệm một mình, thiếu tá Walker
trả lời: “Chẳng bao giờ được cả. Họ quá ích kỷ, chỉ nhắm vào mình, sợ hãi và
thiếu khả năng quản trị. Các sĩ quan trẻ sợ không dám quyết định, họ từ chối
hoàn toàn và gặp phải đủ loại vấn đề rắc rối. Họ không có trách nhiệm, chúng
tôi phải làm lấy.”
Một vấn đề xảy ra đằng sau chiến tuyến của TQLC là thổ phỉ. Ai cũng có hết. Một
sĩ quan TQLC hết sức ngây thơ nghĩ rằng binh lính trẻ của anh ta đã vượt quá
việc giải phóng những cái gọi là say sưa và tiền bạc tìm thấy trong những căn
nhà trống. Suốt trong những ngày đầu TQLC đã “chôm” một số kính hiển vi ở viện
đại học và khi đại đội 2/ 5 ổn định khu Kho Bạc rồi, một số TQLC bỏ túi một ít
vàng thỏi. Một số TQLC từng làm quen với những người ăn mày nghèo khổ sống
trong làng quê, ngạc nhiên trước sự giàu có của Huế, và có một số vật kỷ niệm
bị lấy đi. Cũng có một số xe dân sự bị trưng dụng. Những thứ “chôm” được đó
được đem ra xử dụng như mua đồ tiếp liệu, di tản người bị thương và ngay cả …
hết xăng giữa đường.
Tuy nhiên, việc cướp bóc của TQLC có liên hệ đến vài lý do nhỏ nhặt. Trước hết,
và quan trọng nhứt, các đại đội trưởng không khoan thứ cho một hành động cướp
bóc nào. Lệnh nghiêm nhặt tôn trọng tài sản dân chúng và binh lính bị lục soát
kỹ để ngăn ngừa việc cướp bóc. Thứ hai, TQLC không có cơ hội để cướp bóc của
dân. Họ đang chiến đấu, luôn luôn phải tiến tới phía trước nên không có thì giờ
để thực hiện những hành vi như thế. Họ chẳng có thể mang theo cái gì kềnh càng
được. Mặc dù có vài hành vi cướp bóc nhỏ nhặt, báo chí vẫn tường trình việc ăn
cắp ồ ạt. Chẳng hạn như nhà nhiếp ảnh Philip Jones Griffith tố cáo TQLC đã xé
nát thành phố bằng việc cướp bóc chè chén say sưa. (Tin tức của Griffith sai
lầm vì sự thực ông ta đã viết rằng TQLC ở Huế là những chiến binh rất nghèo
khó)
Nhìn chung, việc cướp bóc ở Huế là từ người Việt Nam. Người tỵ nạn báo cáo nhà
cửa họ bị ăn cắp. Những bị cáo lớn nhứt là binh lính Miền Nam VN. Vai trò của
họ là quét sạch Cộng Quân sau khi TQLC Mỹ đã tiến qua, nên họ đi từ nhà nầy qua
nhà khác để tổ chức băng nhóm cướp bóc, lấy bia, máy nghe nhạc, tủ lạnh, tiền
bạc và các thứ khác. Trong một vài trường hợp, binh lính VNCH còn lục soát dân
chúng và lấy những gì chúng muốn. Chỉ trong mấy tuần đánh nhau, việc các binh
lính cướp bóc nầy lên đến mức độ không thể khoan dung được, đến nỗi các nhà
lãnh đạo ban hành nhiều biện pháp quyết liệt: Xử tử những kẻ cướp bóc (1). Trung
tá Gravel sợ những hàng chữ như TQLC Hoa Kỳ hãm hiếp, cướp bóc, và cưỡng đoạt
các cổ vật trong Đại Nội nên ra lệnh cho các cố vấn Mỹ “Kể từ 12 giờ hôm
nay, bất cứ binh lính VNCH cướp bóc sẽ bị bắn tại chỗ.” Ông ta còn nói
thêm: “Tôi phải đổi hướng tấn công. Nếu cần, tôi sẽ làm như thế.”
Ông ta không cần phải làm như thế, cũng không có một lính TQLC nào bắn hạ một
tên cướp bóc nào. Các cố vấn quân sự thông báo cho binh sĩ VNCH biết việc gì có
thể xảy ra. Mặc dù việc cướp bóc không bao giờ chấm dứt hoàn toàn nhưng đã giảm
thiểu nhiều. Nhưng tất cả kinh nghiệm còn lại là một chút chua xót nơi cửa
miệng. Trung sĩ Dye ghi nhận: “Binh lính VNCH quả là bất trị, luôn luôn tìm
cách ở sau xa TQLC khi chúng tôi chiến đấu ở khu Nam thành phố Huế. Sau một
trận đánh cam go, tôi thấy chúng lái xe GMC tới cướp bóc tại những ngôi nhà
chúng tôi mới đánh chiếm xong. Cũng có nhiều anh TQLC chó má về việc cướp bóc
nầy nhưng tôi nghĩ rằng nếu binh lính VNCH không lợi dụng cái uy danh của TQLC
qua các trận đánh ở đây thì họ đã đánh mất cái uy danh ấy rồi.”
Sáng ngày 7 tháng Hai, chiếc cầu thứ hai và cũng là cuối cùng trên sông Hương
bị đặc công Cộng Sản đánh sập (2). Tuy nhiên, về chiến thuật không có gì ảnh
hưởng nhiều vì bến tàu Hải quân vẫn còn hoạt động hữu hiệu.
Ngày hôm sau, bác sĩ Hamilton và 4 y tá chờ tàu thủy trở về lại Phú Bài. Họ đã
ở đây 5 ngày. Một ngày sau khi họ thiết lập trạm y tế ở MAC.V, một trung úy
VNCH tên là Ba (hay Bá? – ngd), người nầy khai tốt nghiệp bác sĩ ở Saigon, hăng
hái giúp đỡ. Họ gọi ông nầy là bác sĩ Ba và ông làm việc hết sức mình để chăm
sóc những người bị thương. Điều làm cho bác sĩ Hamilton hết sức xúc động về Huế
là tinh thần của TQLC vô cùng anh dũng. Hầu hết những người lính trẻ sau khi
băng bó xong đều xin trở lại đơn vị ngay. Cuối cùng, tất cả các bác sĩ sau hôm
họp ở Đà-Nẵng đều trở lại thành phố, do đó, bác sĩ Hamilton nghĩ rằng đã tới
lúc ông và nhân viên của ông trở lại Phú Bài.
Trời mưa nhẹ trên bến tàu. Bác sĩ Hamilton đứng nhìn đám người chuẩn bị ra đi.
Có khoảng một chục người tỵ nạn Việt Nam, vài phái viên báo chí đang chụp hình
và phỏng vấn, một vài TQLC, binh lính VNCH và khoảng 30 TQLC bị thương, vài
người đi cà nhắc, đầu bị băng, đội nón sắt và áo giáp, vài người nằm trên cáng
có che áo mưa. Sáu TQLC được bỏ vào bao bó xác chết.
Thỉnh thoảng có tiếng nổ lác đác gần đó. Có tiếng súng cối và lựu đạn. Hamilton
chỉ lưu ý tới những tiếng nổ đó, tiếng nổ không gần lắm và có vẽ như càng lúc
càng xa đi.
Một chiếc tàu đổ bộ (LCU) của Hải Quân cập bến. Người ta lên tàu. Những người
chết và bị thương nằm trên cáng được chuyển lên. TQLC và dân chúng tập trung
trên sàn tàu. Hamilton lấy làm lo. Chỉ một trái súng cối nổ trên sàn tàu sẽ làm
cho khối người chết và bị thương. Chiếc tàu ra giữa dòng và từ từ chạy lên
hướng Bắc, vào một con kinh đào gần bờ thành Thành Nội. Khi chiếc tàu đi vào
một khúc sông hẹp, quân CSBV từ hai bên bờ bắn ra. Hamilton núp phía sau một
cái thành sắt, nhìn ra sông. Cây cối dày đặc, bụi bờ, và cỏ ống. Lửa từ các
họng súng núp dưới đất bắn ra.
Các TQLC còn đi lại được núp bên thành sắt trên tàu bắn trả. Bác sĩ Hamilton
cũng chụp một cây súng M-16 cùng nổ súng với họ. Chẳng ai trên tàu bị thương.
Tàu tiếp tục đi, chẳng bao lâu bờ thành khuất dạng, để lại tiếng súng phía sau.
Rồi tàu lại quay vào sông Hương và hướng ra biển đông.
Hai ngày sau khi bác sĩ Hamilton rời Huế, một đợt tăng cường khác chuyển đến.
Đó là trung đội đại bác không giật 4.2 inch, súng cối thuộc Tiểu đoàn 1, Trung
đoàn 11, Sư đoàn TQLC, dưới quyền chỉ huy của Pháo Đội Dã Chiến Số 1 LLDN
X-Ray. Họ có 12 người và 4 súng cối, trung sĩ Reliss chỉ huy. Ông nầy là một
TQLC thuộc loại cừ, một hạ sĩ quan. Khi trận Huế bắt đầu, trung đội ông có
nhiệm vụ yểm trợ cho các đơn vị hoạt động ở Phú Bài – Phú Lộc. Họ được lệnh
chuyển về căn cứ Phú Bài. Ngày 10 tháng Hai, sau ít ngày lau chùi súng đạn, tái
tiếp tế, và tổ chức lại, trung đội được máy bay Sea Knight chở đến thành phố
Huế.
Chiếc trực thăng gầm thét, lách qua lại để tránh đạn quân CSBV từ dưới đất bắn
lên. Reliss và lính tráng của ông lót áo giáp mà ngồi, để tránh đạn từ dưới bắn
lên. Chiếc trực thăng đáp xuống bãi đáp bên cạnh bến tàu Hải Quân, binh lính
thoát ra cửa đuôi. Quân CSBV nổ súng. Những người bắn sẻ núp bên kia sông hay
trên tường thành bắn qua, hai quả đạn súng cối hạng nhẹ rớt trên sông. Một toán
súng máy trí súng trên bến tàu bắn trả, la to biểu đám súng cối di chuyển.
Trung đội chạy nhanh tối đa, kéo theo cây súng cối nặng 650 pound.
Có mấy người đi sau để bảo vệ, chiến trực thăng lao vào bầu trời sương mù,
tiếng súng tắt dần.
Sau 20 phút chờ đợi một chiếc xe GMC tới chở trung đội đi về hướng đông bến
tàu, tới một địa điểm cách khoảng vài trăm mét. Họ được gom lại trong khách sạn
Hương Giang, nằm bên kia đường đối diện với vị trí Đại Đội 1/ 1, phía bắc là
sông Hương và hoàng thành. Ở đây TQLC gác cổng, nhưng chung quanh đó toàn là
người Việt. Khách sạn Hương Giang đông đặc người tỵ nạn: đàn bà, trẻ em và ngay
cả đàn ông còn trong tuổi lính. Trên xe, Edward M. Landry, một người trong toán
của Reliss rất ngạc nhiên. Ở Quân Đoàn I, anh ta đã quen hiểu rằng tất cả những
người còn trẻ hễ không ở trong quân đội VNCH thì là Việt Cộng.
TQLC chuẩn bị súng cối 4.2 inch. Thấy một người có vẻ lớn tuổi hơn, Landry hỏi:
“Này, ông ơi, chúng tôi đi với ai đây?”
Người ấy trả lời ông ta không phải
là xạ thủ, ông ta là thiếu tá đang làm việc với Đại Đội 1/1 và trung đội nầy sẽ
hợp tác với tiểu đoàn của ông ta và Đại Đội 2/ 5. Rồi viên thiếu tá giúp họ
chuyển vào một căn nhà trống bỏ hoang, cho họ tần số truyền tin thuộc hệ thống
LLĐN X-Ray. Trung đội lo chuẩn bị đạn dược, dựng công sự quanh súng cối bằng
thùng đạn đổ đầy cát vào đó, sẵn sàng nhiệm vụ chiến đấu sau khi đến Huế.
Còn có nhiều việc phải làm. Đối với Landry, 21 tuổi quê ở Lynn, Massachsetts,
vào TQLC vì bộ Quốc Phòng gởi giấy động viên tới nhà, ở Việt Nam 6 tháng. Huế
là nơi tồi tệ nhất trong thời gian của anh ở Việt Nam. Anh ta nghĩ Huế là nơi
tiêu biểu nhứt, nếu dùng cho đúng chữ. Ở Huế, nhóm của họ có 12 người: Anh ta
và trung sĩ Reliss, Dave Raby, George Schamberger, Billy Barr, Ed Shaw, Powell,
O’ Neil, Edenfield, Miller, Torres, và Fuerst- Họ tự gọi họ là “Mười Chàng Dơ
Dáy” bởi vì họ thiếu trang bị và kẹt giữa đống rác dơ dáy. Landry chẳng muốn
thế. Đôi khi anh ta trông thật mệt mỏi và lo sợ, chỉ muốn khóc. Là một xạ thủ
súng cối, anh ta chưa bao giờ cận kề với giặc như thế nầy. Chỗ nầy hôi hám vì
xác chết bắt đầu sình thúi trong các đống gạch ngói vụn, mưa dầm và bầu trời u
ám làm cho lòng anh thấy ảm đạm u sầu.
Hơi đạn cay xử dụng lưu lại trong không khí nhiều ngày làm cho việc hô hấp
không được thoải mái. Máy bay trực thăng tới bãi đáp để thả đạn dược xuống và
chuyển binh sĩ tử trận đi. Họ phải xử dụng thứ nước ở ngoài sông và bắn súng
liên miên. Theo lý thuyết, có 7 người phụ trách một cây súng: Anh ta, Reliss,
người truyền tin, tiền sát viên; họ chỉ có 4 người. Họ làm việc suốt ngày suốt
đêm đằng sau công sự do họ dựng nên, lắng nghe tiếng chạm súng chung quanh,
nghe tiếng gọi pháo trong máy truyền tin và bắn yểm trợ. Đạn cay, đạn nổ và đạn
chiếu sáng ban đêm. Nhiều lúc tiếng của tiền sát viên, tiếng bộ binh gọi trong
máy: “Lặp lại.” Gọi đi gọi lại nhiều lần, sau một loạt đạn bắn liên tục
vào vị trí địch. Lặp lại, có nghĩa là tác xạ lại trên một mục tiêu. Quân địch
đút đầu núp đạn. Landry nghe tiếng “lặp lại” không nhiều lắm. Ngủ rất
ít, mệt thường xuyên. Một lần anh ta chui vào ngủ trong góc công sự, nằm cuộn
lại dưới cái bàn trong phòng, mệt quá chẳng biết ra làm sao nữa cả. Khi mặt
trời lặn, chỉ có vài khoảnh khắc là trời tối, thế rồi máy bay tới thả trái
sáng, máy bay tới tác xạ, biến đêm thành ngày. Landry nghĩ ánh sáng hỏa châu
như điều thần bí, làm cho mọi vật trở thành hư ảo, trông giống như nhìn vào địa
ngục. Súng cối địch bắn liên tục, mấy tay bắn sẻ từ bên kia sông, phía Thành
Nội bắn sang. Khi họ tới gần bờ sông, một lính CSBV nổ súng, Schamberger lăn
mình tránh đạn, rồi nghe một tràng đạn sát trên đầu. Anh ta chụp cây M-16, quay
tròn, thấy khói súng tỏa ra, anh bắn một băng vào cửa sổ, tiếng súng ngưng.
Nhiều ngày sau, Landry mới rõ chuyện: Cổ áo dưới cằm anh ta thủng mấy lỗ vì đạn
địch rồi bay trúng cánh tay O’ Neil đang đứng bên cạnh anh ta.
Cũng có những giây phút vui vẻ, như khi họ gặp mấy đứa bé mồ côi. Có một lần
Schamberger đi vào MAC.V, một em bé gái tên là Lê (Li) báo động cho anh ta đừng
đi vào con đường em bé đưa tay chỉ vì con đường đó, như em bé nói: “Beaucoup
Vixi.” Lời báo động của em bé đã cứu mạng anh ta. Nhiều năm sau anh ta còn
giữ ấn tượng sâu sắc đó nên khi sinh con gái, anh cũng đặt tên con anh là
Sherri Li.
Mặc dù đêm đầu tiên của họ ở Huế thật tệ, họ vào ngủ trong khu vực MAC.V.
Landry có nhiệm vụ phải đi gác. Anh ta đi tuần trên con đường một bên là các ụ
súng và một bên là sông Hương, bỗng nghe có tiếng đạn xé trên không. Anh ta
phóng xuống đất, bò như cua để tránh đạn và nhìn lên trời. CSBV pháo kích. Đạn
lửa bay trong không gian vạch từng lằn vàng trong đêm đen. Cuối cùng, hết pháo
kích, máy bay thả trái sáng, chiếu sáng toàn bộ khu vực.
Đêm nào trái sáng cũng thả suốt đêm, Landry có thể đánh cá với bạn hễ cứ 3
người TQLC thì có một anh mang dù trái sáng quanh cổ, cột quanh đầu hay đồ
dùng.
Ban đêm, TQLC củng cố vị trí phòng thủ, gài mìn claymore phía trước và đặt vị
trí canh gác cẩn mật. Đêm đêm, CSBV mò tới bắn lén hoặc quăng lựu đạn vào phòng
tuyến TQLC, nhiều khi họ bị pháo sáng phát hiện và bị bắn chết tại chỗ như đã
xảy ra ở Đại đội 1/ 1. Có đêm, TQLC nghe có tiếng động của kiếng và gạch ngói
bể dưới chân người đi hay bò trong một căn nhà phía trước. Họ dùng M-16 và hỏa
tiễn bắn xuyên qua cửa sổ. Một đêm, hạ sĩ Soukup và số lính còn lại trong tiểu
đội của anh ta phải bỏ lại một cây súng đại bác 106 ly đằng sau một căn nhà và
chui qua một lỗ vách để phòng thủ chung với binh sĩ Đại đội 2/ 5. Phía trước
nhà, ngoài sân là một bức tường; phía sau đó, quân CSBV đang giữ một khu nhà.
Nếu có anh CSBV nào trong bọn họ lẻn qua được vách tường đó vào khoảng nửa đêm
thì có thể đó là điều chẳng lành cho mọi người.
Soukup và một TQLC khác đặt một vị trí nghe ngóng bên bức tường.
Họ gọi thầm báo cho nhau, gom vũ khí rồi bắt đầu bò thật thấp qua một cái sân
cỏ. Họ ép sát vào tường, rồi ló đầu lên trên bờ tường quan sát. Cảnh thật đẹp.
Trăng sáng. Họ có thể thấy một ngã tư trước mặt. Nhà cửa trông màu xám, cửa sổ
thì đen. Mọi vật đều yên tĩnh. Đúng là yên tĩnh. Họ ngồi như thế khoảng 2 giờ
đồng hồ, tay đặt trên súng, quan sát, chờ đợi. Chẳng có gì xảy ra cả. Bỗng tự
nhiên họ thấy lo. Nếu có ai trong bọn họ thấy lâu không có động tĩnh gì cả sẽ bò
ra đây và chuyện rủi ro có thể xẩy ra. Họ quyết định ngồi nín thinh cho tới
sáng, ba hồi ngủ ba hồi thức canh.
Soukup đang ngủ gật gù bên bờ tường
thì bất thình lình đồng đội đánh thức dậy. Anh nầy cúi xuống thầm thì nghe có
tiếng gì đó bên kia đường, anh ta chắc có gì đó. Soukup hé nhìn qua tường.
Bốn lính CSBV nhảy ra đường.
Đồng đội của Soukup bắn một quả lựu đạn, mảnh bay tung tóe trên mặt đường.
Soukup bắn thêm một băng M-16 rồi cả hai phóng mình nằm sát xuống đất. Đạn từ
bên kia đường bắn sang bay ngang trên đầu họ, đụng vào vách tường kêu lụp bụp.
Soukup vừa bò vừa chạy về hướng nầy còn đồng đội của anh về hướng kia rồi cả
hai vòng lui cửa sau ngôi nhà. Họ hô mật khẩu và nhảy vào trong.
Họ kiểm tra tình hình, mọi người đều đủ mặt, ai cũng bình an.
Tới khi mặt trời lên, họ tiến qua phía bên kia đường. Căn nhà trống không. Địch
đã rút lui trong đêm. Họ thấy có bốn CSBV chết chụm vào nhau trên đường, súng
đạn và xắc mang lưng còn y.
Trung tá Gravel đặt ban chỉ huy gần QL. 1, tại địa điểm mới chiếm lại được. Chỗ
nầy gần trường học, ngôi trường CSBV đã chiếm trong trận đánh với TQLC vào hôm
đầu tiên. Gravel nhận được lời cám ơn đã đánh đuổi được Cộng Sản ra khỏi khu
vực nầy. Một linh mục Công Giáo tại một trường dòng nói với Gravel nhiều trẻ em
của viện mồ côi núp đầy trong các lớp học. Hôm 10 tháng Hai, mấy TQLC của Đại
đội 2/ 5 đã hộ tống vị Tổng Giám Mục được giải thoát về lại Trường Dòng ở gần
ban chỉ huy của Đại Đội 1/ 1. Gravel đến thăm đức Tổng Giám Mục. Đức Tổng Giám
Mục, tóc đã ngã bạc, mang một cái thánh giá lớn bằng bạc trước ngực, mời Gravel
tham dự buổi lễ tạ ơn cùng với đông đảo con chiên trong giáo xứ, cầu nguyện cho
việc tái chiếm thành phố Huế được thành công tốt đẹp. Bằng một thứ tiếng Pháp
không được trôi chảy, Gravel trả lời đồng ý với Giám Mục và ra lệnh cho TQLC ai
muốn thì có thể tham dự lễ với Gravel vào lúc 9giờ30 ngày hôm sau. Một cách
trùng hợp, buổi lễ diễn ra vào ngày Chủ nhật, 11 tháng Hai. Gravel cùng vài
TQLC đến thăm một nhà nguyện của Trường Dòng với các linh mục. Ông ta bị xúc
động bởi một điều: Có 4 lỗ đạn đại bác 90ly bắn thủng vách tường mặt tiền,
nhưng các khung gỗ thì còn nguyên.
Đêm hôm trước lễ tạ ơn, Cộng Sản lại tấn công.
Vào khoảng nửa đêm, Gravel trở lại ban chỉ huy khi Cộng Sản bắt đầu pháo kích
bằng hỏa tiễn 120 ly. Không có công sự để ẩn núp nên ai cũng ngồi xuống, giữ
lấy nón sắt và nghiến răng chịu đựng. Trận pháo kích kéo dài 5 phút, vài tiếng
nổ nhanh. Bụi cát bay tung lên và TQLC thò đầu ra canh chừng địch. Thiệt hại
nặng nhứt là một chiếc GMC trúng đạn. Chẳng bao lâu người ta mới thấy đau lòng
tại sao TQLC chẳng hề hấn gì. Hầu hết hỏa tiễn đều bắn không tới mục tiêu, nổ
bên Trường Dòng của Giám Mục. Trẻ con được tập trung vào đây làm nơi ẩn trú nên
khoảng 20 em bị chết, 40 bị thương nặng. Một linh mục chạy qua ban chỉ huy của
Gravel cầu cứu. Gravel gọi máy cho đại tá Hughes, được mấy phút, y tá và xe GMC
đến cứu giúp. Các em bị thương nặng đều được chở xuống bệnh viện Quân Đội Hoa
Kỳ ở Phú Bài.
Binh lính TQLC xúc động thấy rõ, còn Gravel giận muốn sôi lên. Cộng Sản chẳng
tôn trọng luật lệ gì cả, chẳng quan tâm người bị họ giết là ai.
Ngày 11 tháng Hai, Đại đội Fox 2/ 5 chiếm xong một khu gia cư ngó xuống cây cầu
bắc ngang sông An-Cựu, phía nam ngã ba sông đào nối với sông Hương, (Khu cư xá
đại học, gần cầu Ga – ngd). Như thế, đại đội nầy đã quét dọc theo con đường đi
về phía tây, từ MAC.V đến bờ phía đông sông An-Cựu. TQLC dừng chân ở khu cứ xá
nầy, khám xét tất cả tác tòa nhà, lục lọi từng hộc tủ, và vì vậy, đã xoáy một
số vật kỷ niệm. Trung sĩ Carter tìm thấy một hộc tủ đầy thư từ, hình ảnh của
một người đàn ông da trắng và vợ ông ta. Một trong số hình đó, có hình người
đàn ông mặc đồng phục sĩ quan Quân Đội Đức Quốc Xã hồi Thế Giới Chiến tranh Thứ
hai. Trung đội ba thì tìm thấy một vài hộp thịt heo muối cũ khẩu phần ăn của
Quân Đội Mỹ, nên quyết định làm ngay một món ăn với thứ thịt đó.
Trung đội 2 bên kia đường thì “giải phóng mấy con gà”, và trung đội 3 mua lại
bốn cái trứng với 4 đôla. Carter gần như muốn bệnh khi đập trứng vỡ ra. Lòng đỏ
thì bầy nhầy màu xanh rêu. Anh ta chẳng đụng tới, nhưng có mấy tay cực kỳ ngoan
cố thì đem nấu và ăn hết. Đại úy Downs đem tới mấy ống nước và bọn họ dựng ngay
một chỗ tắm ngoài nhà xe. Trời thì lạnh mà nước gần như đóng băng, nhưng chẳng
ai thèm quan tâm. Lính TQLC thấy khoái khi tuột áo quần dơ và chà cho sạch các
vệt máu khô, mồ hôi và đất bùn.
Khi mọi sự đang diễn ra ngon lành như thế, trung đội 3 nhận thêm lính đến bổ
sung, một nhóm lính tóc húi-cua, áo quần còn sạch sẽ mới tới Việt Nam. Thiếu úy
Hausrath đưa mấy anh lính mới nầy vào trong nhà nói chuyện với họ. Trước hết,
anh ta và trung sĩ trung đội gọi điện yêu cầu bắn súng cối vào mấy tòa nhà bên
kia sông mà họ nghi là có CSBV núp bên đó, bắn sẻ qua bên nầy. Mấy trái súng
cối rớt ở phía xa bờ bên kia, vào các mục tiêu chết. Hausrath hứng chí tới gần
bên cửa sổ để quan sát.
Thình lình, bên kia bờ một tràng đạn AK nổ dòn.
Người Hausrath giật ngược lên, té xuống nền nhà, đạn trúng ngực anh ta. Các chú
lính mới nằm xuống, lăn bò càng, mắt mở to kinh ngạc. Hausrath thở được ít
phút, mắt trợn ngược và chết.
Hạ sĩ Allbritton bước tới mấy bước báo tin hạ sĩ Burnham. Burnham thì thào: “Trời
ơi, tôi mới đi theo anh ta.”
Carter cảm thấy buồn vì cái chết của thiếu úy Hausrath. Anh ta thường không
thích sĩ quan lắm vì những qui định nầy nọ và lạm dụng quyền hành. Hausrath là
một sĩ quan mới ra trường nhưng tuồng như lúc nào anh ta cũng đúng. Anh ta
thường chăm sóc lính tráng của mình, chia nhau từng cái bánh và tạp chí
Playboys mà người yêu của anh ta gởi cho, chẳng bao giờ nói mãi cái câu: “Thi
hành đi, tôi là cấp chỉ huy”, câu thường nghe trong trung đội. Anh ta được
mọi người kính trọng và yêu mến. Có một lần trước khi trở lại Huế, khi viên
thiếu úy nầy mới tới và đang chờ hành quân, Carter đang gắn một trái mìn chiếu
sáng vào trái mìn claymore, anh ta vô tình làm cho trái mìn claymore nổ, bay
mất mấy ống phát hỏa, Hausrath từ ban chỉ huy chạy bổ xuống, một tay cần mũ
sắt, một tay cầm M-16. Khi thấy mọi sự, anh ta mắng Carter. Nhưng kể từ khi
thấy Carter đứng đó trông như con cừu. Tự nghĩ lại mình, và làm y như kiểu của
John Wayne, anh ta cười to lên.
Khi đại úy Downs nghe tin, anh ta vội chạy tới vị trí Trung đội 3. Cái chết của
viên thiếu úy làm cho anh ta choáng váng. Chỉ mới 4 ngày trước, người hiệu
thính viên rất được anh ta yêu mến bị Cộng Sản giết chết. Anh nầy trẻ, đẹp
trai, biệt danh là Red. Họ đang lục soát từng nhà dọc theo sông Hương thì súng
nổ, đạn bay chéo trên đầu ban chỉ huy đại đội. Downs không hề hấn gì nhưng Red
thì ngã xuống ngay bên cạnh. Bây giờ thì bọn bắn lén giết Hausrath. Tình thế
khó khăn. Viên đại úy gọi những người thuộc Trung Đội 3 có mặt từ ngày đầu lại.
Họ tập trung sau tòa nhà gạch. Hạ sĩ Allbritton kinh ngạc nhìn quanh. Toàn bộ
chỉ còn có 12 người. Ngoài tiểu đội của anh, chỉ còn có anh ta, hiệu thính viên
và một anh chàng trẻ biệt danh là Moses. Downs bắt đầu nói chuyện với họ. Anh
ta nói: “Các bạn chiến đấu thật kỳ diệu. Điều tôi muốn là chúng ta có một
đại đội trưởng giỏi hơn.” Rồi anh bị bị xúc động. Mọi người thấy anh chảy
nước mắt. Allbritton nghĩ: “Anh ta giỏi đấy. Đại úy là một người tài giỏi.”
Thiếu tá O.K. Steele, TQLC, sau khi vào Huế đã gặp khó khăn. Ông ta to cao, đẹp
trai, 35 tuổi, có gia đình ở tại Oakland, California, hết sức trầm lặng và
thông minh. Trước Tết, ông ta được giao một công việc không mấy thích thú là sĩ
quan tại ban chỉ huy đại đội, tiểu đoàn, hậu cứ sư đoàn 1 TQLC tại Đà-Nẵng. Ông
ta nói chuyện với đại tá Bohn và cố giành một công việc ở trung đoàn như là sĩ
quan quản trị của Đại đội 2/ 5. Ông ta được phân công với một người bạn cũ,
thiếu tá Salvati, ông nầy còn vài tháng nữa thì đến phiên về Mỹ.
Lệnh bàn giao có hiệu lực từ 1 tháng Hai nhưng ông ta bị kẹt ở Đà-Nẵng vì đặc
công và pháo binh tấn công ngoại vi trong khi Salvati thì đang đánh nhau với
địch ở Huế.
Cuối cùng, sau mấy ngày Steele đi nhờ được chuyến bay của chiếc trực thăng
khổng lồ CH-53. Phi công thay vì bay trên đất liền phải vòng ra ngoài biển Đông
và khi vào đất liền, ông ta phải ghì chặt vào máy bay vì máy bay phải bay đảo
để tránh phòng không. Tại Phú Bài, Steele báo cáo cho bộ chỉ huy Trung Đoàn 5
TQLC của đại tá Bohn rồi đi thăm ông nầy sau khi đi quan sát sân bay. Ông ta
không thể đi Huế được vì thời tiết xấu và máy bay đi Huế thì chất đầy đạn dược.
Vài ngày sau, ông ta được lệnh báo cáo cho sĩ quan quản trị của Sư đoàn 1/
TQLC. Ông nhận lệnh làm chỉ huy trưởng đoàn xe đi Huế, chở thiết bị đi sửa cầu
An-Cựu. Theo tin báo cáo, cầu bị thủng nhiều lỗ trên mặt cầu. Steele có một
toán lính sửa cầu không chuyên nghiệp: Một thiếu úy và một tiểu đội súng trường
của Đại đội 2/5, toán bắn sẻ, toán yễm trợ pháo binh, công binh biệt phái với
xe GMC chở đầy gỗ, xe cần cẩu, thiết bị thay thế và thương binh mới xuất viện.
v.v…
Thiếu tá Steele có khoảng 120 người, chẳng có ai là người ông quen biết trước
kia.
Buổi sáng ngày 10 tháng Hai, họ lên đường, chạy hết tốc lực trên QL 1 bởi vì ai
cũng ngại bị phục kích, nhưng người ta chỉ thấy TQLC của các đơn vị hỗn hợp
Việt-Mỹ đứng gác cầu. Bộ Chỉ huy LLĐN/ X-Ray báo cho Steele biết Đại đội 1/ 1
chưa củng cố an ninh tại khu vực An Cựu/ Phú Cam, nên ông ta phải dừng lại tại
tháp phát thanh cách Huế khoảng 1 Km. Họ dừng lại lập phòng tuyến kháng cự bằng
các xe GMC và các xe tăng hạng nhẹ hộ tống. Steele đưa mắt nhìn 3 cái tháp cao
tự hỏi tại sao địch không đánh sập những tháp nầy.
Họ chờ ở đây hết ngày. Vài người tỵ nạn chạy ngang bằng xe đạp. Vài lính Cộng
Hòa mang súng bên vai đi ngang đưa mắt dò hỏi, nói lúng búng và nhe răng cười
như họ vừa đi chơi ở công viên về. Mọi người đều đi ngược hướng về Huế.
Tới khi trời tối, LLĐN X-Ray gọi Steele ra lệnh cho đoàn xe quay lại Phú Bài.
Sáng hôm sau, họ lại lên xe. Có lệnh cho biết một đoàn xe từ Phú Lộc sẽ đến với
lực lượng tăng cường Tiểu đoàn 1, Trung đoàn 5/ TQLC. Họ chờ hết cả buổi sáng
nhưng chẳng thấy đoàn xe từ Phú Lộc tới. Bộ chỉ huy LLĐN X-Ray lại ra lệnh cho
đoàn xe của Steele lên đường. Xe chạy nhanh qua ba cái tháp phát thanh hôm qua,
và Steele đứng trên lưng chiếc xe tải chở ban chỉ huy, nhìn cái xe cần cẩu lắc
lư ở phía sau. Tới ngoại ô thành phố Huế, xe dừng lại và Steele cho đoàn xe tải
quay lại Phú Bài với một nhúm bộ binh giữ an ninh. Xong Steele ra lệnh cho các
trung đội hỗn hợp của ông ta thám sát phía trước và củng cố an ninh cây cầu An
Cựu. Không có súng nổ. Trong vòng mấy phút, viên thiếu úy trung đội đi đầu gọi
điện báo cáo cho Steele và họ cùng xe tăng và xe cần cẩu tiến lên cầu.
Cầu An Cựu dài khoảng 100 bộ, đúc bằng xi-măng. Phần trung tâm đã bị hỏng sụp
xuống. Hai đầu cầu còn dính vào bờ. Nước chảy ở giữa. Mấy cây sắt móng cầu lồi
ra, xoắn cong lại trông như cọng bún khô.
Steele và viên đại úy kỹ sư đứng trên bờ quan sát sự thiệt hại.
Steele nói: “Được! Tiến hành đi, nối nó lại.”
Viên đại úy nói không thể làm được. Việc nầy vượt ngoài khả năng của anh ta.
Người ta báo cho anh biết chỉ có mấy lỗ thủng giữa cầu. Anh ta chỉ đem theo vật
liệu để vá cầu mà thôi. Steele nghĩ trong lòng muốn đá anh kỹ sư nầy một đá cho
rớt xuống sông. Tất cả mọi việc rồi chẳng ích lợi gì hết. Sau nầy, anh ta mới
biết cây cầu sập đã một tuần. Vậy mà 7 ngày qua, LLĐN X-Ray vẫn nghĩ rằng cây
cầu chỉ bị mấy lỗ thủng ở giữa. Tin tình báo quả thật là tệ.
Ông ta gọi điện cho Phú Bài, báo cho biết cây cầu không sửa được nữa và khuyến
cáo nên trì hoãn bất cứ một sự tăng phái nào của 1/ 5 cho đến khi cầu sửa xong.
Xong ông ta gọi điện cho trung tá Cheatham, báo cho biết đã tới địa điểm và báo
cáo cho tiểu đoàn mới của ông. Viên đại úy kỹ sư nói có thể dựng nhanh một cái
cầu cho người đi bộ. Steele ra lệnh tiến hành và bố trí binh lính ở những căn
nhà hai bên bờ sông. Bờ bên kia trông có vẻ an toàn, nhà cửa không bị hư hại,
ngoại trừ mấy lỗ trên vách tường bị bắn thủng. Ông ta có thể thấy TQLC trong
những căn nhà ấy. Người Việt Nam đội nón lá đi bên bờ sông. Steele và viên
thiếu úy thuộc Đại Đội 1/ 1, anh nầy mang cây Shotgun và nóng lòng muốn về với
đơn vị, tìm thấy một cái xuồng gần cầu. Họ lội xuống quăng áo quần và súng vào
chiếc xuồng rồi chèo qua sông trong nước lạnh giá. Họ cố cúi đầu xuống, đề phòng
bị bắn sẻ.
Qua bên kia bờ, họ mặc áo quần vào và đi tìm TQLC trong các ngôi nhà gần đó. Họ
là người của Đại đội 2/ 5 nên Steele đi tìm đại úy Meadows. Viên đại nầy, ốm và
mang kính trắng làm Steele nhớ lại hình ảnh các ông thầy giáo. Meadows như bó
rọ trong cái áo giáp của anh ta, M-16 vác trên vai, mặt mày hốc hác, râu mọc
dài, mắt đầy vẻ mệt mỏi. TQLC có mấy anh trinh sát, và mấy chiếc xe bị trưng
dụng ở đây. Meadows đề nghị Steele tới ban chỉ huy tiểu đoàn. Anh ta leo lên
một chiếc xe của trinh sát, xe nầy lỗ chỗ vết đạn. Anh ta đeo chặt vào xe trong
khi tài xế TQLC rú ga chạy hết tốc lực vượt qua một ngã tư.
Họ đến ban chỉ huy theo cung cách giống nhau như vậy. Steele quen biết nhiều
người ở đây. Cheatham từng là một cán bộ đại đội khi ông ta mới nhập ngũ ở trại
huấn luyện. Salvati đã nhập trường sĩ quan với ông ta. Ông ta cũng đã phục vụ
dưới quyền chỉ huy của Christmas và Downs trước khi tới Việt Nam. Steele chính
thức nhận chức vụ sĩ quan quản trị do Salvati bàn giao lại. Cheatham khuyên ông
ta nên trở lại và giữ lực lượng phòng thủ qua đêm.
Ông đại tá nói rằng Đại đội Hotel của Christmas sẽ giữ an ninh một cây cầu còn
nguyên gần khu gia cư. Sáng mai họ có thể qua cầu được. Mặc dù không biết
chuyện ấy và mặc dù có lời khuyến cáo của thiếu tá Steele về cây cầu, lực lượng
tăng cường từ 1/ 5 đã sẵn sàng nhiệm vụ của họ.
Các TQLC của Tiểu đoàn 1, Trung đoàn 5, Sư đoàn 1 được lệnh leo lên 8 chiếc xe
GMC chạy chậm chậm qua con đường bùn và lá rụng phủ đầy dưới bầu trời âm u và
thấp. Các TQLC ngồi trên sàn xe, súng đạn để đống quanh họ. Trời gió bấc lạnh
khó chịu. Có một anh nhà báo chen chúc với họ. Đó là Michael Herr, người lùn,
mang kiếng cận thị dày cộm, phái viên của tạp chí Esquire. Anh ta may mắn ở trên
chiếc xe giữa đoàn xe. Đầu đuôi đoàn xe thường là mục tiêu dễ bị phục kích. Tuy
nhiên, TQLC và anh bạn phóng viên của họ an tâm cho rằng sẽ không nổ súng. Trên
đường, họ thấy hàng trăm dân tỵ nạn rời Huế chạy về phía nam. Trẻ em thì trông
có vẽ thích thú và thân thiện, trong khi người già thì nhìn chằm chằm vào họ
với vẽ mặt vô tình như thường thấy.
Binh lính đang nói chuyện, huýt sáo và hút thuốc. Herr ghi nhận: Trông có vẽ
như ở khu thay quần áo trước trận đấu bóng mà chẳng ai hứng thú gì cả.
Phía trước, họ có thể thấy khói đen ở Huế đang bốc cao lên.
Khi tới cầu An Cựu, TQLC, Herr và các phóng viên báo chí khác xuống xe. Họ gặp
trung sĩ Dye, phóng viên chiến trường của Sư đoàn 1/ TQLC. Herr lưu ý Dye, anh
ta không phải là một TQLC bình thường. Dye, 23 tuổi, quê ở Girardeau, Missouri,
cao, gầy và đẹp trai, khôn ngoan và nhạy bén. Trên lưng áo giáp, anh ta vẽ hình
Alfred E. Newman với khẩu hiệu: “Có điều chi? Tôi lo lắng!” Và dán lên
vải bọc nón sắt một bông hoa màu vàng bằng plastic mà anh ta nhặt được trong
trận đánh ở khu nam Huế. Anh ta và người cộng sự, trung sĩ Berntson chui vào
một ngôi chùa Phật. Phía trước bàn thờ là một bình cao cổ cắm hoa màu vàng. Sau
bình hoa là tượng Phật. Berntson ngồi nghỉ trong chùa, rồi đi vòng quanh xem
cách trang trí. Bất thần anh ta thấy có bóng người chuyển động phía sau tượng
Phật nên nổ súng. Tượng Phật và bình hoa bể tan, một anh lính CSBV té nhào ra
phía trước. Berntson lấy một cái hoa trong bó vừa rơi ra khỏi bình, gắn lên tấm
vải che nón sắt của Dye và nói rằng hoa đó tượng trưng cho việc cứu mạng Dye.
Cái hoa trở thành một mục tiêu rõ ràng cho những tay bắn lén nhưng Dye đã quen
và cứ để như vậy. Thiệt là một hành động điên khùng.
Việc ấy xảy ra đã hai tuần. Bây giờ anh ta đứng đây, nói chuyện với Herr và các
người khác, đảo mắt và nhe răng ra cười dưới bộ râu quặp.
Thiếu tá Steele trở lại, lội qua sông để về với ban chỉ huy của ông ta, thấy
TQLC của đơn vị 1/ 5 chuẩn bị sẵn sàng đâu đó để lên xe, ông ta ra lệnh phòng
thủ chu vi. Khi các phóng viên báo chí muốn qua sông An Cựu để vào thành phố,
ông ta nói với họ phải chờ tới ngày hôm sau và biểu họ vào trong một căn nhà bỏ
hoang. Ông ta sợ cho họ vì ông ta bị buộc ở lại đây ban đêm.
Ông ta leo lên tầng ba của một căn lầu, để từ đó có thể quan sát toàn bộ khu
vực. Vừa lên tới mái thì Steele thấy hai chiếc trực thăng có trí súng đại liên
của Sư Đoàn 1 Không Kỵ bay tới, bay sát mặt sông. Ông ta nhìn mà không tin
được: Đại liên trên máy bay nổ bùm bùm, võ đạn rơi loảng xoảng trên mặt đường.
Dye, Herr và một vài TQLC bước nhanh trên đường, dọc theo bờ sông, vừa đi vừa
mở hộp phần ăn tối để ăn, bỗng nhiên có tia đạn lửa bay tới phía họ. Anh ta
cùng mấy người trong nhóm lăn người xuống tránh đạn. Thức ăn và nón sắt văng
ra. Chỉ trong mấy giây, chiếc trực thăng bay mất. Họ đứng dậy, ngạc nhiên hơn
là sợ. Cũng may, chẳng ai bị thương.
Họ trải qua đêm trong những căn nhà trống bên bờ sông, ngủ trên những tấm áo
mưa trãi trên gạch và kiếng bể. Dọc theo bờ sông, bên phía trái, hướng tây bắc,
hỏa châu và súng bắn suốt đêm.
Chiếc cầu Ga Huế nằm ngang sông An Cựu vẫn còn nguyên. Cầu nầy ở gần chỗ sông
đào nối với sông Hương, phía tây bắc chỗ đóng quân của Steele. TQLC giữ phía bờ
đông, quân CSBV giữ bờ tây. Phải cũng cố an ninh phía bên kia mới có thể tăng
cường đơn vị qua sông được. Do được súng cối yểm trợ, Trung đội 1 của thiếu úy
Myers thuộc Đại đội Hotel được giao nhiệm vụ qua cầu và đóng chốt phía bên kia.
Lệnh là phải giữ vị trí suốt đêm. Họ đã hoàn thành.
Đó là trận đánh gay go – hai tiểu đội trưởng nổi tiếng bị giết. Thiếu úy Myers
cũng hăng hái tham gia trận đánh, ném lựu đạn – tuy nhiên, sáng ngày 12 tháng
Hai, TQLC của Đại Đội Hotel vẫn chưa di chuyển. Trên sông đào, cùng với nhóm
của thiếu tá Steele, trung đội trinh sát và TQLC của Đại Đội 1/ 1 được biệt
phái qua cầu làm điểm tựa cho công binh, bắt tay được với đơn vị tiểu đoàn của
họ. Steele cùng nhóm còn lại của lực lượng ông ta và lực lượng tăng cường của
Đại Đội 1/ 5 bắt đầu quét địch dọc theo bờ sông. Họ ngạc nhiên vì chẳng thấy
tay bắn sẻ nào cả. Qua hai giờ đồng hồ quét dịch dọc theo con sông, họ gặp Đại
Đội Hotel vẫn còn đóng ở cầu. TQLC giữ vị trí quan trọng đó, rồi cẩn thận tiến
qua bên kia cầu. Họ ra dấu cho đồng đội mới tới di chuyển. Nhóm đầu tiên phóng
nhanh qua cầu, đạn bắn sẻ bắt đầu nổ lách cách.
Thiếu tá Steele khom mình xuống chạy với nhóm còn lại.
Tiếng súng bắn sẻ rít lên. TQLC của Đại Đội Hotel chạy ngược lại. Họ củng cố vị
trí tại khu cư xá và nhà máy điện gần đầu cầu. Chủ nhà máy điện người Pháp cùng
gia đình may mắn không ai hề hấn gì nay được Mỹ che chở.
Ngày thứ Hai, 12 tháng Hai, một ngày sau khi thiếu úy Hausrath bị giết, Đại Đội
Fox vượt qua sông để càn quét những tên bắn sẻ. Carter, xạ thủ đại bác 3.5 inch
được chỉ định đi với Trung Đội 2, đơn vị mũi nhọn, dùng thuyền máy bị trưng
dụng để đổ bộ qua sông, xong quay ngược lại, quét sạch khu nhà giữa nơi họ đổ
bộ và cây cầu. Họ tấn công từng nhà một rồi tới căn nhà kế, tìm thấy mấy xác
Cộng Sản. Trung đội tiến được vào sân ga xe lửa.
Một trung sĩ nói với Carter bắn một phát vào một toa xe đang nằm trên đường
sắt. Anh ta bắn hai phát, xong họ tiến vào lục soát thấy một toa xe có hai xác
CSBV trong đó, một xác bị mất đầu. Carter tịch thu một cái khăn quàng cổ màu
xanh đỏ trên xác một người chết. Họ tiếp tục tiến quân.
Trung đội 3, – bây giờ do James H. McCoy, một trung sĩ chỉ huy, – vượt qua cầu,
và bắt đầu quét dọc theo con dường bờ sông, dùng lựu đạn khói để che khi tiến
công. Hạ sĩ Allbritton tới gần một ngôi nhà, khi nhìn lui thì thấy thiếu tá
Salvati và một trung sĩ của tiểu đoàn đang tản bộ trên đường – ngay giữa đường
– giống như người ta đi bộ tập thể dục buổi sáng vậy. Viên trung sĩ nầy là một
cựu chiến binh từng tham gia trận đánh trên đường phố ở Hán Thành, Nam Triều
Tiên. Allbritton cảm thấy phục họ, nhưng anh cũng cảm thấy mệt tới tận xương vì
thấy quá nhiều TQLC đã hy sinh.
Anh ta la lên với họ: “Đừng có làm bia cho tụi nó nữa. Tôi không muốn lính
của tôi lôi xác mấy ông ra khỏi đây.” Nói xong, Allbritton nhảy tìm chỗ núp
mất dạng nên hai người kia không thấy anh ta. Họ bèn tìm chỗ núp.
Súng nổ lác đác. Một tay bắn lén bắn một tràng vào Trung Đội 2. Carter tiến lên
phía trước. Anh ta nạp đạn vào súng, viên đạn trợt qua ống phóng và rơi ngay
tại chân anh ta. Trong suốt trận đánh, anh ta xử dụng đại bác 3.5 inch. Súng
bắt đầu bị trục trặc.
Cách mấy khu nhà xa xa phía trước, có ngôi nhà họ nghi là địch từ đó đã bắn
chết viên thiếu úy. Không có gì ngần ngại, họ làm ngay, gọi điện cho toán súng
cối và toán đại bác không giật tác xạ: Ngôi nhà bị san bằng.
Đêm tới, các trung đội rút về bên nầy sông.
Carter ngủ qua đêm với Trung Đội 3. Anh ta quàng mấy tấm màn để che cơn gió bấc
lạnh, nhìn mấy con chuột chạy quanh nhà lục lạo. Cây súng của anh để sát bên
chân, đạn sẵn trong nòng, chờ động dụng.
&
Trước khi chia tay với tiểu đoàn, thiếu tá Salvati đi ra ngoài cùng thiếu tá
Steele để tìm nơi đặt bộ chỉ huy cho ông đại tá và Tiểu Đoàn 2. Hai người bạn
cũ đi bộ dọc theo đường Lê Lợi bên bờ sông Hương. Steele ngạc nhiên vì cảnh
tượng thành phố bị tàn phá. Khi ông ta tới Phú Cam, các ngôi nhà cũng chưa hề
hấn gì lắm, ngoại trừ những lỗ đạn lớn nhỏ rải rác đây đó. Tuy nhiên, địch
kháng cự rất căng trên con đường Lê Lợi nầy. Đây là nơi suốt hai tuần lễ, tiểu
đoàn phải chiến đấu gay go và đổ máu nhiều. Điều nầy làm Steele nhớ lại cuốn
phim thời sự Thế Chiến thứ II về trận đánh Monte Cassino, những bức tường vở
trơ trụi giữa đống gạch ngói.
Họ vào Câu Lạc Bộ Thể Thao, một câu lạc bộ cũ của Pháp, nhìn xuống sông Hương,
có những thảm cỏ trãi dài tới bờ sông, những khoảnh đất rộng, sân quần vợt. Bề
ngoài, trông còn tốt, nhưng khi đi từ cửa nầy qua cửa kia, họ thấy vết đạn
loang lỗ trên tường mỗi phòng, vết đạn kéo từ phòng nầy qua phòng kia, bông
băng dính máu vứt đầy chứng tỏ địch đã dùng chỗ nầy làm bệnh viện. Việt Cộng và
quân CSBV không có trực thăng để di tản người bị thương nặng, không có bệnh
viện thật sự, chỉ có một số y sĩ huấn luyện cấp tốc. Nơi nầy chứng kiến nhiều
nỗi đau khổ.
Cuối cùng họ đi vào đây và đặt ban chỉ huy ở khu nhà Đại Đội Fox đã củng cố an
ninh, tầng trệt thì dùng làm trạm cứu thương, tầng hai thì dành cho Cheatham và
ban chỉ huy của ông ta. Tầng thứ ba thì để trống, phòng khi địch pháo trúng mái
nhà như thường ngày địch đã pháo. Ban chỉ huy Đại Đội 2/ 5 cũng đóng ở đây.
Trung sĩ Dye đứng bên một cái hầm tìm thấy trong khu vực do Đại Đội 2/ 5 chiếm
lại. Các TQLC khác đứng bên cạnh lầu bầu: “Chúa ơi!”
Một mùi hôi thối khó chịu từ hầm bay lên, một mùi thúi đến lộn ruột bao trùm
hết không khí chung quanh, lên tới bầu trời thấp đầy mây và mưa phùn. Dưới đó,
bên dưới giày dép là hàng trăm xác người. Họ là người dân miền Nam Việt Nam,
chết chồng lên nhau, nằm ngang nằm dọc, tưởng như níu lấy nhau khi người ta xã
súng máy vào họ. Dye có nghe người ta đồn Cộng Sản tàn sát hàng loạt người dân
Huế, nhưng anh ta không bao giờ nghĩ có thể có một cảnh tượng như thế nầy. Thân
nhân và bạn bè của người chết đang tìm cách để tìm người thân trong đám xác
chết hỗn độn bắt đầu thối rữa ấy. Họ lấy khăn tay để bịt mũi miệng lật từng xác
chết tìm người thân.
Không bao giờ Dye có thể quên được hình ảnh ấy. Một năm sau, anh ta cũng nghĩ
đến hình ảnh ấy khi vụ Mỹ Lai được đăng trên báo. Dye không thể tin được, khi
báo chí làm ồn ào vụ Mỹ Lai nhưng lại chẳng bao giờ nói đến việc tàn sát của
quân CSBV ở Huế. Cuối cùng, việc ấy cũng sẽ phai mờ theo thời gian cũng như
những mối xúc cảm về một cuộc chiến tranh vậy.
Thứ Ba, 11 tháng Hai, trung tá Cheatham ra lệnh quét sạch các tay bắn lén,
ngoan cố và những tên lính bị lạc đường phía bờ tây sông An Cựu, gởi Đại Đội
Fox và Đại Đội Hotel qua sông. Christmas cùng đơn vị tiến xuống phía nam, qua
ga xe lửa, trong khi Downs tiến lên phía bắc đẩy quân CSBV vào giữa hai gọng
kềm.
Carter và trợ viên mới của anh, hạ sĩ Chek, người Mỹ gốc Trung Hoa quê ở Nữu
Ước, đi trước trung đội. Họ dùng súng 3.5 inch bắn bay cửa của một ngôi nhà rồi
một vài TQLC tiến vào trong. Nhà trống không. Carter bước vào trong “chớp”
nhanh vật kỷ niệm của một cặp vợ chồng ở phía ngoài phòng của trẻ con. Họ tiếp
tục đi tới, không có súng nổ, không có ai hết, kể cả người dân thường. Cuối
cùng, họ thấy nghi. Cách mấy chục thước phía trước là căn nhà xây theo hình chữ
L, cửa đóng; một dấu hiệu không lành. Allbritton đi phía trước tiểu đội, đưa
tay ra dấu cho toán xạ thủ hỏa tiển vượt lên, yêu cầu bắn vài phát vào nhà. Một
quả đạn vượt qua song sắt cửa sổ bay vào. Từ sân thượng của một tòa lầu hai
tầng, Carter nhắm và nổ súng. Cái cửa sổ nhỏ bay mất, khói tuôn ra.
Một anh xạ thủ khoái chí bắn một tràng, Carter lại nhắm, nhưng Chek dụng vào
chốt súng nên súng không nổ, bỗng Carter nghe Allbritton la to: “Ngừng bắn.”
Anh chú ý thấy người từ trong nhà chạy vòng ra từ một cánh cửa bị khuất. Trước
tiên là một ông già lụm cụm, đầu hói, và râu dài tới ngực. Mặt và tay ông ta
đầy máu. Hai đứa bé nắm lấy áo ông già và khóc. Bắt đầu có thêm nhiều người từ
trong nhà chạy ra, người nầy dìu người kia như bị thương, hoặc là chết. Một
người nói với TQLC rằng họ là dân thường, CSBV đã giữ họ để làm con tin. Tình
cờ họ đã được TQLC giải thoát.
Đại úy Christmas để Thomas lại làm hậu bị cho đại đội rồi đưa anh hiệu thính
viên đi theo trung đội mũi nhọn cho Đại Đội Hotel. Anh ta nghĩ một cách mơ hồ
rằng hôm nay là ngày 13, và trầm ngâm suy nghĩ tới con số không may.
Họ tiến qua khu ga xe lửa, rồi tiến về phía tây, ngoại ô Huế, vượt qua một
doanh trại của quân đội VNCH (ở Nam Giao ngd), qua một khu rừng gỗ, và những
ngọn đồi thoai thoải, một khu nghĩa địa cổ và mấy ngôi chùa nhỏ. TQLC chú ý tới
mấy ngôi mộ mới đắp, những huyệt mới đào còn cạn. Christmas cùng mấy TQLC tiến
lên quan sát.
Trong phút chốc súng nổ dữ dội. Họ nghe tiếng súng cối bắn đi. Christmas và ban
chỉ huy của anh ta kẹt giữa một khoảng đất trống khi đạn bắn tập trung vào khu
vực, mảnh đạn bay lung tung. Ai cũng muốn lao vào một nơi nào đó để tránh đạn.
Họ chen chúc nhau trong một chỗ đất hõm, trong khi đạn vẫn nổ. Christmas quay
nhìn lui thấy bóng của một lính CSBV núp sau một cái đền hơi xa. Anh nầy bắn
một quả B-40 trong khi đó Christmas chỉ kịp nghĩ: Mình đâu phải là chiếc xe
tăng. Hơi nóng mảnh đạn sắc như dao cạo đâm sâu vào chân phải anh ta. Anh ta
liền nhảy vào một cái huyệt cạn mới đào bên cạnh, nằm co lại, một cái xác Việt
Cọng nằm bên cạnh. Đạn súng cối tiếp tục rơi xuống, anh ta cố ép mình thật sâu
trong huyệt, xác chết im lặng nằm bên cạnh anh.
Carter và mấy người lính TQLC vượt mấy hàng cây thấp và tới một ngôi chùa nhỏ ở
giữa một khu vườn. Họ đứng nhìn một lúc. Chùa thật đẹp, mái cong lợp ngói.
Nhang trong bình chưa đốt. Carter thấy tượng Phật ngồi trên bàn thờ, anh ta rất
muốn lấy tượng Phật đó để làm kỷ niệm. Tuy nhiên, anh ta biết phải dấu ở đâu đó
trong đồ dạc suốt 9 tháng trước khi về nước. Vã lại, anh ta nghĩ nếu “chôm” pho
tượng ấy, Chúa sẽ không cho anh là người làm điều phải.
Họ bắt đầu rời ngôi chùa và đi bộ lên một ngọn đồi nhỏ có rào kẽm gai. Carter
và Shek vác súng tìm đường bước qua, người mang máy truyền tin và mấy TQLC đang
đi phía trước. Bất thần, họ nghe tiếng bắn đi của súng cối, đạn nổ phía trước
cách khoảng hơn trăm mét. Họ nhìn quanh, tự hỏi: Đại Đội Hotel đang ở đâu nhỉ?
Rồi đạn nổ gần hơn. Họ quay ngược lui chân đồi. Carter thấy khói đen và tiếng
nổ trên đầu hàng cây, cách xa khoảng 30 thước. Có cái gì đụng mạnh vào chân anh
ta, giống như ai lấy cái chày khúc côn cầu đánh mạnh vào. Anh té về phía trước,
rơi vào giây kẽm gai, đũng quần vướng vào kẽm gai không gỡ ra được. Anh ta thận
trọng tìm cách chui ra. Đạn súng cối lại nổ nhiều thêm. Cố thoát chết, Carter
gần như muốn điên khi xé rách quần ra rồi lăn tròn xuống chân đồi.
Anh ta chạy ngược lại ngôi chùa và nhảy vào trong. Có mấy TQLC đang núp trong
đó, có một người khác nữa bị mảnh đạn ở đầu gối và một anh cứu thương Hải Quân.
Người y tá xem vết thương của Carter, trông có vẽ hơi nặng. Mảnh đạn đâm sâu và
có thể đụng xương. Máu còn chảy. Y tá lấy băng băng lại cho anh. Những người bị
thương được đưa về sông An Cựu. Một chiếc xe Jeep đưa họ về ban chỉ huy tiểu
đoàn. Tuyên úy tiểu đoàn, to con như một cầu thủ bầu dục, chạy tới. Ông ta ôm
một người bị thương ốm như cây sậy đem vào trong. Carter cẩn thận tìm cách
xuống khỏi xe và đi cà nhắc vào.
Khi bắt đầu bị pháo kích thì Thomas còn ở phía sau của trung đội. Có tin lộn
xộn gọi trong máy nên Thomas và vài TQLC chạy lên phía trước, chỗ có tiếng
súng. Họ thấy mấy TQLC thối lui phía đường lộ. Đó là những người chỉ huy trung
đội: Thiếu úy Myers, thiếu úy Lambert, và mấy trung sĩ trong ban tham mưu.
Những người nầy bị thương và được băng một cách vội vàng. Họ nói là bị thương
vì đạn súng cối và chỉ hướng trung đội cho họ. Thomas thấy Chritmas nằm dựa
lưng vào bức tường một căn nhà, y tá đang ở bên cạnh và chân Christmas bị băng
kín. Christmas đi cà nhắc về phía họ.
Đạn súng cối lại nổ, Thomas nằm xuống bên cạnh Christmas và y tá. Đạn lại nổ
tiếp, Thomas nằm chồm lên người Christmas để che đạn cho cấp chỉ huy của anh.
Họ gọi máy và nghe có tiếng người gọi một chiếc xe bị trưng dụng. Họ leo lên xe
và rú ga chạy. Đại đội có 23 người bị thương. Cũng may, chẳng có ai chết.
Thomas ngồi bên cạnh Christmas trên sàn xe, nói chuyện với nhau để cố quên đau
trong khi xe chạy.
Đằng sau họ, TQLC đang phản pháo.
Tới trưa họ về tới căn nhà đặt ban chỉ huy. Christmas nằm trên cáng đặt sau xe Jeep
trong khi y tá chăm sóc vết thương cho anh ta. Cheatham, Steele và những người
còn lại quây quần chung quanh. Christmas lấy khuỷu tay chống xuống giường, cố
gượng dậy, hút một điếu xi-gà bự và nói chuyện, làm thế nào anh ta có thể trở
lại đơn vị sớm, sau khi các bác sĩ băng bó cho anh ta xong.
Tuồng như anh ta không quan tâm lắm tới vết thương nơi chân khá nặng, làm cho
anh ta đau đớn lắm.
Sau khi những người bị thương được di tản hết về MACV, Cheatham gọi điện cho
trung úy William L. Harvey, sĩ quan phụ tá hành quân tiểu đoàn. Ông ta ra lệnh
chỉ có 3 tiếng: “Lo hành trang.” Harvey là đại đội trưởng mới của Đại đội
Hotel. Quê ở vùng nông trại tiểu bang Vermont, 24 tuổi, là một sĩ quan hành
quân nhiều kinh nghiệm, từng giữ nhiệm vụ trung đội trưởng một năm ở Đại đội
Golf, trước khi kéo dài thời hạn phục vụ và được chỉ định phục vụ tại ban chỉ
huy Đại đội 2/5. Ở Huế, tiếng gọi gần nhứt để ông ra trận không phải là do CSBV
tấn công mà từ một sĩ quan TQLC khác. Một hay hai ngày trước, ông đang tắm
trong nhà tắm dành cho sĩ quan thì trong một phòng khác, đại úy Fine, tò mò với
một súng phóng B-40 tịch thu được, trái đạn bỗng nhiên nổ. Trái đạn làm thủng
bức tường và nổ trên đầu Harvey. Anh ta giật mình tưởng chết.
Đại úy Pyle của tiểu đoàn đảm nhận nhiệm vụ của Harvey. Harvey gom hết hành
trang rồi ra đi, tìm đại đội mới của anh ta. Cũng phải mất một tiếng đồng hồ.
Anh ta làm việc với trung sĩ Miller, người tạm nhận chức vụ. Ngoài ra còn có
Thomas, người không bị thương trong trận pháo kích. Harvey nhìn vào đám lính
của anh, họ ngồi lộn xộn chung quanh, hết sức chán nãn, ủ rũ. Họ bị mất tinh
thần. Cheatham kéo họ về một ngôi trường đạo gần đó (Pellerin, Ngd) để tái tổ
chức, thực ra là để họ nghỉ ngơi một chút.
Sau đó, khi gom được tin tình báo, người ta mới biết chỗ những ngôi mộ cạn là
nằm ngay trên đường rút lui của bộ chỉ huy quân CSBV. Giống như những người
lính rành nghề, họ đặt súng ngay trên vị trí sẵn có, và Đại Đội Hotel tình cờ
hành quân ngay trên cửa hậu của họ.
Carter được đưa bằng xe tới bãi đáp trực thăng cùng với những người bị thương
khác. Hai tuần trước, khi anh ta tới đây, các trực thăng thường bị địch xạ
kích. Tuy nhiên, tới 13 tháng Hai, trực thăng muốn tới lui lúc nào cũng được. Ở
đây có phóng viên báo chí, các tay nhiếp ảnh, người tỵ nạn tập trung từng đám
chung quanh chờ được về nhà, hoặc nếu được ưu tiên sẽ cho di tản.
Carter ngồi ở đây, chăm sóc cái chân của anh bị thương và nhìn chung quanh. Có
một đống xác chết của quân CSBV nằm ở kia. Có chiếc xe cần cẩu ở đó nữa. Người
tài xế hạ cái mỏ cẩu xuống, kẹp ba bốn xác chết. Mỏ cần cẩu cất lên, đủ cao cho
xe chạy được, rồi thả mấy cái xác đó xuống một cái hố. Mấy cái xác rớt xuống,
chồng lên nhau. Những người Việt dân sự đứng nhìn há miệng cười, la to hoan hô.
Carter thấy có vẽ vui.
Phía bên kia bãi, anh ta thấy những xác chết thuộc phe anh ta. Xác chết TQLC
xếp hàng như đống gỗ, những cánh tay đen hay trắng giang ra, tất cả đều còn
mang giày trận nên mỗi xác trông nặng đến cả hàng trăm pound, xếp thành đống
trên thùng xe tải. Carter nghĩ chắc chưa gấp để phải đưa họ đi bằng trực thăng.
Một lúc sau, một chiếc trực thăng đến và thương binh được chuyển đi Phú Bài.
Người phi công lượn nghiêng chiếc máy bay để tránh địch xạ kích khiến các
thương binh níu lấy nhau. Đại úy Christmas níu lấy Carter để giữ cho anh ta
khỏi rơi ra ngoài.
Sau cuộc càn quét ngày 13 tháng Hai, Đại Đội 2/5 TQLC bắt đầu ít gặp địch
thường xuyên như trước. Có những cuộc chạm súng gay go mỗi ngày nhưng hoàn toàn
vì mục đích thực tiễn. Với họ, đó là phần cuối của một trận đánh dữ dội trên
đường phố.
Những cuộc tuần tiểu bắt đầu vượt qua bên sông, những hàng cây và làng mạc
ngoài rìa thành phố. Nhưng cứ đêm tới, các tay bắn lén tiếp tục quấy rối căn
nhà ban chỉ huy đóng. Cuối cùng, TQLC đóng tại căn nhà nơi trước đó quân CSBV
đã đóng – căn nhà nhỏ màu hồng – Cheatham cho gài mìn. Đêm đó, qua ống kính
viễn vọng, họ thấy vài lính CSBV lẽn vào. Bấm nổ ngòi điện, toàn bộ căn nhà sụp
đổ tan tành.
Trong tình trạng bình thường, sau khi trận đánh chấm dứt, người ta làm đề nghị
tưởng thưởng cho những người chiến đấu gan dạ. Tuy nhiên ở Huế, vì cuộc chiến
đấu hết sức căng thẳng và số thương vong quá cao, một đại úy và nhiều binh lính
được đề nghị phải gởi danh sách về bộ tư lệnh sư đoàn. Họ thiết lập một văn
phòng ngay ban chỉ huy tiểu đoàn và thực hiện bản đề nghị ngay giữa mặt trận.
Đó là tình trạng hoàn toàn bất thường. Có chuyện kể về một trái đạn súng cối
không nổ rơi phía ngoài cửa sổ của viên đại úy. Ông ta đứng xem một TQLC tháo
ngòi nổ viên đạn ấy, và tức thời viết ngay câu tuyên dương Anh dũng Bội tinh
Ngôi Sao đồng. Thiếu tá Steele nghe một câu chuyện khác nói về một anh cứu
thương Hải quân thuộc đại đội Fox được đề nghị thưởng tới mấy huy chương. Theo
như câu chuyện, người nầy vừa mới tới Việt Nam, trải qua hai ngày tại lớp hướng
dẫn rồi gởi ra đơn vị. Trong một thời gian ngắn, anh ta bị thương nhẹ trong khi
cứu cấp cho một TQLC và được thưởng một Anh dũng Bội tinh Ngôi Sao bạc. Ngày
hôm sau, anh ta bị thương nặng sau một anh TQLC khác, anh ta lại được đề nghị
tưởng thưởng và được di tản. Trong khi nằm trên cáng đặt tại bãi đáp trực
thăng, anh ta lại bị một mảnh đạn súng cối nữa. Thành ra, anh ta được cho về nước
cùng với một huy chương ngôi sao bạc, một huy chương ngôi sao đồng và ba Chiến
thương Bội tinh chỉ sau một tuần chiến đấu.
Một hoặc hai ngày sau khi nắm Đại Đội Hotel, trung úy Harvey có một trung đội
trưởng mới, thay thế cho tất cả các thiếu úy và trung sĩ bị thương vào ngày 13
tháng Hai. Anh nầy mới được thăng thiếu úy do sư đoàn gởi tới. Anh ta không đọc
bản đồ được. Anh ta gọi điện cho ban chỉ huy báo cáo rằng anh ta đang ở trong
một căn nhà như thế như thế và Harvey phải kéo hiệu thính viên theo để đi tìm
họ. Họ bắt đầu đi vào một con đường hẽm, Harvey nhìn lên thì Chúa ơi! Họ đang
đứng chân kề chân với hai lính CSBV. Cả bốn người đứng trân ở đó trong một giây
vì sửng sốt, nhìn vào nhau. Harvey tưởng như dài lắm rồi bỏ chạy về hướng khác.
Harvey thấy một trong hai người ấy kéo cây AK-47 đang đong đưa lên. Anh ta nằm
sát tường và một tràng đạn rớt bên cạnh, mảnh xi-măng văng trúng mũi và tai anh
ta. Hai lính CSBV chạy mất. Anh ta nhìn lại hiệu thính viên, anh nầy run lên vì
sợ, nôn ọe xuống đường.
Kể từ ngày 10 tháng Hai, khi khu vực từ MACV tới Phú Cam hầu như hoàn toàn nằm
trong tay Đại đội 2/5 kiểm soát, trung tá Gravel ra lệnh quay hướng hành quân,
trở lại quốc lộ 1 và bắt đầu mở ra hướng đông, từ MACV tới sân Vận Động Huế, và
những sông đào chạy theo rìa nam Huế. Cho tới lúc nầy, ông ta cũng chỉ có hai
đại đội: Đại Đội Alpha của trung úy Smith và Đại Đội Bravo của đại úy Robert A.
Black Jr. Việc càn quét phía đông còn nặng hơn trước. Không hoàn toàn căng
thẳng như tuần đầu ở Huế, nhưng vẫn có nhiều tay bắn sẻ, nhiều tay ngoan cố,
tụt hậu làm cho mọi người phải luôn luôn đề phòng, sợ hãi, và mệt mỏi, lục soát
từ nhà nầy qua nhà khác, từ khu nầy qua khu nọ.
Đang trong trận đánh, Gravel đi MACV để tham dự buổi họp tham mưu của đại tá
Hughes. Ông ta vào bộ chỉ huy, và lạ chưa, một người ngồi bên một cái lều vải
nhỏ trong hành lang, mặc áo giáp có cái bình bằng sắt là Walter Cronkite.
Ông ta đi ngang qua người nầy, vào phòng tham mưu, nói đùa: Trông như ông mới
kiếm được một mạng nào ngoài đó vậy?
Huhges nói: “Tất cả cho anh đó.”
Ông ta nói kể từ khi Gravel là vị chỉ huy TQLC đầu tiên đến Huế, ông ta có thể
giải thích trận đánh cho mọi người biết. Huhges giới thiệu Gravel với Cronkite
cùng vài TQLC đi theo và đám quay phim, truyền thanh, nhiếp ảnh, báo chí.
Gravel, có cảm tình ngay với Cronkite, biểu ông ta gọi ngay cho vợ ông khi về
tới Nữu Ước và nói rằng ông ta vẫn mạnh khỏe.
Tại ban Chỉ huy tiểu đoàn, Gravel muốn Cronkite gặp các sĩ quan của ông ta. Đại
úy Jim Gallagher, sĩ quan hành quân mới, Gallagher đã chỉ huy một cách xuất sắc
Đại Đội 1/1 và đã tới phiên về nước hôm 1 tháng Hai, nhưng khi nghe tin chiến
trận ở Huế và cái chết của Walt Murphy, anh ta vội vã quay lại mặt trận. Ngày
hôm trước Cronkite đến, Gravel và Gallagher đã thức suốt đêm để vạch kế hoạch
và tìm hiểu coi ai là người giỏi nhất của họ để họ gặp. Gallagher đã chọn
Walter Cronkite.
Khi Gravel và Cronkite về tới ban chỉ huy, Gallagher đang khom mình trên bản
đồ. Gravel nói: Xin lỗi, Jim, đây là người anh muốn gặp đây nầy. Walter
Cronkite, còn đây là Jim Gallagher, một trong những sĩ quan tác chiến giỏi nhất
của TQLC, anh có thể hy vọng được.
Gallagher nói lắp bắp: Vui lòng gặp anh.
Về sau, Gravel nhận ra trong cuộc phỏng vấn bên đường của phóng viên CBS, trong
bối cảnh có lồng tiếng súng. Gravel nghĩ quả thật là đồ chết tiệt, chỉ là trò
thương mại.
Trung uý Smith và Đại Đội Alpha càn quét vùng sân vận động Huế, đụng một trận
hết sức tệ hại khi tiến về phía đông. Họ tiến xuống một con đường đất, xe tăng
đi đầu, xe phun lửa đi sau, bộ binh hai bên. Phía trước là mặt tiền của một
doanh trại VNCH bỏ trống.
Hạ sĩ Neas cùng với toán súng máy di chuyển bên phải các chiến xa. Anh ta thấy
phía trước có một lỗ tường thủng nơi doanh trại quân đội. Từ lỗ đó, bất thần
một trái B-40 bay tới nổ bùm. Chiếc xe tăng bị đạn lắc lư, mảnh đạn bay ra.
Súng AK-47 bắt đầu nổ, cày đất lên. Một trung sĩ, biệt danh là Chunky, từng bị
thương hai lần, bây giờ bị một mảnh đạn ở chân, té xuống đường. Vài TQLC bắt
đầu bắn trả, trong khi các TQLC khác thì kéo Chunky qua một bên, và các TQLC
khác đưa người bị thương lên sau xe tăng, người lái chiếc xe tăng đi trước bị
đạn được lôi ra khỏi chiếc xe. Chiếc xe tăng chở người bị thương dọt đi. Trung
sĩ Burghardt nhìn theo chiếc xe tăng khi đang quày lui – chạy qua chỗ một người
y tá bị thương nằm gần ngã tư, cán gãy tay anh nầy. Hai người lính TQLC kéo anh
ta vào dưới một gốc cây. Anh ta nằm ở đó, khóc vì sợ, súng nổ thêm dữ.
Neas nhìn lui chiếc xe tăng đi đầu, anh ta thấy người chỉ huy chiến xa, một
trung sĩ da đen, quì đằng sau chiếc xe đang cháy. Anh ta đang khóc, la to lên
rằng anh ta muốn có một chiếc tăng khác để đi tìm quân CSBV đã bắn cháy chiếc
tăng M-48 của anh ta.
Neas ra lệnh cho một trong mấy người thuộc toán hỏa lực của anh, rồi họ bò thật
thấp trên mặt đường, nhảy qua một cái cửa sổ. Họ đặt cây đại liên M-60 lên
thành cửa, nhắm vào chỗ quân CSBV ở bức tường đối diện. Neas núp ở cửa sổ bên
cạnh. Có một căn nhà nhỏ đối diện với anh ta, ngay sau bức tường trại lính. Anh
ta biết chắc chút nữa, CSBV sẽ từ trong căn nhà ấy rút ra. Đặt sẵn cây M-16 lên
vai, kê băng đạn lên ngưỡng cửa sổ, nhắm ngay vào cửa sau của tòa nhà. Toán
súng cối ở phía sau họ bắt đầu nã hơi cay, trong phút chốc, ba CSBV phóng ra
khỏi bức tường và chạy vào căn nhà nhỏ. Neas quay đi một giây, rồi lại nhìn lui
chỗ cũ để canh chừng CSBV thoát ra cửa hậu. Có tiếng hô to của TQLC: Bắn. Neas
xiết cò một lần, một mạng ngã lăn ra đất. Anh nầy bắt đầu bò đi. Neas đứng
thẳng lên, không tin anh ta còn sống. Như mê mẩn, anh ta đổ hết một băng đạn
vào người lính CSBV.
Cuộc chạm súng tiếp tục. TQLC nã đạn liên tiếp vào trại lính, hỏa lực phản công
của địch càng lúc càng yếu dần. Toán đại liên M-60 của Neas xài hết một tràng
đạn khi anh ta thấy bóng vài người bận đồ xanh, đội nón sắt chạy băng qua sân.
Anh ta không thấy mặt họ nhưng đoán chừng khoảng một tiểu đội và la to: “Ngưng
bắn.”
Xạ thủ đại liên M-60 ngưng bóp cò. Mấy bóng người mặc đồ xanh nầy chạy vào căn
nhà chính. Nhưng không có tiếng súng M-16 trong đó. Neas chưởi: “Mẹ!” Anh ta tự
rủa thầm. Một vài lính CSBV mặc đồ lính Mỹ. Thật là dễ bắn mà để cho chúng chạy
mất.
Súng cối bắt đầu nã vào trại. Tiếng súng địch càng lúc càng yếu dần.
TQLC đứng lên rồi chạy băng qua đường, đổ dồn vào doanh trại. Chẳng phải nổ
súng gì nhiều mà cũng chẳng làm gì khác là đếm xác địch. Trung sĩ Burghardt đi
vào căn nhà nhỏ nơi Neas đã bắn ngã vài CSBV. Burghardt kêu Neas và chỉ cho anh
ta thấy. Một anh lính CSBV bò ra tới ngưỡng cửa, chết cứng, tay còn giữ lấy
bụng, ruột lòi ra vì bị thương. Có hai cây súng nằm bên cạnh anh ta. Burghardt
lấy một cây AK máng lên vai còn Neas thì lấy kỷ niệm một cây tiểu liên Nga có
băng đạn tròn. Họ quay trở lui đường phố, khi đó anh trinh sát người Việt của
đại đội thấy cây súng tiểu liên thì nhảy tung tăng, cười và la lên: Nhứt rồi!
Theo thông dịch viên thì những người mang loại súng như thế nầy phải là sĩ
quan.
Trong vòng 1 hay 2 ngày, Đại đội 1/1 đã bình định xong khu vực dọc theo sông
đào. Bây giờ chỉ còn tiêu diệt những tay ngoan cố hoặc chưa biết là đã có lệnh
rút.
Trung úy Allen W. Courtney, Jr. Trung đội trưởng Trung đội 3 thuộc Đại Đội
Alpha, tóc vàng hoe, quê ở Texas, nguyên là binh nhì, toàn cả đại đội ai cũng
kính trọng. Trong những trận đánh ở Cồn Thiên hồi tháng Chạp, anh đã được gắn
Anh dũng Bội tinh Ngôi Sao bạc. Giống như tất cả trung úy của Đại Đội Alpha,
anh ta bị kẹt ở Đà-Nẵng vì một khóa học khi trận đánh ở Huế bắt đầu. Anh ta
cũng không xin được về đơn vị cho mãi đến ngày 11 tháng Hai. Suốt hai ngày, anh
ta cùng trung đội hành quân dọc theo sông đào. Một trong các tiểu đội vượt qua
bên kia cầu chiếm một ngôi nhà để củng cố an ninh. Họ vào trong nhà thì một quả
B-40 nổ trúng ngưỡng cửa sổ. Một vài TQLC bị thương trong khi CSBV bắn dồn
thêm. Courtney đứng dậy, nắm lấy cây M-60 của Neas bắt đầu quạt lại hướng địch.
Một viên đạn trúng vào bắp chân anh ta, nhưng anh ta vẫn tiếp tục nổ súng cho
đến khi tiểu đội rút về bên kia cầu. Y tá băng quanh bắp chân cho anh ta, nhưng
anh ta cũng chẳng thèm lưu tâm cho đến khi trung úy Smith thấy và biểu anh ta
rút lui phía sau. Vết thương nặng, nhưng Courtney không chịu đi, anh ta muốn ở
lại với trung đội. Cuối cùng, trung tá Gravel ra lệnh anh ta di tản đi bệnh
viện ở Phú Bài, theo cái cách mà anh nghĩ như người dân Texas thường nói:
“Ra khỏi thành phố trước khi trời tối.” Gravel cũng nghe một câu chuyện như
thế nầy: Một anh TQLC trẻ đang nằm trên cáng đặt tại MACV chờ máy bay trực
thăng tải thương. Một anh phóng viên báo chí hỏi: “Anh bị thương bao nhiêu
lần rồi?” Anh lính trẻ nhìn lên và hỏi: “Hôm nay đấy hả?”
Đại Đội Alpha tuần phòng khu ngoại ô thành phố, càn quét địch. Trung sĩ
Burghardt được lệnh dẫn theo 3 TQLC kiểm soát hàng cây trước mặt họ. Họ đi băng
qua hàng cây đó, ló mặt ra, và có một lính CSBV đứng cách mấy chục thước phía
trước, đứng như vậy mà kinh ngạc nhìn mấy TQLC. Xong anh ta quỳ xuống bắn một quả
B-40. Mọi người tìm nơi ẩn núp. Quả đạn trúng một thân cây, nổ, không ai bị
thương. Burghardt chạy lên trước, bắn bằng cây súng Colt-45. Anh lính CSBV bỏ
chạy. Burghardt bỏ cây súng Colt xuống, cầm cây M-16 lên, bắn một tràng, người
kia té xuống, chết.
Chủ nhật, ngày 18 tháng Hai, hạ sĩ Soukup và tiểu đội của anh ta cùng TQLC hành
quân với vài TQLC thuộc Đại Đội 1/ 1, chiếm một căn nhà để nghỉ qua đêm. Họ để
trang bị xuống sát vách tường tính làm chỗ nghỉ ngơi thì bỗng có tiếng đạn B-40
bay. Viên đạn rít qua cửa sổ đụng vào trần nhà nổ. Hơi nóng và mảnh xi măng bay
xuống, đụng vào áo giáp và mũ sắt. Mảnh đạn đâm vào bắp vế, tay và đầu Soukup.
Hai TQLC khác cũng bị thương.
Sau tiếng nổ một giây, mọi người la lên. Soukup và một TQLC khác bắn qua cửa
sổ, một TQLC khác thì quăng lựu đạn. Mấy giây sau, có người la to: “Tao bắn
trúng nó, tao bắn trúng nó.” Soukup và những người còn lại nhẹ nhàng thoát
ra ngoài. Anh lính CSBV nằm trên cỏ, bị thương vì mảnh đạn, cây súng B-40 nạp
đạn sẵn nằm lăn bên cạnh. Anh ta còn trẻ, mập mạp, mặc quần xà lỏn. TQLC đứng
chung quanh, thấy anh ta thì nhìn họ mà không biết anh ta mong ước điều gì.
Thiếu tá Steele đang ở tại ban chỉ huy Đại Đội 2/5 khi một toán quân CSBV vượt
qua sông Hương. Họ từ bên Thành Nội đi qua, thực hiện cuộc rút chạy như điên
khùng để giữ mạng sống. Mọi người ở gần bắn như điên vào họ. Trừ một người.
Đứng bên cạnh Steele là một ông trung sĩ già của MACV. Ông ta la lên to: “Tại
sao không để cho họ đi đi, mình có thể rút lẹ ra khỏi đây.”
TQLC chẳng ai để ý đến lời ông, quân CSBV hiện ở trong Thành Nội tìm mọi cách
để thoát ra ngoài.
Ghi chú (của Ngd):
(1)- Sau khi đánh đuổi quân Cọng sản ra khỏi thành phố Huế, tình hình vẫn
căng thẳng, chiến sự còn tiếp tục ở ngoại ô, tình trạng cướp bóc diễn ra khá
phổ biến. Những vụ điển hình như cửa hàng bán TV, Radio “Việt Tuyến” trên đường
Trần Hưng Đạo, gần cửa Thượng Tứ, bị kẻ cướp dùng xe GMC tới chở sạch. Việc
cướp dùng xe GMC chở hàng cho thấy “bọn” cướp thuộc hạng người nào. Đại úy Lê
B. Ng. đại đội trưởng CSDC Thừa Thiên- Huế vào cướp hôi ở Ty Ngân Khố Huế. Chưa
thỏa lòng tham, y còn cướp hàng tại tiệm “Bát Tiên” trên đường Phan Bội Châu,
Huế. Xui cho y, tiệm nầy là bà con với tướng Nguyễn Ngọc Loan, cục trưởng cục
ANQĐ kiêm Tổng giám đốc CSQG, nên ngay lúc đó, tướng Loan đến Huế, y bị cách
chức và trả về BDQ là đơn vị cũ của y.
Ngoài ra, tại bùng binh đầu cầu Trường Tiền, trước trường Đại Học Khoa Học
(Morin cũ) có dựng một pháp trường cát. Có dư luận nói là để xử tử ai bị bắt về
tội cướp, lại có dư luận nói là để xử quận Cán (quận trưởng Cảnh Sát). Khi Cộng
Sản chiếm Huế, y ở Gia Hội ngày ngày vác loa đi hô hào dân chúng nổi dậy “chống
Mỹ cứu nước”. Khi Cộng Sản rút lui, y ở lại và bị dân chúng tố giác nên bị
chính quyền Nam VN bắt giữ, chờ đem xử tử. Có dư luận nói là nhờ gia đình y
chạy chọt với một bà tướng lớn ở Đà-Nẵng nên y được tha. Cuối cùng, pháp trường
cát dựng lên chỉ để dọa thiên hạ chứ chẳng bắn giết người nào cả.
(2)- Có lẽ tác giả chưa nắm rõ sự
kiện nầy. Trên sông Hương lúc bấy giờ chỉ có hai cây cầu (Cầu Trường Tiền và
cầu xe lửa. Cầu sông Hương – ngang bệnh viện Trung ương Huế sau nầy mới hoàn
thành -). Cầu xe lửa còn nguyên, cầu Trường Tiền bị đặc công Cọng Sản phá sập đêm
mồng 5 tết Mậu Thân, ngày 4 tháng Hai/ 1968)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét