Thứ Tư, 18 tháng 3, 2015

Huế, Trận đánh Mậu Thân – Chương 9 (cuối): Tiến lên





            Trong khi việc càn quét quân Cộng Sản tiếp tục trong Thành Nội, Đại Đội 1/1 và 2/5, hành quân về phía nam Huế càng lúc càng xa hơn. Ngày 26 tháng Hai, một cuộc tuần tiểu lớn nhất khởi sự vào lúc quá nửa đêm một chút. Trung tá Cheatham chỉ huy toàn bộ tiểu đoàn truy quét quân Cọng Sản. Ông ta để thiếu tá Steele ở lại bộ chỉ huy cùng với một toán xạ thủ đại bác không giật 106 ly để giữ an ninh, còn ông ta theo Đại đội Fox, Golf và Hotel vượt qua cầu phao trên sông An Cựu rồi ngược lên phía bắc truy kích binh lính Cọng Sản bị tụt hậu ở giữa họ và sông An Cựu. Đêm hôm ấy trời tối đen, sương mù nhưng đến sáng thì trời sáng trong.
            TQLC/ Mỹ bắt đầu tiến về phía đông, hướng Phú Cam. Súng nổ.
            Cheatham và ban chỉ huy đóng tại căn cứ Công Binh Việt Nam trên đồi Nam Giao. Không ai biết bãi mìn do quân đội Việt Nam gài ở đây nên người lính TQLC đầu tiên bước lên cổng đã bị mìn chết. Vì vậy, số binh lính còn lại tìm một con đường khác để vào bên trong. Trung tá Cheatham đặt ban chỉ huy bên trong trại.
            TQLC truy kích các binh lính Cộng Sản tụt hậu, giết 37 người. Phía TQLC có ba người tử trận…
            Tại ban chỉ huy đặt trong thành phố Huế, thiếu tá Steele nhận lệnh tiến lên cùng với xe tăng và hàng tiếp liệu. Họ chất đồ lên xe GMC và thành lập môt đoàn xe, xe Jeep của Steele đi đầu. Xe qua một khúc quẹo, Steele thấy một khung cảnh kinh hoàng nhất mà ông ta chưa bao giờ từng thấy ở Việt Nam: Một đoàn xe trống không, đã bị địch tiêu diệt. Đó là đoàn xe của Tiểu Đoàn 11/ TQLC bị phục kích hôm Tết, khi chiến sự mới bắt đầu. Chẳng ai sống sót. Xe tải và chiến xa hạng nhẹ chạy bên hông, nhìn vào đoàn xe bị phục kích, thấy người bên trong như đang hối hả. Cửa còn mở, đạn còn sẵn trên súng.
            Tới thêm mấy thước, thiếu tá Steele thấy đất phía sau tung lên. Chiếc xe chở hàng chạy phía sau trúng mìn, toàn bộ phần đầu xe bay mất. Máy xe cũng bay, thùng xe rách nát móp méo, người tài xế vẫn còn sau tay lái, mặt đen sì, tóc cháy trụi, trông như bức hình hoạt họa. Các TQLC sửng sốt, đưa tài xế lên xe tải, chuyển về MAC.V. Thiếu tá Steele gọi công binh nhưng họ đang gặp rắc rối trong việc gỡ mìn. Binh lính Cọng Sản BV bỏ mìn trong những thùng gỗ trước khi đem chôn nên máy dò mìn không phát hiện được.
            Steele đứng bên đường, nói chuyện với viên trung sĩ của chi đoàn chiến xa là một người bạn cũ của ông ta. Một chiếc xe GMC chạy tới, xe chở đầy binh lính VNCH và thường dân. Người tài xế quẹo quanh qua đoàn xe TQLC, chạy xuống phía dưới, chưa được mấy chốc thì trúng mìn, chiếc xe văng vào đống bùn. TQLC lại phải lo thêm cho người bị thương. Cuối cùng, Steele ra lệnh cho binh sĩ ông chạy bộ, băng qua một nghĩa địa để vào trong doanh trại của Việt Nam Cộng Hòa.
            Từ doanh trại của Quân Đội VNCH trên đỉnh đồi, Cheatham thấy quang cảnh toàn bộ thung lũng ở bên dưới và ngọn đồi bên cạnh. Trên đỉnh đồi ấy có mấy công sự lớn đúc bằng xi-măng từ thời chiến tranh Pháp Việt. Quân CSBV đang núp ở bên trong.
            Đại uý Downs và đại đội Fox tiến qua thung lũng, về phía họ. Hai khẩu súng máy đang nã đạn. TQLC đi bọc bên ngoài để ra mặt sau ngọn đồi.
            Trung úy Harvey và Đại Đội Hotel núp ở phía trước, tạo thành chữ L mà đại đội Fox ở cạnh đáy. Vị trí quân CSBV cách xa khoảng vài trăm thước. Toàn bộ khu vực đầy bụi bờ, cây cối, không thể nhìn xa được. Nếu cúi mình xuống để tránh đạn thì chẳng thấy gì hết. Đại đội Hotel tiến vào một con đường kín. Trung úy Harvey thấy lưỡng lự nếu gọi không kích vào những công sự lớn đúc bằng xi-măng nầy. Anh ta gọi máy cho Downs, nhưng vì nhiều tàng cây rậm rạp, anh ta không rõ vị trí của Đại đội Fox. Do đó, thay vì chỉ điểm cho máy bay phản lực đánh bom song song với phòng tuyến như trong binh thư, anh ta gọi máy bay oanh tạc phía trước anh, để tránh tai nạn cho Đại đội Fox.
            Máy bay phản lực bay thấp, rít trên không và thả bom lửa. Quân Cọng Sản Bắc Việt ngưng tiếng súng. Nhân khi súng ngưng nổ, Harvey đứng lên để quan sát rõ hơn. Anh ta hoan hỉ vì thấy mục tiêu đang bốc khói vì quả bom thả xuống chính xác. Harvey dùng máy truyền tin liên lạc với phi công, hướng dẫn máy bay oanh kích thêm một lần nữa.
            Đứng trên đường mòn, Thomas quan sát máy bay phản lực, lấy làm lạ tại sao máy bay lại bay ngang trên đầu mình thay vì bay song song với tuyến tấn công. Trong khi không rõ vị trí của Đại Đội Fox, Harvey lại gọi máy bay thả bom lửa.
            Một chiếc phản lực đảo vòng quanh, rú thật thấp ngang ngọn cây, thả bốn trái bom lửa, và nổ súng khi chúi xuống và bay lên. Bất thần có một tiếng gầm dữ dội, Harvey như bị dội vì một một chấn động kinh khủng. Anh ta té xuống đất, bụng thót lên. Đất rung chuyển. Khi tiếng nổ qua rồi, và đất đá không còn rơi xuống như mưa nữa, anh ta lắc thử đầu của mình. Harvey nhận ra rằng hai tiếng nổ từ đằng sau dội tới. Anh ta nghĩ là tìm ra cớ sự rồi: Phi công bấm nút sớm một giây. Binh sĩ đứng lên, lắc mình, choáng váng kinh ngạc, nhìn quanh. Quái gì xảy ra vậy? Họ ngơ ngác một lúc. Vài người bị thương, rồi tìm thấy thêm bốn người nữa, xác bị tanh banh, chân, tay ruột văng lên cành, bụi. Có lẽ bom trúng ngay họ. Ai cũng thấy buồn nôn, quay mặt đi, không muốn nhìn vào cảnh tượng ấy.
            Thomas chẳng còn cách chọn lựa nào khác. Vài người đi nhặt từng mảnh xác, bỏ vào áo mưa lính. Thomas kêu to lên, gọi mấy người lính phụ một tay.
            Phía hông, Đại Đội Fox tiến lên để chiếm ngọn đồi. Họ tìm thấy hai mươi mốt xác binh lính Cọng Sản Bắc Việt trong ngôi nhà đổ nát. Tuy vậy, con số đó cũng chẳng có ý nghĩa gì với binh sĩ Đại đội Hotel.
            Thiếu úy Harvey ngồi trên con đường mòn dưới chân đồi. Anh ta nhìn theo con đường tiến lên đồi, nghĩ tới việc máy bay đánh bom lầm làm cho 4 người lính TQLC thiệt mạng mà đau lòng, hoàn toàn chán nản.
            Hạ sĩ Allbritton cùng với tiểu đội của anh uể oải đi xuyên qua hàng cây. Anh ta thấy mệt. Mệt, uể oải và mòn mỏi. Bốn tuần lễ ở Huế đã đem lại chừng ấy điều. Bây giờ thì vẫn tiến lên chiến đấu. Hôm qua, một người lính trong tiểu đội anh tử trận khi hai quả súng cối nổ tới. Rồi lại tới chiếc máy bay phản lực bỏ bom ngay phía trước mặt. Việc ấy xảy ra ngày hôm qua hay hôm kia, anh ta cũng chẳng nhớ. Quá nhiều việc dồn dập xảy ra. Anh ta lại bị thương nhưng không nhớ bị thương lúc nào. Chuyện cứ xảy ra mãi hoài, và một ngày anh ta thấy người anh có mảnh đạn, hoặc có thể đó là một phần viên đạn nhỏ, chẳng biết nói làm sao! Allbritton hết sức chán nản, chẳng muốn suy nghĩ gì cả. Anh ta chỉ huy tiểu đội vượt qua một khoảng ruộng trống… và quân Cộng Sản nổ súng.
            Allbritton nhào xuống đất, lăn tròn và nắm một quả lựu đạn khói giắt bên hông. Phải quăng lựu đạn khói để thoát ra khỏi đây. Anh ta lại nghe tiếng B-40 bắn phía bên cạnh, liền quay đầu về hướng đó. Ba cây thông nhỏ nằm chung thành một hàng, và từ nơi đó, một trái B-40 đang bay tới phía anh. Trái hỏa tiễn bay qua khỏi anh ta, bay chậm đến nỗi anh ta thấy hàng chữ vàng sơn bên hông trái đạn màu ô-liu. Trái hỏa tiễn bay cách anh ta cở vài ba tấc và nổ cách xa hơn một thước. Một mảnh đạn lớn đâm vào bắp vế anh ta, ngay trên đầu gối. Số binh sĩ còn lại của Trung đội 3 bắn che cho tiểu đội của anh rút lui. Allbritton chồm lên chiếc xe đang trờ tới để di chuyển người bị thương. Anh hiệu thính viên của Allbritton, Moses, nằm sau lưng anh ta. Mặt anh ta trúng mảnh đạn, dập miệng nên anh ta không nói được.
            Allbritton và Moses bị thương nặng. Họ là những người cuối cùng nguyên thủy của tiểu đội khi họ được trực thăng bốc đến Huế. Họ cũng có được những giây phút thoải mái. Trước khi hành quân, binh lính đến bổ sung, có đem theo một ít đồ dùng sạch sẽ, Allbritton dùng một tấm ra mới để quàng vào thân hình lùn và nặng 130 pound của anh. Đại đội cũng gởi kèm theo một lưỡi dao cạo hiệu Gillette, vì là tiểu đội trưởng Tiểu đội 3 của Trung đội 3, anh ta được lưỡi dao cạo ấy. Dùng nước lạnh, anh ta cố cạo hàm râu của anh rồi đi xuống hành lang, ngang qua chỗ của Moses và một người lính mới bổ sung. Anh ta đi ra ngoài và cở vài phút sau, Moses đi theo, nhìn anh ta nhăn răng cười. Anh ta kể cho Allbritton nghe khi anh nầy đi ngang qua, anh chàng lính mới tới hỏi người mới tới kia là ai vậy vì anh ta lầm khuôn mặt mới cạo của Allbritton làm cho y tưởng là người mới. Moses trả lời đó là hạ sĩ Arkie. Anh chàng nầy cười ha hả: Chúa ơi! Trông anh trẻ quá và giống như thiên thần.
            Bây giờ thì anh chàng mới kia trở thành cựu chiến binh. Allbritton cũng như Moses được trực thăng bốc về. Toàn thể tiểu đội bây giờ chỉ toàn là binh sĩ mới bổ sung.
            Burghardt và Neas cũng là những người được sống sót. Họ đã chiến đấu ở Huế 24 ngày. Sau những tuần lễ chiến đấu trên đường phố, một nửa Đại đội Alpha vừa chết vừa bị thương. Bây giờ thì họ được đưa về hậu cứ TQLC được coi như thành phần thay thế.
            Sáng sớm, đại đội bắt đầu xuất quân, họ tiến về hướng nam, qua từng nhà một, tới một cây cầu ở khu nam, dọc theo sông đào, phải qua cây cầu ấy để ra khỏi thành phố. Họ chẳng tìm thấy ai trên đường tiến quân nên cuối cùng Burghardt, Neas và vài binh sĩ khác đi vòng quanh một ngôi chùa nhỏ và dừng lại bên cạnh một bức tường thấp. Hai người trong bọn họ đứng sau một bức tường gạch, cao ngang vai và Burghardt ra hiệu cho hai người tiến qua cầu để giữ an ninh cho trung đội có thể vượt qua tiếp luôn.
            Khi người thứ nhứt vừa tiến lên thì súng địch bắt đầu nổ. AK và súng cối ầm ĩ. Người lính ở trên cầu nằm xuống, chộp lấy đầu gối.
            Bỗng một loạt đạn dội vào bức tường. Burghardt thấy một khối lửa trắng bay qua mặt. Anh ta phóng mình núp vào bức tường đối diện. Cái nón sắt trật xuống đập vào mũi anh ta thật mạnh. Anh ta la to: “Lạy chúa, tha cho tôi!” Neas nằm bên cạnh anh, dựa vào tường, hai tay khoanh lại. Có tiếng hỏa tiễn nổ. Anh ta để tay trên cổ của Burghardt để báo cho anh ta biết là anh ta bị thương. Anh ta thấy máu. Anh ta không tin là viên trung sĩ của anh bị thương. Một y tá chạy lên rạch áo giáp của Burghardt ra. Viên đạn xuyên qua cổ và đâm vào vai. Y tá băng chỗ đạn thoát ra và chích cho anh một ống thuốc giảm đau. Burghardt thấy sợ, không phải vì đau mà vì không thấy đau đớn gì hết. Anh ta không thể nhúc nhích được.
            Khi thấy y tá băng bó cho Burghardt, Neas khóc. Burghardt vẫn cứ gọi anh ta bằng biệt danh là Alphie, biểu anh tìm cái ví. Neas không cảm thấy đau vì cái tay bị thương nhưng đau lòng khi nhìn người bạn tốt của anh và an tâm khi thấy người ta đặt Burghardt lên cánh cửa gỗ khiêng đi.
            Có người đang xông tới cứu người lính bị thương ở trên cầu. Một anh TQLC biệt danh là là Hoppy lái một chiếc xe Jeep tới. Họ để Burghardt nằm ngang trên cáng. Neas và một người khác leo lên xe và Hoppy lái chạy về phía sân vận động Huế. Burghardt bắt đầu thấy mọi vật mờ đi. Họ vào bãi đáp trực thăng trong sân vận động. Burghardt thấy lạnh. Sau đó, trực thăng tới chuyển đi Phú Bài. Sau một lúc chờ ở Phú Bài, một chiếc trực thăng khác tới đưa anh ta ra tàu bệnh viện Repose đậu ngoài khơi biển Đông. Hai giờ sau, anh ta được đưa vào phòng mỗ.
            Ngày hôm sau, các bác sĩ cho anh ta biết anh bị một viên đạn bắn vào cột sống, ảnh hưởng tới giây thần kinh, làm anh ta bị tê liệt. Đó là ngày thứ hai ở trên tàu, anh ta bị buộc vào giường, đầu bị giữ chặt khi một sĩ quan tới gắn vào ngực anh ta Chiến thương Bội tinh.
            Vào tuần lễ thứ ba trên tàu bệnh viện, có bài báo viết về anh xuất hiện trên tờ Stars & Stripes . Y tá gắn bài báo vào đầu giường cho anh. Đầu đề bài báo là: Một TQLC giết được 7 địch quân trong những trận đánh ở Huế. Từ đó, Burghardt chỉ có thể chuyển động được tay trái mà thôi.
            Hạ sĩ Carter thấy mệt vì căn cứ Phú Bài. Lần đầu tiên khi anh ta tới Phú Bài, chỉ có một cái chân đầy mảnh đạn mà thôi. Vì thiếu Novocain nên bác sĩ cột một cái que thăm xuyên qua vết thương. Ông ta để mảnh đạn lại trong người anh, khâu một vết thương dài rồi băng lại. Suốt hai tuần điều trị, Carter thấy nản bịnh viện. Anh không muốn ở hậu cứ, cũng chẳng có việc gì làm, nên đâm ra nhớ bạn bè. Ở hậu cứ, anh lại càng thêm mệt vì mấy viên trung sĩ bắt đi lấy cát đổ vào bao để làm công sự. Anh ta còn nghe nhiều chuyện sai trái trong đại đội vì viên trung sĩ thường vụ. Có bốn thương binh được nghỉ dưỡng sức nhưng viên trung sĩ bắt họ đi giữ an ninh cho đoàn xe tiếp tế. Ba trong số họ bị phục kích chết. Vì vậy dư luận về viên trung sĩ thường vụ Carter tin là có thật. Anh ta ghét viên trung sĩ nầy, không muốn làm bất cứ việc gì với những người chẳng bao giờ ra mặt trận như viên trung sĩ nầy.
            Cuối cùng, Carter xin xuất viện. Anh ta mang balô và súng ống lên xe trở về Huế. Trên thùng xe có nhiều bao cát đầy vết máu, chắc là xe đã từng chở nhiều thương binh di tản.
            Trên đường đi chẳng có tiếng súng nổ. Trận chiến đã chấm dứt rồi.
            Carter tìm tới ban chỉ huy Đại đội Fox. Các trung đội đang truy kích quân CSBV dọc theo sông An Cựu. Ngày đầu tiên trở lại với đơn vị, anh ta đi với Trung đội 3. Họ vượt qua các hàng cây, trong khi dân chúng chạy nạn đông như nước chảy, hướng về trung tâm thành phố nay đã được an toàn. Mấy cô gái đẹp mĩm cười và hoa tay chào khi họ đi ngang bên cạnh binh lính Mỹ. Họ cố hoa tay thật nhanh vì còn e ngại bị lính My bắn vì họ là người Việt Nam. Mấy người già đi chung trong đám vẫn cứ tiếp tục đi, không dừng lại khi lính Mỹ muốn hỏi cho biết ít tin tức quân Việt Cộng. Họ nói thật nhanh: Chúng tôi không phải là Vixi.
            Cuối cùng một anh lính chặn một ông già lại, mặc dù ông già nói “Tôi không phải là Vixi.” Người lính nầy, một hạ sĩ, mặt mày giận dữ, một tay đưa nắm đấm lên, tay kia nắm cổ áo ông già, la to: “Được rồi, không ai được ra khỏi đây. Ông đi đầu, ông phải nghe lệnh.” Carter lo lắng nhìn ông già.
            Viên trung sĩ đi nhanh về phía trước, kéo ông già đi theo. Mấy người lính còn lại đi theo sau. Họ đi xuống con đường đất, ngang qua một cây cầu nhỏ và vào một khu rừng. Từ bên kia đường, có tiếng súng AK nổ dồn dập. Ông già lãnh nguyên loạt đạn và té xuống chết. Viên hạ sĩ bị thương nặng, giả chết, trong khi quân CSBV từ dưới giao thông hào chui lên, tước đồng hồ và balô của anh ta, lấy hết đạn M79. Nhờ đó mà anh hạ sĩ sống sót được.
            Số binh sĩ TQLC còn lại bắn yễm trợ mạnh mẽ, mặc dù các tàng lá cây dày làm cho họ không thấy được gì hết. Trung sĩ MaCoy bắn mấy phát đại bác không giật 3.5 inch, Carter và một anh xạ thủ nằm sát xuống đất. Binh lính CSBV thì núp trong những cái hầm họ đào như hang chuột, qua các giao thông hào và bụi rậm.
            TQLC bò qua các hàng cây vào trong một ngôi chùa nhỏ đối diện với giao thông hào của lính Cọng Sản, bắn lại dữ dội. Đại úy Downs gọi không yểm. Hai máy bay trực thăng bay tới. Carter gần như muốn la to hoan hô khi thấy trực thăng bắt đầu tác xạ, bắn tung hệ thống giao thông hào của địch.
            Quân CSBV bắt đầu bỏ chạy bán sống bán chết. TQLC nổ súng. Carter cầm súng phóng lựu bắn theo. Anh ta thấy được bóng địch té xuống trong các hàng cây trước mặt. Một cây đại liên của quân CSBV nổ dữ dội, bắn che cho đồng đội rút lui. Carter nhìn vào đám cây xanh phía trước, tìm mục tiêu. Anh ta thấy chỗ khói bốc lên bèn nhắm vào mục tiêu đó cho nổ hỏa tiễn Laww. Phát đầu tiên, hỏa tiễn đi quá mục tiêu. Anh xạ thủ đại liên hoảng kinh trèo lên khỏi hầm. Carter nhắm vào đầu anh ta và cho nổ quả thứ hai. Xác anh ta bung lên cùng với tiếng nổ.
            Tối hôm đó, Richard Carter kỷ niệm lễ sinh nhựt của anh bằng cách quẹt một vài que diêm lấy từ trong hộp bánh ra. Anh ta được 21 tuổi.
            Ngày hôm sau, vào lúc nửa đêm, cuộc hành quân Huế dài 26 ngày chính thức chấm dứt./.
hoànglonghải
dịch


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét