(Bút ký về trận đánh kéo dài 26 ngày
tết Mậu Thân năm 1968 ở Huế)
hoànglonghải dịch
Vài lời của người dịch:
Có hai lý do chính thúc đẩy tôi dịch tác phẩm nầy. Thứ nhất là vì chúng ta
biết ít về việc người Mỹ đã chiến đấu ở Việt Nam như thế nào. Tôi là nạn nhân
trận đánh Tết Mậu Thân ở Huế, tuy có theo dõi và quan sát tình hình xảy ra tại
chỗ và qua báo chí, đài phát thanh, cũng như trong thời gian phục vụ trong quân
đội Việt Nam Cộng Hòa, làm phóng sự phát thanh, phục vụ trong ngành Cảnh Sát
Quốc Gia, tại những vùng quê xa xôi hẻo lánh; tôi cũng không rõ lắm về những
người lính Mỹ đã chiến đấu, chịu nguy hiểm, thương vong như thế nào.
Có lẽ điều đó không riêng gì tôi mà thôi. Do đó, tôi dịch cuốn sách nầy để người Việt chúng ta thấy người lính Mỹ đã chiến đấu và hy sinh ra sao, đã giải phóng những vùng ở Huế bị Việt Cộng chiếm đóng và giết chóc đồng bào như thế nào.
Ngày 9 tháng Giêng âm lịch Tết Mậu Thân, khi Thủy Quân Lục Chiến Mỹ
đẩy quân Việt Cộng ra khỏi Bến Ngự, đồng bào khu vực nầy lánh nạn về trường
Kiểu Mẫu Huế. Họ vui mừng biết bao nhiêu. Chính tôi cũng như bạn bè gặp lại
nhau, mừng mừng tủi tủi, vì vừa thoát khỏi vùng tử địa. Chính gia đình của nhạc
sĩ phản chiến Trịnh Công Sơn cũng từ khu nhà cho thuê của Giám Mục Ngô Đình
Thục bên cạnh cầu Phú Cam cũng chạy về đây lánh nạn.
Thứ hai là vì gần đây, trong cuộc
tranh cử Tổng Thống Hoa Kỳ năm 2004, báo chí và truyền hình Mỹ nhắc lại quá
trình hoạt động của ông John Kerry, Thượng Nghị Sĩ. Sau khi tham chiến ở Việt
Nam về, ông John Kerry tham gia phong trào phản chiến ở Tiểu Bang
Massachusetts, tố cáo rằng lính Mỹ ở Việt Nam đã bắn giết bừa bãi cả trẻ con,
đàn bà, hãm hiếp phụ nữ và cướp bóc. Tất cả những gì mà quân đội viễn chinh
Pháp (trong đó có người Ma-Rốc, Senegal, v.v…) đã làm trong cuộc chiến tranh
Việt Pháp 1945-54, nay ông John Kerry đổ hết lên đầu những chú lính GI của Quân
Đội Hoa Kỳ. Đó là một sự vu cáo trắng trợn, bôi đen Quân Đội Mỹ.
Đọc lời dẫn nhập trong phần sau đây, độc giả sẽ thấy những người lính Mỹ sau khi tham chiến ở Việt Nam, họ phải gánh chịu một tình cảnh hẩm hiu và đáng thương như thế nào. Điều đó, một phần nào đó là do lỗi chính ở ông John Kerry và những người trong phong trào phản chiến của ông ta vậy.
Massachusetts tháng 9/04
tuệchương
tuệchương
Dẫn nhập
So với cuộc chiến tranh nổi tiếng như Thế Giới Chiến Tranh thứ Hai mà Mỹ đã
tham gia thì ngày nay, trận đánh ở Huế vẫn là một tên tuổi gần gũi. Hơn thế
nữa, những người sống sót trở về, thay vì được hoan hô như những anh hùng, và
những ai đã ngã xuống phải được tưởng nhớ, thì những điều ấy đã không thành
hiện thực. Những người Mỹ từng chiến đấu ở Huế là một phần của một thế hệ kém
may mắn, những người chính đất nước họ không thể tách rời chiến tranh ra khỏi
chiến binh, và họ là những người bị xa lánh vì đã không từ chối khi trách nhiệm
đến với họ. Tuy nhiên, đối với chiến tranh Việt Nam, một cuộc chiến không được
dân chúng mong muốn, người dân Mỹ tuồng như quên rằng binh lính của họ đã từng
chịu đựng nhiều nỗi gian khổ và thiếu thốn như những người đi trước họ, những
người từng được tán dương mạnh mẽ trong Thế giới Chiến tranh thứ Hai.
Cuốn sách nầy (The Battle for Hué)
tập trung nói lên những nỗi gian khổ ấy, – một cuộc chiến tàn bạo, kéo dài suốt
một tháng, đánh nhau từ nhà nầy qua nhà khác, chính yếu bằng ba đại đội thiếu
quân số và thiếu trang bị, thuộc các tiểu đoàn bộ binh Thủy Quân Lục Chiến Hoa
Kỳ (TQLC/ HK).
Khi các người lính TQLC/ HK đang
đánh nhau với kẻ địch ở Huế hồi ấy, tôi mới có ba tuổi. Khi lớn lên thì cuộc
chiến đó càng lúc càng mờ nhạt, xa xôi mà người ta coi đó như là những gì xấu
xa. Trong niềm im lặng ấy, – pha hợp phức tạp bằng vẻ khiếm nhã của các thầy
giáo có trí óc cởi mở của tôi, khi nói về vụ Mỹ Lai, và với những cựu chiến
binh nghiện ma túy và thần kinh rối loạn, – đã làm nảy sinh trong tôi sự yêu
thích đề tài chiến tranh nầy. Điều làm tôi băn khoăn là nhiều đồng bào tôi
chẳng thể chịu đựng được nhiều như thế, hoặc rất ít người quan tâm tới. Điều làm
tôi băn khoăn nữa cũng là việc những người bỏ trốn qua Canada hay ở nơi nào đó,
để khỏi tham gia chiến tranh Việt Nam, tán dương lòng nhân đạo của họ, trong
khi những người không trốn chạy thì phải đối đầu với gian khổ và hiểm nguy một
năm trong chiến tranh địa ngục Việt Nam, những người đó bị coi là đã bắn giết
đàn bà trẻ em, nghiện hút và non nớt, dễ bịp.
Tôi bắt đầu tìm kiếm tài liệu cho đề tài tôi ưa thích và tôi tìm được một nguồn
tài liệu độc nhứt nhưng thực sự quan trọng: Những người từng có mặt tại trận
chiến đó.
Dĩ nhiên cuốn sách nầy được viết
bằng cách phỏng vấn những người đó, là một câu chuyện lịch sử nói về thời điểm,
chiến thuật, đơn vị, tiếp liệu và những gì đã tạo ra cuộc chiến ở Huế.
Nhưng những tài liệu hữu ích của các cựu chiến binh nầy, còn có thể nói lên
thêm vài điều nữa. Nó mô tả sự hiện hữu hằng ngày của các chiến binh TQLC trong
trận chiến dài một tháng đó, những nỗi sợ hãi, chiến thắng, bạn bè mất mát,
tình chiến hữu, chán nản và mệt mỏi. Tôi được may mắn nói chuyện với các vị chỉ
huy trong trận đánh Huế, lại càng may mắn hơn được nói chuyện với những người
lính bộ binh. Cuốn sách nầy hầu hết nói về họ, về trận chiến được nhìn bằng
chính mắt họ vậy.
Tôi vẫn thường nhớ ơn một cách sâu
xa những cựu chiến binh đã giúp tôi hoàn tất tác phẩm nầy. Tôi cũng từng nói
chuyện với những người không ở Huế, và tinh thần những cuộc nói chuyện đó được
ghi lại trong sách nầy. Tôi có cơ may chuyện vãn với khoảng 3/4 cựu chiến binh
tham dự trận đánh Huế. Một số những người đó, ngày nay là các tướng lãnh, mặc
dù rất bận bịu, cũng dành thì giờ xem lại bản thảo của tôi, cũng như rà soát
lại tin tức tôi có được. Những người khác, những người lúc ấy còn trẻ, đã giúp
tôi công việc nầy, ngay từ khi bắt đầu và kéo dài suốt nhiều năm. Tôi xin cám
ơn tất cả mọi người. Tôi xin bày tỏ lòng cám ơn sự giúp đỡ của họ cũng như niềm
tin đã đưa tới một kết luận vững chắc.
Các cựu chiến binh đặc biệt giúp đỡ
hoàn thành cuốn sách nầy gồm có:
-Tướng William C. Westmoreland (hồi hưu),
-Tướng Foster C. LaHue (hồi hưu),
tướng John J. Tolson (hồi hưu).
-Đại tá Frank Breth, đại tá James Coolican, đại tá Marcus J. Gravel, đại tá
Robert H. Hamilton (hồi hưu), đại tá Myron C. Harrington, đại tá Edward J.
LaMontagne (hồi hưu), đại tá Wayne R. Swenson, đại tá Robert H. Thompson (hồi
hưu).
-Trung tá Gordon D. Batcheller, trung tá Terry Charbonneau, trung tá William
Harvey, trung tá Ralph J. Salvati (hồi hưu)
-Thiếu tá James V. DiBernardo (hồi hưu), thiếu tá Harold Pyle (hồi hưu).
-Đại úy Dale A. Dye, William Dickman,
-Trung sĩ Frank Thomas, trung sĩ Joseph L. McLaughlin (hồi hưu), trung sĩ Paul
Thompson (hồi hưu), trung sĩ Josef Burghardt (hồi hưu), trung sĩ Richard W.
Carter, trung sĩ Edward F. Neas, trung sĩ Steve Berntson (hồi hưu).
-Thiếu úy Richard Lyons (hồi hưu), thiếu úy Patrick Polk (hồi hưu).
-Hạ sĩ Dan Allbritton (hồi hưu), Peter Braestrup, hạ sĩ Bill Jackson (hồi hưu),
hạ sĩ Edward Landry (hồi hưu), hạ sĩ Lewis C. Lawhorn (hồi hưu), hạ sĩ Brian
Mayer (hồi hưu), George Schamberger (hồi hưu), và Don Webster.
-Đặc biệt chân thành cám ơn Tướng
O.K. Steele (ra trường cùng lớp và cùng năm 1956 với thân phụ tôi, William F.
Nolan). Khi là đại tá, làm chỉ huy trưởng một đơn vị Hải Quân đóng tại
Washington D.C. Năm 1981, Steele mời tôi đến sống hai tuần với gia đình ông
ngay trong doanh trại quân đội. Đó là một cuộc thăm viếng kỳ lạ. Tướng Steele
không những kể cho tôi nghe những hồi ức của ông về Huế, chỉ cho tôi thấy hướng
thành công do TQLC đạt được, và sắp đặt cho tôi phỏng vấn Bill Harvey và Harold
Pyle.
-Cũng xin bày tỏ lòng cám ơn với Trung Tâm Tư Liệu Lịch Sử Binh Chủng TQLC tại
Washington D.C., đã cung cấp cho tôi vô số tin tức cũng như tài liệu liên quan
đến TQLC tại Việt Nam. Hai vị trong cơ quan nầy, tướng hồi hưu Edwin H. Simmons
và Robert Skidmore đã tận tình giúp đỡ và khuyến khích tôi trong suốt mấy năm
tôi tìm kiếm tư liệu ở đây./
Keith W. Nolan
Tháng Tám 1983
Tháng Tám 1983
Huế, Trận đánh Mậu Thân – Lời Nói Đầu
Huế, cũng như Saigon, tới đêm thứ hai mới bị tấn công. Và cũng như Saigon, Huế
chẳng chuẩn bị gì để đối phó với địch mặc dù được báo động trước một ngày. Dù
vậy, những người bảo vệ Huế không đủ khả năng chống lại những người tấn công
họ. Cộng Sản đã đạt được những điểm tựa vững chắc và hoàn thành mục tiêu của
họ.
Thực ra, Huế có hai thành phố: Khu
Nội Thành, thường được gọi là Thành Nội Huế, là một pháo đài có tường thành bao
bọc, theo kiểu hoàng thành Bắc Kinh. Một khu vực tường cao và vuông vức, mỗi cạnh
dài khoảng hai dặm Anh, nằm bên bờ sông Hương, một thời là nơi sinh hoạt của
các vị “hoàng đế An-Nam”. Ở đây có nhiều kiến trúc cổ và tôn kính, gồm cả kỳ
đài Ngọ Môn và điện Thái Hòa. Một trong những ít ỏi đền đài văn hóa của người
Việt Nam, bao bọc che chở bằng một tường thành cao mười sáu bộ và bề dày tường
thành thay đổi từ sáu mươi đến trên hai trăm bộ.
Tướng Ngô Quang Trưởng (năm 1968 là
đại tá – ngd), Tư Lệnh Sư Đoàn 1, làm lễ thượng kỳ tại thành Mang Cá, (bộ Tư
Lệnh Sư Đoàn) vào sáng ngày 30 tháng Giêng dương lịch, để kỹ niệm ngày đầu năm
âm lịch. Ngay sau đó, ông ta nhận được nhiều tin dữ, báo cho biết quân Cộng Sản
tấn công nhiều nơi trong nước. Một cách thận trọng, nhưng không biểu lộ lo lắng
quá đáng, ông ra lệnh báo động toàn sư đoàn và chỉ thị cho quân nhân phục vụ
tại Bộ Tư Lệnh cấm trại đêm hôm đó. Hành động cẩn mật nầy làm cho Bộ Tư Lệnh Sư
Đoàn không bị thiệt hại gì và toàn bộ sư đoàn không rơi vào tình trạng đột
ngột. Mặc dù tướng Trưởng không biết, nhưng đặc công Cộng Sản đã xâm nhập vào
thành phố từ hai ngày trước và đang chờ hai trung đoàn Cộng Sản từ bên ngoài
tấn công vào.
Những trung đoàn nầy, trung đoàn 5 do trung tá Nguyễn Vân chỉ huy, và trung
đoàn 6 do trung tá Nguyễn Trọng Dần chỉ huy, bí mật tiến về Huế trong lúc tướng
Trưởng làm lễ chào cờ đầu năm. Nhìn chung, tám tiểu đoàn của hai trung đoàn
nầy, gồm bảy ngàn rưởi binh lính, kể chung cả quân Việt Cộng Miền Nam và Cộng
Sản Bắc Việt (CSBV) đảm nhận việc đánh chiếm thành phố Huế.
Vào khoảng hai giờ sáng, binh lính
của Dần, nhờ sương mù dày đặc và hướng dẫn viên đưa vào thành phố đã bí mật tới
được vùng ngoại ô Huế, rồi tiến thẳng vào mục tiêu: Thành Nội Huế.
Vào lúc 3giờ 40 phút sáng họ tiến
tới một khu vực, làm cho lính canh hoảng hốt, ngạc nhiên, và tức khắc quân Cộng
Sản thiết lập được một đầu cầu. Trong khi đó, binh lính trung đoàn 5 của trung
tá Vân, bị trì hoãn vì lọt vào một cuộc phục kích của Quân Đội VNCH. Họ phải
vội vàng chống trả một toán quân nổi tiếng thiện chiến. Vì vậy, tới sáng, hai
trung đoàn chỉ chiếm được có một phần Thành Nội. Họ không thể chiếm toàn bộ khu
nội thành mà phải chia phần trong với những người lính chiến đấu một cách dũng
cảm của tướng Trưởng. Khoảng hai tiểu đoàn quân số và trang bị đầy đủ chiếm
đóng phần trọng yếu trong Thành Nội. Trong khi hai tiểu đoàn nầy lo củng cố vị
trí mới chiếm được thì các tiểu đoàn khác củng cố vị trí của họ bên ngoài thành
phố, đặc biệt ở khu hữu ngạn (phía nam) sông Hương. Tới 8 giờ sáng, các sĩ quan
Đồng Minh cảm thấy buồn phiền khi một lá cờ to của Cộng Sản ngạo nghễ bay trên
cột cờ Ngọ Môn.
Ngay lập tức, lực lượng Đồng Minh
phản công.
Hải Quân Mỹ, quân Nhảy Dù, Thiết
Giáp Việt Nam Cọng Hòa cố gắng đánh bật quân Cộng Sản ra khỏi thành phố. Họ
thất bại. Cố gắng đầu tiên của họ trở thành một mô hình. Ngày hôm sau, các đơn
vị Đồng Minh nổ lực đẩy quân Cộng Sản ngoan cố ra khỏi Thành Nội và nới lỏng
việc nắm giữ chặt chẽ vùng phụ cận. Tuy nhiên, họ thấy tình hình khó khăn đến
nỗi không thể không gánh chịu thương vong nặng nề. Họ cũng hết sức miễn cưỡng
phải xử dụng các loại vũ khí có sức tàn phá lớn tại đây, trung tâm văn hóa mà
địch quân đã đào hào đắp hố để chống cự. Kết quả là một cuộc chiến đấu căng
thẳng, đánh cận chiến qua từng nhà một, vô cùng đẫm máu và kéo dài.
Rút từ “Summons of the Trumpet”
Dave Richard Palmer, Presidio Press, 1978 trang 192-93
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét