Phần một:
Vọng lâu trên cửa thành
Thật là một điều không hợp lý chút
nào sau khi rút những người lính TQLC trang bị hiện đại ra khỏi những đám ruộng
nước lầy lội thì lại đẩy họ vào chiến đấu ở một khu thành lũy xây từ thế kỷ 18
(thật ra là xây vào đầu thế kỷ 19, đời vua Gia Long -1802-1820 ngd), nhiều hồ
ao chung quanh với tất cả những gì khó khăn.
Thực ra, Huế có hai thành phố riêng biệt và TQLC phải chiến đấu trong hai chiến
trường khác nhau. Với họ, khu Huế-nam đã được kiểm soát, giai đoạn hai là chiếm
lại khu bắc thành phố: Thành Nội Huế.
Cuộc chiến đấu ở khu nam đã gay go, ở khu bắc lại càng thêm gian khổ. Số thương
vong thật khủng khiếp, giành từng tất đất, nhà cửa sụp đổ gia tăng từng ngày,
ghi lại nhiều dấu vết ghê gớm như trong trận Monte Cassino ở Ý hồi năm 1944.
Michael Herr, một trong những phóng viên theo chân TQLC trong Thành Nội, cố
gắng giải thích sự kiện nầy:
“Trong những ngày tệ hại nhất đó,
chẳng có ai hy vọng mình sẽ được sống sót… Tất cả họ đều biết trận đánh hết sức
tồi tệ, tính chất khác thường của trận đánh trong thành phố nầy trở thành một
câu chuyện đùa đáng ngại: Ai cũng muốn bị thương.”
Lewis C. Lawhorn, là trưởng toán hỏa lực thuộc Trung đội I, Đại Đội Delta, Tiểu
Đoàn 1, Trung Đoàn 5, Sư Đoàn 1/ TQLC. Anh ta là người da đen, 21 tuổi, thông
minh, quê ở thành phố thép Vandergrift, Pennsylvania. Anh ta trở lại Việt Nam
hồi tháng 11 năm 1967, hơn hai tháng trước, và lúc ấy, anh ta biết những gì
được gọi là dành cho người lính bộ binh. Cuộc sống anh ta quá gian khổ, như tất
cả những người lính TQLC khác vậy: Lội bì bõm qua các ruộng nước, chịu đựng bọ
chét, muỗi, những cơn mưa phùn gió bấc lạnh giá; không có buồng tắm, không có
giường sạch, không có bia lạnh, chỉ có mặt trời nắng cháy, balô 50 pound trên
lưng, hàng dặm đường rừng mồ hôi nhễ nhại, phá rừng đi tuần phòng. Đêm đêm, ngủ
chút ít, trực máy điện đàm, phục kích đêm, và dĩ nhiên, địch luôn luôn rình
rập.
Lawhorn chẳng suy nghĩ gì nhiều về việc tại sao anh ta tham gia cuộc chiến nầy
ở Việt Nam, nhưng anh ta tin tưởng một cách chân thành vào đất nước anh. Thế là
đủ. Điều anh ta chiến đấu vì anh là một TQLC. Đó là điều anh ta tin tưởng. Đại
úy Myron Harrington, đại đội trưởng là một người mới, Lawhorn muốn chờ xem anh
ta chỉ huy như thế nào. Nhưng trung đội trưởng Trung Đội 1, thiếu úy Maurice là
một chỉ huy giỏi. Các trưởng toán, hạ sĩ, trung sĩ trong trung đội là những chỉ
huy tốt. Anh ta cũng như những binh sĩ khác, được đối xử như nhau. Anh ta từng
nói:
“Tôi biết chẳng có vấn đề gì ở hậu
tuyến, những rắc rối về chủng tộc ở hậu tuyến. Chúng tôi chẳng mất thì giờ với
những vấn đề như thế. Chúng tôi quá bận bịu với những công việc như đào công sự
để núp đạn, quần thảo với địch để sống còn. Binh lính CSBV khi bắn bạn, họ
không cần bận tâm bạn có màu da gì. Đơn vị tôi – người thì ở miền Nam, người ở
cực Nam, người ở Nữu Ước, ở Massachusetts, nhiều nơi khác nhau, giọng nói khác
nhau, nhưng chúng tôi cùng chung một toán, một đơn vị. Chúng tôi có người đen,
Porto-Ricô, da đỏ, da trắng; nhưng chúng tôi không có vấn đề gì hết. Chúng tôi
gọi nhau là anh bạn da trắng, mắt xanh. Chúng tôi hòa hợp với nhau bởi một
điều, chúng tôi là TQLC. Chúng tôi đến đây để thi hành xong nhiệm kỳ rồi về
nước. Điều khác, chúng tôi phụ thuộc vào nhau. Đó là điều phải có trong ngành
bộ binh, khi chúng tôi là những TQLC. Chúng tôi sống với nhau, ngủ với nhau,
khóc với nhau, cầu nguyện cho nhau. Chúng tôi phụ nhau để hoàn thành nhiệm vụ.
Tôi là bạn của mọi người trong trung đội. Tất cả chúng tôi là bè bạn. Đơn vị
tôi, chỉ huy giỏi, khả năng giỏi, và chúng tôi được tiếng tốt. Phương châm
chúng tôi ở Đại đội Delta là Phục vụ cho Delta. Dù công việc khó khăn như thế
nào, chúng tôi cũng đảm đương. Thi hành công tác nào, chúng tôi cũng vẹn toàn
với niềm tự hào của người lính TQLC.”
Lawhorn và những người khác cần có tự hào, tình đồng đội, can đảm và thực hành
nhiệm vụ mình ở Thành Nội Huế.
Đại đội trưởng Đại Đội Delta, đại úy Myron Harrington hơi lo lắng một chút. Ông
ta, 27 tuổi, có gia đình, quê ở Georgia, phục vụ ở Việt Nam 6 tháng nhưng tại
đơn vị tiếp liệu ở Đà Nẵng, mới làm đại đội trưởng Đại đội Delta hôm 23 tháng
Giêng, không nhiều kinh nghiệm chiến đấu. Ông ta và đại đội giữ nhiệm vụ bảo vệ
Căn Cứ Hỏa Lực Đồi 147, phía bắc đèo Hải Vân khi cuộc tổng tấn công Huế bắt
đầu. Tin tức anh ta nhận được chẳng có gì tốt lành. Tiểu đoàn đóng tại Phú Lộc,
trên Quốc Lộ 1, cách Phú Bài khoảng 10 dặm về phía Nam, bắt đầu bị quân Cộng
Sản pháo kích liên tục. Chỗ nầy cũng gần với các đơn vị hỗn hợp Việt Mỹ hoạt
động ở cơ sở (làng – ngd). Các đơn vị nầy cũng đang bị tấn công. Nhiều đơn vị
thuộc Đại Đội 1/ 5 được tăng phái giữ nhiệm vụ như đội cứu cấp tới giúp đỡ giữ
làng kẻo sợ Cọng Sản chiếm mất. Tới ngày 1 tháng Hai, khi đơn vị hỗn hợp Việt
Mỹ H-5 bị CSBV tràn ngập, thì trung tá Rebert P. Whalen, tiểu đoàn trưởng, đích
thân dẫn đơn vị tiếp cứu. Đoàn xe bị pháo kích, trung tá Whalen bị thương nặng.
Trung đội phản kích tiến tới trước thì lọt ổ phục kích trước khi bắt tay được
với đơn vị hỗn hợp H-5. Một đơn vị thứ ba cũng bị cầm chân. Đó là cuộc tấn công
thứ tư của Cọng Sản nhằm chiếm quận lỵ Phú Lộc. Ông đại tá và binh sĩ ông cách
quận lỵ chỉ có 200 thước. Tình hình diễn biến rất tệ hại.
Cuối cùng, ngày 3 tháng Hai, đại úy Harrington được lệnh tham chiến. Ông ta
cùng đại đội phải di chuyển bộ 12 cây số từ Căn Cứ Hỏa Lực Đồi 147 xuống quận
lỵ Phú Lộc nằm trên QL. 1 để tăng cường cho đơn vị ở đây. Chẳng ai trong tiểu
đoàn biết rõ tình hình địch ở khu vực nầy như thế nào. Họ cho biết chẳng có
địch trên đường di chuyển của Harrington. Anh ta để lại một trung đội để bảo vệ
các khẩu pháo tại căn cứ nầy, rồi từ sáng sớm, cùng các trung đội còn lại tiến
về Phú Lộc.
Trên đường tiến quân, họ qua Thừa Lưu, một xóm nhỏ, xóm nầy nằm giữa những ngọn
đồi thoai thoải và cách biển Đông khoảng một cây số, bên phía mặt. Lawhorn và
các TQLC khác rất thích xóm Thừa Lưu nầy; người dân ở đây rất tốt. Khi đi tuần
trong thị trấn nầy, chẳng bao giờ họ bị bắn sẻ. Nhiều lần đi phục kích đêm,
những đêm mưa phùn ướt át, họ lẻn qua đêm ở đây, trong một gian nhà tranh của
ai đó, gọi điện báo cáo giả địa điểm phục kích, có thể nghe tiếng đạn nổ bùm
bùm đâu đó, hút thuốc, nghỉ ngơi. Nhưng tất cả chỉ là trước Tết mà thôi.
Có tiếng súng AK-47 bất thần nổ ran phía trước khi họ mới vào tới rìa thị trấn.
Lawhorn và đồng đội nằm sát xuống đất. Đại úy Harrington đang liên lạc truyền
tin, nói rằng có lẽ có vài tên bắn sẻ nào đó, cứ tiếp tục di chuyển. Toán TQLC
tiếp tục tiến qua thị trấn, mọi người càng lúc càng kinh hãi hơn. Nhà cửa đều
trống không. Quang cảnh hoàn toàn vắng vẻ. Lawhorn nắm chặt cây M-16 nhìn chăm
chăm từ nhà nầy qua nhà khác. Chắc có gì tệ hại sắp xảy ra đây. Qua được nửa
xóm Thừa Lưu thì điều tệ hại đó xảy ra thật.
Lawhorn đang quan sát những quán lều ở phía trước, thì một tràng đạn lửa nổ ran
trước mặt. Hai TQLC đang di chuyển trên đường gục xuống, số còn lại tản ra. Đạn
từ trên sườn đồi chung quanh thị trấn bắn xuống như mưa. Quân CSBV bắt đầu nã
súng cối xuống. Đang tìm chỗ núp thì Lawhorn nghe tiếng đạn xé bên tai, hơi
nóng phụt qua và viên đạn nổ ngay bên kia đường. Anh ta có cảm tưởng như tai
anh ta bay mất. Anh trung sĩ chạy ngược lui, nằm tròn bên cạnh và nắm đầu anh
ta. Nhưng anh ta không hề hấn gì. Anh ta coi như suýt nguy đến tính mạng mà
thôi. Phía trước, anh ta thấy có bóng người di chuyển qua từng nhà. TQLC thì
nằm bẹp sát đất, bắn như điên. Quân CSBV thì từ ba hướng bắn tới.
Trên đường, Harrington và người hiệu thính viên đang khom mình xuống, tránh
đạn, không biết việc gì đang xảy ra. Sau khi nhắm chừng hỏa lực địch là cở một
tiểu đoàn CSBV, việc làm đầu tiên của Harrington là liên lạc bằng truyền tin,
gọi chiến hạm Mỹ đang đậu phía ngoài biển gần đó bắn yểm trợ.
Phía trước, hỏa lực địch mỗi lúc một yếu đi, Lawhorn và trung đội của anh bắn
trả dữ dội, vừa bắn vừa rút lui, củng cố vị trí bên phía bờ con đường đất, ngập
nước vì những cơn mưa mùa. Họ trụ lại, trong đám phân rác ngang tới bụng. Trung
úy Green muốn tấn công vào thị trấn, – Ông ta không thể đứng hay ngồi trên bùn,
dần dần thấy được trung đội của anh ta đang bị địch đánh tan, liền la to lên,
ra lệnh tác xạ, cố kéo binh lính của anh về lại bên nầy bờ đường đất. Anh ta
muốn di chuyển, nhưng một tràng AK nổ dòn khiến bùn và nước bay tung tóe chung
quanh. Đạn trúng mắt cá, anh ta cúi xuống. Một TQLC khác, một người da đen,
muốn vượt qua bên kia bờ đường thì té nhào xuống vì trúng đạn vào đầu. Ai cũng
lo ngồi núp sát đất, bối rối và sợ hãi.
Trên đường, họ thấy một chiếc trực thăng tải thương đang đáp xuống giữa lưới
đạn. Người lính TQLC bị đạn ở đầu đang thở một cách chậm chạp. Lawhorn, hai
TQLC khác, và một người bị thương ở vai cố đẩy anh ta vào một cái áo đi mưa. Cả
bốn người trong bọn họ trèo lên mặt đường cùng với người bị thương, cố chạy
thật nhanh để chuyển người bị thương tới chỗ trực thăng đáp. Họ phải chạy
khoảng 15 thước, Lawhorn nghe tiếng đạn AK rít trên đầu, thấy đạn rơi trên mặt
đường. Họ để người bị thương xuống thì Lawhorn vừa nghe có tiếng kêu bụp rõ
ràng là tiếng đạn xé vào thịt, và nghe tiếng người lính TQLC bị thương ở vai la
lên: “Đ. mẹ.” Một viên đạn khác xé rách cổ tay anh ta. Họ quay trở ngược
bờ đất bên đường và nép xuống bùn.
Lawhorn và một trong các TQLC nắm lấy mắt cá người lính bị thương ở đầu và kéo
anh ta ra khỏi chỗ hai bên đang bắn nhau. Rồi họ lại bắt đầu chạy tới chỗ trực
thăng đáp, mang theo người bị thương, đầu cúi thấp, cố chạy qua khỏi vũng bùn.
Một chiếc trực thăng khác, to, hình dáng như châu chấu Sea-Knight vừa sà xuống
nã đạn, vừa mở cửa hậu. Mấy người lính TQLC lao nhanh tới, mang những người bị
thương theo. Lawhorn buông người lính da đen bị thương xuống sàn, chiếc máy bay
vội vàng lắc mình lên. Lawhorn đeo vào chiếc trực thăng, hai chân đong đưa,
nghiến răng khi một tràng AK nổ, bắn thủng tấm nhôm cửa hậu máy bay. Người y tá
la to để phi công đừng đóng cửa sau lại, sợ Lawhorn bị chẹt, rồi nắm tay và vai
anh ta cố kéo vào bên trong. Anh ta đứng lên, thở một cách nặng nhọc, áo giáp
và quần anh ta đẫm đầy bùn và máu của đồng đội. Người xạ thủ đại liên nơi cửa
nhìn anh ta như chưa từng nhìn thấy một anh TQLC nào kỳ cục dơ dáy như vậy cả.
Chiếc Sea Knight đáp xuống Đà-Nẵng. Nhiều y tá khác dồn vào trong máy bay lo
cứu cấp người bị thương. Phi công là một thiếu tá, xin lỗi Lawhorn về việc ông
ta đã vội vàng cất cánh. Ông ta hỏi ở Thừa Lưu còn ai bị thương nữa không?
Lawhorn trả lời có. Sau khi lấy thêm nhiên liệu, họ lại bay trở lại chỗ đang
đánh nhau. Chiếc máy bay bay là là trên các đám ruộng ngoài rìa thị trấn,
Lawhorn chạy lui núp phía sau máy bay. Súng còn nổ, và TQLC chạy ngược lui phía
đường lộ, mang theo người bị thương. (Báo cáo hôm đó nói phía TQLC có 10 người
bị thương nặng; phía CSBV có 12 chết). Chiếc máy bay lại bay lên. Khi đó
Lawhorn tìm được tiểu đội của anh và toàn thể đại đội rút lui phía QL 1. Họ vẫn
còn tiếp tục chiến đấu rất căng và vững nhưng không thể cầm cự lâu được, do đó,
đại đội trưởng Harrington yêu cầu tiểu đoàn cho rút lui.
Họ đi bộ khoảng hai hay ba cây số trở lại căn cứ hỏa lực và tối đó, ngủ qua đêm
ở đó, nhìn đạn đại bác nổ liên tiếp ở phía Thừa Lưu. Buổi sáng ngày 4 tháng
Hai, họ lại xuống QL 1 và lại bắt đầu từ đầu. Quân CSBV từ trong làng và ở
những chỗ đất cao bắn ra và nã súng cối tới. TQLC bỏ đường lộ, núp trong các
đám ruộng hai bên bắn trả. Họ nghe tiếng còi của địch thổi bên phía hông khi
địch cố bao vây đại đội. Harrington lại gọi pháo binh phản pháo. Lại gọi thêm
súng cối, đại bác và Hải pháo bắn vào làng, kêu trực thăng tới tải thương. Lần
nầy thì có báo cáo nói phía TQLC có 7 bị thương và 11 CSBV bị giết. TQLC lại
trải qua một đêm nữa ở căn cứ hỏa lực và biết rằng hôm sau lại phải trở lại
Thừa Lưu. Mọi người cố nuốt sợ, chuẩn bị lại hành trang, nhưng có một anh TQLC,
một anh da đen tên là Campbell, mới tới Việt Nam, bắt đầu nói chuyện với
Lawhorn, cứ nói đi nói lại hoài rằng anh ta chẳng sợ chút nào cả.
Đêm đó, họ quay lại ngôi làng, lặng lẽ tiến ngang qua làng và cuối cùng nhận ra
rằng quân CSBV đã rút đi. Họ rút đi, để lại ngôi làng bị súng đạn tàn phá. Đại
Đội Delta vượt qua con sông nhỏ, chỗ gần cây cầu đã bị đánh sập và tiếp xúc
được với đơn vị của tiểu đoàn đang tiến xuống hướng nam để tăng cường cho Đại
Đội Delta.
Tới trưa, họ quay trở lại tuần tra đường phố, tiểu đội của Lawhorn đi theo các
bụi cây bên đường, giữ an ninh mặt hông thì bỗng có một tiếng nổ kinh hồn trên
đường, mọi người sẵn sàng nhưng không nghe súng nổ. Vì vậy, Lawhorn núp bên bờ
đường nhìn theo dọc đường đi. Có làn khói cuộn lên cao trong không khí. Lính
TQLC và y tá đang chạy lòng vòng. Lawhorn thấy có vài TQLC nằm lăn trên đất, bị
thương. Có một TQLC khác nằm ngang mặt đường, nhiều mảnh áo quần thấm máu, chân
một đường, tay một nẽo. Anh ta đạp nhằm một trái mìn chống tăng – 50 pound
thuốc nổ TNT. Đó chính là anh lính mới: Campbell.
Sau trận đó, Đại đội Delta bắt tay cùng các đơn vị còn lại của tiểu đoàn trong
các cuộc tuần tiểu quanh Phú Lộc, đụng đầu với các tay bán sẻ, pháo kích, đánh
nhau trong những ngày mưa gió ở một đất nước mà nhà nhà phân cách nhau bằng
những thửa ruộng lúa.
Có tin đồn Đại Đội 1/ 5 sẽ được đưa lên phía bắc để giúp giành lại thành phố
Huế. Lawhorn hy vọng việc ấy không có. Trong đời, anh ta từng gặp nhiều trận
đánh quá rồi.
&
Ngày 10 tháng Hai, 1968, có lệnh cho đơn vị 1/5 tảo thanh quân địch ở Thành Nội
Huế. Cho đến lúc đó, binh lính Nam VN đang đánh nhau với quân CSBV ở Huế. Đại
đội 1/1 và 2/5 đang tảo thanh quân địch ở khu Huế-nam. Tướng Trưởng, Tư lệnh Sư
đoàn 1 Bộ Binh đang chỉ huy binh lính của ông chiếm lại Đại Nội.
Buổi sáng ngày 31 tháng Một năm 1968, trong khi TQLC đang củng cố an ninh ở
MACV, tướng Trưởng và binh lính của ông ở Mang Cá, đã dũng cảm đứng vững được,
bảo toàn doanh trại của họ. Đại đội Hắc Báo, do đại úy Trần Ngọc Huế chỉ huy,
cố thủ ở phi trường Thành Nội khi CSBV tấn công. Quân đội Nam Việt Nam xử dụng
hỏa tiển đè bẹp ngay cuộc tấn công mở đầu. Một tiểu đoàn khác của quân CSBV tấn
công bộ tư lệnh của tướng Trưởng, chiếm tới khu vực đại đội quân y. Một sĩ quan
tham mưu, trung úy Nguyễn Ái, mặc dù bị thương ở vai, đã chỉ huy cuộc phản công
gồm toàn những binh sĩ văn phòng, đẩy lùi cuộc tấn công đầu tiên của địch. Tướng
Trưởng ra lệnh cho đại đội Hắc Báo tiếp viện, đơn vị nầy cùng hai trăm nhân
viên văn phòng phản công và bảo toàn được bộ Tư lệnh.
Việc tướng Trưởng tiên liệu cho tập họp ban tham mưu tại Bộ Tư Lệnh đã giữ được
cấu trúc Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn. Từ Bộ Tư Lệnh đang bị bao vây nầy, ông ta đã ra
lệnh cho bộ binh, nhảy dù, thiết giáp trú đóng ở bên ngoài Huế tiến vào và tăng
cường cho Bộ Tư lệnh. Đối đầu với cuộc tấn công dữ dội, chịu tổn thương và
thương vong quá nặng, các đơn vị Quân Đội Việt Nam Cọng Hòa đánh cận chiến với
quân địch để tiếp ứng cho Bộ Tư Lệnh. Đến khi trận đánh chấm dứt, lực lượng của
tướng Trưởng gồm các đơn vị sau đây: Đại Đội 1 và Đại Đội 2, (Trung Đoàn 1),
Tiểu Đoàn 4, (Trung Đoàn 2, Trung Đoàn 3), Đại Đội Hắc Báo và Đại Đội Thám Sát;
Chi Đoàn 1, Chi Đoàn 2 và Chi Đoàn 3 thuộc Thiết Đoàn 7 Kỵ Binh; Tiểu Đoàn 2,
Tiểu Đoàn 7 và Tiểu Đoàn 9 thuộc Sư Đoàn Dù, Tiểu Đoàn 1, Tiểu Đoàn 4 và Tiểu
Đoàn 5, thuộc Sư Đoàn TQLC/ VNCH; Tiểu Đoàn 21 và Tiểu Đoàn 39 Biệt Động Quân.
Từ Bộ Tư Lệnh, họ dã có những cố gắng mãnh liệt để chiếm lại Thành Nội. Đối với
binh lính Nam Việt Nam, chiến đấu trên đường phố là cuộc chiến cực kỳ khó khăn
mà họ chưa quen. Nhiều người gia đình họ ở ngay trong thành phố, nên việc chiến
đấu lại khó khăn thêm. Trong nhiều trường hợp, họ phải bắn sập nhà của họ để
đánh đuổi địch quân ra khỏi nơi chúng ẩn náu.
Đó là một thời kỳ giết chóc ghê gớm. Nhà nhà đều đóng chặt cửa nẻo, chỉ bị mất
khi quân CSBV tấn công đêm bằng cách quăng giây qua tường để leo lên. Các tiểu
đoàn Quân đội VNCH bị cắt đứt tiếp tế, phải tự chiến đấu trong nhiều ngày để
bắt tay với Bộ Tư Lệnh. Không Quân Việt Nam được lệnh của tướng Lãm cho oanh
tạc ngay Thành Nội, nhưng quân CSBV vẫn còn dai dẳng bám chặt vị trí của chúng.
Ví dụ về một trong những trận đánh dữ dội ấy là trận xảy ra ngày 5 tháng Hai,
Tiểu Đoàn 4, (Trung Đoàn 3) vượt qua sông Hương, tấn công 7 lần vào Thành Nội
mà không thành công. Một đơn vị thiết giáp gồn 12 thiết vận xa vào Huế, tám
chiếc bị bắn cháy. Cuối cùng, binh sĩ Quân Đội Nam Việt Nam bắt đầu mất tinh
thần, ngay trong tuần đầu. Thật ra, họ muốn củng cố phòng thủ để chờ lệnh.
Tướng Trưởng không phải là người chểnh mảng nhiệm vụ. Ông ta nhỏ con, ốm nhưng
lại hoàn toàn có khả năng. Ông ta nhận nhiệm vụ Tư Lệnh Sư Đoàn năm 1966 trong
tình hình suy sụp vì cuộc đấu tranh của Phật Giáo, và chấn chỉnh sư đoàn thành
một đơn vị tác chiến giỏi. Tướng Wesmoreland đánh giá cao tài ba của tướng
Trưởng. Nhiều sĩ quan Mỹ còn nói rằng họ tin tưởng tướng Trưởng, ông có thể chỉ
huy một đơn vị quân đội Mỹ. Dù sao, việc Thành Nội bị địch chiếm đã làm cho Sư
Đoàn 1/ BB mất năng lực chiến đấu. Chiến đấu với kẻ thù có nghĩa là vấn đề tiếp
tế phải được đều đặn, binh sĩ được tăng cường bởi những người có tinh thần và
sức chiến đấu còn cao, không yểm không bị hạn chế vì thời tiết xấu, không chịu
thương vong nặng nề, không thiếu những vũ khí dùng để tác chiến trên đường phố
như đại bác 106 ly không giật, và trên tất cả là một sức mạnh ý chí như TQLC Mỹ
ở khu Nam Huế. Thiếu những điều kiện đó, Quân đội Miền Nam VN phải chuyển từ
thế tấn công qua thế phòng ngự.
Thiếu tá Swenson, sĩ quan liên lạc TQLC đã chiến đấu ở khu MAC.V sau đó được
trực thăng đưa vào bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 1 giải thích tình hình lúc đó như sau:
“Tôi hết sức ngưỡng mộ tướng Trưởng
và sĩ quan trong sư đoàn. Sư đoàn có các trung đoàn trưởng xuất sắc và họ chỉ
huy rất giỏi, nhưng không phải lúc nào cũng được vậy. Tướng Trưởng là một vị tư
lệnh cứng cỏi, khiêm nhượng và biết lắng nghe ý kiến người khác. Tuy nhiên, tôi
có thể dám chắc với quí vị là chỉ có TQLC/HK, chỉ có họ mà thôi mới có thể
chiến thắng ở Huế. Mặc dù Quân Đội Nam VN chịu nhiều hy sinh và nhiều đơn vị
chiến đấu hết sức tài ba, tới ngày thứ tư của trận đánh, số thương vong của họ
còn thấp và các cuộc hành quân tạm thời của họ vẫn được xem như dậm chân tại
chỗ, và số thương vong không gia tăng thêm.”
Quân Đội VNCH muốn nắm lấy vinh dự giải tỏa Thành Nội Huế, nhưng đến ngày 9
tháng Hai tướng Trưởng buộc phải yêu cầu Hoa Kỳ giúp đỡ. Liên tiếp nhiều bức điện
gởi tới cho tướng LaHue ở Phú Bài và cuối cùng quyết định Đại Đội 1/ 5 nhận
nhiệm vụ giải tỏa Thành Nội Huế.
Thành Nội Huế trở thành nơi biểu diễn tác chiến của TQLC/ Hoa-Kỳ. Thiếu tá
Robert Thompson là sĩ quan chỉ huy Tiểu Đoàn 1, Trung Đoàn 5. Ông ta 37 tuổi,
to con, gầy giơ xương, tính tình tốt và nghiêm nghị, có gia đình và mấy con,
quê ở Corinth, Mississippi. Ông ta nắm tiểu đoàn hôm 2 tháng Hai vì thiếu người
chỉ huy chứ không có gì khác. Khi trung tá Whalen, một người bạn cũ của ông ta,
bị thương khi làm trung đoàn trưởng trung đoàn 1 thì đại tá Bohn (có biết
Thompson), ra lệnh ông ta rời chức vụ sĩ quan hành chánh tiểu đoàn để nắm chức
vụ mới. Thiếu tá P.A. Wilson đang giữ quyền chức vụ nầy. Lúc đó, thiếu tá
Thompson ở Việt Nam đã được 6 tháng, phục vụ tại bộ chỉ huy III MAF tại Đà
Nẵng. Mỗi tối, ông ta uống bia lạnh, thịt nướng lò. Ngày đầu tiên ông ta ở mặt
trận với Đại Đội 1/ 5 hoàn toàn trái ngược với cuộc sống thoải mái của ông ta ở
Đà-Nẵng. Khi bước ra khỏi chiếc trực thăng chở hàng tiếp tế tới Phú-Lộc, quân
CSBV đang pháo kích, và ông ta phải mất 5 phút đầu tiên của thời gian chỉ huy ở
đây để chúi đầu vào hố cá nhân đầy bùn mà đồ trang bị cùng với mấy TQLC đang
nằm chồng nhau để tránh pháo kích.
Thompson chỉ có một tuần để tìm hiểu đơn vị của ông ta trước khi nhận lệnh tác
chiến ở Thành Nội. Một tiểu đoàn thuộc sư đoàn 101 Không Kỵ chuyển tới căn cứ
của họ ở Phú Lộc, các TQLC bắt đầu nhảy như nhảy cóc từ phía bắc tới Phú Bài
trong các ngày 10 và 11 tháng Hai, các đại đội chia thành từng trung đội hay
tiểu đội di chuyển bằng trực thăng hay xe GMC. Tới Phú Bài là họ được chuyển đi
Huế ngay. Hai trung đội thuộc Đại đội Bravo do đại úy Fern Jennings chỉ huy
được chở bằng trực thăng thả xuống trong khuôn viên bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 1, nhưng
chiếc Sea Knight chở Trung đội 3 bị trúng đạn, phi công bị thương nên phải quay
lại Phú Bài. Thiếu tá Thompson tới Phú Bài hôm 11 tháng Hai bằng xe, tới ngay
bộ chỉ huy của tướng LaHue để nhận lệnh mới. Tướng LaHue cho biết Đại Đội 1/ 1
và 2/ 5 do đại tá Hughes chỉ huy đã hoàn thành nhiệm vụ của họ ở khu Huế-nam,
nhưng quân đội VNCH ở trong Thành Nội tiến rất chậm. Ông ta nói về phía Nam VN
có rất ít tin tình báo và Thompson phải đưa đơn vị vào Thành Nội tác chiến,
dưới sự hướng dẫn của đại tá Hughes. Tướng LaHue nhấn mạnh với Thompson là anh
ta phải nhận mệnh lệnh từ đại tá Hughes chớ không phải từ tướng Trưởng. Để anh
ta khỏi bị mặc cảm nặng từ vị tướng Việt Nam Cọng Hòa, LaHue phong cho Thompson
hàm đại tá. Thompson từ chối, cho rằng việc ấy không cần thiết. Ông ta không
mang loon trên người. Nếu tướng LaHue đồng ý, khi gặp Trưởng, ông ta sẽ tự giới
thiệu là đại tá. Tướng LaHue đồng ý, chúc Thompson may mắn và hy vọng chỉ trong
ít ngày Thompson sẽ đuổi quân CSBV ra khỏi thành phố Huế.
Các Đại Đội Alpha, Charlie, Delta bắt đầu vận chuyển đến Huế-bắc. Thompson giã
từ thiếu tá Wilson, chỉ huy hậu cứ tiểu đoàn ở Phú Bài rồi cùng ban chỉ huy nhỏ
của ông, đi theo các đại đội bộ binh và trung đội còn bị kẹt lại. Xe GMC thả họ
xuống ở MACV khu nam Huế. Thompson vào báo cáo cho đại tá Hughes. Hughes ra
lệnh cho họ vượt qua sông Hương, và thực hiện một kế hoạch ngắn: Thompson cùng
Đại Đội Alpha và Charlie, bắt tay với hai trung đội thuộc đại đội Bravo đã đến
trước hiện ở trong thành Mang Cá (Bộ Tư Lệnh Sư đoàn 1), tiến xuống phía nam,
đẩy quân CSBV về phía sông Hương. Cùng lúc đó, Đại đội Delta tiếp tay với Đại
đội 2/5.
Buổi tối, họ dự trù chiếm đóng một vài tòa nhà chung quanh MAC.V, những nhà đã
bị bắn lỗ chỗ. Thompson đang bận bịu công việc thì bỗng có một thiếu tá quân
đội Mỹ xuất hiện. Ông nầy đội nón sắt, mặc áo giáp, mang súng Colt .45 bên
hông, tự giới thiệu là linh mục McGonigal. Tên đầy đủ ông ta là Thiếu tá
Aloysius P. McGonigal, tuyên úy Công Giáo Quân Đội Mỹ, 46 tuổi, quê ở
Philadelphia, một người đeo kính cận, thích giao thiệp, tình nguyện qua Việt
Nam và hiện làm việc ở MAC.V.
Linh mục McGonigal nghe nói đại đội 1/5 không có tuyên úy nên ông ta xin với
cấp chỉ huy ở MAC.V cho ông ta đi theo đại đội vào Thành Nội. Thompson không
kiểm chứng ông ta có được phép hay không nhưng hoan hô ông ta cùng đi. Hôm đó,
khu vực quanh MAC.V yên tĩnh.
Buổi sáng không thấy mặt trời lên. Trời xám, mù sương và lạnh. Thiếu tá
Thompson đi xuống bến tàu cùng ban chỉ huy, sắp xếp đưa đơn vị của ông vào
Thành Nội. Họ chờ cả mấy tiếng đồng hồ để có tàu đổ bộ LCU qua sông. Nhưng mỗi
khi họ thử bắn qua bên kia bờ để thăm dò tình hình, thì súng của quân CSBV bên
sông bắn trả dữ dội. Quân CSBV bắn chừng vào bến tàu. Có khi lại có tiếng nổ
lớn, có lẽ là B-40.
Cuối cùng, tới chiều, tiếng súng bớt đi, và tàu đổ bộ tới. Thompson cùng ban
chỉ huy, một trung đội của Đại Đội Bravo, các Đại Đội Alpha và Charlie chen
nhau xuống tàu. Tàu tách khỏi bến, hướng theo phía hạ lưu, vòng theo khúc sông
uốn cong để cập vào chỗ phía bắc Thành Nội. Quân CSBV núp trong các bụi rậm
trên bờ bắn xuống. Đạn chéo nhau phía trên tàu, hỏa tiễn nổ, khói trắng tỏa ra.
TQLC trên tàu bắn lại. Cũng may, trên tàu không ai bị thương.
Tàu đổ bộ cặp vào Bao Vinh, chẳng bắn một phát súng. TQLC tập trung, đi dọc
theo bờ thành hướng tây-bắc, trước mặt tiền nhà cửa dân chúng, các bụi rậm, đi
về hướng Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 1, Thompson đi đầu. Toán binh lính đi xuống đường.
Vài người Việt Nam tiến gần tới Thompson, đưa tay vẫy chào và nói chuyện với
TQLC bằng một thứ tiếng Anh không sỏi. Họ chỉ cho TQLC thấy phía xa, có một
toán CSBV đang phục kích ở đó. Thompson cũng không biết rõ còn có con đường nào
khác nữa không. Người Việt Nam nầy dẫn TQLC đi theo con đường vào cửa sau Bộ Tư
Lệnh (cửa Trài – ngd). Tại đây, họ gặp đại úy Jennings, đại đội trưởng đại đội
Bravo và vài sĩ quan Việt Nam.
Thompson nói ông ta muốn đưa binh lính ông ta vào trong thành. Sĩ quan VN không
đồng ý, họ không thể để cho binh lính Hoa Kỳ vào trong thành được. Điều đó có
thể làm cho Bộ Tư Lệnh bị Cọng Quân pháo kích. Thompson trả lời nếu cửa thành
không mở, ông ta sẽ cho binh sĩ trèo thành vào. Một lúc sau, cửa thành mở, TQLC
tiến vào.
Thompson gặp tướng Trưởng cùng đại tá Adkisson, cố vấn Sư Đoàn 1 Bộ binh để tìn
hiểu tình hình tại chỗ. Tướng Trưởng và đại tá Adkisson cho biết hiện quân CSBV
đang bao vây bộ Tư Lệnh và khu thành tây bắc (cửa An Hòa – ngd), nơi Đại Đội 1/
5 vừa mới tiến qua. Quân đội VNCH và TQLC đang chiến đấu dọc theo thành tây-nam
(cửa Hữu, của Sập tức cửa Nhà Đồ – ngd). Quân CSBV hiện đang giữ chặt thành
đông-bắc (cửa Đông Ba – ngd) và đông-nam (cửa Thượng Tứ – ngd), ở đó có khu Đại
Nội. Cờ Cọng Sản còn treo trên cột cờ Ngọ Môn. Tin tình báo cho biết Cọng Sản
có hai tiểu đoàn trong Thành Nội và một tiểu đoàn ở phía tây để bảo vệ đường
tiếp tế của họ. TQLC Hoa Kỳ có thể củng cố an ninh khu thành đông-bắc (Mang
Cá), tương tự như các chỗ khác, dài khoảng 250 thước, cao 20 bộ, bề rộng thay
đổi từ 50 đến 200 bộ.
Theo phóng đồ hành quân, lực lượng Nhảy Dù VNCH đang tiến dọc theo bờ thành
đông-nam, giữa bộ Tư Lệnh và khu Đại Nội. Với tin tức như thế, Thompson thực
hiện kế hoạch của ông ta. Ông ta cùng ba đại đội, cố gắng bắt tay với quân Nhảy
Dù VNCH, và từ điểm xuất phát đó, mở cuộc tấn công. Đại Đội Alpha bên trái,
tiến dọc theo bờ thành. Đại Đội Bravo tiến dọc theo những ngôi nhà bên phải, và
Charlie là thành phần trừ bị. Thành phần còn lại của Trung Đoàn 3 BB sẽ tấn
công bên phía phải, dọc theo thành tây-nam.
Tướng Trưởng và cố vấn Adkisson đồng
ý kế hoạch nầy.
TQLC nghỉ qua đêm trong Bộ Tư lệnh. Lại một đêm yên tĩnh.
Hôm sau, thứ Ba, 13 tháng Hai, 1968, họ bắt đầu kế hoạch chiếm lại Nội Thành.
&
Vào lúc 8 giờ sáng, đại úy J.J. Bowe và Đại Đội Alpha đi trước tiểu đoàn, tiến
về phía những con đường khu thành đông-bắc, nơi quân Nhảy Dù VNCH đang trấn
giữ.
Đến 8giờ 15 sáng chiến sự bùng nổ dữ dội.
Thompson đang đi với ban chỉ huy, đằng sau Đại Đội Alpha thì súng nổ. Tình
trạng hết sức bối rối. Tiếng súng AK-47, hỏa tiễn B-40 nổ lộn xộn, lại thêm có
tiếng súng cối phía sau dãy nhà dân và trên vọng lâu trên cửa thành bắn tới.
Quân CSBV ẩn núp trên vọng lâu và ra dấu hiệu cho đồng đội khi thấy Đại đội
Alpha tiến lên. Thompson lấy làm lạ, tự hỏi: “Quân nhảy dù VNCH ở đâu? Họ đã
rút rồi chăng?” (Sau nầy, mới biết họ đã rút. Vì có TQLC/ HK tới nên bộ Tổng
Tham Mưu QĐ/ VNCH rút các đơn vị nầy về Saigon. Đó là sự thất bại lớn trong
việc điều hành thông tin Việt Mỹ). Quân CSBV tiếp tục tấn công Đại đội Alpha.
Thompson ra lệnh phản công. Một toán súng không giật được lệnh tiến lên phía
trước, bắn dọc theo con đường bên bờ thành, Đai Đội Alpha rút lui về phía con
đường sau lưng họ. Cuộc chạm súng kéo dài cở 10 phút. Đại úy Bowe bị thương
nặng, được chuyển ra phía sau, các thiếu úy đều bị thương hết cùng với 30 TQLC.
Hai người chết còn nằm trên đường. Đó là phần Đại Đội Alpha, suốt buổi chiều
còn lại là lo tải thương, đưa về trạm cứu cấp đặt trong Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 1/
BB Thompson gọi máy cho trung úy Scott A. Nelson, chỉ huy Đại Đội Charlie, ra
lệnh cho đại đội nầy tiến lên bên hông Đại đội Bravo của đại úy Jennings. Sau
trưa một chút, họ lại cố tiến lên phía trước. Quân CSBV lại nổ súng một lần nữa.
Hai chiếc xe tăng của TQLC tiến lên hỗ trợ, bắn vào vị trí địch nhưng chẳng ai
tiến thêm được tấc đất nào.
Khi mọi người bị thương, Thompson ra lệnh cho họ trở lại điểm xuất phát. TQLC
rút lui thì CSBV tiến lên chiếm ngay vị trí TQLC mới rút. Súng lại nổ tiếp, đến
2giờ 55 chiều, Thompson nhận được lệnh của đại tá Hughes đang chỉ huy qua máy
truyền tin:
“Giữ lấy tình trạng hiện tại, củng
cố vị trí, tái tổ chức đơn vị, chuẩn bị kế hoạch tấn công với pháo binh yễm trợ
tối đa. Những kế hoạch đề nghị tiếp tục tấn công là rất cần thiết và đặc biệt
quan tâm.”
Không giống tình trạng khu Huế-nam, áp lực địch bị hạn chế vì việc xử dụng vũ
khí hạng nặng, TQLC trong Thành Nội có yễm trợ pháo binh cần thiết. Chẳng có
cách nào khác. Năm phút sau khi nhận được yễm trợ hỏa lực, thiếu tá Thompson
trả lời:
“Kế hoạch hiện tại tiếp tục tấn công
căn cứ trên kế hoạch yễm trợ hỏa lực toàn bộ, pháo trước và bộ binh tiến theo
sau. Pháo yểm là cần thiết và rất quan trọng. Pháo binh 8 inch và 155mm kết hợp
cùng hỏa tiễn sẽ được xử dụng để phá thành. Xử dụng hơi cay trong khu Đại Nội.”
Trong vòng nửa tiếng đồng hồ, sau khi một TQLC của Đại đội Bravo bị bắn chết
bên bờ thành, pháo binh tác xạ dữ dội khu phía trước tiểu đoàn. Không thấy báo
cáo về thiệt hại địch. TQLC Hoa Kỳ cố thủ qua đêm tại khu nhà được xem là nơi
quân Nhảy Dù/ VNCH đã cố thủ đêm hôm trước.
&
Buổi tối ngày 13 tháng Hai, đại úy Harrington được lệnh đưa đại đội của anh vào
Bộ Tư Lênh Sư Đoàn 1/ BB. Lúc đó, toàn bộ đại đội không có mặt đủ với anh ta.
Trung đội 3 được biệt phái giữ an ninh cho đoàn xe vận chuyển Phú Bài – Huế. Vì
vậy, anh ta đem hai Trung Đội 1 và 2 còn lại xuống bến tàu. Ở đây có 2 chiếc
tàu đổ bộ LCU. Người và trang bị cùng xuống tàu. Harrington chỉ có thể tìm cho
anh ta cùng ban chỉ huy và một tiểu đội một phòng nhỏ. Tàu đổ bộ thả họ xuống
phía bắc Thành Nội, rồi quày đi.
Đám lính TQLC ngồi chờ giữa những ngôi nhà trên bến tàu. Harrington gọi điện
cho hai trung đội còn lại để di chuyển chuyến kế tiếp. Họ đang chờ trên bến tàu
Tòa Khâm, Landry cùng những người khác trong toán súng cối đang chuyện trò. Hai
chiếc tàu đổ bộ LCU cập bến, rồi rời khỏi bờ sau khi mọi người lên hết. Bất
thần quân CSBV trên thành cao bắt đầu nổ súng xuống. TQLC bắn trả bằng súng cối
và đạn hơi cay. Ra tới nửa sông, hai chiếc tàu phải đổi hướng quay trở lại bến.
Cửa tàu vừa hạ xuống thì TQLC đổ dồn ra, thở và nôn mửa, có người thì khóc la
đến cuồng loạn trong khung cảnh hết sức kinh hoàng. Hơi hay do họ bắn ra đã bị
dội ngược lại tàu của họ mà TQLC lúc đó chưa chuẩn bị kịp mặt nạ. Landry và bạn
của anh ta chạy lên bãi, kéo một số người vào trốn trong một căn nhà nhỏ, quạt
cho họ, và đưa họ ít mặt nạ để có thể thở không khí sạch. Một người trong toán
súng cối, hạ sĩ Raby, nắm lấy một viên thiếu úy đang la hét om sòm và tát vào
mặt anh ta, mắng anh ta là đồ tồi, biểu lo tập họp trung đội lại.
Từ phía thành bên kia sông súng lại nổ. Vài TQLC nằm dài ra trên đường, hoảng
sợ và ho sặc sụa, bắn một cách điên cuồng vào một ngôi nhà trống. Landry la to
lên, yêu cầu một viên thiếu úy ra lệnh cho binh lính anh ta rời khỏi đường lộ.
Họ bắt đầu kéo lui. Một người trong bọn họ đi cà nhắc vì bị thương ở chân. Khi
Landry đưa anh ta vào bên trong một căn nhà, anh ta rên rỉ: “Mày có thể tin…
cục cứt nầy được không, chỉ còn 5 ngày nữa là tao hết thời hạn ở đây.”
Thủy thủ trên tàu đổ bộ LCU miễn cưỡng cho tàu quay lại làm cho Đại đội Delta
bị kẹt. Phía bên kia sông, Harrington vẫn còn ngồi chờ, rủa mình là đã tự tách
ra khỏi đơn vị.
Ngày hôm sau, Đại Đội Delta lại ra
bến tàu chờ được di chuyển. Trung sĩ Berntson đã chiến đấu ở Huế 14 ngày và ở
Việt Nam được 10 tháng. Anh trung sĩ 22 tuổi nầy, một người trẻ lanh lợi, quê ở
tiểu bang Idaho, có cách nói chuyện kín đáo nhưng chân thật theo cung cách của
người Mỹ vùng đồng quê. Anh ta tới Việt Nam lần nầy là lần thứ hai. Bỏ học ở
trường đại học khi TQLC/ HK đổ bộ lên Đà Nẵng năm 1965. Anh ta thấy trách nhiệm
của mình và gia nhập TQLC vì ông chú yêu mến của anh là người từng chiến đấu
trong đơn vị đánh chiếm Guadalcanal, Saipan và Tinian. Chú của anh ta chẳng bao
giờ nói chuyện chiến tranh, chẳng bao giờ khoác lác chuyện đánh chác nhưng
Berntson thì biết ông từng phục vụ trong TQLC/ HK. Tất cả ý nghĩa là ở đó. Sau
khi huấn luyện, anh ta đã chiến đấu ở Việt nam một năm. Anh ta rời quân đội,
cưới vợ. Chính sau khi lấy vợ, anh và vợ thấy cần xây dựng gia đình nên anh ta
lại có kế hoạch qua Việt Nam một lần nữa, với loon hạ sĩ.
Anh ta được chỉ định làm phóng viên cho phòng thông tin Sư đoàn 1/ TQLC. TQLC
là những người có tính độc lập, khó trị, họ thấy mình như là sự kết hợp một nửa
là Ernest Hemingway và một nửa là John Wayne. Berntson hợp sức với một viên
trung sĩ trẻ để theo Trung đoàn 5 trong cuộc hành quân Liên Kết II. Họ đáp ngay
xuống bãi đáp trực thăng nóng bỏng, chạy lung tung trong khi súng nổ lách cách
trong khu vực đổ quân. Berntson lúng túng không biết phản ứng như thế nào, lặng
người đi, đứng thẳng người trong lưới đạn thì một trung sĩ nắm tay anh ta kéo
xuống, núp phía sau một bờ ruộng. Anh ta nằm đó, bất thần sợ muốn chết và run
lẩy bẩy. Viên trung sĩ nói với anh ta: “Đây là vậy. Đây là Việt Nam.” Sáu ngày
sau, trận đánh kết thúc, Berntson bay trở lại Đànẵng, nôn mửa tới hai lần, cái
cảm giác tê dại đó cứ đeo đẳng anh ta hoài. Đó chỉ là trận đánh đầu tiên.
Berntson và các phóng viên của lực lượng TQLC/ HK phải trải qua 27 ngày một
tháng trên chiến trường. Họ lặn lội từ chiến trường nầy qua mặt trận khác, với
những lệnh di chuyển chung chung để viết từng câu chuyện về lương thực binh
lính Mỹ trên chiến trường hoặc bằng cái máy chữ hư hỏng, nhét vội bài viết vào
túi một xạ thủ nào đó trên một chuyến quân xa, hoặc bằng bất cứ phương tiện nào
kiếm được. Họ không viết về những trận đánh lớn, điều đó dành cho những người
dân sự viết tin, những người, như Bertson mô tả, tới trận địa bằng máy bay,
quay phim năm mười phút, rồi chui lên một chiếc trực thăng khác bay đi mất.
Berntson viết về những trận đánh của TQLC mà anh ta biết rõ. Nếu quí vị không
phải là người lính TQLC, quí bị sẽ chẳng viết được gì. Phương cách viết về họ,
phải là một người trong bọn họ. Vì vậy, Berntson phải lê chân với họ qua những
đám ruộng nước, giúp họ vác đạn dược, kéo những người bị thương, bị chết ra chỗ
bãi đáp chờ trực thăng chuyển đi, đứng thẳng lên và bắn vào kẻ thù lúc súng đã
nổ. Anh ta sống sót được sau trận bao vây ở Cồn Tiên, sau không biết bao nhiêu
lần chạm súng với địch, và anh trở thành một người cứng cỏi, bất khuất, chai lỳ
mặc dầu trên thân mình có biết bao nhiêu vết sẹo vì đạn, quên đi vợ con đang
chờ đợi ở quê nhà. Anh ta đã bắt đầu viết những tác phẩm về thời gian anh quay
trở lại Việt Nam. Anh ta nói rõ thêm về tình chiến hữu, những cam kết với bạn
bè mà lúc ấy tuồng như mạnh hơn với những gì đã hứa hẹn với gia đình. Ở đây anh
ta có biết bao nhiêu bạn tốt, những người như Tom Young, được kéo ra từ một cái
hầm gần một căn nhà đang cháy, và Dale Dye.
Berntson đến Huế với trung sĩ Dye, đi cùng lực lượng phản công 1/1 mà không
biết rõ đang làm việc gì đây. Họ cố gắng gắn bó với nhau trong những ngày còn
lại của trận đánh, cùng Đại đội Hotel 2/5 tấn công vào ty Ngân khố, tòa Hành
Chánh tỉnh và tuyến phòng ngự của đại úy Christmas bị thương. Nhưng tới ngày 13
tháng Hai, mọi sự trở nên yên tĩnh, Đại đội Hotel trấn giữ dọc theo sông An
Cựu, và Berntson quyết định đi quan sát mọi nơi trong thành phố Huế.
Khoảng chạng vạng, anh ta bắt đầu trở lại MAC.V, đi dọc đường Lê Lợi (đường
chạy dọc bờ sông Hương, phía tả ngạn – ngd), ngang qua những ngôi nhà chỉ còn
trơ lại bốn vách tường, hết sức lo lắng sợ bị bắn sẻ. Tại MAC.V có một số TQLC
thuộc Đại đội 1/5. Anh ta không thể tin được quang cảnh nơi nầy đang chờ anh:
Walter Conkrite, bu chung quanh là một đám phóng viên báo chí và quay phim, đại
tá Hughes đang đứng trước một máy vi âm. Ông ta phủ nhận việc TQLC có hành vi
cướp bóc và cho biết họ đã làm hết sức mình để bảo vệ dân thường, v.v… Berntson
nghĩ ông ta đúng đấy. Chúa ơi! Sau những hành động tàn ác của Cọng Sản thì TQLC
là những ông thánh. Sau khi đạn súng cối bắn cháy một ngôi nhà, chính anh ta
thấy TQLC chạy vào nhà để cứu một bà già Việt Nam, cũng chính anh ta thấy một y
tá TQLC đã cứu một em bé gần tòa Hành Chánh trong khi súng đang nổ dữ dội. Và
cũng chính anh ta thấy TQLC chia nhau chai rượu, miếng đồ ăn và đôi khi là máy
ghi âm, máy ảnh. Tuy nhiên, bên cạnh những người chết đang nằm quanh đó, cũng
thật là lạ nếu như còn ai đó quan tâm tới những thứ tài sản tầm thường đó.
Cuối cùng, anh ta rời chỗ ông đại tá
cùng với đám phóng viên, đi tìm khẩu phần lương khô buổi tối và những y tá
thuộc Đại Đội 2/ 5 mà anh từng quen. Họ tìm một chỗ xa đám người đang chen lấn
nhau ở chỗ phỏng vấn. Họ ngồi trong góc phòng, nghe tiếng mưa rơi trên mái nhà,
nói chuyện nhỏ với nhau, chia nhau mấy điếu thuốc lá mà một y tá xoáy đâu đó. Xong
họ tuyên bố có quyền hưởng hai cái giường nhỏ mà anh y tá tìm ra trong một
phòng nào đó để ngủ qua đêm. Nếu như có ai muốn đuổi họ ra khỏi những cái
giuờng nầy thì họ sẽ bảo anh chàng ấy phải lên giây cót cho căng mới làm được.
Berntson nghĩ chắc ngủ được vài giờ đồng hồ trên cái giường khô ráo ấy, nhưng
vì hai cái giường nầy lấy từ phòng bên cạnh, người ta đã để xác chết lên trên
ấy, thành ra có mùi hôi, và cũng làm cho Berntson tưởng tượng chuyện chết chóc
không hay.
Họ đang nói chuyện thì có một TQLC thuộc Đại Đội Delta 1/ 5 vào. Berntson đã
gặp anh ta hôm trước khi Đại đội Delta tạm thời tăng phái cho Đại Đội 2/ 5. Anh
ta là người đen, nguyên là trùm một nhóm băng đảng ở Philadelphia, biệt danh
Philly Do. Anh ta là xạ thủ súng M-79, mà TQLC thường gọi là tay quấy phá.
Philly Dog đi vào, rõ ràng như có cái gì làm cho anh ta hào hứng lắm.
Anh ta gọi Berntson:
– “Nầy, anh chàng viết báo, anh có muốn đi với bọn tôi ngược sông Hương không?”
– “Anh nói chuyện quái quỷ gì vậy?”
– “Có chiếc tốc đỉnh kéo mấy chiếc ghe theo đưa chúng ta đi khỏi đây. Tôi và
toàn thể đại đội đi ngược sông và đổ bộ lên đâu trên ấy, đá đít mấy thằng dơ
dáy ra khỏi đây.”
-“Ai đi?” Berntson hỏi.
-“Đại đội Delta, thêm một nhóm bên
Đại đội Alpha. Có thêm lính VNCH. Chúng nó chẳng làm gì tốt.”
Berntson suy nghĩ: “Ngủ lại đây qua đêm với các xác chết hay đi theo Đại Đội
Delta 1/ 5 tấn công vào Thành Nội.” Anh ta chọn cái sau, lôi ra một thứ kiếm
được: Bản đồ thành phố Huế dành cho du khách tìm thấy trong đống gạch vụn ở cơ
quan CORDS. Anh nhìn vào khu Thành Nội. Muốn tự tử hay sao mà vượt qua sông
Hương chỗ gần bờ thành. Anh ta vạch ra một con đường đi theo hào thành, vượt
qua được vị trí quân CSBV rồi từ trên mà tấn công xuống. Biết việc ấy có khó
khăn, nhưng anh ta cũng đã thấy lá cờ Việt Cộng treo trên cột cờ Ngọ Môn đã hai
tuần lễ và thấy thích thú nếu như hạ lá cờ ấy xuống được. Philly ở bên cạnh
anh, tuồng như cùng hứng thú về việc đó.
Philly Dog lại nói với anh ta:
– “Nầy! Anh đi với tụi nầy, có muốn thành tay súng M-79 không?”
– “Không.”
– “Tôi đang kiếm thêm một xạ thủ M-79 nữa. Tôi giữ phía bên nầy, tại sao anh
không giữ phía bên kia. Anh bắn M-79 được mà.”
- “Ấy, chắc chắn rồi. Tao bắn M-79
được. Berntsonừng bắn M-79 chính xác nhiều lần.”
Philly Dog đi tìm một cây súng M-79 khác, áo vét đựng đạn rồi họ cùng đi.
&
Trời tối đen, khoảng nửa đêm. Lúc đó, Đại đội Delta tập trung ở bến tàu. Khoảng
mấy phút, có chiếc tốc đỉnh (chiếc nầy thuộc loại tàu PT của Hải quân, gắn đại
liên 50) bì bỏm vào bến, đèn tắt hết, kéo theo ba chiếc thuyền gỗ của người
Việt. Cột buồm và mui thuyền bị gở hết để lính có thể ngồi chen chúc trong
thuyền. Tàu đi vào một cái hào rộng có một chiếc tốc đỉnh khác đi sau để hộ
tống. Berntson và Philly Dog đi chiếc đầu. Một thủy thủ ngồi xổm đằng sau một
công sự trên tàu làm bằng bao cát cao ngang cây đại liên 50 hai nòng. Anh ta ra
dấu cho hai người kia núp xuống sau các bao cát. Berntson đứng bên trái, Philly
Dog dứng bên phải. Tàu đi dọc theo hào thành, đèn tắt hết, không ai nói chuyện,
sợ tiếng máy tàu làm cho địch nã súng xuống. Cái hào hẹp khoảng năm chục mét kể
từ bên nầy tới bờ bên kia. Bên phải Berntson có thể thấy dãy nhà dân, cây cối
và thuyền bè chen chúc nhau, một con đường phẳng, một nghĩa địa. Bên trái là bờ
thành cao, in hình đen lên trên bầu trời đêm. Berntson nhìn chằm chằm lên phía
bờ thành, biết chắc rằng mấy thằng con hoang có thể nã đạn xuống anh ta bất cứ lúc
nào. Anh ta hy vọng sẽ không có gì xảy ra vì anh ta không biết chắc cách xử
dụng cây súng M-79 mà anh đang ghì chặt trong tay.
Khi họ bắt đầu qua khỏi nghĩa địa thì súng cối nổ. Quân CSBV đặt súng cối
khoảng phía ruộng phẳng, bắn vào hào thành. Rồi đạn lửa bay ra xé rách màn đêm
đen. Philly Dog la lên: “Bắn đi.” Anh thủy thủ quay cây súng và bắt đầu nhã
đạn. Người trưởng tàu tống ga mạnh thêm, chiếc tàu chồm lên phía trước, kéo ba
chiếc thuyền gỗ theo sau. Lính TQLC cúi đầu xuống, nắm chặt nhau. Philly Dog nã
mấy phát đạn, Berntson cũng nã tiếp theo, chẳng cần nhắm mục tiêu: Mở cơ bẩm,
cho đạn vào và đưa cao lên, hướng về phía địch, bóp cò. Họ bắn khoảng mười quả
đạn. Chiếc tốc đỉnh hộ tống chạy bên cạnh, giữa họ và bờ phải, hướng mũi súng
về phía nghĩa địa nổ ầm ầm.
Khoảng mười phút, tiếng súng ngưng. Chẳng ai bị thương.
Trong vòng hai mươi phút kể từ khi họ rời bờ phía nam, đoàn thuyền nhỏ tới cầu
tàu, nơi đại úy Harrington đang đợi. Berntson thấy chỗ nầy trông chẳng giống
một bến tàu chút nào cả, nó chỉ có mấy cây cột mà người Việt dùng để phơi lưới
đánh cá. Chiếc tầu cố vào cho thật gần bờ rồi rút giây để mấy chiếc thuyền gỗ
lại, TQLC dùng chèo chèo thuyền vào bờ. Họ lên bờ rồi chèo thuyền lui.
Berntson, Philly Dog và các TQLC khác trên tàu lội bì bõm vào bờ. Họ gặp lại
đại úy Harrington rồi tập trung trên sân một dãy phố nhỏ. Mặt trời vừa ló dạng
ở chân trời. Họ bắt đầu đi vào cửa hậu thành Mang Cá, trên con đường bị pháo
loang lỗ, hy vọng không còn bị pháo kích nữa.
Phía trước, Berntson thấy bên đường có một đống đen lù lù, tới gần thấy rõ hơn,
thì ra đó là một chiếc xe GMC bị cháy rụi, ca-bin xe bay mất. Tới gần hơn nữa,
anh ta thấy có mùi hôi thối không chịu được. Có năm hay sáu xác lính VNCH nằm
quanh xe, có xác nằm ngay bên hông xe, có lẽ là chỗ họ rơi ngay xuống đó. Mấy
xác người khác thì cháy thành một đống đen. Có lẽ quá bận rộn nên người ta chưa
có thì giờ dọn dẹp chỗ nầy.
Ít phút sau, có tiếng súng nổ trên đầu, mọi người nằm rạp xuống. Có người la to
súng từ lính VNCH bắn. Berntson bắn báo động về phía toán TQLC đi tiên phong.
Một thông dịch viên la to bằng tiếng Việt về phía các người lính VN đang núp
phía trong doanh trại. Berntson nằm sát đất, tự hỏi: “Nhóm đặc trách liên lạc
làm việc quái gì thế nầy.” Hai sĩ quan VNCH xuất hiện ở hàng rào kẽm gai, la to
qua lại cùng thông dịch viên. Một thông dịch viên là trung úy TQLC, chầm chậm
đi tới hướng cổng, súng lắc lư bên hông, hai tay giang ra. Hai bên trao đổi với
nhau ít câu qua hàng rào kẽm gai. Cuối cùng, cổng mở ra, mọi người đi vào.
Berntson theo đám TQLC đi vào, nhìn quanh bộ Tư Lệnh, thấy một cái sân bóng
nhỏ, mấy gian nhà lầu xây, trang trí theo kiểu Pháp, mấy hàng cây cọ, một cái
hồ nước trong. Rồi anh ta đi qua phía trái, chỗ tường thành đông-nam giáp ranh
với bộ Tư Lệnh. Phía lưng các dãy nhà đều bị đạn phá hỏng. Mọi thứ đều bị vết
đạn bắn thủng, mấy chiếc xe bị hư nát kéo bỏ ngoài sân.
Phía trong, Harrington gặp đại úy Jennings, đại đội trưởng Đại đội Bravo, kể
chuyện đơn vị anh ta ở gần cổng thành, bị tấn công lần thứ hai. Anh ta nói:
“Chắc ngày mai anh cũng làm vậy thôi.”
Harrington chẳng thấy gì hơn ngoài lòng tự hào.
Đại Đội Delta ở lại suốt buổi chiều trong bộ Tư Lệnh, nghỉ ngơi một chút và tổ
chức lại, trong khi Đại đội Bravo và Charlie đánh nhau với địch trên đường phố.
Trung úy Nelson của Đại đội Charlie bắt được một lính CSBV trốn trên đường. Do
đó, bằng xe tăng và súng cối, họ hủy được một vị trí bắn hỏa tiễn của địch,
giết sáu tên. Một TQLC thuộc toán hỏa lực cùng Đại đội Bravo của đại úy
Jennings bắn hạ hai Việt Cọng nhưng đại đội lại bị địch bắn sẻ, một chết và bốn
bị thương. Suốt cả ngày chiến đấu, hai đại đội tiến khoảng được một trăm thước,
súng ở vọng lâu trên cổng thành bên trái bắn xuống rất dữ. Thompson ra lệnh cho
binh lính rút lui. Pháo binh lại bắn. Trời u ám và mưa nên họ lại nghỉ một
chút. Mấy chiếc máy bay phản lực của TQLC bay đến bắn hỏa tiễn, thả bom lửa và
hơi cay xuống tường thành. Tất cả đều trúng mục tiêu nhưng rõ ràng phía địch
chỉ bị thiệt hại nhẹ mà thôi.
Qua ngày thứ hai, Đại đội 1/ 5 vẫn chưa có gì tiến triển. Chiều hôm đó,
Harrington đến ban chỉ huy tiểu đoàn nằm ở căn nhà lợp ngói bên ngoài bộ Tư
Lệnh. Thiếu tá Thompson nói với anh ta ngày mai đến phiên Đại Đội Delta tấn
công vào cổng thành.
Suốt cả buổi sáng, súng đại bác, súng cối và đại pháo Hải Quân từ biển bắn vào
ầm ầm. Vọng lâu trên cổng thành rung rinh vì những tràng đạn đại bác bắn yễm
trợ. Từng phần vọng lâu bị bắn vỡ rơi xuống chỉ còn lại bức tường đứng chơ vơ.
Cát gạch ào ào đổ xuống trên đường. Những ngôi nhà cạnh cổng thành trở nên bình
địa hay chỉ trơ lại bốn vách tường. Mưa dầm vẫn từ trên bầu trời xám rơi xuống
khiến máy bay phản lực không hoạt động được. Harrington đã thấy một lần oanh
kích khi đại đội anh ta còn ở khu Huế-nam, tiến hành càn quét địch cùng với đại
úy Christmas nay đã bị thương. Đại Đội Delta đã đánh dẹp được một khu vực, khi
hai chiếc phản lực F-4 bất thần bay đến bỏ bom khu vực đó, xa chỉ khoảng năm
trăm mét, chẳng có sự hợp đồng nào hết. Tuy nhiên, cái vọng lâu trên cổng thành
bị đánh phá hư hại thêm.
Mưa và gió lạnh. Các binh lính TQLC nôn nóng chờ đợi tại ban chỉ huy. Cuối
cùng, cuộc pháo kích chấm dứt, Harrington ra lệnh tiến tới. Hai trung đội của
đại đội Delta tiến trước, dọc theo hai bên đường. Họ khom mình xuống, vượt qua
các đống vữa, gạch, gỗ vương vải khắp nơi. Từ trên vọng lâu, súng AK-47 bắn
xuống. Trung sĩ Berntson cùng với cọng sự của anh ta, trung sĩ Dye và một người
trong tiểu đội, đi men bức tường lỗ chỗ đạn. Súng nổ từ phía trước và hai bên,
các TQLC đi đầu lật nhào. Berntson và Dye cùng với mấy TQLC nép sát vào bờ
thành. Đạn bắn kêu lụp bụp vào gạch và xi-măng quanh họ. B-40 nổ. Mảnh đạn cùng
gạch đá bay lung tung. Các TQLC đi đầu gọi to y tá. Dye ló đầu lên một chút,
thấy mấy cái bóng nhỏ núp phía sau vọng lâu đã bị sập. Có một tên địch ló đầu
cao lên, đang xử dụng một cây súng tự động, hai bóng người lấp ló hai bên, đang
nã hỏa tiễn xuống khiến binh lính TQLC nằm im không nhúc nhích được.
Một chiếc xe tăng ầm ầm chạy lên. Đại bác 90 ly nổ. Súng CSBV ngưng bắn một
chốc. Lợi dụng cơ hội nầy, Berntson, Dye và mấy TQLC phóng lên phía trước. Họ
nắm lấy mấy người TQLC bị thương, cột giây vào áo giáp, vào chân, cổ tay rồi họ
phóng lui chỗ bờ thành gần nhứt để núp. Súng đại bác trên chiến xa vẫn nổ, họ
lựa cách kéo mấy người bị thương và chết vào sát bờ thành. Một anh y tá trẻ có
gắn hình con nhện độc tarantula bằng cao su trên mũ sắt, vội vàng băng bó hết
người nầy đến người nọ.
Chiếc xe tăng tiến lên gần hơn, xạ thủ trên pháo tháp bắn đại liên 50 về phía
địch. TQLC đẩy mấy người bị thương lên xe. Người y tá nhảy lên theo. Chiếc xe
tăng rú ga quay xuống đường chạy về phía trạm cấp cứu.
Tiểu đội tiếp tục tiến tới. Khẩu đại liên ở vọng lâu trên cổng thành lại nổ
lạch cạch. Các TQLC nằm rạp xuống hay núp trong các lỗ hõm bên bờ thành. Dye
nhìn xuống đường thấy hai TQLC đang chuẩn bị một cây đại bác 3.5inch để bắn.
Súng nổ quanh họ khiến họ phải nhảy qua bên nầy đường. Họ nạp đạn vào súng rồi
nhưng không thấy rõ mục tiêu nên không bắn được. Họ lại phóng qua bên kia
đường, nhưng Dye và các người khác la to biểu họ cứ ở bên ấy. Họ chạy xuống
đường, đạn rớt chung quanh, tự lấy súng 3.5 để bắn lấy, bắn ba phát, cây súng
trên vọng lâu im tiếng.
Lawhorn và tiểu đội của anh tiến tới từng tấc đất một. Anh ta trụ lại nơi trú
ẩn trong khi đạn từ phía quân CSBV bắn vèo vèo qua đầu. Anh ta lại tiến xuống
đường. Các TQLC khác bò phía sau các bức tường gạch và các ngôi nhà đổ nát, vừa
bắn như mưa vào vọng lâu trên cổng thành vừa tiến tới. Lawhorn lùi lại, chạy và
trượt chân, phóng tới chỗ núp sau bức tường gạch kế cận. Anh ta lại té, mồ hôi
toát ra, thở không ra hơi. Anh ta thấy sợ, đạn và mảnh đạn bay tung tóe khắp
nơi. Mọi người hô xung phong, bắn như điên. Anh ta chẳng biết có chuyện gì phía
trước, sau lưng, ai bị thương, ai còn sống. Lawhorn ló đầu lên khỏi vách tường,
nhìn qua lớp gạch vữa, tới nóc mái nhà phía trước. Anh ta thấy địch di chuyển qua
đống gạch vụn trên vọng lâu, quăng các băng đạn AK rỗng về phía anh ta rồi lắp
băng đạn mới. Chưa bao giờ anh thấy vậy. Chúa ơi! Mấy thằng xỏ lá láu cá. Cái
vọng lâu cách khoảng một trăm mét phía trước nhưng Lawhorn tưởng như xa cả trăm
dặm. Anh ta nắm cây M-16, bắn như điên vào mấy cái bóng nhỏ trên đó.
Đại úy Harrington cùng với Trung đội 1 chạy lom khom qua đống gạch ngói vụn.
Trong những phút tấn công đầu tiên, vì trung đội trưởng Trung đội 2, một trung
sĩ và hiệu thính viên bị thương vì đạn B-40, nên trung đội lộn xộn. Anh ta chỉ
còn Trung đội 1 ở bên trái. TQLC tiếp tục bò gần tới vọng lâu trên cổng thành.
Cuối cùng, Harrington lọt vào được trong một ngôi nhà đã bị bom phá hủy ở ngay
ngã tư đường, sát cổng thành. Anh ta gọi điện yêu cầu súng cối ngưng bắn vì
binh lính của anh ta tới sát mục tiêu. Một tràng đạn bắn vào căn nhà anh đang
núp, gạch đá gỗ bay lung tung. TQLC núp trong nhà tiếp tục bắn. Harrington gọi
một xe tăng lên trợ chiến. Tiếng xe chạy rầm rầm bên cạnh ban chỉ huy tạm của
anh ta. Trưởng xa tiếp xúc với anh bằng truyền tin, bắn ầm một phát đại bác
theo hướng anh ta chỉ.
TQLC bắn như mưa lên vọng lâu. Quân CSBV không còn bắn căng như trước.
Trung đội 2 lúc nảy không người chỉ huy bây giờ được sắp xếp lại, do viên trung
sĩ bị thương chỉ huy. Anh nầy là trung sĩ thuộc ban tham mưu, rất can đảm, tên
là Robrt L. Thoms, cho trung đội tiến lên hỗ trợ cho Trung đội 1. Harrington
gọi điện cho thiếu úy Jack S. Imlah, ra lệnh anh nầy đem một nhóm binh sĩ bò sát
vách tường, tiến lên phía sau vọng lâu, trong khi Harrington cùng toàn thể
Trung đội 1 và Trung đội 2 tấn công vào mặt tiền quân CSBV. Imlah đem một tiểu
đội tiến theo bờ thành đông-bắc, tìm đường vượt qua các đống gạch vụn và hàng
rào làm bằng cây xén, quăng lựu đạn vào toán quân CSBV đang đang lom khom phía
sau các lỗ tường để bắn sẻ. Vừa bò, vừa chui, TQLC tới phía sau vọng lâu. Phía
dưới đường, trung sĩ Dye bất thần nghe tiếng la to: “Chúng nó vào được bên
trong.” Vô số kể tiếng M-16 nổ bên trong vọng lâu. Rồi lặng im.
Harrington và lính của anh ta tiến tới cửa thành, trong đám khói thuốc súng và
gạch cát mù mịt. Có xác chết địch trong đám gạch cát đổ nát ấy, có xác chết đã
hai ba ngày trước, cứng đơ và sình, hôi thối khó chịu. Sau gần ba tiếng đồng hồ
tấn công, bây giờ TQLC mới chiếm được vị trí. Harrington ra lệnh cho binh lính
rút khỏi đống gạch ngói và họ bắt đầu chuẩn bị vị trí ngủ qua đêm trong những
căn nhà đã bị đạn bắn hư hỏng ở gần cửa thành.
Vọng lâu trên cổng thành là một địa điểm quan sát tốt. Đứng ở đây người ta có
thể thấy rõ phía ngoài Đại Nội. Vì vậy, binh nhì Dennis S. Michaels, 21 tuổi,
thuộc Trung đội 1 được lệnh chỉ huy một toán 5 người lên đó. Chờ trời tối, họ
tìm đường lên vọng lâu trên cổng thành, tìm một cái hố giữa đống gạch đá ximăng
để canh phòng qua đêm.
Trời đen như mực – khoảng hai giờ sáng – bốn quả lựu đạn được quăng vào điểm
quan sát. Quân CSBV xâm nhập. Một trái rơi vào lưng Michaels đánh huỵch một
tiếng. Một trái khác rơi trúng chân. Anh ta sợ quýnh lên, nhìn vào hai trái lựu
đạn, hoảng hốt cầu nguyện. Lựu đạn không nổ. Một anh TQLC khác thì chụp ngay
hai trái lựu đạn ném ngay ra ngoài. Một trái khác nữa, nổ, khiến hai TQLC bị
thương. Họ bò ra phía ngoài và bắn về phía địch quân đang bò qua các đống gạch
vụn.
Tại các ngôi nhà bên dưới, đại úy Harrington lo lắng khi bất thần thấy bóng
người chạy quanh bên ngoài vọng lâu. Khoảng gần một trung đội quân CSBV nổ súng
AK vào vị trí của toán Michaels và xuống vị trí của Harrington. Các lằn đạn lửa
xanh đỏ bay chéo nhau trong bóng đêm. TQLC cố kìm toán CSBV giữa hai vị trí của
họ. Địch vẫn bắn. Một phát đạn đại bác không giật của quân CSBV nổ trên mặt
đường đi lên vọng lâu. Michaels và toán anh ta nằm rạp xuống vị trí tránh đạn.
Có bóng người chạy lom khom trong đống gạch. Michaels lại thấy có một bóng đen
nhỏ hiện ra trên rìa cái hố của anh ta, ném hai trái lựu đạn rồi biến mất. Hai
trái nầy bị lép. Michaels cũng còn ngồi ngay tại chỗ, cám ơn Chúa!
Súng còn nổ qua lại một lúc nữa, nhưng tới sáng thì ngưng hẵn. Toán của
Michaels bò ra khỏi chỗ núp. Có khoảng 15 xác quân CSBV bỏ lại giữa hai vị trí
của Michaels và Harrington. Chẳng có thì giờ để đếm xác. Pháo binh lại nổ, dọc
theo tường thành, xa hơn một chút dọc theo con đường dài mà lá cây cau bị đạn
xén như xắt lát vậy. Mấy chiếc xe bỏ hoang. TQLC lục soát quanh vọng lâu rồi
tìm chỗ núp, hút thuốc và lấy muỗng nhắm phần C lương khô lạt lẽo, chờ khi pháo
binh ngưng thì lại tiến tới.
Điều đầu tiên thiếu tá Thompson chú ý hôm thứ Sáu ngày 16 tháng Hai là thời
tiết. Hôm ấy trời tốt, không có nắng nhưng đủ sáng để máy bay phản lực oanh
kích vài phi xuất, bỏ bom dọc tường thành, nghiền nát địch, rồi thả bom lửa.
Hải pháo lại tiếp tục nã đạn vào. Các đại đội bộ binh tiến lên, giành thêm
khoảng 150 mét.
Cuộc chiến đã qua ngày thứ tư, đánh nhau từ bình minh cho tới hoàng hôn.
Quá chiều, Thompson đang ở tại ban Chỉ Huy liên lạc truyền tin với Đại Đội
Alpha. Họ lại gặp khó khăn. Đại đội nầy chưa được tăng cường đầy đủ sau ngày
binh sĩ bị hao hụt hôm 13 tháng Hai. Đại úy Bowe bị thương và di tản, thêm
nhiều người khác chết và bị thương, binh sĩ mất niềm tin nên Thompson cố giữ họ
làm thành phần trừ bị, không tham gia những trận đánh chính. Một toán TQLC của
Đại Đội Alpha tiến gần bờ thành khu Đại Nội thì bị cắt đứt và cầm chân. Vài
người bị thương, chẳng có một ai trong Đại đội Alpha – gồm cả viên trung úy
quyền đại đội trưởng trở lui được phòng tuyến bạn.
Thompson đang cố vạch kế hoạch đem họ ra khi trung úy Patrick D. Polk vừa tới
ban chỉ huy. Trung úy Polk gầy, cao, tóc vàng, sắp quá tuổi 21, quê ở Oshkosh,
tiểu bang Nebraska. Anh ta là một người trẻ hết sức yêu nước mà thân sinh là
một TQLC trong Thế Giới Chiến Tranh Thứ Hai. Hai người anh từng phục vụ ở Việt
Nam. Anh ta là một sĩ quan tác chiến tuyệt hảo, hai lần bị thương, cá nhân hạ
nhiều địch khi giữ nhiệm vụ trung đội trưởng ở Đại đội Charlie 1/5 và là sĩ
quan liên lạc tiểu đoàn với binh đoàn TQLC Rồng Xanh của Nam Triều Tiên. Anh ta
đã tới ngày về nước, nhưng vẫn còn hoạt động hâu tuyến, giữ nhiệm vụ phụ tá sĩ
quan hành quân cho Đại đội 1/5.Đang ở Phú Bài thì anh được lệnh đưa một nhóm
TQLC đi Huế. Mặc dù anh có thể từ chối vì đã đến ngày hồi hương nhưng anh ta
lại đồng ý đi; viết thư cho bố mẹ, xin họ cầu nguyện cho anh ta, rồi lên xe
cùng với một toán binh sĩ tạp nham phần nhiều là binh sĩ mới ra viện còn đi
đứng được, TQLC mới đi phép về và một xe vận tải. Biết rõ số binh sĩ, và là sĩ
quan duy nhứt, Polk xem xét lại các trường hợp phải xử dụng lựu đạn. Họ tìm
đường vào Thành Nội. Polk bơi qua hào thành cùng với lựu đạn cầm tay (nên có
biệt danh là Polk lựu đạn cầm tay). Các TQLC khác theo anh ta, chỉ bị bắn chút
ít, rồi họ bắt đầu tìm tới Đại đội 1/5.
Đối với thiếu tá Thompson, sự xuất hiện của Polk làm ông ta mừng như được của
trời cho. Ông ta giải thích ngắn gọn tình hình đại đội Alpha cho Polk nghe.
Viên trung úy không thiếu can đảm nhưng rõ ràng tình hình đó vượt quá khả năng
anh ta. Anh ta được giao nhiệm vụ chỉ huy Đại Đội Alpha và tìm cách cứu các
TQLC đang bị mắc kẹt. Polk tới đại đội mới bằng một chiếc xe do một TQLC da đen
ngang tàng lái, chạy ào vào giữa trận tuyến. Binh sĩ Đại đội Alpha đang trụ lại
trong vị trí của họ và chẳng ai nghĩ ra cách nào để phản ứng đang lúc bị địch
cầm chân.
Thompson báo tin cho sĩ quan chỉ huy biết việc Polk giữ chức đại đội trưởng.
Polk là trung úy mới thăng chức. Người anh ta thay thế là một sĩ quan trẻ mang
lon sớm hơn anh ta một tháng, bối rối không biết tại sao anh ta bị thay. Dù
sao, Polk cùng đã gặp binh sĩ và khuyến khích họ có sáng kiến, đừng than van
khó khăn đang gặp mà phải khẳng định: “Mẹ kiếp, tao phải đưa binh sĩ ra khỏi
đây.” Vài người sẵn sàng muốn đi, vài người còn lưỡng lự. Cuối cùng, có tám
người tình nguyện: một trung sĩ tham mưu, một hạ sĩ súng cối và hiệu thính
viên, một tiểu đội trưởng và toán hỏa lực của anh ta.
Polk và toán của anh tiến lên, vừa bắn vừa mở đường, toán còn lại vẫn nằm tại
chỗ để bắn che. Họ tiến vào một căn nhà đúc. Khoảng hai chục thước phía trước
là toán TQLC đang bị mắc kẹt, nằm kê lưng với nhau dọc theo bức tường gạch. Họ
có 5 người, bốn bị thương. Từ phía hàng cây bên kia, quân CSBV đang bắn qua đầu
họ. Polk gọi súng cối 81 ly bắn tới, quân CSBV ngưng nổ súng. Polk và binh sĩ
của anh chạy xông tới, kéo mấy người bị thương lui lại ngôi nhà đúc. Tới hoàng
hôn, tất cả họ an toàn trở về phòng tuyến cũ.
Họ đã cứu được người bị thương mà không ai bị thương thêm. Sau vụ nầy, Thompson
thấy tinh thần họ thay đổi, tin tưởng trở lại, có cấp chỉ huy giỏi. Khoảng một
tuần sau, Polk bị mảnh súng cối ở cổ và vai, nhưng anh ta vẫn ở lại với Đại Đội
Alpha.
Đại đội Delta bắt đầu một ngày di chuyển bên phải để hỗ trợ cho Đại đội Alpha.
Quân CSBV đục lỗ bên vách tường dọc theo các tòa nhà, các vách tường bọc sân
trong và bệnh viện (Thành Nội – ngd) để làm chỗ núp tác xạ. Các TQLC bò từ nhà
nầy qua nhà khác, bắn, quăng lựu đạn vào từng vị trí một của địch. Họ kéo mấy
xác chết Cọng Sản ra khỏi các lỗ tường đục đó, quăng súng AK-47 của họ bên cạnh
xác chết, tiếp tục di chuyển theo bờ thành, vượt qua một vọng lâu bị đổ nát.
Họ tiến qua từng nhà, trong khi quân CSBV bắn vào mặt tiền đại đội, làm cho
TQLC bị thương vài người, nên phải đưa số binh sĩ còn lại lên bắn che. Trung sĩ
Dye núp trong một căn nhà bên trái con đường trong khi có người gọi to y tá.
Anh ta thấy y tá Rhino, một anh chàng to con, tóc đỏ, ít nói, núp sau một cánh
cửa, chuẩn bị phóng lên dưới lằn đạn để tới chỗ người bị thương. Dye hoảng kinh
khi thấy anh ta gục ngay khoảng giữa đường anh đang vượt qua. Rhino cố trườn
mình tới. Vừa chống tay và đầu gối để vươn chạy thì một loạt thứ hai nổ, bắn
gục anh ta xuống vỉa hè.
Lawhorn nghe tiếng la “Rhino chết rồi”. Anh ta bị xúc động và không tin.
Y tá Rhino, đối với toàn bộ binh lính trong trung đội, có ý nghĩa: Không bao
giờ bỏ lơ đồng đội. Bây giờ anh ta bị địch giết chết. Một trong những TQLC biết
rõ Rhino bỗng nhiên đứng thẳng dậy, bắn như điên về phía địch, vừa bắn vừa la.
Lawhorn choáng váng nhìn người lính bắn hết một băng đạn qua bức tường gạch về
phía địch, la to lên và run rẩy đến khi hai binh sĩ khác nắm lấy anh ta kéo
xuống. Lawhorn không bao giờ thấy người ấy nữa.
Mấy phút sau, hai TQLC chạy băng qua lằn đạn, kéo xác Rhino về chỗ ban chỉ huy
trung đội. Họ không thể bỏ anh ta lại đây được. Đại úy Harrington đề nghị tưởng
thưởng cho anh ta Hải Quân Chiến Công Bội Tinh, nhưng trước khi chết, anh chưa
nhận được huy chương.
Trước khi nghỉ qua đêm, Dye cùng ba người trong toán hỏa lực thuộc Đại đội
Delta đi tuần thám các ngôi nhà bị đạn hư hại phía tây bờ thành. Họ bắt đầu đi
quanh qua ba đống gạch đổ. Nhìn qua phải, Dye bỗng giật mình thấy một lính CSBV
nằm sau đống đất đắp cao, một tay thì để trên cây súng AK-47, mắt mơ màng nhìn
vào khoảng không. Dye đưa cây súng M-16 lên và bắn một tràng. Hai TQLC khác
đang núp quanh đó bắn bồi thêm. Người lính CSBV oằn người xuống quằn quại.
Họ vừa tiến đến gần xác chết, vừa nói thầm thiệt là may mắn. Anh ta có thể bắn
họ trước. Họ đá cái xác chết qua một bên và tò mò nhìn vào chỗ người lính nằm.
Chúa ơi! Cái gì của anh ta đây? Anh lính Cọng sản nầy gặp chuyện gì đây?
Một lát sau họ thấy câu trả lời. Nơi nầy có nhiều lỗ vách tường đục. Có mấy xác
Cọng Sản bị TQLC bắn chết. Khi họ nhìn vào những cái lỗ và mấy cái gói, họ tìm
thấy nhiều gói đựng chất gì màu trắng như đường. Nhìn kỹ, hóa ra bạch phiến. Họ
tìm thấy ống chích, diêm quẹt, muỗng cong có dấu bị cháy xém dưới đít, thứ
giống như của một nhóm dân thành phố nghiện ma túy. CSBV luôn luôn chiến đấu
một cách tài tình, và Dye không thể nào hình dung ra tại sao một số người trong
bọn họ chiến đấu hết sức chai lì dù biết họ sẽ bị đánh bại hoàn toàn. Cuối
cùng, Dye nhìn ra câu trả lời: Họ biết họ không có cơ may chạy trốn. Họ biết họ
sẽ chết.
Giả thuyết của trung sĩ Dye có thể đúng.
Vào lúc 9giờ 50 tối, đêm 16 tháng Hai, thiếu tá Thompson nhận được điện của đại
tá Hughes. Bức điện viết:
“Tin nhận được từ tin điện của địch
cho biết, chỉ huy trưởng lực lượng địch tại Huế gởi cho các chỉ huy cao cấp
biết rằng chỉ huy trưởng cũ đã chết, nhiều chỉ huy khác hoặc bị giết, hoặc bị
thương. Họ đề nghị nên rút lui nhưng viên chỉ huy cao cấp ra lệnh cho chỉ huy
trưởng mới của lực lượng tại Huế vẫn giữ vị trí và chiến đấu.”
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét