Một   thời để nhớ.
Có thể nói xe đạp và xe gắn máy là phương tiện di chuyển chiếm đa số tại miền Nam trước 1975 và cho đến nay, xe gắn máy vẫn là phương tiện di chuyển được nhiều người sử dụng nhất . Bài này xin nhắc lại một số xe gắn máy đã hiện diện tại miền Nam trước 1975.
Nói
   đến xe gắn máy thì chắc là mọi người sống tại miền  Nam trước đây  
đều biết đến   xe Mobylette. Vì Việt Nam    là thuộc địa của Pháp nên 
hãng  Motobécane của Pháp, chế tạo ra chiếc   Mobylette, đương nhiên là 
hiện  diện trên thị trường Việt  Nam . Nhưng   nhiều người biết đến tên 
 Mobylette hơn là Motobécane. Xe Mobylette ở   Việt Nam    có loại 
Mobylette  vàng và Mobylette xanh. Cả hai đều dùng động cơ   49,99cc để 
được xếp  vào loại vélomoteur, không cần bằng lái, nhưng   Mobylette 
vàng thì nhỏ  hơn, chỉ có ống nhún phía trước, còn Mobylette   xanh thì 
lớn, nặng hơn  có ống nhún ở cả bánh trước lẫn bánh sau nên đi   êm hơn 
và giá cao  hơn .
Xe
 Mobylette xem chừng ra không thay đổi   nhiều lắm qua nhiều năm. Xe  
Mobylette trong thập niên 1950 thân là   những ống tuýp hàn lại. Qua  
thập niên thì thân làm bằng tôn ép. Màu sắc   cũng ít thay đổi. Có lúc  
Mobylette vàng đổi thành Mobylette xám. Xe   Mobylette được chế tạo để  
dễ sử dụng. Xe không cần sang số mà dùng   embrayage automatique, vặn 
ga  lớn thì xe chạy nhanh, vặn ga nhỏ lại thì   xe chạy chậm và đứng 
lại.  Khi muốn nổ máy thì chỉ cần đạp cho nhanh là   xe nổ máy. Đạp hoài
 không  nổ thì chỉ gần gạt môt cái chốt ở đĩa có dây   couroie ăn vào 
động cơ để  tách rời động cơ và bánh sau thì có thể đạp   bộ về nhà.
Nếu
 có khi nào trong lúc bạn đạp xe đạp rồi nghĩ   bụng sao không gắn  một 
cái động cơ nhỏ lên xe đạp để khỏi phải đạp thì   ý nghĩ đó đã có  người
 nghĩ đến và chế tạo ra chiếc Vélosolex. Xe   Vélosolex là một
chiếc xe đạp có gắn động cơ lên bánh trước. Động cơ này làm lăn một cục đá tròn phía dưới . Khi người lái kéo cái cần trước mặt thì cục đá dở hổng lên khỏi bánh trước và có thể đạp như xe đạp. Khi đạp đến một tốc độ nào đó, hạ cần xuống thì tốc độ của xe làm cho động cơ nổ máy và động cơ kéo chiếc xe đi bằng bánh trước. Khi xe đã chạy ngon trớn thì người lái có thể rút chân lên miếng để chân nhỏ ở giữa xe mà ngồi một cách thoải mái. Từ một ý kiến rất giản dị phát xuất giữa thế kỷ 20, xe Vélosolex vẫn còn tồn tại qua đến đầu thế kỷ 21.
chiếc xe đạp có gắn động cơ lên bánh trước. Động cơ này làm lăn một cục đá tròn phía dưới . Khi người lái kéo cái cần trước mặt thì cục đá dở hổng lên khỏi bánh trước và có thể đạp như xe đạp. Khi đạp đến một tốc độ nào đó, hạ cần xuống thì tốc độ của xe làm cho động cơ nổ máy và động cơ kéo chiếc xe đi bằng bánh trước. Khi xe đã chạy ngon trớn thì người lái có thể rút chân lên miếng để chân nhỏ ở giữa xe mà ngồi một cách thoải mái. Từ một ý kiến rất giản dị phát xuất giữa thế kỷ 20, xe Vélosolex vẫn còn tồn tại qua đến đầu thế kỷ 21.
Vì
 cách sử dụng giản dị, trọng lượng nhẹ nhàng nên   các xe Mobylette,  
Vélosolex thông dụng trong giới sinh viên, học sinh   và phái nữ.
Ở
 một hạng cao hơn là các xe scooter của Ý: Vespa,   Lambretta. Các xe  
scooter này vì lòng máy lớn hơn 50 cc, nhỏ nhất là   125 cc hoặc 150 cc 
 hoặc 200 cc tùy theo kiểu, nên không còn được xếp   vào loại 
vélomoteur.  Người sử dụng phải trên 18 tuổi và phải có bằng   lái. Vì 
thế, những  người đi xe Vespa, Lambretta thường là ở tuổi trung   niên 
và có đời  sống cũng tương đối khá vì xe scooter đắt hơn. Xe Vespa   
hàng chục năm  nay không thay đổi mấy. Thân xe làm băng tôn ép. Có lẽ vì
   thế nên làm  hình tròn như quả trứng để chịu lực tốt hơn. Máy được 
đặt ở   chỗ phình  bên phải, còn bên trái là ngăn để chứa đồ. Vì thế xe 
Vespa khi   chạy  hơi nghiêng về phía phải vì bên này nặng hơn. Xe 
Lambretta tuy   trông  bề ngoài giống Vespa nhưng cấu tạo lại khác. 
Khung xe bằng ống   sắt hàn  lại, máy đặt ở giữa khung và che bên ngoài 
bằng lớp vỏ sắt.   Xe  Lambretta hồi đâu thập niên 1960 có đường nét 
cong. Cuối thập niên   60,  qua đầu thập niên 70 thì kiểu dáng thẳng, 
theo như mốt của thời   đó,  nên trông thanh nhã. Cả hai đều sang số 
bằng tay, bóp embrayage vào   và  vặn để đổi số.
Từ
 cuối thập niên 1950, miền  Nam cũng nhập   cảng các xe gắn máy Đức như 
 Goebel, Sachs, Puch. Các xe này đều có   chung đặc điểm là có bình 
xăng  đặt trước người lái, sang số bằng tay,   có ống nhún cả trước lẫn 
sau,  và máy đều là 50cc để được xếp vào loại   vélomoteur, không cần 
bằng  lái. Mỗi xe lại có những đặc điểm riêng như   máy xe Puch luôn 
luôn được  bọc trong lớp vỏ bằng nhôm, có quạt chạy để   làm mát. Như 
thế có lợi  điểm là máy xe được làm mát ngay cả khi ngừng   đèn đỏ. Vì 
là xe có sang  số nên tuy chỉ có 50cc, xe gắn máy Đức có sức   kéo mạnh 
hơn các xe  Mobylette ở số 1, 2, nên cũng được dùng để kéo xe   lôi, có 
thể kéo được  thêm được bốn năm hành khách và hàng hóa phía sau.   Hãng 
Puch và Sachs  ngày nay vẫn còn tồn tại.
Vào
 khoảng 1965 thì thấy nhắc đến tên Honda, với một   số kiểu xe mới lạ  
xuất hiện. Một số xe Honda đầu tiên do người Mỹ mua   đem sang Việt Nam  
   để đi làm việc rồi khi họ về nước thì để lại, lọt ra ngoài thị 
trường    người Việt mua được. Một trong những công dụng của xe Honda là
 các phi    công Mỹ dùng để di chuyển giữa chỗ đậu phi cơ và doanh trại.
 Từ doanh    trại ra chỗ đậu thường xa, đi bộ cũng mất vài phút đến vài 
chục phút.    Có xe Honda phóng thì thu ngắn thời gian nhất là khi có 
báo động thì    phóng xe Honda ra máy bay nhanh hơn là chạy bộ. Xe Honda
 S90 có lẽ là    chiếc được ưa chuộng nhất trong số các xe Honda trước 
1965 vì kiểu đẹp    và máy mạnh, tiếng nổ ròn. Các kiểu xe kia là C110, 
S65 (thường được    gọi là S50), P50, C50. Xe P50 có cấu tạo đặc biệt 
với máy nằm ở sát    bánh sau và truyền động thẳng vào bánh chứ không 
qua dây xích. Cách  đặt   máy này có lợi là khỏi bị mất lực khi truyền 
qua dây xích và giảm  bớt   số bộ phận nhưng có khuyết điểm là xe dễ bị 
mất thăng bằng vì đầu  nhẹ,   đuôi nặng. Lại thêm khi đi xuống ổ gà vì 
không có ống nhún nên  sức va   chạm có thể làm vỡ răng cưa ở vành bánh 
xe. Xe Honda dame C50  trước   1965 có chiếc đã có bộ đề bằng điện, khỏi
 cần đạp. Trong khi  chiếc   Honda dame nhập cảnh hàng loạt sau này phải
 đạp máy nổ bằng  chân.
Chiếc
 xe Honda được chính thức nhập cảng để bán cho   người tiêu thụ là  xe 
Honda Dame năm 1965. Hãng Honda thì gọi là kiểu   C50, nhưng mọi  người 
thường gọi là Honda Dame. Có Honda Dame nhưng   không ai gọi Honda  
Homme, mà gọi là Honda đàn ông. Những chiếc xe Honda   Dame đầu tiên  
xuất hiện tại Sài Gòn thu hút được sự chú ý của người đi   đường. Những 
 ngày đầu tiên xe bán ra ngoài, trên các nẻo đường phố   người ta nhìn  
thấy các chiếc xe Honda Dame màu đỏ hay xanh lá cây nhạt.   Có người bị 
 tắt máy xe, hý hoáy nhìn xuống chân vì chưa quen với cách   sang số 
bằng  chân. Sang lộn số có thể làm xe tắt máy. Khi thấy có một   số 
người dắt  xe Honda đi bên đường, có người nói hãng Motobécane của   
Mobilette thuê  người dắt xe Honda Dame đi khắp các đường phố để người  
 dân thấy xe  Nhật dở, bị chết máy hoài, sợ không dám mua. Không biết là
   có đúng hay  không. Một số người lúc đó nói là hàng Nhật không bền, 
chỉ   vài năm là  hỏng và tiên đoán rằng chừng năm mười nữa thì các xe 
gắn máy   Pháp, Đức  vẫn còn chạy, còn xe Nhật thì lúc đó vứt đi. Những 
người đó   có lẽ căn  cứ vào phẩm chất hàng hóa của Nhật trước thập niên
 1960.   Nhưng qua  thập niên 1960, các hãng xe gắn máy Nhật đã trải qua
 những   năm cạnh
tranh khốc liệt trong nước. Vào đầu thập niên 1960, nhiều hãng xe gắn máy ào ạt ra đời tại Nhật, cuối cùng theo luật thư hùng đào thải chỉ có những hãng có khả năng cải tiến mới sống còn. Lúc xe Nhật sang Việt Nam cũng là lúc các hãng xe gắn máy Nhật bắt đầu tung ra thế giới với nhiều cải tiến làm cho phẩm chất xe Nhật vượt hẳn các xe Tây phương.
tranh khốc liệt trong nước. Vào đầu thập niên 1960, nhiều hãng xe gắn máy ào ạt ra đời tại Nhật, cuối cùng theo luật thư hùng đào thải chỉ có những hãng có khả năng cải tiến mới sống còn. Lúc xe Nhật sang Việt Nam cũng là lúc các hãng xe gắn máy Nhật bắt đầu tung ra thế giới với nhiều cải tiến làm cho phẩm chất xe Nhật vượt hẳn các xe Tây phương.
Xe
 Honda Dame được làm để cho phái nữ đi nên dùng   ambrayage tự động,  
khi sang số chân không cần phải bóp embrayage tay mà   chỉ cần giảm ga. 
 Các hiệu xe Suzuki Dame, Yamaha Dame cũng giống thế.   Còn các xe gắn  
máy Nhật kiểu đàn ông được vẽ kiểu giống như những chiếc   mô tô phân  
khối lớn ở chỗ không có pédale mà có cần đạp cho nổ máy, hai   bên có  
thanh ngang để chân, bên phải là thắng chân, bên trái là cần   sang số, 
 embrayage tay trái, thắng trước tay phải, bình xăng phía   trước. Các 
xe  này còn giống mô tô ở chỗ hai bên bình xăng có hai miếng cao   su để
 đầu  gối áp vào cho êm. Điều đáng kể là yên xe thấp vừa với chiều   cao
 người  Á Châu khiến cho việc leo lên xe, chống xe dễ dàng hơn khi sử   
dụng các  xe gắn máy Tây phương. Tay ga   vặn nhẹ nhàng chứ không nặng 
như xe Tây  phương. Máy đạp nhẹ nhàng và dễ   nổ.  Nói tóm lại, các nhà 
chế tạo Nhật  khiến cho các chiếc xe gắn   máy sử dụng dễ dàng, tiện 
nghi hơn khiến  cho người dùng thấy rất thoải   mái khi đi xe.
Sau
 chiếc xe Honda Dame là sự xuất hiện của Honda   đàn ông 66 (SS50).  SS 
là chữ viết tắt của Super Sport. Chiếc Honda 66   xuất hiện vào năm  
1966, với màu đỏ hay đen, tay lái ngắn ngủn để người   lái thu 
hẹp khoảng cách hai tay, giảm tiết diện cản gió, xe không có đèn   
signal,  hộp số có năm số và có thể đạt đến tốc độ tối đa đáng nể là   
90km/giờ  đối với một chiếc xe máy 50 cc. Đó là một chiếc xe được vẽ   
kiểu với các đặc tính của xe đua. Tuy nhiên chiếc xe này không tiện dụng
   trong  thành phố vì tay lái quá ngắn nên khó điều khiển. Sang năm 
1967,   Honda  sửa lại kiểu xe cho tay lái rộng hơn, hộp số có năm số, 
sơn đen   hoặc  đỏ, có đèn signal, ống nhún trước có bọc cao su, tốc độ 
tối đa   80k/  giờ. Kiểu xe 67 (SS50E) đã đi vào lịch sử vì máy mạnh, 
chạy   nhanh,  được nhiều người ưa chuộng và có lẽ là được sử dụng nhiều
 nhất   tại  miền Nam    cùng với xe Honda Dame. Về sau Honda có ra các 
kiểu khác  nhưng Honda 67   vẫn được nhiều người biết đến nhất. Vì máy 
mạnh nên  chiếc Honda 67 được   dùng để kéo xe lôi thay cho các hiệu xe 
Đức trước  đây.
Cả
 tứ đại gia của làng xe gắn máy Nhật, Honda,   Yamaha, Suzuki,  Kawasaki
 đều có mặt tại   miền Nam    lúc đó. Hãng Suzuki tung ra kiểu xe  nam 
M15 và M12 và xe Suzuki Dame,   M31. Hai kiểu xe nam đại khái giống  
nhau, dùng cùng một động cơ nhưng   kiểu thể thao có ống pô vắt cao và  
vè trước ngắn để trông có vẻ thể   thao hơn.
Hãng
 Yamaha có hai kiểu xe đàn ông, trong đó có kiểu   YF5, và một kiểu  
Yamaha Dame. Xe Yamaha đàn ông kiểu đẹp, nhiều bộ phận   xi bóng loáng. 
 Yamaha Dame sơn màu xanh da trời, với đường cong dịu   dàng, trông rất 
 mỹ thuật. Các xe Yamaha xem ra không được ưa chuộng   bằng Honda vì 
máy  không mạnh bằng.
Xe Suzuki Dame và Yamaha Dame đèn trước thấp hơn xe   Honda Dame, trông  vẻ nhu mì thích hợp với các cô mặc áo dài.
Kawasaki
 là hãng nhỏ nhất trong các hãng xe   Nhật lúc đó, chỉ đưa sang  một 
kiểu xe đàn ông. Xe Kawasaki chạy tuy tốt   nhưng bị chê là nặng và  máy
 yếu. Xe Kawasaki đem sang Việt  Nam là kiểu   dùng sườn của xe 80 cc,  
thay vào đó bằng động cơ 50 cc để được xếp vào   loại vélomoteur, không 
 cần bằng lái.
Hiệu
 xe ít người nhớ đến có lẽ là Bridgestone.   Bridgestone là hãng  chuyên
 chế tạo vỏ bánh xe nhưng lúc đó cũng có một   phân bộ chuyên sản  xuất 
xe mô tô để đua. Kiểu Bridgestone đem sang Việt   Nam    năm 1966 có  
máy 65 cc. Vì thế xe Bridgestone vọt rất mạnh. Đặc điểm   của  
Bridgestone là hộp số có bốn số quay vòng giống như các xe đua,   nghĩa 
 là sang đến số bốn thì nhấn thêm sẽ trở về số một mà không phải   trả 
số  ngược lại. Xe Bridgestone chìm vào quên lãng của người Việt khi   
phân  bộ xe mô tô của hãng đóng cửa năm 1967 vì lý do là nếu sản xuất xe
   đua  thì các hãng xe gắn máy Nhật khác không muốn mua vỏ xe của hãng 
  kình  địch với mình trong các cuộc đua.
Không
 như các hãng xe châu Âu giữ các kiểu xe y   nguyên nhiều năm, các  hãng
 Nhật ào ạt tấn công thị trường Việt  Nam với các   kiểu xe mới ra  mỗi 
năm. Qua 1968, Honda tung ra xe CL50. CL là chữ viết    tắt của  
Scrambler. Đó là kiểu xe được chế tạo để chạy các đường   đất lồi lõm  
nên chỉ có bốn số, xe kéo mạnh ở số một và số hai, nhưng   tốc độ tối 
đa  kém xe Honda 67. Ống pô vắt cao để khỏi va chạm vào mô   đất hay 
ngập  nước. Qua 1969, Honda tung ra kiểu SS50M. Cũng dùng cùng   máy và 
sườn  như xe Honda 67 nhưng bình xăng dài hơn cho có vẻ thể thao.   Qua 
năm  1970, Honda đưa sang kiểu CD50. Xe này cũng dùng cùng loại sườn   
và  động cơ như SS50 nhưng bình xăng và hộp đựng đồ phụ tùng vẽ kiểu   
khác  nên trông bề ngoài khác hẳn. Xe được chế tạo để chạy trong thành  
 phố  nên chỉ có bốn số với các số đầu kéo mạnh, thích hợp với cách chạy
   xe  trong thành phố phải luôn luôn dừng lại đèn đỏ rồi lại bắt đầu   
vọt  lên. Cùng là kiểu SS50E, đến 1971, 1972, Honda tung ra kiểu xe với 
  sơn  đỏ metal và vè xi bóng, ghi đông cao kiểu sừng bò trông rất hấp  
 dẫn.  Honda thay đổi hình dáng bề ngoài thu hút thêm khách hàng mới.   
Năm  1969, Suzuki cũng tung ra kiểu xe mới AS50 trông rất thể thao và   
rất  đẹp. Ngoài các kiểu xe Honda chính thức nhập cảng, trên đường phố  
 Sài  Gòn thỉnh thoảng xuất hiện một số kiểu xe Honda lạ như Honda   
Monkey,  nhỏ xíu như xe con nít, hoặc Honda CT50, CT70, với chữ T là   
viết tắt  của Trail, loại xe Honda dùng để đi dạo chơi ở đồng quê, trên 
  các  đường mòn nhưng tại Việt Nam trở thành phương tiện để đi học, đi 
  làm  tuốt luốt.
Trong
 tất cả các loại xe Nhật, chỉ có Honda là dùng   loại động cơ bốn  thì, 
với xăng và nhớt chứa riêng còn các hãng kia dùng   loại động cơ  hai 
thì, chạy xăng pha nhớt.
Với
 các đủ loại xe tung vào thị trường, đường phố   miền Nam    trở nên  
nhộn nhịp với các loại xe đủ màu sắc. Đường phố Sài Gòn náo   nhiệt với 
 các coureurs cúi rạp trên con ngựa sắt ra sức phóng, lạng,   máy nổ 
ròn,  đinh tai nhức óc. Đúng ra máy xe Honda chạy rất êm. Nhưng   vì 
nhiều  người đã tháo bỏ ốm tiêu hãm thanh gắn ở đầu ống khói nên máy   
nổ lớn.  Ống này nhỏ như ống tiêu, với thân có đục nhiều lỗ, dài khoảng 
  gang  tay. Chỉ cần tháo con vít nhỏ ở đầu ống khói là kéo ông tiêu ra 
  được.  Lý do tháo ốm hãm thanh là vì người dùng thấy xe chạy vọt hơn.
Sài
 Gòn nhiều xe hơn và cũng nguy hiểm hơn vì các xe   Nhật đều chạy  
nhanh, vọt mạnh. Vì thế, một số phụ huynh lo ngại không   muốn  mua cho 
 con mình chiếc xe quá mạnh. Hãng Honda tung ra loại   xe PC50, cũng 
dùng  động cơ 50 cc nhưng không cần sang số, và không vọt   mạnh như các
 loại  xe có sang số. Tốc độ khi chạy nhanh cũng có thể đến   60 km/giờ.
 Xe  PC50 là kiểu P50 cải tiến lại với động cơ đặt vào giữa   cho xe 
được  thăng bằng hơn và có nhún cả ở bánh trước lẫn bánh sau.   Cách sử 
dụng  xe PC50 cũng giản dị như xe Mobylette chỉ cần đạp nổ máy   rồi vặn
 ga  phóng đi.
Hãng
 Motobécane cũng tung ra kiểu xe Cady nhỏ nhắn   thích hợp với giới  học
 sinh. Cái tên Cady có lẽ từ chữ Cadet, cho biết   đây là kiểu em út  
trong gia đình Motobécane. Tuy cũng dùng động cơ 50   cc nhưng xe chỉ  
chạy được tối đa 40km/giờ. Chạy chậm có vẻ là một   khuyết điểm của xe  
cộ nhưng đây lại là ưu điểm vì nó là lý do để các   bậc phụ huynh chọn  
mua xe cho con mình để được an tâm hơn. Với khuynh   hướng design nhiều 
 màu sắc vào đầu thập niên 1970, xe Cady lúc đầu sơn   nâu, hay xám, về 
 sau sơn các màu xanh đỏ vàng sặc sỡ. Cùng với sự xuất   hiện của mini  
jupe, đường phố Sài Gòn thấy xuất hiện xe mini Cady với   hai bánh xe  
nhỏ trông rất xinh xắn, đồng thời mini xe đạp cũng xuất   hiện và các 
cô  nữ sinh áo dài mini trông trẻ trung, tươi tắn tung tăng   trên các 
loại  xe mini đủ màu sắc.
Xa
 lộ Biên Hòa, ngày nay gọi là xa lộ Hà Nội, thời   đó còn rất ít xe  nên
 trở thành đường thử và đua xe gắn máy. Các loại xe   gắn được đem ra  
chạy hết tốc độ vào giờ ít xe. Tuy không có tạp chí phê   bình, điểm 
các  loại xe gắn máy nhưng ưu khuyết điểm của các loại được   truyền 
miệng  rộng rãi. Các loại xe máy hai thì tuy có thể chạy nhanh   nhưng 
khi chạy  với tốc độ cao nhiều giờ thì máy bị yếu đi, tốc giảm đi.   Chỉ
 trừ có xe  Honda là được khen là càng nóng máy, càng chạy mạnh. Đúng   
ra chỉ có xe  Honda sau 1965 mới chạy lâu không bị giảm tốc độ vì Honda 
  cải tiến hệ  thống phun nhớt, làm cho nhớt phun rất nhiều khiến cho 
khi   máy nóng  không bị sức ma sát làm giảm tốc độ. Còn các loại  Honda
   S65, C110,  tuy có thể chạy được đến tốc độ hơn 100km/giờ nhưng khi 
nóng   máy thì  cũng bị chậm lại.
Để
 tăng sức mạnh của xe, xi lanh được xoáy cho rộng   thêm từ 50 cc  thành
 ra 60 cc, 70 cc. Xe xoáy xi lanh chạy nhanh hơn, có   thể đến hơn  
100km/giờ nếu máy được chỉnh cho đúng.
Một
 trò chơi đánh cá thời đó của các yêng hùng xe   gắn máy, gọi chệch  từ 
chữ anh hùng vì đua xe là can đảm nhưng không   phải là đáng khen, là  
lách dưới xe be. Xe be là xe kéo các xúc gỗ dài   năm, bẩy mét. Một đầu 
 khúc gỗ được cột vào xe vận tải phía trước, đầu   phía sau gắn vào  
remorque sau, còn giữa xe vận tải và remorque sau   không có gì ràng  
buộc. Chiều cao từ thân cây đến mặt đường chi hơn một   mét. Các tay 
đua  đánh cá xem ai dám lạng chui dưới gầm xe be từ bên này   qua bên 
kia. Vì  khoảng cách thấp nên không thể chạy thẳng đầu mà người   lái 
phải lạng  cho xe nghiêng đi thì mới đủ thấp mà chui qua. Nếu tính   sai
 thời gian,  người lạng có thể bị hai bánh sau chạy tới đụng và cán 
chết.
Xe
 gắn máy là phương tiện di chuyển, nhưng cũng là   niềm say mê tốc độ  
của tuổi trẻ và sự hấp dẫn của màu sắc, kiểu dáng,   tiếng nổ. Niềm say 
 mê này đã ghi vào ký ức của nhiều người miền  Nam lúc đó và   tồn tại  
không phai nhạt với thời gian.
Nó
 trở thành kỷ niệm đẹp mỗi khi nhớ  lại giây   phút dắt chiếc xe mới 
toanh đi về nhà và những ngày tháng  rong ruổi   trên những con ngựa 
sắt./.











































 
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét